Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (41.02 KB, 2 trang )
Phân bi ệt t ừ ghép và t ừ láy v ốn r ất ph ứ
c t ạp. B ở
i v ậy Ti ếng Vi ệt có
s ự chuy ển hoá t ừ t ừ ghép sang t ừ láy âm. L ại không ít tr ườ
ng h ợ
p
phân tích r ạch ròi gi ữ
a là ghép hay láy đành x ếp chúng vào đơ
n vị
trung gian. Tuy nhiên c ũng có m ột s ố cách nh ận di ện, phân bi ệt t ừ
láy, t ừ ghép.
Cách 1 : Láy âm là phương thức cấu tạo riêng của từ Tiếng
Việt, Từ Hán Việt nói chung không có dạng láy âm( trừ
trường hợp yếu tố gốc Hán đã được Việt hoá hoàn toàn ) .
Cho nên, nếu biết chắc chắn một từ hai âm tiết là từ Hán Việt
thì xác định nó là từ ghép nghĩa chứ không phải là từ láy âm,
dù bề ngoài có dạng láy âm ngẫu nhiên. Ví dụ: cập kê, lãng
đãng, tư lự, tử tế….. Dĩ nhiên muốn áp dụng cách này cần
không ngừng bổ xung kiến thức về từ ngữ gốc Hán
Cách 2: Ranh giới để phân biệt một từ thuần Việt và một từ
láy đôi thuần Việt là : Ở từ ghép hai âm tiết, cả hai tiếng đều
có nghĩa. Ví dụ: che chắn, trai trẻ, máu mủ…… Còn từ láy đôi
thì chỉ một tiếng gốc là có nghĩa, còn tiếng kia là tiếng láy
lại, không có nghĩa hoặc mất nghĩa, có trường hợp cả hai
tiếng đều vô nghĩa.
Có thể phân biệt bằng cách tách riêng từng tiếng , nếu mỗi
tiếng khi đứng độc lập đều có nghĩa thì đó là từ ghép song
song ( hoặc đẳng lập). Ví dụ : đau đớn, khao khát, lãi lời, đau
đớn, ngây ngất……nếu chỉ một tiếng có nghĩa thì đó là láy
âm. Ví dụ: lạnh lùng, làm lụng, phập phồng, lảm nhảm……chỉ