Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Bài dự thi: “ Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào” Chủ đề 3: Vai trò của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, chủ tịch Cayxỏn Phômvihản , Chủ tịch Xuphanuvông và các nhà lãnh đạo cấp cao của hai Đảng, hai nhà nước trong quá trình xây dựng và phát triển quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.33 KB, 11 trang )

Bài dự thi: “ Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào”

Chủ đề 3: Vai trò của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, chủ tịch Cayxỏn
Phômvihản , Chủ tịch Xuphanuvông và các nhà lãnh đạo
cấp cao của hai Đảng, hai nhà nước trong quá trình xây
dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào –
Việt Nam
Trên thế giới từ trước đến nay, ở phương Đông cũng như phương Tây, trong
cuộc đấu tranh để sinh tồn và phát triển của các quốc gia, các dân tộc, các tập
đoàn giai cấp… đã từng xuất hiện nhiều mối quan hệ liên minh hợp tác với
những hình thức, nội dung khác nhau như liên minh chiến lược, liên minh sách
lược, liên minh hữu cơ… Nhưng có thể nói ít có nơi nào và lúc nào có được mối
quan hệ đoàn kết, hợp tác bền vững lâu dài, mẫu mực trong sáng như mối quan
hệ chiến lược Việt – Lào. Cùng với thời gian mối quan hệ đó đã không ngừng
được củng cố và phát triển, từ quan hệ láng giềng gần gũi, thân thiện giữa hai
quốc gia trong thời phong kiến, tiến đến quan hệ gắn bó trong cuộc đấu tranh tự
phát của các trào lưu dân tộc và của các thân sĩ tiến bộ, khi hai nước đều bị đế
quốc thực dân xâm lược, thống trị. Đặc biệt, từ ngày Đảng Cộng sản Đông
Dương ra đời đảm nhận sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng ba nước
(Campuchia – Lào – Việt Nam), mối quan hệ Lào – Việt có sự biến đổi về chất,
trở thành mỗi quan hệ tự giác, kiểu mới, mang bản chất chủ nghĩa quốc tế vô
sản. Trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược, quan hệ đoàn kết, liên minh chiến đấu Lào – Việt được củng cố và nâng
cao thành một quy luật tồn tại, phát triển, một nhân tố cơ bản bảo đảm thắng lợi
của cách mạng mỗi nước và cả hai nước.
Lịch sử đã khẳng định quan hệ Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam là quan hệ đặc
biệt, là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự gắn kết bền chặt,
thuỷ chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự
do và tiến bộ xã hội. Khi cả khối Xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, hai Đảng:
1



Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào vẫn vững vàng.
Chính thể do Đảng lãnh đạo vẫn vững bước, hai đất nước, hai dân tộc cùng sánh
vai xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, phát triển kinh tế theo định hướng Xã
hội chủ nghĩa, đập tan mọi âm mưu gây chia rẽ, phá hoại mối quan hệ đoàn kết
của các thế lực thù địch phản động.
Tình hữu nghị, đoàn kết giữa hai Đảng, hai nước Việt-Lào và sự gắn bó thủy
chung, keo sơn giữa dân tộc Việt Nam và nhân dân các bộ tộc Lào được Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cay-xỏn Phom-vi-hản trực tiếp gây dựng, được
các thế hệ lãnh đạo kế tục của hai Đảng, hai nước, cùng nhân dân hai nước quý
trọng, nâng niu và dày công vun đắp. Trải qua nhiều giai đoạn và biến cố của
lịch sử, mối quan hệ Việt-Lào được tôi luyện và hun đúc bằng công sức và
xương máu của biết bao anh hùng liệt sỹ, bằng sự hy sinh phấn đấu của nhiều
thế hệ người Việt Nam và Lào và đã thực sự trở thành mối quan hệ truyền thống,
rất đặc biệt, rất thủy chung và trong sáng. Chủ tịch Cay-xỏn Phom-vi-hản đã
từng nói: “Trong lịch sử cách mạng thế giới đã có nhiều tấm gương sáng chói về
tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ có sự đoàn kết liên
minh chiến đấu đặc biệt lâu dài và toàn diện như vậy”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt Việt Nam –
Lào, Lào – Việt Nam.
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XX, chính Nguyễn Ái Quốc, với lòng yêu nước
nồng nàn và nghị lực phi thường, vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, đã tự mình
khám phá thế giới tư bản chủ nghĩa và các dân tộc thuộc địa, nhằm phát hiện
chân lý cứu nước. Người tiếp nhận và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin
vào điều kiện cụ thể của Đông Dương để xác định con đường giải phóng các dân
tộc Việt Nam, Lào, Campuchia theo con đường cách mạng vô sản.
Trong quá trình tìm đường cứu nước của mình, Nguyễn Ái Quốc rất quan tâm
đến tình hình Lào. Người không chỉ lên án chế độ thực dân Pháp nói chung mà
còn tố cáo cụ thể sự tàn bạo của thực dân Pháp ở Lào.


2


Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XX, chính Nguyễn Ái Quốc, với lòng yêu nước
nồng nàn và nghị lực phi thường, vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, đã tự mình
khám phá thế giới tư bản chủ nghĩa và các dân tộc thuộc địa, nhằm phát hiện
chân lý cứu nước. Người tiếp nhận và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin
vào điều kiện cụ thể của Đông Dương để xác định con đường giải phóng các dân
tộc Việt Nam, Lào, Campuchia theo con đường cách mạng vô sản.
Năm 1925 ngay tại Pháp, Hồ Chí Minh đã viết: “Ở Luang Prabang nhiều phụ nữ
nghèo khổ thân thương phải mang xiềng đi quét đường chỉ vì một tội không đủ
nộp thuế.” Đây là văn bản đầu tiên thể hiện sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với nhân dân Lào. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên- tổ chức tiền
thân của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp sáng lập vào
tháng 6 năm 1925 tại Quảng Châu (Trung Quốc), đến tháng 2 năm 1927, Hội
này gây dựng được cơ sở tại Lào. Thông qua hoạt động của Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên ở Lào, Nguyễn Ái Quốc thấy đây là điều kiện thuận lợi để
người Việt Nam vừa tham gia cuộc vận động cứu nước tại Lào, vừa sát cánh
cùng nhân dân Lào xây dựng mối quan hệ đoàn kết khăng khít giữa Việt Nam –
Lào, Lào – Việt Nam. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã lập Hội Ái hữu,
Hội Việt kiều yêu nước, mở các lớp huấn luyện cách mạng trên đất Lào. Trên
thực tế, từ nửa sau những năm 20 thế kỷ XX, Lào là một đầu cầu trực tiếp truyền
bá chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng cứu nước mới của Nguyễn Ái Quốc vào
Đông Dương. Năm 1928, đích thân Người bí mật tổ chức khảo sát thực địa tại
Lào càng cho thấy mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa cách mạng Việt Nam và
cách mạng Lào. Cũng trong năm này, chi bộ Thanh niên cộng sản đầu tiên được
thành lập tại Viêng Chăn, đồng thời đường dây liên lạc giữa nhiều thị trấn ở Lào
với Việt Nam được tổ chức.
Như vậy, Lào trở thành địa bàn đầu tiên trên hành trình trở về Đông Dương của
Nguyễn Ái Quốc, nơi bổ sung những cơ sở thực tiễn mới cho công tác chính trị,

tư tưởng và tổ chức của Người về phong trào giải phóng dân tộc ở ba nước
Đông Dương. Quá trình Nguyễn Ái quốc đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt
3


Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam báo hiệu bước ngoặt lịch sử trọng đại sắp tới
của cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng Lào.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đồng chí Kaysone PHOMVIHANE, đồng chí
Souphanouvong và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân
hai nước dày công vun đắp mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt
Nam.
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh
mời Hoàng thân Souphanouvong đang ở Vinh ra Hà Nội trao đổi những vấn đề
liên quan đến hai nước và khu vực. Như vậy muốn cứu nước, không có con
đường nào khác là phải làm cách mạng vô sản. Khi đã xác định đường đi cho
dân tộc mình thì đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhận ra rằng trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc mình cần phải có những người bạn đồng minh. Trước
hết đó là hai dân tộc láng giềng Miên và Lào.

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Hoàng thân Souphanouvong

Cuộc gặp gỡ đã có tác động mạnh mẽ, quyết định đối với Hoàng thân trong việc
chọn lựa con đường làm cách mạng và đã đặt những viên gạch đầu tiên xây
dựng mối quan hệ Việt – Lào. Bị thu hút bởi nhân cách lớn, trí tuệ vĩ đại của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hoàng thân Xu Pha Nu Vông đã đi theo cách mạng, là
Hoàng đế duy nhất trên thế giới trở thành Chủ tịch Mặt trận Ít Xa La, rồi chủ
tịch Mặt trận Lào yêu nước cùng vào sinh ra tử, nằm gai nếm mật, lãnh đạo cách
4



mạng Lào đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Hoàng thân cùng một số nhà
lãnh đạo khác của Mặt trận Lào yêu nước vào Viêng Chăn tham gia Chính phủ
Liên hiệp bị Phủi Xa Na Ni Kon do Mỹ giật dây bắt giam. Cũng chính Việt Nam
đã cử đội quân đặc biệt giải cứu, đã thuyết phục được đội quan canh tù theo cách
mạng, vượt tù và theo hướng Đông thẳng tiến. Sau khi cách mạng giành thắng
lợi năm 1975, Hoàng thân là chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
Đồng chí Cay Xỏn Phôm Vi Hản, với bầu nhiệt huyết tuổi trẻ đã sớm giác ngộ
cách mạng, tích cực hoạt động trong phong trào sinh viên yêu nước tại hà Nội và
trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1949, Đồng chí Cay
Xỏn thành lập trung đội “Lạt Xa Vông” tiền thân của Quân giải phóng Lào,
(Quân đội Nhân dân Lào ngày nay). Năm 1951, tại Đại hội II của Đảng Cộng
sản Đông Dương, đồng chí Cay Xỏn là trưởng đoàn của Xứ ủy Lào, đã quyết
định, để mỗi nước có Đảng riêng để lãnh đạo phong trào cách mạng phù hợp với
thực tiễn tình hình của mỗi nước lúc bấy giờ cũng như sau này. Từ Đại hội II,
đồng chí Cay Xỏn cùng các đồng chí khác chuẩn bị, vận động đến năm 1955 đã
thành lập Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, do đồng chí Cay Xỏn làm Tổng bí
thư, năm 1975 thành lập chính phủ đồng chí được bầu làm Thủ tướng.
Chúng ta có thể thấy rằng, giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với Chủ tịch Cay Xỏn,
Chủ tịch Xu Pha Nu Vông và các nhà lãnh đạo khác của Lào, giữa đồng chí Cay
Xỏn với đồng chí Võ Nguyễn Giáp đã có mối quan hệ gắn bó keo sơn trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và đặc biệt là trong xây dựng đất nước theo
con đường Chủ nghĩa Xã hội ngày nay.
30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc của cả hai nước (1945- 1975) là một cuộc
trường chinh đầy khó khăn, gian khổ, song cũng rất đỗi hào hùng xây đắp nên
tình đoàn kết chiến đấu, hữu nghị đặc biệt Việt Nam- Lào.
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giúp bạn là mình tự giúp
mình”, coi nhân dân bạn như nhân dân mình, coi sự nghiệp cách mạng của bạn
là trách nhiệm của mình, trong suốt 30 năm chiến tranh giải phóng, các thế hệ
cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện và đội ngũ chuyên gia Việt Nam làm nhiệm vụ
5



quốc tế ở Lào luôn kề vai sát cánh và cùng với bạn, vừa chiến đấu chống địch
càn quét lấn chiếm, vừa tiến hành xây dựng và củng cố các đoàn thể, chính
quyền kháng chiến, xây dựng và bảo vệ vùng giải phóng, tăng cường lực lượng
vũ trang, phát triển chiến tranh du kích trên khắp các khu vực Thượng, Trung và
Hạ Lào. Đồng thời, thực tiễn chiến đấu, công tác trên các chiến trường Lào cũng
là cơ hội bồi dưỡng, rèn luyện rất bổ ích về các mặt quân sự, chính trị, nhất là
nâng cao thêm tinh thần đoàn kết quốc tế cho cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện
và đội ngũ chuyên gia Việt Nam.
Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam và Lào bước sang trang mới: từ liên minh
chiến đấu chung một chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc
lập chủ quyền. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra như vũ bão,
đẩy nhanh xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Do đó, các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam và Lào đều có cơ
hội và điều kiện thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, sử dụng các thành tựu
khoa học công nghệ của thế giới để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế, xây
dựng đất nước…
Năm 1976, ngay sau thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Lào và
Việt Nam đã đạt được thỏa thuận quan trọng trong vòng hai tháng rút toàn bộ
quân đội và chuyên gia Việt Nam về nước và bắt đầu xúc tiến việc hoạch định
biên giới quốc gia giữa hai nước. Tuy nhiên, lợi dụng cơ hội này, bọn phản động
trong nước Lào, với sự hỗ trợ của các thế lực thù địch quốc tế, đã hoạt động nổi
dậy ở nhiều nơi. Do vận mệnh của hai nước liên đới lẫn nhau nên mối quan tâm
hàng đầu về an ninh chính trị của Lào cũng là mối quan tâm thường trực của
Việt Nam. Ngày 30 tháng 4 năm 1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam ra Nghị quyết Về tăng cường giúp đỡ và hợp tác với cách mạng Lào
trong giai đoạn mới, xác định: việc tăng cường đoàn kết, giúp đỡ, hợp tác đối
với Lào là một trong những nhiệm vụ quốc tế hàng đầu của Đảng và nhân dân
Việt Nam, cũng là vì lợi ích thiết thân của cách mạng Việt Nam.


6


Đặc biệt, từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 7 năm 1977, Đoàn đại biểu cao cấp
Đảng và Chính phủ Việt Nam do Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn
Đồng dẫn đầu sang thăm hữu nghị chính thức Lào. Hai bên đã trao đổi ý kiến về
các vấn đề quốc tế quan trọng mà hai bên cùng quan tâm, cũng như các vấn đề
nhằm phát triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Đảng, Chính phủ và nhân
dân hai nước, trên cơ sở đáp ứng nguyện vọng thiết tha và lợi ích sống còn của
hai dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Ngày 18 tháng 7 năm 1977, hai nước chính thức ký kết các Hiệp ước: Hiệp
ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào; Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào; và ra Tuyên bố chung tăng cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài giữa hai
nước.
Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là Hiệp ước toàn diện, mang tính chiến lược
lâu dài, tạo cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng để củng cố và tăng cường lâu
dài tình đoàn kết, mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam. Hiệp
ước có giá trị trong 25 năm và sẽ được mặc nhiên gia hạn thêm từng 10 năm nếu
một trong hai bên không thông báo cho bên kia muốn hủy bỏ Hiệp ước ít nhất là
một năm trước khi hết hạn. Hiệp ước nêu rõ: Hai bên cam kết ra sức bảo vệ và
phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam, không ngừng
tăng cường tình đoàn kết và tin cậy lẫn nhau, sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn
nhau về mọi mặt trên tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản và theo nguyên
tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau. Đây là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu bước ngoặt mới trong

quan hệ giữa hai nước. Việc ký kết hiệp ước đó còn có ý nghĩa quốc tế quan
trọng, nêu cao tinh thần quốc tế trong sáng giữa hai nước đang cùng hướng tới
mục tiêu chủ nghĩa xã hội và phát huy ảnh hưởng tích cực trong khu vực.
7


Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia là một biểu hiện tốt đẹp của việc giải
quyết vấn đề lợi ích dân tộc trên tinh thần kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng, là mẫu mực về chính
sách láng giềng hữu nghị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
Từ khi hai nước tiến hành đổi mới vào năm 1986, lãnh đạo cấp cao hai
Đảng hai Nhà nước càng tăng cường cũng cố quan hệ hợp tác toàn diện Việt
Nam – Lào, Lào – Việt Nam.
Ngày 3-7-1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ thị: “Trên
cơ sở quán triệt đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, các
Nghị quyết 10 và 11 của Bộ Chính trị về tăng cường đoàn kết, hợp tác toàn diện
với Lào và Campuchia và nội dung thỏa thuận trong các cuộc hội đàm lần này,
các bộ ban ngành và các tỉnh trực tiếp làm nhiệm vụ hợp tác với bạn cần kiểm
điểm, rút kinh nghiệm, kiên quyết xử lý và có biện pháp chấm dứt các hiện
tượng tiêu cực, các quan điểm, nhận thức và hành động sai trái gây phương hại
cho quan hệ đặc biệt giữa ta với Lào”. Về phía Lào, Ban Bí thư Trung ương
Đảng Nhân dân cách mạng Lào cũng khẳng định: “Xuất phát từ truyền thống
lịch sử và tình hình, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng ba nước, sự tăng cường
liên minh hợp tác toàn diện giữa ba Đảng, ba nước Lào – Việt
Nam – Campuchia mới trở thành nhiệm vụ chiến lược số một, là nguyên tắc
cách mạng bất di bất dịch của mỗi nước, là vấn đề sống còn của mỗi nước”. Đặc
biệt, Chỉ thị của Ban Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào ghi rõ: “hai bên nhất
trí phải tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ quan hệ
đoàn kết sống còn và lâu dài, quán triệt quan điểm, phương châm nguyên tắc của

mối quan hệ trong giai đoạn cách mạng mới, uốn nắn tư tưởng và tác phong làm
việc mới, tránh những bảo thủ, chủ quan, chống mọi hiện tượng lơ là mất cảnh
giác, thiếu trách nhiệm, chống tư tưởng dân tộc hẹp hòi”.
Theo tinh thần đó, từ năm 1988, cuộc gặp hàng năm giữa hai Bộ Chính trị đã trở
thành một cơ chế hoạt động chính thức giữa hai Đảng và hai Nhà nước. Trong
8


đó cósự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ
hợp tác toàn diện Việt Nam là chuyến thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào của Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam do Tổng Bí
thư Nguyễn Văn Linh dẫn đầu từ ngày 2 đến ngày 4 -7-1989. Đây là chuyến
thăm Lào chính thức đầu tiên của lãnh đạo cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam từ
sau Đại hội IV Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Hai bên thống nhất với nhau
nhiều vấn đề quan trọng trong việc đổi mới phương thức hợp tác giữa hai nước
và giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực. Thành tựu nổi bật nhất của quan hệ
hợp tác chính trị Việt Nam – Lào trong giai đoạn này là hai nước vẫn kiên định
giữ vững định hướng chính trị theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Tháng 10 năm 1991, đồng chí Kaysone PHOMVIHANE, Tổng Bí thư Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào và Đoàn đại biểu cấp cao Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào thăm chính thức Việt Nam. Hai bên khẳng định quyết tâm trước sau như
một tăng cường, củng cố và nâng cao quan hệ đoàn kết đặc biệt Lào – Việt Nam,
Việt Nam – Lào, đẩy mạnh hợp tác kinh tế, định kỳ trao đổi cấp Thứ trưởng
Ngoại giao giữa hai nước nhằm phối hợp chặt chẽ các hoạt động ngoại giao trên
các diễn đàn quốc tế.
Từ đó đến nay, trung bình mỗi năm, hai Đảng cử trên 30 đoàn từ cấp Trung
ương đến cấp tỉnh sang trao đổi với nhau những kinh nghiệm về giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, về công tác tư tưởng, lý luận, công tác dân vận. Quan
hệ giữa các bộ, ban, ngành, đoàn thể, địa phương, nhất là các tỉnh biên giới kết
nghĩa đều có những trao đổi hợp tác và mối quan hệ đó ngày càng đi vào chiều

sâu với nội dung thiết thực và có hiệu quả. Đặc biệt, hai bên phối hợp nghiên
cứu, biên soạn công trìnhLịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt
Nam từ 1930 – 2007 nhằm tổng kết quá trình liên minh chiến đấu và hợp tác
toàn diện Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam, đúc kết những bài học kinh nghiệm
phục vụ cho việc tiếp tục xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam –
Lào, Lào – Việt Nam lên một tầm cao mới.

9


Tháng 6 năm 2011, Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng đã thăm
hữu nghị chính thức CHDCND Lào, tiếp tục khẳng định mong muốn và quyết
tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong việc gìn giữ, phát huy
quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào như một tài sản chung vô giá của hai dân tộc.
Cũng trong năm 2011, hai bên đã trao đổi nhiều đoàn lãnh đạo Quốc hội và đại
biểu Quốc hội của hai nước, phối hợp tổ chức thành công nhiều hoạt động giao
lưu giữa các cơ quan của hai Quốc hội như: Hội thảo giao lưu giữa Ủy ban Đối
ngoại Quốc hội Việt Nam – Lào tại Hội An (Việt Nam) vào tháng 6/2011; Hội
thảo giữa ba Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam – Lào – Campuchia tại
Chămpaxắc (Lào) vào tháng 7/2011; Hội thảo giao lưu giữa Văn phòng Quốc
hội Việt Nam – Lào tại Savẳnnakhệt (Lào) vào tháng 7/2011; Hội thảo giữa hai
Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của hai Quốc
hội tháng 2/2011 tại Lào, qua đó tăng cường hiểu biết, tin cậy và quan hệ hợp
tác toàn diện giữa hai Quốc hội nói riêng, hai Đảng, Nhà nước và nhân dân hai
nước Việt Nam – Lào nói chung.
Tháng 8/2011,Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Chummaly xaynhasỏn dẫn đầu
Ðoàn đại biểu cấp cao Lào sang thăm Việt Nam tiếp tục góp phần thắt chặt hơn
nữa mối quan hệ truyền thống, hữu nghị vĩ đại, tình đoàn kết đặc biệt và sự hợp
tác toàn diện giữa hai Ðảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Lào – Việt Nam
phát triển lên tầm cao mới, vì lợi ích của nhân dân hai nước Lào – Việt Nam, vì

hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam -Lào, Lào -Việt Nam quý báu và thiêng liêng đã
được Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đúc kết trong 4 câu thơ bất hủ chứa chan
nghiwax tình khi tiễn nhà vua Lào Xa Vàng Vát Tha Na sang thăm Việt Nam:
“Thương nhau mấy núi cũng trèo,
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.
Việt – Lào, hai nước chúng ta,
Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”.
10


Chủ tịch Kayxỏn Phômvihản cũng đã khẳng định: “Trong lịch sử cách mạng thế
giới, đã có nhiều tấm gương chói sáng về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa
ở đâu và chưa bao giờ, có được sự đoàn kết liên minh chiến đấu đặc biệt, lâu
dài và toàn diện như quan hệ Lào – Việt Nam”; “Núi có thể mòn, sông có thể
cạn, song tình nghĩa Lào – Việt Nam mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông”.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang thực hiện các âm mưu “diễn biến hòa bình”
với nhiều thủ đoạn nhằm phá hoại, chia rẽ tình đòan kết hữu nghị đặc biệt ViệtLào và công cuộc xây dựng CNXH ở mỗi nước. Hai Đảng, hai Nhà nước Việt
Nam- Lào tiếp tục khẳng định ý chí, quyết tâm tăng cường quan hệ hữu nghị
hợp tác toàn diện nhằm góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng ở mỗi
nước, giữ gìn và phát triển tình hữu nghị láng giềng gắn bó keo sơn này.

11



×