Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Giáo trình giáo dục học đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.89 MB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA SP TIỂU HỌC – MẦM NON

GIÁO TRÌNH
(Lưu hành nội bộ)

GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG
(Dành cho sinh viên ngành CĐGD mầm non)

Tác giả: Nguyễn Thị Diễm Hằng
Phùng Thị Huyền

1


MỤC LỤC
Trang

Chương 1. GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC .....................................................................4
1.1. GIÁO DỤC LÀ MỘT HIỆN TƯỢNG XÃ HỘI ĐẶC BIỆT........................................................4
1.2. CHỨC NĂNG CỦA GIÁO DỤC ...................................................................................................6
1.3. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA GIÁO DỤC HỌC .....9
1.4. SƠ LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIÁO DỤC HỌC ......................13
1.5. HỆ THỐNG CÁC KHOA HỌC VỀ GIÁO DỤC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁO DỤC
HỌC VỚI CÁC KHOA HỌC KHÁC ..................................................................................................18
1.6. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA GIÁO DỤC HỌC .........................................................20
Chương 2. GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH.....................................................22
2.1. SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CỦA CON NGƯỜI...............................................................22
2.2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH ...................................24
Chương 3. MỤC ĐÍCH, MỤC TIÊU GIÁO DỤC VÀ HỆ THỐNG ...........................................32
GIÁO DỤC QUỐC DÂN....................................................................................................................32


3.1. KHÁI NIỆM VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA MỤC ĐÍCH, MỤC TIÊU GIÁO DỤC...................32
3.2. MỤC ĐÍCH GIÁO DỤC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ...............................35
3.3. HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN ........................................................................................47
Chương 4. NGƯỜI GIÁO VIÊN MẦM NON.................................................................................52
4.1. VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN MẦM NON....................52
4.2. ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG SƯ PHẠM CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN MẦM NON ......................56
4.3 YÊU CẦU VỀ PHẨM CHẤT VÀ NĂNG LỰC CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN MẦM NON ......58
4.4 CÁC MỐI QUAN HỆ CÔNG TÁC CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN MẦM NON TRONG HOẠT
ĐỘNG SƯ PHẠM.................................................................................................................................61
4.5. VẤN ĐỀ BỒI DƯỠNG, HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN MẦM
NON........................................................................................................................................................62
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................................66

2


LỜI NÓI ĐẦU
Giáo dục học đại cương là một trong những môn học then chốt của chương trình đào tạo đại
cương ở các trường Đại học và Cao đẳng. Để đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập của sinh viên
mầm non, chúng tôi biên soạn tập giáo trình này.
Trong khi biên soạn, nhóm tác giả đã tiếp thu, kế thừa có chọn lọc nhiều tài liệu hiện có trong
và ngoài nước, đồng thời mạnh dạn mở rộng, bổ sung nhiều vấn đề hiện đại mang tính cập nhật
như: Vấn đề di truyền; vai trò, chức năng, nhiệm vụ người giáo viên mầm non, đặc điểm lao động
sư phạm người giáo viên mầm non… cho nên giáo trình này là tài liệu tham khảo bổ ích đối với
cán bộ giảng dạy, sinh viên thuộc ngành giáo dục mầm non.
Trong quá trình biện soạn giáo trình khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định, mong nhận
được nhiều ý kiến đóng góp của các bạn đồng nghiệp và độc giả
Xin chân thành cảm ơn.

3



Chương 1. GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
1.1. GIÁO DỤC LÀ MỘT HIỆN TƯỢNG XÃ HỘI ĐẶC BIỆT
1.1.1. Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt
Từ khi xuất hiện trên trái đất, để tồn tại và phát triển, loài người đã bắt tay vào lao
động. Bằng lao động, con người đã sử dụng toàn bộ năng lực bản chất của mình tác động
vào thế giới tự nhiên để làm ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại của con người, thông
qua đó thúc đẩy sự phát triển xã hội. Trong quá trình đó, con người được cải tạo và ngày
càng phát triển, hoàn thiện.
Cùng với lao động, loài người phải nhận thức thế giới khách quan, không ngừng
nắm bắt những quy luật, những thuộc tính bản chất về thế giới và vận chúng vào thực tiễn
cải tạo thế giới. Những kinh nghiệm trong lao động sản xuất, sinh hoạt xã hội cũng như
nhận thức được tích lũy, khái quát hóa, hệ thống hóa ngày càng phong phú, đa dạng.
Trong quá trình đó, loài người nảy sinh nhu cầu truyền thụ lại cho thế hệ sau những
kinh nghiệm đã tích lũy được. Một mặt, làm cho những kinh nghiệm xã hội đó không những
không mất đi, không lãng quên mà còn được bảo tồn, lưu giữ, kế tục, ngày càng phong phú
lên. Mặt khác, quan trọng hơn là chuẩn bị cho thế hệ sau có đủ năng lực để bước vào cuộc
sống, lao động, sản xuất, không chỉ duy trì sự tồn tại của mình mà còn thông qua đó thúc
đẩy sự phát triển xã hội. Nhờ sự tiếp nhận những kinh nghiệm xã hội mà thế hệ trước truyền
lại, những thế hệ sau tái tạo năng lực bản chất của lòai người thành năng lực bản chất cho
chính mình để trở thành những chủ thể xã hội. Các thế hệ đi sau vì thế mà bao giờ cũng có
sự phát triển với trình độ cao hơn các thế hệ đi trước. Hiện tượng đó gọi là sự giáo dục.
Vậy giáo dục hiểu theo nghĩa rộng nhất là sự truyền thụ kinh nghiệm xã hội từ thế hệ
trước cho thế hệ sau nhằm chuẩn bị cho thế hệ sau bước vào cuộc sống.
Với ý nghĩa đó, giáo dục ra đời từ khi xã hội mới hình thành, do nhu cầu của xã hội và
trở thành một yếu tố cơ bản để là phát triển xã hội. Giáo dục là một hoạt động có ý thức của
con người nhằm vào mục đích phát triển của chính con người và phát triển xã hội. Vì vậy
giáo dục là một hiện tượng xã hội và là một nhu cầu tất yếu của xã hội.
Tuy nhiên, giáo dục ban đầu thực hiện một cách đơn giản, trực tiếp trong lao động

và trong cuộc sống, được thực hiện bởi người lớn, ở mọi lúc, mọi nơi. Khi xã hội ngày càng
phát triển lên, kinh nghiệm xã hội được đúc kết ngày càng nhiều, yêu cầu của xã hội đối với
con người ngày càng cao, các loại hình xã hội ngày càng mở rộng hơn thì giáo dục theo
phương thức trực tiếp không còn phù hợp nữa mà đòi hỏi một phương thức giáo dục có hiệu
quả hơn. Giáo dục gián tiếp theo phương thức nhà trường, được thực hiện một cách chuyên
biệt ra đời và ngày càng phát triển đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu của xã hội. Do đó xã hội
càng phát triển, giáo dục ngày càng trở nên phức tạp, đa dạng và mang tính chuyên biệt hơn.
Sự phát triển đó là yêu cầu tất yếu của xã hội và do sức mạnh to lớn của giáo dục tạo ra sự
4


phát triển xã hội.
1.1.2 Tính quy định của xã hội đối với giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội có tác động mạnh mẽ đến xã hội và chịu sự chi
phối sâu sắc của các mặt đời sống xã hội. Tính quy định của xã hội đối với giáo dục thể
hiện ở những tính chất sau:
1.1.2.1 Tính lịch sử - xã hội của giáo dục.
Sự ra đời và phát triển của giáo dục gắn liền với sự ra đời và phát triển của xã hội.
Một mặt nó phục vụ cho sự phát triển xã hội, xã hội không thể phát triển thêm một bước
nào nếu không có những điều kiện cần thiết do giáo dục tạo ra. Mặt khác, sự phát triển của
giáo dục luôn chịu sự quy định của xã hội thông qua những yêu cầu ngày càng cao và
những điều kiện ngày càng thuận lợi. Chính vì vậy mà trình độ phát triển của giáo dục phản
ánh những đặc điểm phát triển của xã hội.
Như vậy, ở mỗi giai đoạn phát triển xã hội nói chung và ở mỗi quốc gia nói riêng sẽ
có một nền giáo dục tương ứng. Nền giáo dục phong kiến đã phản ánh những đặc trưng của
xã hội phong kiến với một nền nông nghiệp lạc hậu, trì trễ và có vai trò to lớn trong việc
duy trì sự bền vững của xã hội phong kiến trong cả nghìn năm. Khi cuộc cách mạng công
nghiệp thành công ở châu Âu đưa nhân lọai bước sang một nền văn minh mới - nền văn
minh công nghiệp - cùng một lúc nền giáo dục mới ra đời. Đó là nền giáo dục theo phương
thức nhà trường, có khả năng giáo dục đồng loạt, được tổ chức một cách khoa học, cung cấp

cho nền kinh tế công nghiệp đội ngũ những người lao động đồng bộ, có trình độ cao.
Trong thời đại ngày nay, nền giáo dục của mỗi quốc gia đang không ngừng cải cách,
đổi mới thích ứng với xu hướng phát triển mới mẻ và năng động của toàn nhân loại. Sự đổi
mới giáo dục trở thành một yêu cầu cấp bách và sống còn của mỗi quốc gia.
Sự phát triển giáo dục phù hợp với sự phát triển của xã hội thể hiện trên tất cả các
mặt, các yếu tố của nền giáo dục: mục đích giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo
dục, hình thức tổ chức giáo dục, chính sách giáo dục…Sự khác nhau của các yếu tố trên
cũng đều do sự quy định của các đặc điểm phát triển giáo dục.
1.1.2.2 Tính giai cấp của giáo dục
Trong xã hội có giai cấp thì giáo dục tất yếu mang tính giai cấp vì giai cấp cầm
quyền bao giờ cũng nắm vững giáo dục, sử dụng giáo dục. Một mặt giáo dục trở thành công
cụ đắc lực đấu tranh giai cấp nhằm bảo vệ và củng cố địa vị thống trị của giai cấp. Giáo dục
có chức năng truyền bá hệ tư tưởng, đường lối, quan điểm, chính sách giai cấp. Mặt khác,
giai cấp thống trị biến giáo dục thành phương tiện để đào tạo lớp người trung thành, phục
vụ đắc lực cho sứ mệnh của giai cấp mình.
Tính giai cấp quy định mục đích giáo dục, hệ thống giáo dục, nội dung giáo dục,
phương pháp giáo dục, hình thức tổ chức giáo dục… Nói tóm lại tính giai cấp chi phối toàn
bộ nền giáo dục trong xã hội có giai cấp. Ví dụ: trong xã hội phong kiến, giáo dục nhằm đào
5


tạo những con người giáo điều, buộc phải học, phải làm một cách máy móc, rập khuôn
những điều đã nói trong sách, phục vụ một cách mù quáng cho giai cấp phong kiến nắm
chính quyền.
Còn trong xã hội ta, nền giáo dục mang tính chất giai cấp công nhân, được tiến
hành dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhằm mục tiêu chung là nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, tạo mọi cơ hội cho mọi người đều
được đi học, đều được phát triển mọi mặt về nhân cách và trở thành những công dân, người
sáng tạo, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
1.1.2.3 Tính kế thừa của giáo dục

Giáo dục bao giờ cũng mang tính kế thừa, vì đó là những kinh nghiệm, những thành
tựu của nhân loại đúc kết qua quá trình xây dựng và phát triển giáo dục theo lịch sử phát
triển của xã hội.
Tính kế thừa của giáo dục đòi hỏi: một mặt tiếp nhận có chọn lọc, có phê phán những
yếu tố tích cực của nền giáo dục cũ, làm cho nó phù hợp với hoàn cảnh mới, vận dụng sáng
tạo vào thực tiễn giáo dục mới. Mặt khác, mạnh dạn xóa bỏ, loài trừ những yếu tố lạc hậu,
lỗi thời thay thế vào đó những yếu tố mới mẻ, tích cực và tiên tiến của thế giới để có thể
xây dựng một nền giáo dục vừa mang tính truyền thống, vừa mang tính hiện đại, phù hợp
với tình hình đất nước trong thời kỳ hiện nay.
Giáo dục Việt Nam đang trong giai đoạn đổi mới mang tính đột phá. Một mặt vừa phải
kế thừa những thành quả của hơn 60 năm nền giáo dục cách mạng và truyền thống hơn
4000 nghìn năm văn hiến của dân tộc. Mặt khác, phải tiếp nhận những thành tựu tiên tiến
của các nền giáo dục thế giới cũng như những thành tựu của nền giáo dục khoa học- công
nghệ hiện đại của nhân loại để hiện đại hóa nền giáo dục nước nhà, xây dựng một nền giáo
dục mang tầm thời đại, có đủ khả năng để đào tạo ra những thế hệ con người phát triển hài
hòa, thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
1.2. CHỨC NĂNG CỦA GIÁO DỤC
1.2.1 Chức năng kinh tế - sản xuất
Bất kỳ một nước nào muốn phát triển kinh tế, sản xuất thì phải có đủ nhân lực và nhân
lực phải có chất lượng cao. Nhân lực là lực lượng lao động của xã hội, là đội ngũ những
người lao động đang làm việc trong tất cả các ngành nghề, các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã
hội… đảm bảo cho xã hội vận động và phát triển đúng quy luật.
Chức năng kinh tế - sản xuất của giáo dục thể hiện tập trung nhất thông qua việc đào
tạo nguồn nhân lực. Cụ thể là giáo dục đào tạo những con người có trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ và phẩm chất nhân cách cao, giáo dục tạo ra sức lao động mới một cách khéo léo,
tinh xảo, hiệu quả để thay thế sức lao động cũ mất đi, vừa tạo sức lao động mới cao hơn,
góp phần tăng năng suất lao động, đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội. Chính giáo
dục đã tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo ra lực lượng trực tiếp sản xuất và quản lý xã hội
với trình độ, năng lực cao. Giaó dục giúp cho mọi thành viên trong xã hội các cơ hội được
mở mang trí tuệ, trau dồi nhân cách, phát triển các sức mạnh tinh thần và thể chất để vươn

6


lên làm chủ trong lao động, trong cuộc sống cộng đồng... Khi mọi thành viên trong xã hội
đều được tiếp nhận một nền giáo dục đúng đắn thì xã hội thực sự được tái sản xuất sức lao
động với chất lượng cao hơn. Người lao động, do kết quả đào tạo của nhà trường sẽ được
phát triển hài hòa các năng lực chung và riêng và do đó xã hội sẽ được tăng thêm sức lao
động mới thay thế sức lao động cũ bị mất đi. Sức lao động mới có chất lượng hơn sẽ đem
lại năng suất lao động nhiều hơn.
Đặc biệt trong xã hội hiện đại, khi trình độ phát triển của nền kinh tế là do trình độ của
con người được giáo dục và đào tạo ra quyết định thì vai trò của giáo dục càng được khẳng
định. Trong nền kinh tế thị trường, nguồn nhân lực còn được gọi là nguồn vốn nhân lực
(cùng với nguồn vốn tài nguyên, nguồn vốn sản xuất và nguồn vốn khoa học – công nghệ)
với tư cách là một nhân tố tăng trưởng kinh tế. Trong các nguồn vốn thì vốn nhân lực được
coi quan trọng nhất bởi lẽ nó không đơn thuần là một nguồn vốn mà nó còn giữ vai trò chủ
thể đối với các nguồn vốn khác, nó quyết định khả năng khai thác và hiệu quả sử dụng các
nguồn vốn khác. Theo lí thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại, tỉ lệ tăng GDP phụ thuộc vào
tốc độ tăng của các yếu tố đầu vào: nhân lực, vốn sản xuất, tài nguyên, khoa học – công
nghệ và hiệu quả sử dụng chúng. Tuy nhiên những nghiên cứu của các nhà kinh tế học,
quản lý xã hội và quản lý kinh tế đã thừa nhận vốn và kỹ thuật chỉ góp một phần nhỏ vào
tăng trưởng kinh tế, còn phần rất quan trọng của “sản phẩm thặng dư” gắn liền với chất
lượng nguồn nhân lực (trình độ được giáo dục về thể lực, trí lực, tâm lực). Vai trò của nhân
lực ở chỗ, trước hết nó là một đầu vào của tăng trưởng GDP, sau nữa nó còn có ý nghĩa
quyết định đối với tỷ lệ tăng của các nguồn lực khác.
Để thực hiện tốt chức năng kinh tế- sản xuất, giáo dục phải thỏa mãn một số yêu cầu
cơ bản sau đây:
- Giaó dục phải gắn bó với sự phát triển kinh tế- sản xuất, thỏa mãn các yêu cầu phát
triển kinh tế- sản xuất trong từng giai đoạn cụ thể.
- Xây dựng một hệ thống ngành nghề cân đối, đa dạng phù hợp với sự phát triển kinh
tế- sản xuất của đất nước.

- Các loại hình cán bộ kỹ thuật và công nhân phải đảm bảo tính cân đối, tránh tình
trạng thừa thầy, thiếu thợ, đồng thời phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và
phẩm chất cao, thỏa mãn các yêu cầu sản xuất hiện đại.
Như vậy, với chức năng kinh tế - sản xuất giáo dục là động lực chính thúc đẩy nền
kinh tế phát triển và giáo dục phải đi trước sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi nền khoa học
và công nghệ đạt đến trình độ phát triển cao, nhu cầu xã hội đa dạng, người lao động phải là
những người có trình độ học vấn cao, có kiến thức rộng, có tay nghề vững, có tính năng
động, sáng tạo… thì giáo dục phải đào tạo nhân lực một cách có hệ thống, chính qui ở trình
độ cao.
1.2.2 Chức năng chính trị - xã hội
Bên cạnh chức năng tái sản xuất sức lao động xã hội, giáo dục còn mang chức năng
chính trị - xã hội. Giáo dục không đứng ngoài chính trị mà nó là phương thức tuyên truyền,
phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách… của một chế độ chính trị, giai cấp hay chính
7


đảng cầm quyền. Giáo dục trực tiếp truyền bá hệ tư tưởng chính trị, đường lối chính sách
của giai cấp nắm quyền và trực tiếp đào tạo chuẩn bị cho thế hệ trẻ tham gia vào cuộc sống,
bảo vệ chế độ chính trị, xã hội đương thời.
Xã hội nào cũng có cấu trúc của nó – đó là một tổng thể, một tập hợp bao gồm các bộ
phận, các yếu tố tạo thành xã hội như cộng đồng xã hội, dân tộc, giai cấp, tầng lớp, nhóm xã
hội.v.v… đã được hình thành một cách lịch sử – tự nhiên, tất yếu khách quan trong những
điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Giáo dục tác động đến cấu trúc xã hội là tác động đến
tập hợp các bộ phận xã hội và tính chất của các mối quan hệ giữa các bộ phận đó. Trong xã
hội phong kiến, giáo dục góp phần không nhỏ trong việc khoét sâu thêm sự phân chia giai
cấp, xây dựng một cấu trúc xã hội mang tính chất giai cấp và đẳng cấp rõ rệt. Những chính
sách giáo dục phân biệt, bất bình đẳng trong xã hội phong kiến đã duy trì vị trí đối kháng
giữa các đẳng cấp và giai tầng xã hội. Giáo dục xã hội chủ nghĩa góp phần làm cho cấu trúc
xã hội trở nên thuần nhất hơn bằng cách xoá bỏ sự phân chia giai cấp và làm cho các tầng
lớp xích lại gần nhau. Nền Giáo dục xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền giáo dục “của dân,

do dân, vì dân”, nền giáo dục bình đẳng cho tất cả mọi người, giáo dục góp phần nâng cao
trình độ học vấn chung đã làm cho các tầng lớp xã hội được xích lại gần nhau. Nhờ đó,
trong xã hội ta các tầng lớp xã hội tuy khác nhau về lợi ích xã hội, về tính chất và trình độ
xã hội, về hoạt động và phát triển xã hội, song cùng đoàn kết, hợp tác đấu tranh xây dựng
xã hội nhằm đạt tới mục tiêu chung: “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,văn
minh”.
1.2.3 Chức năng tư tưởng – văn hóa
Giáo dục có tác dụng to lớn đến việc xây dựng một hệ tư tưởng chi phối toàn xã hội,
hình thành ở mỗi cá nhân thế giới quan, tư tưởng chính trị, ý thức, tình cảm và hành vi đạo
đức phù hợp với các chuẩn mực xã hội. “Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ
nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng” (Điều 3, chương I, Luật giáo dục 2005). Nền giáo dục Việt
Nam phải phục vụ mục đích chính trị tốt đẹp và tư tưởng cao quý của Đảng Cộng sản Việt
Nam, hướng tới mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh.
Giáo dục là quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội của các thế
hệ, quá trình này giúp cho mỗi cá nhân tích lũy kiến thức, mở mang trí tuệ, hình thành và
nâng cao trình độ văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ cho mỗi cá nhân và cho toàn xã hội. Một quốc
gia giàu mạnh là một quốc gia có nền kinh tế vững mạnh, khoa học công nghệ tiên tiến,
chính trị bền vững và trình độ dân trí cao. Giáo dục góp phần xây dựng và nâng cao trình độ
dân trí – trình độ văn hóa chung cho toàn xã hội. Nền giáo dục không chỉ hướng vào việc
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực mà còn hướng vào quá trình phát hiện và bồi dưỡng nhân
tài cho đất nước.
Giáo dục không chỉ thực hiện sứ mệnh lịch sử là chuyển tải nền văn hóa của thế hệ
này cho thế hệ kia mà còn là phương thức đặc trưng cơ bản để bảo tồn và phát triển nền văn
hóa của dân tộc và nhân loại. Giáo dục bảo tồn, phát triển nền văn hoá dân tộc và nhân loại
8


thông qua các con đường giáo dục, trong đó dạy học là con đường cơ bản nhất. Thông qua
các con đường giáo dục học sinh không chỉ biết gìn giữ mà còn có khả năng làm phong phú,

sáng tạo thêm những giá trị văn hóa, những loại hình văn hóa đa dạng, đậm đà bản sắc dân
tộc…
Tóm lại, thông qua ba chức năng xã hội, giáo dục đã góp phần vào sự phát triển của xã
hội, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao về sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ
xã hội, ý thức xã hội… Đặc biệt, trong thời đại ngày nay, giáo dục được quan niệm không
chỉ là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng, mà nó còn là một bộ phận thuộc hạ tầng cơ
sở, “Giáo dục không chỉ là sự phản ánh đơn thuần các lực lượng kinh tế và xã hội đang
họat động trong một xã hội. Nó còn là một phương tiện quan trọng để cấu thành các lực
lượng kinh tế - xã hội và văn hóa và quyết định chiều hướng phát triển của các lực lượng
này. Đến lượt mình động lực của các lực lượng này lại tác động đến đặc điểm của giáo dục.
Do vậy, có một mối quan hệ vòng tròn trong mối quan hệ qua lại giữa giáo dục và một lọat
các nhân tố xã hội và con người khác”. (Raja Roy Singh). Thế giới coi giáo dục là động lực
cơ bản, là đòn bẩy mạnh mẽ, là điều kiện tiên quyết thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Đảng CSVN khẳng định phát triển giáo dục là “quốc sách hàng đầu” và “ đầu tư cho giáo
dục là đầu tư cho sự phát triển bền vững nhất”.
1.3. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA GIÁO
DỤC HỌC
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu của giáo dục học
Phần đông các nhà giáo dục học đều xác định giáo dục học có đối tượng nghiên cứu rất
rõ ràng - đó là quá trình giáo dục với hàm nghĩa rộng (còn gọi là quá trình sư phạm tổng
thể), bao quát toàn bộ các tác động giáo dục và dạy học được định hướng theo mục đích xác
định, được tổ chức một cách hợp lý, khoa học nhằm hình thành và phát triển nhân cách
người học.
* Đặc điểm của quá trình sư phạm tổng thể
Qúa trình sư phạm tổng thể có những đặc điểm sau:
- Là một dạng vận động, phát triển liên tục của các hiện tượng, tình huống giáo dục và
dạy học, được tổ chức thực hiện theo những quy trình xác định.
- Là một dạng vận động xã hội, có quan hệ gián tiếp với các quá trình khác (kinh tế,

chính trị, văn hóa…) nhưng được tổ chức một cách chuyên biệt ( theo quy luật của giáo dục).

- Trong quá trình giáo dục luôn có sự tác động qua lại của các thành phần tham gia:
người dạy (chủ thể tác động) và người học (chủ thể hoạt động) trong đó nhà giáo dục giữ
vai trò chủ đạo và chủ thể hoạt động độc lập, sáng tạo.
Qúa trình sư phạm tổng thể là một hệ thống gồm nhiều yếu tố: Mục đích và nhiệm vụ
giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục, phương tiện giáo dục, nhà giáo dục,
người được giáo dục, kết quả giáo dục. Toàn bộ các yếu tố này vận động và phát triển, quan
hệ biện chứng với nhau, thúc đẩy lẫn nhau trong cùng một hệ thống và đều bị chi phối bởi
các quá trình kinh tế - xã hội, các nhân tố lịch sử - xã hội cụ thể.
9


Giáo dục học nghiên cứu những mối quan hệ giữa các yếu tố của quá trình sư phạm
tổng thể cũng như giữa quá trình sư phạm tổng thể với môi trường của nó, để phát hiện
được những quy luật của chúng. Từ đó xác lập phương phướng, giải pháp để tổ chức các
quá trình giáo dục, phát triển giáo dục nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn những yêu cầu của
sự phát triển xã hội.
*Cấu trúc của quá trình giáo dục
- Qúa trình giáo dục (sư phạm tổng thể) là sự thống nhất của hai quá trình bộ phận:
quá trình dạy học và quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp). Cả hai quá trình đều thực hiện
chức năng chung của giáo dục trong việc hình thành nhân cách toàn diện. Song mỗi quá
trình đều có chức năng trội của mình và dựa vào chức năng trội đó để thực hiện các chức
năng khác nhau.
Chức năng trội của quá trình dạy học là trau dồi học vấn, là truyền thụ và lĩnh hội một
hệ thống tri thức khoa học, những kỹ năng, kỹ xảo, nhận thức và hành động.
Chức năng trội của quá trình giáo dục là xây dựng một hệ thống niềm tin, lý tưởng,
động cơ, thái độ, tính cách, thói quen, là hình thành những phẩm chất thế giới quan chính trị,
đạo đức…của cá nhân.
- So sánh quá trình dạy học và giáo dục:
Qúa trình dạy học
Về

chức
năng,
nhiệm
vụ

Qúa trình giáo dục

Có thế mạnh trong việc hình thành các
biểu tượng, khái niệm, định luật, lý
thuyết, các kỹ năng, kỹ xảo nghĩa là
ảnh hưởng của nó thiên về trí tuệ, nhận
thức.

Có thế mạnh trong việc hình thành
niềm tin, chuẩn mức, lý tưởng, động
cơ, nguyên tắc hành vi đạo đức…nghĩa
là ảnh hưởng của nó thiên về thái độ,
cảm xúc, tâm hồn.

Chương trình, kế hoạch dạy học được
quy định chặt chẽ

Nội dung giáo dục chỉ có tính định
hướng: có thể là sinh hoạt văn hóa,
chính trị, xã hội, lao động nghệ thuật,
thể thao, du lịch…có tính chất quần
chúng. Nội dung giáo dục được xác
định chủ yếu dựa theo nhu cầu xã hội,
nguyên vọng và hứng thú của tập học
sinh ở từng lứa tuổi khác nhau. Người

thầy kết hợp với học sinh và phụ
huynh học sinh để lựa chọn các hoat
động giáo dục nhằm đảm bảo yêu cầu
giáo duc toàn diện.

Về nội
dung

Khi dạy học, các hình thức thường Trong quá trình giáo dục thì các hình
Về hình được sử dụng là: giờ lên lớp, xemine, thức thường được sử dụng là: sinh hoạt
10


tập thể, hoạt động xã hội, tham quan,
lao động xã hội – công ích…

thức

thực hành thí nghiệm…

Về
quản lý

Người lãnh đạo quá trình dạy học chủ Người lãnh đạo là đại diện của tập thể
học sinh như lớp trưởng, cán bộ đoàn,
yếu là thầy giáo.
đội với sự giúp đỡ của các thầy giáo
chủ nhiệm.

- Qúa trình giáo dục tổng thể cũng như quá trình giáo dục bộ phận đều được tạo nên

bởi các yếu tố sau:
* Mục đích, nhiệm vụ giáo dục
Mục đích giáo dục có thể được coi là “đơn dặt hàng” của xã hôị đối với nền giáo
dục về mẫu nhân cách người được giáo dục, mà giáo dục cần đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu
của xã hội về giáo dục con người lao động trong từng giai đoạn phát triển lịch sử của xã hội.
Để thực hịên tốt mục đích này, giáo dục phải hoàn thành tốt các nhiệm vụ giáo dục:
giáo dục trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất và giáo dục lao động.
Những nhiệm vụ này liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau và thâm nhập vào nhau.
Mục đích và nhiệm vụ giáo dục được coi là yêú tố hàng đầu của quá trình giáo dục
tổng thể hoặc bộ phận vì nó định hướng cho sự vận động và phát triển của toàn bộ quá trình
giáo dục này cũng như cho sự vận động và phát triển của các yếu tố khác.
* Nội dung giáo dục:
Nội dung giáo dục bao gồm hệ thống những giá trị xã hội mà người được giáo dục
cần tiếp nhận để phát triển nhân cách theo những yêu cầu mà xã hội đặt ra. Đó là hệ thống
những giá trị nhân văn, đạo đức, văn hóa, khoa học, công nghệ…được lựa chọn trong kho
tàng giá trị của nhân loại.
Nội dung giáo dục, về cơ bản, được phản ánh trong chương trình và sách giáo khoa.
Nó tạo nên nội dung hoạt động thống nhất cho nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm
đạt mục đích giáo dục đã định.
* Phương pháp và phương tiện giáo dục
Phương pháp và phương tiện giáo dục quy định những cách thức và những phương
tiện hoạt động của nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm hoàn thành nhiệm vụ giáo
dục và đạt được mục đích giáo dục đã định.
Phương pháp và phương tiện giáo dục là hai yếu tố độc lập nhưng trong thực tiễn giáo
dục, chúng luôn được thực hiện trong mối liên hệ biện chứng với nhau, thâm nhập vào nhau,
sinh thành ra nhau và tạo ra sức sống cho nhau.
* Nhà giáo dục
Nhà giáo dục cùng tập thể sư phạm của họ đóng vai trò định hướng, tổ chức, điều
khiển, điều chỉnh và đánh giá hoạt động nhận thức và tự giáo dục của người được giáo dục.
Nói gọn lại, đó là vai trò chủ đạo của nhà giáo dục.

*Người được giáo dục
11


Người được giáo dục, cùng với tập thể của họ một mặt là đối tượng giáo dục, tiếp
nhận sự tác động có định hướng của nhà giáo dục; mặt khác là chủ thể nhận thức, chủ thể tự
giáo dục. Hai vai trò thống nhất với nhau, trong đó vai trò chủ thể là cơ bản nhất.
*Kết quả giáo dục
Kết quả giáo dục là trình độ phát triển nhân cách của người được giáo dục đạt được
sau mỗi quá trình giáo dục nhất định và sau toàn bộ quá trình giáo dục. Đồng thời kết quả
này cũng được coi là kết quả sinh động của sự vận động và phát triển của quá trình giáo dục
bộ phận và của quá trình giáo dục tổng thể.
Những yếu tố trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại và thống nhất
với nhau. Ví dụ: mục đích, nhiệm vụ giáo dục có vai trò định hướng cho sự vận động và
phát triển của các yếu tố khác; về phần mình các yếu tố khác lại phục vụ cho việc hoàn
thành các nhiệm vụ giáo dục và đạt được mục đích giáo dục đề ra.
Những yếu tố trên đây có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại, thống nhất với môi
trường kinh tế - xã hội và môi trường khoa học - công nghệ.
Các môi trường đặt ra các yêu cầu cho quá trình giáo dục ngày càng cao, đòi hỏi quá
trình giáo dục phải đào tạo ra những người công dân, những người lao động theo mẫu nhân
cách nhất định, mặt khác, lại tạo điều kiện thuận lợi để quá trình này đạt đựơc những kết
quả với chất lượng và hiệu quả cao.
*Cả quá trình giáo dục tổng thể lẫn các quá trình giáo dục bộ phận và từng yếu tố của
nó đều là đối tượng nghiên cứu của giáo dục học
1.3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của giáo dục học
- Nghiên cứu bản chất của giáo dục và mối quan hệ giữa giáo dục với các bộ phận
khác của xã hội.
- Nghiên cứu các qui luật của giáo dục.
- Nghiên cứu các nhân tố của HĐGD (mục đích, nội dung, phương pháp, phương
tiện, hình thức tổ chức giáo dục… ). Từ đó tìm tòi con đường nâng cao chất lượng và hiệu

quả HĐGD.
Cùng với sự phát triển và đổi mới giáo dục, nhiều vấn đề mới trong thực tiễn nảy
sinh, đòi hỏi sự đáp ứng của Giáo dục học trong giai đoạn mới. Vì vậy nhiệm vụ của Giáo
dục học còn thể hiện ở việc giải quyết những vấn đề sau:
- Nghiên cứu và hoàn thiện những vấn đề thuộc phạm trù phương pháp luận khoa
học giáo dục.
- Nghiên cứu góp phần giải quyết mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu vừa phải phát triển
nhanh qui mô giáo dục, vừa phải nâng cao chất lượng trong khi khả năng và điều kiện đáp
ứng yêu cầu còn nhiều hạn chế.
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn giáo dục trong nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức giáo dục trong những điều kiện mới…
- Các vấn đề trong hệ thống giáo dục quốc dân, trong quản lý giáo dục và đào tạo…
1.3.3. Phương pháp luận nghiên cứu giáo dục học
12


Phương pháp luận được hiểu là lý thuyết về các nguyên tắc để tiến hành các phương
pháp, các hình thức hoạt động nhận thức khoa học, là hệ thống các quan điểm, các nguyên
tắc chỉ đạo hoạt động chủ thể. Phương pháp luận trong giáo dục học được xem là sự tổng
hợp các luận điểm về nhận thức giáo dục và cải tạo, biến đổi thực tiễn giáo dục. Những
quan điểm phương pháp luận là kim chỉ nam hướng dẫn các nhà khoa học, tìm tòi, nghiên
cứu khoa học, có thể để cập một số quan điểm phương pháp luận nghiên cứu giáo dục như
sau:
- Quan điểm duy vật biện chứng: Khi nghiên cứu các nhà khoa học phải xem xét sự vật,
hiện tượng, quá trình giáo dục trong mối quan hệ phức tạp của chúng, đồng thời khi nghiên
cứu phải xem xét đối tượng trong sự vận động và phát triển.
- Quan điểm lịch sử - logic: Yêu cầu khi sử dụng phải phát hiện nguồn gốc nảy sinh, quá
trình diễn biến đối tượng nghiên cứu trong không gian và thời gian với điều kiện và hoàn
cảnh cụ thể.
- Quan điểm thực tiễn: Yêu cầu khi nghiên cứu giáo dục cần phải xuất phát từ thực tiễn,

phải khái quát để tìm ra quy luật phát triển của chúng từ thực tiễn, kết quả nghiên cứu được
kiểm nghiệm trong thực tiễn và phải ứng dụng trong thực tiễn.
- Quan điểm hệ thống: Khi nghiên cứu đối tượng phải phân tích chúng thành những bộ
phận để xem xét một cách sâu sắc và toàn diện, phải phân tích mối quan hệ giữa các sự vật,
hiện tượng, các quá trình cũng như mối quan hệ giữa các bộ phận trong sự vật, hiện tượng
và quá trình đó.
* Các phương pháp nghiên cứu giáo dục học
- Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết bao gồm:
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết
+ Phương pháp mô hình hóa
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm:
+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi
+ Phương pháp phỏng vấn
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
+ Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp sử dụng toán thống kê
1.4. SƠ LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIÁO DỤC HỌC
1.4.1 Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của khoa học giáo dục
* Trong thời kỳ cổ đại, giáo dục được xem là một trong những mặt hoạt động xã hội
bình thường trong cuộc sống hàng ngày gắn với tiến trình phát triển chung của xã hội. Vào
thời kỳ này xuất hiện các nhà tư tưởng giáo dục nổi tiếng như: Khổng Tử (551 - 479 TCN);
Xôcrát (469 - 399 TCN); Arixtôt (384 - 322 TCN); Platôn (427 - 347 TCN)...
13


- Xôcơrát (469 - 399 TCN): là nhà giáo dục thực hành, ông quan niệm giáo dục phải
giúp con người tìm thấy, tự khẳng định chính bản thân mình, vì thế tư tưởng của ông mang

giá trị nhân văn rất cao. Trong hoạt động giáo dục ông nổi tiếng là nhà sáng tạo. Bao giờ
ông cũng nêu câu hỏi để người học suy nghĩ, tự tìm lời giải đáp. Trong 40 năm hoạt động,
ông đã nêu cao tấm gương đức hạnh của mình, tình yêu chân lí và sự can đảm trong việc
bảo vệ chân lí…
- Platôn (427 - 347 TCN): là học trò của Xôcơrát, ông đã có công sưu tập, ghi lại và
xuất
bản phần lớn các tác phẩm của Xôcơrát. Theo ông, việc giáo dục trước hết liên quan tới
đạo đức, tâm lí học, xã hội học. Ông cho rằng, sống đạo đức trước hết là sống công bằng,
một cá nhân được xem là công bằng khi nội tâm đảm bảo được sự thăng bằng giữa 3 yếu tố:
dục vọng, sự can đảm và lý trí, nhưng “hành động của con người chỉ hợp lý nếu cái bụng và
trái tim chịu sự phục tùng cái đầu”. Ông cũng cho rằng, con người và xã hội chỉ có thể đạt
tới hạnh phúc bởi một nền giáo dục quốc gia. Mỗi con người phải được giáo dục như nhau
ngay từ ngày đầu. Đây là quan điểm tiến bộ, song không phù hợp với thể chế của xã hội nô
lệ.
- Khổng Tử (551 – 479 TCN): là nhà giáo vĩ đại của Trung Hoa cổ đại và của nhân loại.
Ông quan niệm giáo dục con người phải nhằm mục đích đào tạo nên những người nhân
nghĩa, có phẩm hạnh. Trong quá trình hoạt động giáo dục, Khổng Tử đã sáng tạo và vận
dụng nhiều phương pháp giáo dục tiến bộ so với đương thời. Ông đã dùng cách gợi mở, đi
từ gần đến xa, từ đơn giản đến phức tạp nhưng vẫn đòi hỏi người học phải tích cực suy nghĩ
để nắm vững vấn đề; ông đòi hỏi người phải luyện tập, nề nếp và thói quen trong học tập,
theo hướng “ôn cũ để biết cái mới”. Để gắn nội dung giáo dục với cuộc sống, ông còn dùng
phương pháp đối thoại, yêu cầu học sinh liên hệ những điều đã học vào thực tế hàng ngày…
Vào thời cổ đại, nhiều nhà tư tưởng giáo dục đồng thời cũng là nhà khoa học, triết học,
do đó các tư tưởng giáo dục thường phát triển và được trình bày trong các tác phẩm triết
học và khoa học nói chung…
* Ở phương Tây, vào thời kỳ trung cổ, vai trò độc tôn của nhà thờ đã có ảnh hưởng rất
rõ nét đối với sự phát triển của nhà trường nói chung và về tư tưởng giáo dục nói riêng.
Giáo dục học chưa xuất hiện với tư cách là một khoa học độc lập.
Ở Tây Âu, vào thời kỳ Trung cổ, triết học cùng giáo dục chủ yếu phục vụ cho thần học.
Thời ấy chỉ có các trường của giáo hội, các nhà tôn giáo chủ trương kết hợp và dung hòa lý

trí, sự phát triển trí tuệ với niềm tin tôn giáo, chính đó là sự thể hiện nguồn gốc nảy sinh ra
triết học kinh viện, nhằm chứng minh rằng niềm tin bao giờ cũng định hướng và ở vị trí cao
hơn trí tuệ, có trước trí tuệ và khoa học.
Đến thế kỷ XII - XIII ở Tây Âu đã hình thành ba loại trường: Trường tu viện; trường
của nhà thờ và trường dòng. Lúc đầu ở các loại trường này chỉ dạy giáo lý, kinh bản. Sau đó
dạy thêm số học, hình học, thiên văn và âm nhạc. Bên cạnh trường tôn giáo có hệ thống
14


giáo dục kỵ sĩ, với nội dung giáo dục “Bảy đức tính của kỵ sĩ”: Cưỡi ngựa, bơi, dùng giáo,
đấu kiếm, đi săn, đánh cờ, làm thơ. Thực chất giáo dục tôn giáo và giáo dục kị sĩ ở Tây Âu
đều phục vụ cho chế độ phong kiến thần quyền đương thời.
* Đến cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV khi mầm mống của xã hội tư bản xuất hiện,
nhân loại bước vào thời đại Phục hưng. Các nhà tư tưởng nhân văn tiên tiến xuất hiện, tạo
nên nhu cầu, động lực mới thúc đẩy giáo dục phát triển với tư tưởng giáo dục tiến bộ: Vượt
ra khỏi khuôn khổ giáo dục kinh viện - tôn giáo, hướng về chủ nghĩa nhân văn. Các nhà
nhân văn chủ nghĩa chủ trương đề cao giá trị con người, cho rằng con người cần được phát
triển toàn diện. Chính bước quá độ từ chế độ phong kiến qua chủ nghĩa tư bản đã làm xuất
hiện những hệ thống tri thức mới ra đời, trong đó có nhiều khoa học tách ra khỏi triết học.
Giáo dục học từ đây cũng tồn tại và phát triển như là một khoa học độc lập do công của nhà
giáo dục học vĩ đại Tiệp Khắc Comenxki (1592 - 1670). Ông là nhà lý luận và là nhà tư
tưởng giáo dục đã đề cao giáo dục phổ cập, việc dạy tiếng mẹ đẻ trong các nhà trường và
nêu ra luận chứng chặt chẽ trong tác phẩm nổi tiếng: “Phép giảng dạy vĩ đại”. Rất nhiều
nguyên tắc dạy học vẫn được sử dụng đến ngày nay như: Nguyên tắc trực quan, nguyên tắc
tính khoa học và tính hệ thống trong dạy học vv… đã được nêu bật trong tác phẩm ấy.
Sau Comenxki, xuất hiện nhiều nhà nghiên cứu giáo dục học, như Lốccơ (1632 - 1701),
Rútxô (1712 - 1778),… trong đó phải kể đến Petxtalogi, ông đặc biệt nhấn mạnh tác dụng của
việc kết hợp lao động với học tập, nhấn mạnh tác dụng vai trò của trực quan trong dạy học và
giáo dục và vạch ra một hệ thống các phương pháp giáo dục chung.
Cùng với sự hình thành và phát triển của xã hội tư bản, kinh tế - xã hội, văn hóa và

khoa học phát triển rất nhanh, giáo dục đã được nâng cao. Tuy vậy, mâu thuẫn xã hội cũng
đã xuất hiện và ngày càng gay gắt, tất cả đều được phản ánh rõ nét trong hệ tư tưởng, trong
đời sống xã hội.
* Vào nửa đầu thế kỷ XIX cùng với sự phát triển chung của khoa học, giáo dục học
cũng đã phát triển và thể hiện sự đấu tranh gay gắt giữa các quan điểm lí luận giáo dục của
giai cấp tư sản và lợi ích giáo dục của nhân dân. Nhiều nhà giáo dục tiến bộ, như A.
Dixtécvéc (1790 - 1866), A. XanhXimông (1760 - 1837)… đã tiếp tục phát triển quan điểm
giáo dục của Petxtalozi, họ không những kế thưa tư tưởng giáo dục tiến bộ của ông mà còn
phát triển, làm phong phú thêm, xây dựng cơ sở cho các quan điểm giáo dục xã hội chủ nghĩa
về sau, nâng cao tầm tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa trong giáo dục.
* Cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX, giáo
dục học tiếp tục phát triển với cơ sở phương pháp luận khoa học, làm cho giáo dục học tiếp
thu, kế thừa và phát huy được toàn bộ thành tựu của các tư tưởng giáo dục tiến bộ của nhân
loại, gắn liền với sự phát triển và tiến bộ của giáo dục với công cuộc đấu trành giải phóng
con người khỏi mọi ách áp bức bóc lột, mọi tệ nạn xã hội, góp phần tổ chức lại xã hội theo
hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự phát triển những giá trị tinh hoa trong di sản giáo dục
của nhân loại, học thuyết Mác - Lênin về giáo dục đã chứng minh một cách khoa học các
vấn đề có tính quy luật trong giáo dục như: Sự hình thành con người, tính quy định của kinh
15


tế - xã hội đối với giáo dục, tính lịch sử của giáo dục trong tiến trình phát triển của xã hội và
vai trò của giáo dục trong điều kiện xã hội có giai cấp.
Những luận điểm trên đã được xem là các quan điểm cơ bản, có vai trò định hướng
cho mọi quá trình nghiên cứu, ứng dụng các vấn đề lý luận và thực tiễn giáo dục, giúp cho
giáo dục học ngày càng phong phú và phát triển sâu rộng như ngày nay.
1.4.2 Xu thế phát triển hiện nay của giáo dục học ở Việt Nam
Trên cơ sở đánh giá thực trạng giáo dục nước ta trong thời gian qua, phân tích bối
cảnh trong nước và ngoài nước, nhận định về thời cơ và thách thức đối với giáo dục trong
thời kỳ mới, Đảng ta đã đưa ra các quan điểm chỉ đạo thực tiễn giáo dục Việt Nam trong

giai đoạn mới - công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam (1992), Luật Giáo dục(2005), Chiến lược phát triển giáo dục
2011-2020 đã thể hiện những quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục ở nước ta như sau:
1. Phát triển giáo dục phải thực sự là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nâng
cao vai trò các tổ chức, đoàn thể chính trị, kinh tế, xã hội trong phát triển giáo dục. Đầu tư
cho giáo dục là đầu tư phát triển. Thực hiện các chính sách ưu đãi đối với giáo dục, đặc biệt
là chính sách đầu tư và chính sách tiền lương; ưu tiên ngân sách nhà nước dành cho phát
triển giáo dục phổ cập và các đối tượng đặc thù.
2. Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, tiên tiến, hiện đại, xã hội chủ nghĩa,
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Thực hiện công bằng xã
hội trong giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục vùng khó để đạt được mặt bằng chung, đồng
thời tạo điều kiện để các địa phương và các cơ sở giáo dục có điều kiện bứt phá nhanh, đi
trước một bước, đạt trình độ ngang bằng với các nước có nền giáo dục phát triển. Xây dựng
xã hội học tập, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được học, học suốt đời, đặc biệt đối với người
dân tộc thiểu số, người nghèo, con em diện chính sách.
3. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế, thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, phát triển giáo dục gắn với phát triển khoa học và công nghệ, tập trung vào nâng
cao chất lượng, đặc biệt chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng
thực hành để một mặt đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, đảm bảo an ninh quốc phòng; mặt khác phải chú trọng thỏa mãn
nhu cầu phát triển của mỗi người học, những người có năng khiếu được phát triển tài năng.
4. Hội nhập quốc tế sâu, rộng về giáo dục trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc dân
tộc, giữ vững độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng giao lưu hợp tác với
các nền giáo dục trên thế giới, nhất là với các nền giáo dục tiên tiến hiện đại; phát hiện và
khai thác kịp thời các cơ hội thu hút nguồn lực có chất lượng.
1.4.3 Xu thế phát triển hiện nay của giáo dục học thế giới
16



Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, sự hình thành
nền kinh tế tri thức, xã hội thông tin và xu thế toàn cầu hóa… đã tác động mạnh mẽ đến tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có giáo dục. Xu thế phát triển giáo dục thế
giới đã được UNESCO khái quát thành 21 điểm với các tư tưởng chủ yếu:
- Giáo dục thường xuyên phải là điểm chủ đạo của mọi chính sách giáo dục; giáo dục
suốt đời, giáo dục bằng mọi cách, giáo dục cho mọi người, xây dựng một xã hội học tập.
Giáo dục phải làm cho mỗi người trở thành người dạy và người kiến tạo nên sự tiến bộ văn
hóa của bản thân
- Giáo dục không chỉ dạy cho con người có học vấn mà phải thực hành, thực nghiệm
để có tay nghề, vào đời không bỡ ngỡ. Phát triển giáo dục gắn liền với phát triển kinh tế xã hội, chú ý giáo dục hướng nghiệp để có thể lập thân, lập nghiệp
- Giáo dục trẻ em trước tuổi đến trường phải là một mục tiêu lớn trong chiến lược giáo
dục. Giáo dục phổ thông cơ sở phải là mục tiêu hàng đầu của chính sách giáo dục.
- Giáo viên phải được đào tạo để trở thành những nhà giáo dục hơn là những chuyên
gia truyền đạt kiến thức. Việc giảng dạy phải thích nghi với người học chứ không phải áp
đặt máy móc buộc người học tuân theo.
Các nước trên thế giới đang tiến hành cải cách giáo dục theo các hướng lớn sau:
- Tăng cường giáo dục nhân văn
- Công nghệ - thông tin
- Đào tạo những con người vừa có tri thức, vừa có kỷ năng, năng lực thực sự đóng góp
vào sự phát triển xã hội.
- Hiện đại hóa các phương pháp day học – giáo dục
Nền giáo dục Việt Nam cũng đang trên con đường đổi mới nhằm đáp ứng với những
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Các giải pháp chiến lược
phát triển giáo dục trong giai đoạn hiện nay là:
- Tăng cường các nguồn lực cho giáo dục – đào tạo.
- Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy - người học
- Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục – đào tạo và tăng cường cơ sở vật chất các
trường học
- Đổi mới công tác quản lý giáo dục

- Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục
* Các định hướng phát triển giáo dục trên thế giới và trong nước ở trên đã vạch
ra cho Giáo dục học những nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu:
- Nghiên cứu và hoàn thiện các vấn đề về phương pháp luận khoa học giáo dục
- Nghiên cứu hoàn thiện các cơ sở lý luận và thực tiễn của giáo dục trong giai đoạn
mới, xác định mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục và sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Nghiên cứu các vấn đề về đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học – giáo
dục đáp ứng với sự phát triển thực tiễn
- Nghiên cứu ứng dụng các thành tựu của khoa học – công nghệ vào quá trình dạy học
– giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục…
17


Tóm lại, tất cả các vấn đề trong Giáo dục học đều cần phải được nghiên cứu, phát triển
và hoàn thiện theo hướng nâng cao tính khoa học, tính thực tiễn, làm cho Giáo dục học góp
phần thúc đẩy mạnh mẽ nến giáo dục quốc dân đáp ứng với đòi hỏi của sự phát triển kinh tế
- xã hội.
1.5. HỆ THỐNG CÁC KHOA HỌC VỀ GIÁO DỤC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
GIÁO DỤC HỌC VỚI CÁC KHOA HỌC KHÁC
1.5.1 Hệ thống các khoa học về giáo dục
- Giáo dục học có những phân môn sau đây:
+ Lịch sử giáo dục học : Muốn phát triển đúng hướng, giáo dục học luôn phải vận
dụng “nguyên tắc lịch sử trong nội dung và phương pháp nghiên cứu”. Như vậy, lịch sử
giáo dục học có vai trò quan trọng trong hệ thống các khoa học giáo dục trước hết đối với
giáo dục học. Nhờ quán triệt quan điểm đối với các hiện tượng giáo dục (của các thời đại
khác nhau) nhà nghiên cứu sẽ phát hiện đúng đắn bản chất xã hội của giáo dục ở từng thời
đại và hiểu được tiến trình phát triển và đổi mới liên tục của giáo dục.
Lịch sử giáo dục cung cấp cho giáo dục học các tư tưởng giáo dục tiên tiến, kiệt xuất,
dựa trên sự kế thừa có chọn lọc có phê phán các thành tựu và lí luận giáo dục có giá trị
trong nước và trên thế giới, giúp cho giáo dục học luôn phát triển, luôn đổi mới, bắt kịp xu

thế của thời đại.
+ Những vấn đề chung của giáo dục học: nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất của
giáo dục học, cụ thể là: chứng minh giáo dục học là một khoa học; trình bày những lý luận,
những định luật cơ bản về sự hình thành và phát triển nhân cách; giới thiệu mục đích giáo
dục, những quan điểm, những nguyên tắc giáo dục cơ bản nhất; hệ thống giáo dục quốc dân;
giới thiệu về vai trò của người thầy giáo trong quá trình dạy học và giáo dục.
+ Lý luận dạy học: Nghiên cứu quá trình dạy học với tư cách là một quá trình sư phạm
bộ phận, một phương tiện để trau dồi học vấn, phát triển năng lực và giáo dục các phẩm
chất nhân cách thông qua hoạt động đồng thời giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền thụ
tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xão, nhận thức và hành động cho học sinh. Lý luận dạy học
nghiên cứu bản chất và các quy luật của quá trình dạy học, nêu ra được các nguyên tắc chỉ
đạo, phương pháp thực hiện và nội dung cần thiết, hình thức và phương pháp thích hợp và
cuối cùng là đánh giá kết quả dạy học.
+ Lý luận giáo dục: Nghiên cứu quá trình sư phạm với tư cách là một quá trình sư
phạm bộ phận, nhằm hình thành niềm tin, lí tưởng, động cơ, thái độ và thói quen hành vi
trong cuộc sống. Lý luận giáo dục nghiên cứu bản chất và tính quy luật của quá trình giáo
dục, thiết kế nội dung, xây dựng nguyên tắc, tìm ra các phương pháp và các hình thức tổ
chức giáo dục và đánh giá kết quả về mặt giáo dục các phẩm chất nhân cách của học sinh.
+ Lý luận về quản lý nhà trường: Nghiên cứu quá trình tổ chức và điều khiển công tác
giáo dục nhà trường, các cấp học khác nhau. Nhiệm vụ của lý luận quản lý nhà trường là
nghiên cứu bản chất, cấu trúc, các tính quy luật vận hành quá trình đó, xác định nội dung,
18


nguyên tắc và triển vọng phát triển của nó nhằm hoàn thiện cái cũ, xây dựng cái mới trong
các hình thức tổ chức, phương pháp và biện pháp hoạt động quản lí. Nhân lõi của lý luận
quản lý nhà trường là những vấn đề quản lý nội bộ nhà trường, đặc biệt là những vấn đề về
tổ chức và lãnh đạo quá trình sư phạm trong nhà trường.
- Giáo dục học nằm trong hệ thống của khoa học giáo dục nhưng bản thân nó cũng bao
gồm nhiều phân môn khác nhau như: giáo dục học nhà trẻ, mẫu giáo, giáo dục học cho lứa

tuổi đi học ...
- Trong thực tế giáo dục học còn được nghiên cứu và giảng dạy ở từng ngành chuyên
môn – nghề nghiệp (giáo dục học y học, giáo dục học quân sự, giáo dục học kĩ thuật…).
- Ngành giáo dục học đặc biệt cũng là một bộ phận của giáo dục học có nhiệm vụ
chuyên nghiên cứu những vấn đề dạy học và giáo dục những trẻ khuyết tật về thị giác, thính
giác hoặc chậm phát triển về ngôn ngữ, trí tuệ.
- Đối với thực tiễn hoạt động ở nhà trường các bộ môn phương pháp dạy học bộ môn
có vai trò quan trọng như: Bộ môn phương pháp dạy học toán, văn, sử, địa, sinh, kĩ thuật,
v.v.. còn gọi là “lí luận dạy học bộ môn"
Tuy đối tượng nghiên cứu có khác nhau nhưng các phân môn giáo dục học đều có cơ
sở chung là lí luận giáo dục học đại cương, từ những kiến thức và kỹ năng này mà vận dụng,
đáp ứng cho việc giáo dục ở các lĩnh vực khác nhau.
1.5.2 Mối quan hệ giữa giáo dục học và các khoa học khác
Như đã nói ở trên, giáo dục là một hiện tượng xã hội, giáo dục do xã hội quy định
vì thế giáo dục học là một khoa học xã hội. Trong quá trình hoạt động và phát triển, giữa
giáo dục học với các hoạt động khoa học xã hội cũng như khoa học tự nhiên có mối liên hệ
mật thiết với nhau. Những ngành khoa học liên quan mật thiết với giáo dục học là: triết học,
sinh lý học, tâm lý học, đạo đức học…
* Giáo dục học với Triết học
Triết học là khoa học nghiên cứu các quy luật chung nhất của thế giới về sự phát
triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người, cho nên nó cũng là nền tảng khoa học cho sự
phát triển của giáo dục học. Đồng thời có một số vấn đề chung mà cả triết học và giáo dục
học đều quan tâm nghiên cứu. Đó là các vấn đề: sự hình thành con người và mục đích giáo
dục; mối liên hệ giữa quá trình giáo dục với các quá trình xã hội khác; lý luận về hoạt động
của con người và phương pháp đào tạo con người…
* Giáo dục học với Tâm lý học
Tâm lý học có vai trò rất quan trọng đối với giáo dục học vì tâm lý học cung cấp
cho giáo dục học những tri thức khoa học các cơ sở chế biến và các điều kiện tổ chức các
quá trình bên trong của sự hình thành nhân cách con người, theo từng lứa tuổi, trong từng
loại hoạt động, làm cơ sở đáng tin cậy cho việc tổ chức các quá trình sư phạm.

* Giáo dục học với sinh lý học
Sinh lý học được coi là cơ sở tự nhiên của giáo dục học. Việc nghiên cứu giáo dục
19


học phải dựa vào các dự kiện của sinh lý học về sự phát triển của hệ thống thần kinh cấp
cấp cao, về đặc điểm các loại hình thần kinh, về đặc điểm của hệ thống tín hiệu thứ nhất và
thứ hai, về sự phát triển và vận hành của các cơ quan cảm giác, về hệ thống tim mạch và hô
hấp, về các đặc điểm phát triển của hệ thống cơ thể… Ví dụ: từ đặc điểm phát triển của lứa
tuổi học sinh trung học cơ sở mà chúng ta quy đinh nội dung, phương pháp học tập, lao
động, vui chơi một cách khoa học.
* Giáo dục học với Điều khiển học
Điều khiển học là khoa học hiện đại nảy sinh vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ của
khoa học, công nghệ và kỹ thuật. Là khoa học điều khiển tối ưu các hệ thống động phức tạp,
là khoa học nghiên cứu logic của những quá trình trong tự nhiên và trong xã hội, xác định
những cái chung quy định những điều kiện vận hành các qúa trình đó. Cái chung đó có mặt
của một trung tâm điều khiển, có mặt khách thể bị điều khiển và sự thực hiện điều khiển
thông qua các kênh liên hệ thuận và nghịch.
Qúa trình giáo dục là một hệ thống phức tạp mà trung tâm điều khiển là giáo viên
và đối tượng điều khiển là học sinh…
Tóm lại mối liên hệ của các khoa học trên đây đối với giáo dục học là hết sức chặt
chẽ. Dựa vào các thành tựu của các khoa học, giáo dục học đã hoàn thiện từng bước lý luận khoa
học của mình và ngày càng đem đến hiệu quả cao trong công tác giáo dục học sinh.

1.6. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA GIÁO DỤC HỌC
1.6.1 Giáo dục theo nghĩa rộng
Giáo dục theo nghĩa rộng, trong các tài liệu Giáo dục học hiện nay có nhiều cách
diễn giải khác nhau, nhưng nhìn chung khái niệm về giáo dục hàm
nghĩa là sự hình thành có mục đích và có tổ chức những sức mạnh thể chất và tinh
thần của con người, hình thành thế giới quan, bộ mặt đạo đức và thị hiếu thẩm mỹ cho con

người; với nghĩa rộng nhất, khái niệm này bao hàm cả giáo dưỡng, dạy học và tất cả những
yếu tố tạo nên những nét tính cách và phẩm hạnh của con người, đáp ứng các yêu cầu của
kinh tế - xã hội.
Quan niệm về giáo dục ngày nay được mở rộng hơn, vì vậy các định nghĩa trong
các tài liệu của giáo dục học thường không bao quát được tất cả các khía cạnh của vấn đề.
Ví dụ: trước đây quan niệm về giáo dục được hiểu là giáo dục cho các đối tượng ở lứa tuổi
đi học; chỉ thực hiện liên tục và có hệ thống ở nhà trường; nội dung chủ yếu là đào tạo học
sinh có kiến thức, kỹ năng, thái độ tương ứng với nội dung, chương trình, kế hoạch đào tạo
thông qua một số môn học…Nhưng cùng với sự phát triển và tiến bộ xã hội, người ta hiểu
giáo dục cho tất cả mọi người, được thực hiện bất cứ không gian và thời gian nào thích hợp
với từng loại đối tượng bằng các phương tiện khác nhau, với các kiểu học tập đa dạng, trong
đó người học đóng vai trò “trung tâm”, thực hiện theo phương thức đa dạng hóa, năng động,
thích ứng với mọi biến đổi, là trách nhiệm của nhà nước, trách nhiệm của tất cả các ngành,
của tất cả mọi người trong xã hội.
1.6.2. Giáo dục theo nghĩa hẹp
20


Là một bộ phận của quá trình sư phạm tổng thể, là quá trình hình thành thế giới
quan khoa học, niềm tin, lý tưởng, động cơ, tình cảm của người học.
Qúa trình giáo dục theo nghĩa hẹp được thực hiện không chỉ thông qua môn đạo đức
mà trong cả các mặt của đời sống ở nhà trường, gia đình và xã hộị.
1.6.3. Giáo dưỡng
Giáo dưỡng là một thụât ngữ được dùng trong các tài liệu ở nước ta từ những năm
60 của thế kỷ XX.
Giáo dưỡng được hiểu theo 2 nghĩa có liên quan mật thiết với nhau;
+ Theo nghĩa thứ nhất: giáo dưỡng là quá trình nắm vững tri thức, kỹ năng và kỹ
xảo có hệ thống của người học được thực hiện bằng con đường học tập (trong nhà trường và
tự học theo nhiều hình thức).
+ Theo nghĩa thứ hai: giáo dưỡng là kết quả của quá trình đó.

Vì vậy, có thể nói rằng, giáo dưỡng vừa là quá trình, vừa là kết quả nắm vững
những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo có hệ thống ở người học.
*Ở đây có mấy điểm đáng chú ý:
Nếu theo nghĩa thứ hai thì thuật ngữ giáo dưỡng đồng nghĩa với thuật ngữ học vấn.
Học vấn được hiểu là kết quả của việc nắm vững hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,
những vốn kinh nghiệm của người học thực sự biến thành vốn kinh nghiệm của bản thân và
có thể vận dụng chúng có hiệu quả vào cuộc sống.
Học vấn theo nghĩa này được phân theo nhiều trình độ: trình độ học vấn tiểu học,
trình độ học vấn trung học cơ sở, trình độ học vấn cao đẳng, trình độ học vấn sau đại học.
Nếu hiểu theo nghĩa thứ nhất, thì thuật ngữ giáo dưỡng có thể hiểu là quá trình trau
dồi học vấn…Qúa trình này có thể được tiến hành trong nhà trường dưới sự chỉ đạo của
giáo viên và cũng có thể được tiến hành ngoài nhà trường dưới hình thức tự học.
1.6.4. Dạy học
Dạy học là một bộ phận của quá trình sư phạm tổng thể, là quá trình, dưới tác dụng
chủ đạo của giáo viên, người học tự giác, tích cực, độc lập: nắm vững những tri thức,và
những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, phát triển năng lực hoạt động trí tuệ, đặc biệt là năng lực
tư duy, đồng thời hình thành những phẩm chất hoạt động trí tuệ; trên cơ sở đó, hình thành
và phát triển thế giới khách quan khoa học, những phẩm chất đạo đức của người công dân,
người lao động.Với nghĩa này, dạy học được coi là một hoạt động đặc trưng của nhà trường
và là một con đường cơ bản nhất để tiến hành giáo dục và giáo dưỡng.
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Đối tượng của giáo dục học là gì? Trong điều kiện hiện nay, đối tượng của giáo dục
học có thay đổi không?
2. Phân biệt 3 khái niệm cơ bản của giáo dục học: giáo dục, giáo dưỡng và dạy học?
3. Tại sao nói giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt?
21


4. Phân tích cấu trúc quá trình sư phạm tổng thể?
Thảo luận: Mối quan hệ bên trong của quá trình giáo dục và mối liên hệ giữa môi

trường với quá trình giáo dục. Lấy ví dụ minh họa cụ thể.

Chương 2. GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
2.1. SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CỦA CON NGƯỜI
2.1.1 Khái niệm con người, nhân cách trong giáo dục học
2.1.1.1 Khái niệm con người trong giáo dục học
Con người là thực thể của tự nhiên (sinh vật sống có ý thức, có ngôn ngữ, có não và
vỏ não phát triển đến mức độ cao) và tuân theo những quy luật của tự nhiên.
Con người là một thực thể xã hội: sản phẩm của xã hội, mang bản chất xã hội; mọi
thuộc tính, phẩm chất của con người đều được hình thành thông qua sự tác động của xã hội,
thông qua mối quan hệ người- người (quy luật xã hội).
Cái tự nhiên và cái xã hội tồn tại trong con người không tách biệt nhau mà thống nhất,
hoà nhập, chi phối, ức chế lẫn nhau. C.Mác đã khẳng định: “... bản chất con người không
phải là cái gì chung chung trừu tượng, trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Nhận định này cho thấy:
- Con người tồn tại trong rất nhiều mối quan hệ, quan tâm đến các mối quan hệ của
con người chính là để hiểu rõ bản chất con người.
- Bản chất con người bao giờ cũng được bộc lộ, được thể hiện ra trong chính cuộc
sống, trong hoạt động đa dạng và phong phú của nó.
Vậy, con người là sản phẩm của lịch sử xã hội, là thực thể mang bản chất xã hội bao
gồm những phẩm chất, thuộc tính có ý nghĩa xã hội được hình thành trong quá trình sống và
do kết quả của sự tác động qua lại giữa con người với con người trong xã hội. Con người là
chủ thể hoạt động, là lực lượng sáng tạo ra hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần cho xã
hội.
Với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay, con người được coi là nhân tố quyết
định cho sự phát triển. Nhận thức sâu sắc về vai trò của con người trong sự phát triển kinh
tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã xác định:
- Coi mục tiêu, động lực chính của sự phát triển là vì con người và do con người.
- Đặt con người vào vị trí trung tâm chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
- Khơi dậy tiềm năng của mọi cá nhân, tập thể lao động và cả cộng đồng dân tộc trong

việc thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước.

Quan điểm trên cần được quán triệt trong mọi hoạt động của đời sống xã hội ở
22


nước ta và trong chính quá trình học tập, tu dưỡng của học sinh, sinh viên hiện nay.
2.1.1.2 Khái niệm nhân cách trong giáo dục học
Nhân cách là một khái niệm quan trọng trong giáo dục học, nhưng rất phức tạp.
Đã có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu và đưa ra những quan niệm khác nhau về
nhân cách.
GS Phạm Minh Hạc “Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới”-Hà Nội) cho rằng:
Nhân cách là tổ hợp các thái độ, thuộc tính tâm lý riêng trong quan hệ hành động của từng
người với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật do loài người sáng tạo, với xã hội và với cá
nhân.
GS.TS Nguyễn Quang Uẩn khẳng định: “Khi nói đến nhân cách ta hiểu đó là sự
thống nhất giữa phẩm chất và năng lực, giữa đức và tài, đó là một tổ hợp thống nhất giữa
bốn nhóm thuộc tính tâm lý cơ bản của nhân cách: xu hướng, tính cách, khí chất và năng
lực (“Gía trị, định hướng giáo dục nhân cách và giá trị”- Hà Nội, 1995).
Theo truyền thống và trong đời sống, người Việt Nam xem nhân cách con người
gồm hai mặt đức và tài, phẩm chất và năng lực. Đức nói lên mối quan hệ giữa con người
với con người. Tài nói lên mối quan hệ giữa con người với công việc.
Mặc dù có quan điểm khác nhau, nhưng nhìn chung các tác giả đều nhấn mạnh các
điểm sau:
. Một hệ thống các thuộc tính ổn định của con người. Những thuộc tính này rất đa
dạng, bao gồm các mặt: đức, trí, thể ,mỹ…
. Mỗi cá nhân có một nhận cách riêng.
. Nhân cách có ở con người đã phát triển, định hình về mặt xã hội, đã trở thành
một chủ thể xã hội.
. Bản chất nhân cách gồm hai mặt: mặt tự nhiên và mặt xã hội, trong đó mặt xã hội

có ý nghĩa quyết định.
Trong giáo dục học nhân cách được hiểu là tất cả các nét, các mặt, các phẩm chất có
ý nghĩa xã hội trong một con người cụ thể. Những thuộc tính này được hình thành trong quá
trình tác động qua lại giữa người đó với người khác trong xã hội. Cùng trong quá trình hình
thành và phát triển nhân cách của con người, hàng loạt đặc điểm, thuộc tính, thái độ… của
họ được biến đổi và trở thành những đặc điểm, thuộc tính người đích thực - tính xã hội đạo đức.
2.1.2 Khái niệm về sự hình thành và phát triển nhân cách
Con người mới sinh ra chưa có nhân cách, nhân cách phản ánh bản chất xã hội của
mỗi cá nhân và chỉ hình thành và phát triển trong hoạt động và giao tiếp. Chính trong qúa
trình sống, hoạt động, giao tiếp, học tập, vui chơi...con người đã tự hình thành và phát triển
nhân cách.
Sự phát triển nhân cách là sự biến đổi, sự tăng trưởng của mỗi cá nhân về mọi mặt
theo xu hướng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Nó bao gồm sự tăng trưởng về số
23


lượng và chất lượng của mỗi cá nhân, bao gồm sự phát triển về mặt thể chất, sự phát triển
về mặt tâm lý, xã hội của con người: Sự phát triển về mặt thể chất: đó là sự tăng trưởng về
chiều cao, trọng lượng cơ thể, sự phát triển của các cơ bắp, sự hoàn thiện của các giác quan,
hệ thần kinh và về mặt sinh lý của con người. Sự phát triển về mặt tâm lý: biểu hiện ở sự
biến đổi cơ bản trong quá trình nhận thức, tình cảm, ý chí, hành động, đặc biệt là sự hình
thành và hoàn thiện các thuộc tính tâm lý của cá nhân. Sự phát triển về mặt xã hội: Thể hiện
sự biến đổi trong cách ứng xử của mỗi cá nhân với mọi người xung quanh, ở sự tích cực của
cá nhân khi tham gia vào các hoạt động xã hội.
2.2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
2.2.1 Vai trò của di truyền trong sự phát triển nhân cách
2.2.1.1 Khái niệm
Di truyền là sự tái tạo lại ở trẻ những thuộc tính sinh học nhất định của cha mẹ. Đó là
sự truyền lại từ cha mẹ đến con cái những thuộc tính và những đặc điểm sinh học nhất định
đã được ghi lại trong chương trình của hệ thống gen.

Ví dụ: màu tóc, màu da, hình thái có thể, đặc điểm hệ thần kinh, cấu trúc giải phẩu,
khuôn mặt, vóc dáng…
Một số thuộc tính mà đứa trẻ có ngay sau khi chào đời gọi là thuộc tính bẩm sinh.
2.2.1.2 Vai trò của di truyền đối với sự phát triển nhân cách
- Trong lý luận Giáo dục học, vấn đề di truyền những tư chất và những năng lực
thuộc một hoạt động nào đó là vấn đề quan trọng thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học
và hoạt động thực tiễn giáo dục.
- Di truyền tạo tiền đề vật chất cho sự phát triển nhân cách. Nhờ có di truyền vật chất
“người”: một cơ thể khỏe mạnh, hệ thần kinh bình thường, các giác quan đầy đủ tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển nhân cách.
- Di truyền tạo ra sức sống bản chất của con người, tạo điều kiện thuận lợi, sự dễ
dàng cho con người phát triển mạnh mẽ trong các dạng hoạt động tương ứng về nghệ thuật,
khoa học và lao động, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách.
Ví dụ: Nhiều người bẩm sinh có giọng nói và hát tốt, trí nhớ lạ thường, óc toán học…
Chính những tư chất này tạo điều kiện thuận lợi giúp con người hoạt động trong các lĩnh
vực tương ứng.
Như C.Mác cho rằng con người là một thực thể tự nhiên, trực tiếp hơn nữa là thực
thể sống, con người được phú cho những sức mạnh tự nhiên, những sức sống đã trở thành
thực thể tự nhiên hoạt động; sức mạnh này tồn tại trong con người dưới dạng những tư chất
và những năng lực ở dạng say mê (C.Mác và F.Ăngghen. Trích tác phẩm ở đầu thời kỳ).
- Di truyền chỉ tạo ra tiền đề, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhân cách,
chúng không vạch ra xu hướng phát triển cũng như không giới hạn trình độ phát triển. Bởi
lẽ di truyền có trở thành hiện thực hay không, hoặc trở thành hiện thực ở mức độ nào còn
phụ thuộc vào sự đam mê, hứng thú học tập, hứng thú, tính tích cực, tự giác học tập, tu
24


dưỡng rèn luyện của mỗi cá nhân.
- Những yếu tố di truyền không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhân cách
của con người, trong một số trường hợp nó còn gây khó khăn, cạn trở sự phát triển nhân

cách của mỗi cá nhân.
Ví dụ: những em bé sinh ra đã bị khuyết tật như câm, mù, điếc, thiệu năng trí tuệ,
chậm phát triển ngôn ngữ…do di truyền từ ông, bà, cha mẹ, hoặc do các tác động khác.
Trong những trường hợp này, yếu tố bẩm sinh bất lợi cho quá trình hình thành và phát triển
nhân cách cho các em. Bởi các em sẽ gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sống, học tập,
trong giao tiếp với mọi người xung quanh, đặc biệt là lĩnh vực học tập. Nếu các em không
có nghị lực, không có sự quan tâm chu đáo của gia đình thì nhiều em sẽ trở thành gánh nặng
cho gia đình và xã hội.
Qua đây chúng ta có thể khẳng định rằng, di truyền có vai trò rất quan trọng đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân. Di truyền có liên quan đến việc hình
thành các năng lực hoạt động trong lĩnh vực nhất định. Di truyền không quy định xu hướng
phát triển nhân cách của cá nhân, cũng không giới hạn trình độ phát triển nhân cách. Xu
hướng và trình độ phát triển nhân cách chủ yếu phụ thuộc vào giáo dục và ảnh hưởng của
môi trường xã hội.
2.2.2. Vai trò của môi trường trong sự phát triển nhân cách
2.2.2.1 Khái niệm
Trong lý luận của Giáo dục học, môi trường được xem là một hệ thống phức hợp
các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và xã hội xung quanh cần thiết cho sự tồn
tại và phát triển của con người. Các nhà khoa học chia môi trường làm hai loại: môi trường
tự nhiên và môi trường xã hội.
- Môi trường tự nhiên: bao gồm các điều kiện tự nhiên, hệ sinh thái phục vụ cho các
hoạt động học tập, lao động, rèn luyện sức khỏe, vui chơi giải trí… của con người.
- Môi trường xã hội: bao gồm môi trường xã hội rộng, đó là hệ thống các quan hệ
chính trị, kinh tế, tư tưởng ảnh hưởng đến cá nhân thông qua môi trường hẹp. Môi trường
hẹp là môi trường xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến cá nhân như gia đình, nhà trường, làng
xóm, …
2.2.2.1 Vai trò của môi trường đối với sự phát triển nhân cách
Khi nói đến vai trò của môi trường đối với sự hình thành và phát triển nhân cách,
người ta thường nói đến vai trò của môi trường xã hội. Tâm lý học và Giáo dục học mác xít
chứng minh rằng, nhân cách con người chỉ có thể hình thành và phát triển trong những điều

kiện xã hội. Vai trò đó được thể hiện ở các mặt sau:
- Môi trường đưa ra những yêu cầu khách quan đối với cá nhân con người trong
những giai đoạn lịch sử nhất định. Thực chất đó là mô hình, kiểu nhân cách con người mà
xã hội xem là mục tiêu phấn đấu phải xây dựng cho bằng được, đồng thời cũng phải xem đó
là nguồn động lực cho sự phát triển liên tục của xã hội. Mặt khác, mỗi thành viên xã hội
25


×