Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Tập bài giảng học thuyết mác lê nin, tư tưởng hồ chí minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ tổ quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

Phạm Trung Sơn

TẬP BÀI GIẢNG

HỌC THUYẾT MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH, QUÂN
ĐỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
( Lưu hành nội bộ )

HÀ NỘI – NĂM 2017
1


PHẠM TRUNG SƠN

TẬP BÀI GIẢNG

HỌC THUYẾT MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH, QUÂN
ĐỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
( Dùng cho đào tạo giáo viên, giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh )

HÀ NỘI - NĂM 2017
2


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


STT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

1

Bảo vệ Tổ quốc

BVTQ

2

Bạo lực vũ trang

BLVT

3

Chiến Tranh

CT

4

Chiến tranh nhân dân

CTND


5

Giai Cấp

GC

6

Lực lượng sản xuất

LLSX

7

Nghị quyết Đảng ủy quân sự Trung ương

NQĐUQSTƯ

8

Nghị quyết Trung ương

NQTƯ

9

Nhà xuất bản, tái bản

NXB,TB


10

Quân đội nhân dân Việt Nam

QĐNDVN

11

Quốc phòng – an ninh

QP- AN

12

Tư Hữu

TH

3


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ...................................................................................................................... 8
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HỌC THUYẾT MÁC- LÊ NIN, TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH, QUÂN ĐỘI VÀ NHIỆM VỤ BẢO VỆ
TỔ QUỐC............................................................................................................................. 9
1.1. ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN HỌC THUYẾT
MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH, QUÂN ĐỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC 9
1.1.1. Đối tượng nghiên cứu của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc ....................................................................... 9

1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc ..................................................................... 10
1.1.3. Phương pháp nghiên cứu học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc ..................................................................... 12
1.2. NHỮNG TƯ TƯỞNG TRƯỚC MÁC VÀ BƯỚC NGOẶT CÁCH MẠNG TRONG TRIẾT HỌC - XÃ
HỘI HỌC VỀ CHIẾN TRANH, QUÂN ĐỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC DO MÁC - ĂNGGHEN THỰC
HIỆN; LÊNIN BẢO VỆ, PHÁT TRIỂN ....................................................................................... 12
1.2.1. Những tư tưởng về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc trước C. Mác ..... 12
1.2.2. Bước ngoặt cách mạng trong triết học - xã hội học về chiến tranh, quân đội do
C. Mác và Ph. Ăngghen thực hiện ............................................................................... 13
1.2.3. V.I. Lênin bảo vệ và phát triển học thuyết của C. Mác và Ph. Ăngghen về chiến
tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc ............................................................................... 14
1.3. HỒ CHÍ MINH VẬN DỤNG SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ CHIẾN TRANH, QUÂN
ĐỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VÀO ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM .......................................................... 16
1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh .............................................................. 17
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội .................................................................. 18
1.3.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ............................ 18
CÂU HỎI ÔN TẬP ............................................................................................................. 19
CHƯƠNG 2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN VỀ CHIẾN TRANH 20
2.1. NGUỒN GỐC, NGUYÊN NHÂN VÀ BẢN CHẤT CỦA CHIẾN TRANH ................................... 20
2.1.1. Nguồn gốc và nguyên nhân của chiến tranh ...................................................... 20
2.1.2. Bản chất của chiến tranh, quan hệ giữa chiến tranh và chính trị ....................... 24
2.2. TÍNH CHẤT XÃ HỘI CỦA CHIẾN TRANH VÀ CÁC KIỂU CHIẾN TRANH TRONG THỜI ĐẠI
HIỆN NAY ............................................................................................................................. 29
2.2.1. Tính chất xã hội của chiến tranh ........................................................................ 29
2.2.2. Các kiểu chiến tranh trong thời đại ngày nay .................................................... 34
2.3. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VỀ CÁC QUY LUẬT QUYẾT
ĐỊNH ĐẾN TIẾN TRÌNH VÀ KẾT CỤC CỦA CHIẾN TRANH ................................... 39
2.3.1. KHÁI NIỆM QUY LUẬT CHIẾN TRANH ......................................................................... 39
2.3.2. HỆ THỐNG QUY LUẬT QUY ĐỊNH TIẾN TRÌNH VÀ KẾT CỤC CỦA CHIẾN TRANH ......... 42

4


2.3.2.1. Tiến trình và kết cục của chiến tranh phụ thuộc vào mục đích chính trị của
các bên tham chiến ....................................................................................................... 42
2.3.2.2. Tiến trình và kết cục của chiến tranh phụ thuộc vào so sánh lực lượng kinh tế
của các bên tham chiến ................................................................................................ 42
2.3.2.3. Tiến trình và kết cục của chiến tranh phụ thuộc vào so sánh lực lượng xã hội
của các bên tham chiến ................................................................................................ 43
2.3.2.4. Tiến trình và kết cục của chiến tranh phụ thuộc vào so sánh lực lượng tinh
thần của các bên tham chiến ........................................................................................ 44
2.3.2.5. Tiến trình và kết cục của chiến tranh phụ thuộc vào so sánh lực lượng khoa
học của các bên tham chiến ......................................................................................... 45
2.3.2.6. Tiến trình và kết cục của chiến tranh phụ thuộc vào so sánh lực lượng quân
sự giữa các bên tham chiến .......................................................................................... 45
2.4. SỰ NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG QUY LUẬT CHIẾN TRANH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM .................................................................................................................................... 46
2.4.1. Phát huy ưu thế chính trị tinh thần, tính chất chính nghĩa, tiến bộ, cách mạng
trong tiến hành chỉến tranh .......................................................................................... 46
2.4.2. Phát huy ưu thế về khả năng lãnh đạo, tổ chức của hệ thống chính trị và sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong chiến tranh ........................................ 47
2.4.3. Tích cực, chủ động chuyển hoá lực lượng, tạo ưu thế tổng hợp chiến thắng kẻ
thù trong chiến tranh .................................................................................................... 49
CÂU HỎI ÔN TẬP ............................................................................................................. 50
CHƯƠNG 3. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG VÀ
XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN ............................................................ 51
3.1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG ............................................. 51
3.1.1. Mục đích chiến tranh cách mạng ....................................................................... 51
3.1.2. Chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện ......................................................... 51
3.1.3. Thực hiện phương châm chiến lược đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính,

kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh ngoài nước ............................................. 53
3.1.4. Xây dựng hậu phương chiến tranh vững mạnh, vừa kháng chiến vừa kiến quốc
..................................................................................................................................... 54
3.1.5. Đường lối đúng và sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng ta là nhân tố chủ yếu quyết
định thắng lợi trong chiến tranh ................................................................................... 55
3.2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN ....................... 55
3.2.1. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh để bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ
tất yếu ........................................................................................................................... 56
3.2.2. Nội dung cơ bản về xây dựng nền quốc phòng toàn dân ................................... 57
3.2.3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân hiện
nay ................................................................................................................................ 59
CÂU HỎI ÔN TẬP ............................................................................................................. 61
CHƯƠNG 4. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỂ QUÂN ĐỘI ........ 62
5


4.1. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG CỦA QUÂN ĐỘI.................................................. 62
4.1.1. Nguồn gốc của quân đội .................................................................................... 62
4.1.2. Bản chất của quân đội ........................................................................................ 63
4.1.3. Chức năng của quân đội..................................................................................... 65
4.2. SỨC MẠNH CHIẾN ĐẤU CỦA QUÂN ĐỘI ......................................................................... 68
4.2.1. Quan niệm về sức mạnh chiến đấu của quân đội .............................................. 68
CÂU HỎI ÔN TẬP ............................................................................................................. 75
CHƯƠNG 5: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỂ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ
TRANG NHÂN DÂN VÀ XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM ........... 76
5.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG
VŨ TRANG NHÂN DÂN.......................................................................................................... 76
5.1.1. Sự cần thiết phải tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc ............................................. 76
5.1.2. Xây dựng lực lượng chính trị, các tổ chức và đoàn thể cách mạng - cơ sở để

xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ........................................................................ 77
5.1.3. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, lấy xây dựng về
chính trị làm cơ sở ....................................................................................................... 78
5.1.4. Xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc
..................................................................................................................................... 79
5.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM ......................................................................................................... 81
5.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Quân đội nhân dân Việt Nam ................................. 81
5.2.2. Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện trong đó lấy xây
dựng về chính trị làm cơ sở ......................................................................................... 84
5.2.3. Quân đội nhân dân Việt Nam phải tiến lên chính quy, từng bước hiện đại ...... 85
CÂU HỎI ÔN TẬP ............................................................................................................. 86
CHƯƠNG 6. QUAN ĐIẾM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA .................................................. 87
6.1. KHÁI NIỆM TỔ QUỐC, TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA..................................................... 87
6.1.1. Phạm trù Tổ quốc............................................................................................... 87
6.1.2. Khái niệm Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ................................................................. 87
6.2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA . 88
6.2.1. Quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa . 88
6.2.2. Quan điểm của V.I. Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ....................... 88
6.3. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA............................. 90
6.4. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ LÝ
LUẬN BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ........................................................................ 92
6.4.1.Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa 92

6


6.4.2. Một số định hướng cơ bản thực hiện thắng lợi sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay ................................................................................... 93

CÂU HỎI ÔN TẬP ............................................................................................................. 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................. 97

7


LỜI NÓI ĐẦU
Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ
Tổ quốc là cơ sở lý luận, phương pháp luận của Đảng ta trong các hoạt động đấu tranh vũ
trang bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Tập bài giảng nhằm đáp ứng
yêu cầu nâng cao chất lượng dạy và học môn Học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh và
quân đội đối với sinh viên chuyên ngành ở Trung tâm giáo dục quốc phòng & an ninh
trường Đại học sư phạm Hà Nội 2. Có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm trang bị cho sinh
viên thế giới quan, phương pháp luận để xem xét, luận giải những vấn đề cơ bản về chiến
tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc theo quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Từ đó giúp cho sinh viên có nhận thức đúng đắn, có vũ khí lý luận sắc bén để
đấu tranh trên mặt trận tư tưởng lý luận, góp phần bảo vệ học thuyết Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, bảo vệ đường lối lãnh đạo của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Đồng thời tập bài giảng còn làm tài liệu tham khảo cho các đối tượng khác.
Tập bài giảng "Học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội và bảo vệ Tổ
quốc" là một công trình khoa học biên soạn trên cơ sở Giáo trình Học thuyết Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ chí Minh về chiến tranh, quân đội, và bảo vệ Tổ quốc, Nxb Giáo dục Việt
Nam,H, 2015.
Nội dung tập bài giảng gồm 6 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung của Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về chiến tranh và quân đội và bảo vệ Tổ quốc
Chương 2: Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh
Chương 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh cách mạng và xây dựng nền Quốc
phòng toàn dân
Chương 4: Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về quân đội

Chương 5: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và xây
dựng Quân đội nhân dân Việt nam
Chương 6: Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Trong quá trình nghiên cứu biên soạn, tác giả đã có nhiều cố gắng, song không tránh
khỏi những hạn chế. Rất mong nhận được sự đóng góp của Hội đồng khoa học Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2, các thầy cô giáo để tập bài giảng hoàn thiện hơn.

8


Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HỌC THUYẾT MÁC- LÊ NIN,
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH, QUÂN ĐỘI VÀ NHIỆM VỤ
BẢO VỆ TỔ QUỐC
1.1. Đối tượng, chức năng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu môn Học
thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ
quốc
1.1.1. Đối tượng nghiên cứu của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc
Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ
Tổ quốc là hệ thống quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về những vấn đề cơ bản, chung nhất của chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc và thực
tiễn quân sự dưới góc độ triết học.
Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ
Tổ quốc nghiên cứu hiện tượng đặc thù này với tính cách là một hiện tượng chính trị - xã
hội có tính lịch sử; là kết quả của quá trình nghiên cứu, phát triển lý luận và được thực
tiễn kiểm nghiệm trong lịch sử. Học thuyết do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập, V.I.
Lênin là người bảo vệ, phát triển trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử mới và Hồ Chí Minh
là người vận dụng vào thực tiễn quân sự Việt Nam.
Học thuyết được vận dụng triệt để hệ thống nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật biện

chứng để đánh giá có phê phán những thành tựu của toàn bộ tư tưởng quân sự trước đó.
Những vấn đề cơ bản mà học thuyết đặt ra là cơ sở lý luận, phương pháp luận để làm rõ
những vấn đề thực tiễn hoạt động đấu tranh vũ trang trong thế giới đương đại.
Tập bài giảng đề cập tới những nội dung cơ bản của học thuyết Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc, là sự vận dụng những
nguyên tắc, phương pháp luận của học thuyết vào nghiên cứu, xem xét hiện tượng chiến
tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong lịch sử và hiện nay. Vì vậy, Khi
nghiên cứu học thuyết Mác- Lênin về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc phải khẳng
định các nguyên tắc nền tảng và giá trị thời đại của học thuyết, tiếp tục tổng kết, bổ sung,
khái quát, phát triển, làm cho học thuyết phản ánh đúng thực tiễn hiện nay và mang sức
sống mới.
Hiện tượng chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc là khách thể nghiên cứu của
nhiều môn khoa học, nhưng mỗi khoa học cụ thể có đối tượng nghiên cứu riêng. Đối
tượng nghiên cứu của học thuyết Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân
đội và bảo vệ Tổ quốc nghiên cứu dưới góc độ triết học vạch ra những quy luật chung
nhất về quá trình nảy sinh, vận động, phát triển, mất đi của hiện tượng chiến tranh, quân
đội và bảo vệ Tổ quốc. Có thể phân chia đối tượng nghiên cứu của học thuyết thành các
nhóm cơ bản sau:
Nhóm thứ nhất, nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của học thuyết.
Nhóm thứ hai, nghiên cứu những quy luật chung nhất của hiện tượng chiến tranh,
tập trung làm rõ nguồn gốc, bản chất, tính chất và các quy luật của chiến tranh; các kiểu,
loại chiến tranh trong lịch sử và hiện nay.
Nhóm thứ ba, nghiên cứu nguồn gốc, bản chất, chức năng của quân đội, sức mạnh
chiến đấu của quân đội, các kiểu quân đội và sức mạnh quân sự quốc gia trong lịch sử và
9


trong thời đại ngày nay.
Nhóm thứ tư, nghiên cứu bản chất, quy luật vũ trang bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa của giai cấp vô sản trong lịch sử và hiện nay.

1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc
1.1.2.1. Chức năng của học thuyết
Là một bộ phận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết Mác- Lênin về chiến
tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc gắn chặt với học thuyết quân sự và khoa học quân sự.
Nó là khâu trung gian giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử với lý luận
quân sự vô sản. Là lý luận triết học - xã hội học về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ
quốc. Do đó, nó thực hiện nhiều chức năng khác nhau như: chức năng nhận thức, chức
năng giáo dục, chức năng dự báo, chức năng phê phán, chức năng thế giới quan và
phương pháp luận. Trong đó, chức năng thế giới quan và phương pháp luận là quan trọng
nhất.
Những khái niệm của học thuyết Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh,
quân đội và bảo vệ Tổ quốc là cơ sở lý luận chung của học thuyết quân sự và khoa khoa
học quân sự vô sản, là toàn bộ những tri thức về ngành quân sự. Khoa học quân sự và học
thuyết quân sự vô sản có thể giải quyết có kết quả những nhiệm vụ của mình, dựa trên sự
hiểu biết đúng đắn về chiến tranh, quân đội và bảo vệ tổ quốc. Những luận điểm cơ bản
của học thuyết giúp chúng ta nghiên cứu vấn đề về mối quan hệ qua lại của các lý luận
quân sự, giải quyết các vấn đề của nghệ thuật quân sự vô sản.
Trước hết, các nhà kinh điển đã đứng trên lập trường chính trị của giai cấp vô sản
với thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng để nghiên cứu hiện tượng chiến
tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; kiên quyết bác bỏ các quan điểm duy
tâm, siêu hình về nguồn gốc, bản chất của chiến tranh, quân đội; làm rõ tính chất phản
động, phản khoa học của lý luận quân sự tư sản.
Tư tưởng của các nhà kinh điển về nguồn gốc, bản chất của chiến tranh, quân đội và
bảo vệ Tổ quốc là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận để đánh giá, phân biệt đúng đắn
các kiểu, loại chiến tranh, trên cơ sở đó nhận thức và có biện pháp khoa học loại trừ chiến
tranh ra khỏi đời sống xã hội.
Những tư tưởng về quân đội trong học thuyết giúp chúng ta nhận thức đúng đặc thù
của tổ chức quân sự với tư cách một hiện tượng xã hội lịch sử, gắn với sự xuất hiện của
giai cấp và nhà nước. Quân đội là công cụ của một giai cấp, một nhà nước, là bộ phận đặc

biệt của kiến trúc thượng tầng. Vì vậy, việc tăng cường bản chất giai cấp của quân đội là
tất yếu với bất cứ quân đội nào.
Từ khi nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên xuất hiện, lý luận Mác về chiến tranh,
quân đội được phát triển lên một bước mới. V.I. Lênin đã đề cập một cách cơ bản, toàn
diện về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản và lý luận về vũ trang bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa, phát triển học thuyết cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới.
Những nội dung cơ bản của học thuyết có ý nghĩa quan trọng đối với quân đội trong
hoạt động thực tiễn chuẩn bị đối phó với các cuộc chiến tranh có thể xảy ra. Trên cơ sở
quan niệm khoa học về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc để hoàn thiện các nguyên
tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, duy trì sức mạnh chiến đấu và sẵn sàng chiến
10


đấu của các lực lượng vũ trang cách mạng.
Học thuyết nghiên cứu những điều kiện khách quan và chủ quan trong chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc đối với các nước xã hội chủ nghĩa nếu xảy ra. Từ đó, tính đến việc nâng
cao khả năng quốc phòng của đất nước, nâng cao sức mạnh qụân sự quốc gia.
Học thuyết còn trang bị cho nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, các nước đang đấu
tranh giải phóng dân tộc quan niệm đúng đắn về con đường tăng cường khả năng quốc
phòng, nâng cao sức mạnh quân sự quốc gia, đem lại niềm lạc quan tin tưởng về tính ưu
việt và sức mạnh vô địch của tổ chức quân sự xã hội chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, tiếp thu, vận dụng trung thành và sáng tạo các
nguyên tắc thế giới quan, phương pháp luận của học thuyết vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam. Nhờ đó, Đảng và nhân dân ta đã nhận thức và có thái độ đúng đắn với từng cuộc,
kiểu loại chiến tranh; vận dụng học thuyết vào xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam
ngày càng lớn mạnh theo nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới và thực hiện thắng lợi
sự nghiệp vũ trang bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Vai trò của học thuyết Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội
và bảo vệ Tổ quốc là khâu quan trọng của cơ sở phương pháp luận của lý luận quân sự vô
sản, giúp chúng ta hiểu rõ hơn những sai lệch của cơ sở phương pháp luận của khoa học

quân sự tư sản, là vũ khí sắc bén để chống lại khoa học quân sự tư sản. Có ý nghĩa to lớn
trong quá trình giảng dạy, giúp người học có thái độ đúng đắn khoa học trong xem xét các
cuộc chiến tranh và các kiểu quân đội cụ thể trong lịch sử. Trên cơ sở nhận thức quy luật
hình thành, phát triển của chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc để dự báo chiều hướng
vận động của các hiện tượng đó. Còn chủ nghĩa đế quốc thì còn nguy cơ chiến tranh xâm
lược. Vì vậy, việc chuẩn bị mọi mặt cho quân đội và nhân dân để chống lại sự xâm lược
là một tất yếu.
1.1.2.2. Nhiệm vụ của học thuyết
Thứ nhất, Học thuyết Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và
bảo vệ Tổ quốc nghiên cứu chiến tranh và quân đội như một hiện tượng chính trị - xã hội có
tính lịch sử, một loại hình đặc thù của hoạt động xã hội có nhiệm vụ làm rõ nguồn gốc, bản
chất, tính chất, các loại, kiểu chiến tranh, quy luật chiến tranh, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa, đặc biệt làm rõ mối quan hệ giữa chiến tranh và chính trị, chiến tranh vả
cách mạng, chiến tranh và hoà bình.
Thứ hai, tập trung phân tích làm rõ nguồn gốc, bản chất, chức năng, các kiểu quân
đội, sức mạnh chiến đấu của quân đội nói chung, sức mạnh chiến đấu của quân đội xã hội
chủ nghĩa nói riêng, các kiểu quân đội trong lịch sử và trong thời đại hiện nay.
Thứ ba, đấu tranh phê phán các quan điểm lý luận sai trái phản động, phản khoa học
về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử, đặc biệt của giai cấp tư sản; có
thái độ đúng đắn với các kiểu, loại và từng cuộc chiến tranh, từng bên tham chiến.
Thứ tư, làm rõ những vấn đề có tính quy luật của vũ trang bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa; góp phần nâng cao nhận thức và tổ chức thực hiện thắng lợi sự nghiệp quốc phòng
toàn dân, đánh bại âm mưu "diễn biến hoà bình" kết hợp bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế
quốc, bảo vệ vững chắc Tồ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

11


1.1.3. Phương pháp nghiên cứu học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc

Trước hết, nghiên cứu học thuyết Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh,
quân đội và bảo vệ Tổ quốc phải dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bởi vì, đây là phương pháp nghiên cứu chung nhất
cho mọi khoa học, mà bản thân học thuyết là môn khoa học thuộc ngành triết học.
Thứ hai, phải xuất phát từ bản chất và quy luật của đối tượng nghiên cứu để lựa
chọn những phương pháp nghiên cứu cho hiệu quả.
Thứ ba, phải căn cứ vào góc độ nghiên cứu là triết học để lựa chọn, tìm kiếm
phương pháp tiếp cận cho phù hợp từng nội dung.
Do vậy, để nghiên cứu học thuyết Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến
tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc cần sử dụng đồng bộ, nhất quán các phương pháp.
Quá trình nghiên cứu học thuyết Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh,
quân đội và bảo vệ Tổ quốc phải luôn bám sát sự vận động, phát triến của lý luận và thực
tiễn quân sự, sự phát triển của vũ khí trang bị, diễn biến của đấu tranh vũ trang, của chiến
tranh. Đặc biệt là sự phát triển của khoa học chuyên ngành quân sự, sự vận động và phát
triển của tình hình quân sự trên thế giới, trong khu vực. Trên cơ sở đó, thường xuyên tổng
kết, bổ sung, phát triển, khái quát một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh vào điều kiện hoàn cảnh mới ở nước ta hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu của học thuyết Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc được thể hiện trong tập bài giảng là sự phân tích
cơ sở phương pháp luận của các nội dung trong học thuyết, nhưng ở từng nội dung cụ thể
còn vận dụng các phương pháp tiếp cận cụ thể khác nhau.
1.2. Những tư tưởng trước Mác và bước ngoặt cách mạng trong triết học - xã
hội học về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc do Mác - Ăngghen thực hiện;
Lênin bảo vệ, phát triển
1.2.1. Những tư tưởng về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc trước C. Mác
Từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, con người đã cố gắng tìm hiểu, đánh giá hiện tượng
chiến tranh, quân đội và vai trò của nó trong đời sống xã hội. Song, họ chưa đủ khả năng
chỉ ra nguồn gốc, bản chất của hiện tượng phức tạp này.
Đến thời kỳ phong kiến, trong điều kiện thế giới quan tôn giáo ngự trị, các cuộc thập
tự chinh giữa các quốc gia trở nên thường xuyên hơn, hiện tượng chiến tranh và quân đội

đã bộc lộ khá rõ các thuộc tính cơ bản của nó; nhưng lý luận về chiến tranh và quân đội
thời kỳ này cũng chỉ là nô lệ cho tôn giáo, thần học.
Các nhà tư tưởng lý luận, mặc dù đã có những dự đoán quan trọng về thực chất, vai
trò lịch sử của hiện tượng chiến tranh, quân đội, nhưng do đứng trên lập trường duy tâm
về lịch sử nên họ giải thích hiện tượng chiến tranh và quân đội một cách siêu hình, phiến
diện.
Thời kỳ tư bản chủ nghĩa, những quan điểm, lý luận về chiến tranh và quân đội bắt
đầu được phân tích có hệ thống và hình thành những xu hướng nhất định. Tư tưởng duy
vật trong giai đoạn này giữ vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị tư tưởng cho các cuộc
cách mạng tư sản ở châu Âu, nên đã hướng vào chống lại các quan điểm duy tâm, tôn
giáo, xác lập thế giới quan duy vật để xem xét và giải quyết các vấn đề chiến tranh và
12


quân đội.
Rôxtécđam, người Hà Lan, thời kỳ Phục hưng, trong tác phẩm Lời thỉnh cầu hoà
bình (1517), đã lên án chiến tranh, khẳng định hoà bình sẽ đem lại hạnh phúc cho mọi
người và phồn vinh cho xã hội, chiến tranh là điều ác và là nguyên nhân của sự huỷ hoại
và tai họa.
Phrancơ, nhà triết học kiêm sử học người Đức, trong tác phẩm Nhật ký chiến đấu vì
hoà bình (1539), mặc dù không phản đối những cuộc chiến tranh tự vệ chống xâm lược,
nhưng ông phản đối những cuộc chiến tranh do nhà cầm quyền gây ra vì mục đích xâm
lược và cướp bóc.
Tômát Hốpxơ, nhà triết học duy vật Anh, đã đưa ra thuyết "công ước xã hội" và coi
đây là những quy định buộc các nhà nước phải thiết lập trật tự hoà bình chung và là điều
kiện tiên quyết để hạn chế chiến tranh.
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, triết học cổ điển Đức đạt được những thành tựu
vĩ đại. Các đại biểu của nền triết học trong giai đoạn này như: I. Cantơ, G. Hêghen đã có
những đóng góp quan trọng trong việc xem xét, đánh giá hiện tượng chiến tranh và quân
đội.

Claudơvít (1780 - 1831), nhà lý luận quân sự của nước Phổ đã vận dụng thành công
quan điểm biện chứng vào lĩnh vực này. Theo ông, trong hoạt động quân sự, không có gì
là bất biến, phương thức hoạt động quân sự phải thường xuyên tính đến sự thay đổi. Ông
nghiên cứu chiến tranh trong mối liên hệ và sự tác động qua lại giữa các yếu tố của nó,
khẳng định bản chất của chiến tranh là sự kế tục chính trị bằng thủ đoạn bạo lực. Tuy
nhiên, do chịu ảnh hưởng của phép biện chứng duy tâm và lợi ích giai cấp tư sản chi phối
nên Claudơvít đã xem xét chính trị một cách chung chung, trừu tượng, phi giai cấp, phi
lịch sử, tuyệt đối hoá yếu tố tinh thần và tính ngẫu nhiên trong hoạt động quân sự.
Như vậy, những quan điểm trước C. Mác và Ph. Ăngghen về chiến tranh và quân
đội đều xuất phát từ quan niệm trừu tượng, phi lịch sử, phi giai cấp. Trong đó, vấn đề
nguồn gốc, bản chất và vai trò của chiến tranh, quân đội trong đời sống xã hội chưa được
nhận thức, đánh giá đúng. Do đó, những biện pháp mà họ đề xuất loại bỏ chiến tranh ra
khỏi đời sống xã hội là không tưởng.
1.2.2. Bước ngoặt cách mạng trong triết học - xã hội học về chiến tranh, quân đội
do C. Mác và Ph. Ăngghen thực hiện
C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa có chọn lọc những tư tưởng của nhân loại về
chiến tranh và quân đội. Việc đánh giá có phê phán những thành tựu của toàn bộ tư tưởng
lý luận quân sự trước đó trên lập trường có tính nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã cho phép C. Mác và Ph. Ăngghen tạo ra một cuộc cách mạng thực sự trong các
quan điểm, tư tưởng về chiến tranh và quân đội.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã mang đến cho lý luận về bạo lực một tinh thần mới, thực
sự khoa học. Trong khi phê phán những người theo thuyết "bạo lực" tư sản đã tuyệt đối
hoá bạo lực, coi chiến tranh là động lực chủ yếu quyết định toàn bộ quá trình lịch sử, C.
Mác và Ph. Ăngghen luôn khẳng định, bạo lực không bao giờ là mục đích mà chỉ là thủ
đoạn để đạt mục đích chính trị. Bạo lực và chiến tranh không thể quyết định sự phát triển
của xã hội. Sự vận động, phát triển của xã hội là do các quy luật khách quan của xã hội
chi phối.
13



Từ những quan niệm khoa học về bạo lực và bằng phương pháp luận biện chứng
duy vật, C. Mác và Ph. Ăngghen đã tiếp cận hiện tượng chiến tranh và quân đội dưới góc
độ triết học - xã hội học để tìm ra nguồn gốc, bản chất thực sự của nó.
Theo đó, chiến tranh là một hiện tượng chính trị - xã hội có tính lịch sử, sự ra đời,
tồn tại, vận động, phát triển của chiến tranh gắn với sự ra đời của chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất và đối kháng giai cấp. Chiến tranh không phải là một tất yếu, mang tính định
mệnh. Do đó, có thể loại bỏ chiến tranh ra khỏi đời sống xã hội.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã làm rõ mối quan hệ giữa chiến tranh và chính trị, xem
chiến tranh chỉ là sự tiếp tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực. C. Mác và Ph. Ăngghen
khẳng định tính chất xã hội của chiến tranh không phải bất biến, nó cũng có thể chuyển
hoá; tính chất xã hội của chiến tranh phụ thuộc vào chế độ chính trị - xã hội, vào mục đích
chính trị mà cuộc chiến tranh đó đang kế tục.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã luận chứng có cơ sở khoa học về nguồn gốc, bản chất và
vai trò của quân đội trong xã hội. Đồng thời, khẳng định sức mạnh chiến đấu của quân đội
là sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt nhấn mạnh yếu tố con người
luôn giữ vai trò quyết định, vũ khí trang bị kỹ thuật là quan trọng, không thể thiếu được.
Những phát hiện của C. Mác vả Ph. Ăngghen về lý luận chiến tranh và quân đội thật
sự là một bước ngoặt mang tính cách mạng. Đó là quá trình đấu tranh phê phán các quan
điểm duy tâm, tôn giáo; kế thừa có chọn lọc những tư tưởng tinh hoa của nhân loại, là sự
nắm bắt và khái quát những vấn đề thực tiễn của chiến tranh và quân đội. C. Mác và Ph.
Ăngghen đã khắc phục những mặt hạn chế của các quan điểm duy vật siêu hình, đấu tranh
kiên quyết với các quan điểm tư sản phản động, phản khoa học để sáng tạo ra những tư
tưởng, quan điểm về chiến tranh và quân đội thật sự khoa học, làm cơ sở lý luận giúp giai
cấp vô sản, các Đảng Cộng sản xem xét và có thái độ đúng đắn đối với mỗi cuộc chiến
tranh, từ đó định ra đường lối chiến lược, sách lược xây dựng quân đội, sẵn sàng đánh trả
các cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động.
1.2.3. V.I. Lênin bảo vệ và phát triển học thuyết của C. Mác và Ph. Ăngghen về
chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh
chuyển sang giai đoạn tư bản độc quyền (đế quốc chủ nghĩa). Sự xuất hiện chủ nghĩa đế

quốc là nguyên nhân của nhiều cuộc chiến tranh xâm lược giữa các nước tư bản nhằm
thôn tính lẫn nhau, mở rộng thuộc địa và thị trường.
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành công, nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu
tiên ra đời. Theo đó, lần đầu tiên trong lịch sử, vấn đề xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa được đặt ra một cách trực tiếp.
V.I. Lênin - nhà lý luận thiên tài của giai cấp vô sản và toàn thể nhân dân lao động
trên thế giới, với những phẩm chất tư duy thiên bẩm và lòng nhiệt thành cách mạng của
mình, đã bảo vệ, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác nói chung, những tư tưởng về chiến
tranh, quân đội của C. Mác, Ph. Ăngghen nói riêng trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa.
Nước Nga sau năm 1917 là giai đoạn đầy khó khăn, chủ nghĩa đế quốc luôn tìm mọi
cách thủ tiêu nhà nước Xô viết non trẻ. V.I. Lênin vừa lãnh đạo, tổ chức xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vừa khái quát tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận. Những
quan điểm về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về chuyên chính vô sản, về củng cố quốc
14


phòng, kết hợp kinh tế với quốc phòng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là
những luận điếm về chiến tranh và quân đội của C. Mác và Ph. Ăngghen được V.I. Lênin
luận bàn một cách toàn diện và sâu sắc, đồng thời, vận dụng, phát triển cho phù hợp với
điều kiện lịch sử mới.
Vấn đề bạo lực và bạo lực cách mạng luôn được V.I. Lênin quan tâm và coi đó là cơ
sở lý luận để tiếp tục phát triển tư tưởng về chiến tranh và quân đội; kiên quyết đấu tranh
với những quan điểm sai trái, xuyên tạc tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về bạo lực
cách mạng.
Theo V.I. Lênin, bạo lực cách mạng có vai trò rất quan trọng, là điều kiện cần thiết
cho các cuộc cách mạng xã hội, là công cụ, phương tiện đế giai cấp cách mạng sử dụng
lật đổ chính quyền của giai cấp thống trị phản động: "Nhà nước tư sản bị thay thế bởi nhà
nước vô sản (chuyên chính vô sản) không thể bằng con đường "tiêu vong" được, mà chỉ
có thể theo quy luật chung bằng một cuộc cách mạng bạo lực thôi"(V.I.Lênin, Toàn tập,
tập 33,Nxb TB, M.1978, tr27). Vì vậy, sử dụng bạo lực cách mạng để đập tan bạo lực

phản cách mạng là quy luật tất yếu.
Trên cơ sở những quan điểm cơ bản của C. Mác, Ph. Ăngghen và từ tổng kết các
cuộc chiến tranh trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, V.I. Lênin đã chỉ rõ nguồn gốc, bản
chất, tính chất xã hội của chiến tranh, vạch rõ những quy luật khách quan của tiến trình và
kết cục của chiến tranh. Người chỉ rõ: "Chiến tranh là tiếp tục của chính trị. Phải nghiên
cứu chính trị được tiến hành trước chiến tranh, chính trị đang dẫn đến và đã dẫn đến chiến
tranh" (V.I.Lênin, Toàn tập, tập 30, Nxb Tb, M.1984, tr106).
V.I. Lênin đấu tranh, phê phán quan điểm của các lãnh tụ Quốc tế II khi họ tách rời
quan hệ giữa kinh tế với chính trị trong từng nước hoặc liên minh giữa các nước tiến hành
chiến tranh. Khi đánh giá bản chất của Chiến tranh thế giới thứ nhất, Người chỉ rõ:
"Chính đường lối chính trị của toàn bộ hệ thống các quốc gia ở châu Âu, trong những mối
quan hệ kinh tế và chính trị của các quốc gia đó, mới là cái cần xem xét để hiểu được rằng
điều tất nhiên, không thể tránh được là hệ thống ấy đã gây ra cuộc chiến tranh hiện nay"
(V.I.Lênin, Toàn tập, tập 32, Nxb TB, M.1981, tr102).
V.I. Lênin đã đánh giá đúng đắn công lao và sự cống hiến của C. Ph. Claudơvít, coi
ông là một trong những tác giả vĩ đại nhất về lịch, sử chiến tranh, nhất là "công thức" của
ông về bản chất của chiến tranh. Tuy nhiên, khác về nguyên tắc với quan điểm của C. Ph.
Claudơvít, V.I. Lênin luôn khẳng định sự lệ thuộc rõ ràng của chiến tranh vào mục đích
chính trị. Người viết: "Chiến tranh chẳng qua chỉ là chính trị.từ đầu đến cuối, chỉ là sự
tiếp tục thực hiện những mục đích chính trị của các giai cấp với những phương pháp khác
mà thôi" (V.I.Lênin, Toàn tập, tập 32, NXB TB, M.1981, tr. 32,356). Luận điểm này của
V.I. Lênin là sự đóng góp to lớn cho lý luận về bản chất chiến tranh.
V.I. Lênin cũng là người đầu tiên chỉ ra lý luận, tiêu chí phân chia kiểu, loại chiến
tranh. Theo đó, để phân chia các kiểu, loại chiến tranh một cách đúng đắn, khoa học phải
đứng trên lập trường của giai cấp vô sản, phải dựa vào nội dung chính trị của mỗi cuộc
chiến tranh, gắn với điều kiện lịch sử cụ thể của thời đại. V.I. Lênin cho rằng: "Không thể
hiểu nổi cuộc chiến tranh hiện nay nếu không hiểu được thời đại" (V.I.Lênin, Toàn tập,
tập 49, NXB TB, M.1978,tr. 388).
V.I. Lênin đã chỉ ra khái niệm chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa để
phân loại tính chất xã hội của các cuộc chiến tranh. Người khẳng định: "Trong lịch sử đã

15


từng có những cuộc chiến tranh tiến bộ - mặc dù những cuộc chiến tranh này cũng như
bất cứ cuộc chiến tranh nào khác, không tránh khỏi đem lại những nỗi khủng khiếp tai
hoạ, đau khố - nghĩa là những cuộc chiến tranh có ích cho sự phát triển của nhân loại"
(V.I.Lênin, Toàn tập, tập 49, NXB TB, M.1978,tr. 159). Từ đó, Người đi đến kết luận:
"Có nhiều loại chiến tranh, có chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phản động, có chiến
tranh của những giai cấp tiên tiến và chiến tranh của giai cấp lạc hậu, có chiến tranh nhằm
củng cố ách áp bức giai cấp và chỉến tranh nhằm lật đổ ách áp bức ấy" (V.I.Lênin, Toàn
tập, tập 38, NXB TB, M.1978,tr. 403 - 404).
Sau Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ra
đời. V.I. Lênin vừa lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa tổ chức lãnh đạo
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc.
Trong thời kỳ này, V.I. Lênin viết nhiều tác phẩm quan trọng, đưa ra nhiều tư tưởng
quý báu về xây dựng Hồng quân. Lý luận về quân đội mà C. Mác và Ph. Ăngghen khởi
xướng được V.I. Lênin tiếp tục khẳng định, đặc biệt là vấn đề về bản chất giai cấp của
quân đội. V.I. Lênin kiên quyết đấu tranh với những quan điểm tư sản về cái gọi là "quân
đội trung lập" và khẳng định: "Không phải chỉ có dưới chính thể quân chủ, quân đội mới
là công cụ đàn áp. Nó vẫn là công cụ đàn áp của tất cả các chính thể cộng hoà tư sản, kể
cả những chính thể cộng hoà dân chủ nhất" (V.I.Lênin, Toàn tập, tập 49, NXB TB,
M.1978,tr. 610).
Theo đó, Người nhấn mạnh: "Quân đội của nhà nước tư sản là công cụ vững chắc
nhất để duy trì và bảo vệ chế độ cũ, là phương tiện quan trọng để đạt được các mục tiêu
chính trị phi nghĩa" (V.I.Lênin, Toàn tập, tập 38, NXB TB, M.1978,tr. 361).
Trên cơ sở đó, V.I. Lênin đã đề xuất những nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới
của giai cấp vô sản và phát triển lý luận về vai trò của nhân tố chính trị, tinh thần trong
chiến tranh; chỉ ra tính quy luật hình thành, phát triển của nhân tố tinh thần; vai trò của
hậu phương quân đội, vai trò của công tác Đảng, công tác chính trị trong quân đội....
Ngoài ra, V.I. Lênin còn đề cập đến tư tưởng xây dựng, củng cố quốc phòng, mối quan hệ

kinh tế với quốc phòng, xây dựng Hồng quân vững mạnh.
Hiện nay, chiến tranh thế giới ít có khả năng xảy ra, nhưng xung đột vũ trang, xung
đột sắc tộc, chạy đua vũ trang, hoạt động bạo loạn lật đổ, khủng bố còn khả năng xảy ra ở
nhiều nơi rất phức tạp. Đặc biệt, việc sử dụng vũ khí, kỹ thuật hiện đại, vũ khí công nghệ
cao đã đẩy nhân loại vào những cuộc chạy đua vũ trang mới. Tư tưởng của C. Mác, Ph.
Ăngghen, V.I. Lênin về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc vẫn là cơ sở lý luận khoa
học của giai cấp vô sản trong đấu tranh thực hiện mục tiêu, lý tưởng của mình, xây dựng
thành công chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới, tiến tới loại bỏ chiến tranh ra
khỏi đời sống xã hội.
1.3. Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh,
quân đội và bảo vệ Tổ quốc vào điều kiện Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tố quốc xã hội chủ nghĩa
là sự vận dụng trung thành, sáng tạo học thuyết Mác- Lênin về chiến tranh, quân đội và
bảo vệ Tố quốc vào điều kiện cụ thế của Việt Nam; kế thừa và phát triển truyền thống
đánh giặc giữ nước của dân tộc trong thời đại mới.

16


1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh
Trên lập trường duy vật biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đánh giá đúng
bản chất của chủ nghĩa đế quốc như "con đỉa hai vòi", hút máu nhân dân lao động chính
quốc và nhân dân thuộc địa. Người đã phân tích sâu sắc tính chất chính trị - xã hội cuộc
chiến tranh xâm lược thuộc địa của đế quốc Pháp ở Đông Dương; đồng thời, chỉ rõ tính
chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta.
Theo Hồ Chí Minh, các cuộc chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta luôn phục
tùng mục tiêu chính trị của cách mạng Việt Nam: "Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là
hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ" (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị
Quốc gia, H, 2010, tr. 555).
Hồ Chí Minh rất coi trọng tính độc lập tương đối của đấu tranh vũ trang và hành

động quân sự trong quan hệ với chính trị. Điều đó xuất phát từ nhận thức tính đặc thù của
các quy luật đấu tranh vũ trang và hoạt động quân sự. Để làm nổi bật ảnh hưởng của chiến
tranh đến chính trị, Hồ Chí Minh đã tập trung phân tích trên ba nội dung chính sau đây:
Một là, chiến tranh là thử thách nghiêm ngặt về mọi mặt đối với đời sống xã hội nói
chung, đời sống chính trị - xã hội nói riêng.
Hai là, tính chất ảnh hưởng của chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa đến
chính trị không giống nhau.
Ba là, thất bại hoặc thắng lợi trong chiến tranh có tác động mạnh mẽ đến chính trị.
Trong nhiều tác phẩm của mình, Hồ Chí Minh đã làm sâu sắc, nổi bật phương pháp
luận của Lênin về tính chất chính trị - xã hội của các cuộc chiến tranh. Người đã phát triển
một cách sâu sắc những vấn đề về nguyên nhân, bản chất và tính chất chính trị - xã hội
của chiến tranh xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh chống xâm lược
của các dân tộc thuộc địa. Sự cống hiến đó của Người là một căn cứ phương pháp luận
quan trọng cho chiến lược tổ chức động viên, xây dựng lực lượng trong các cuộc kháng
chiến của dân tộc Việt Nam.
Một cống hiến xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lý luận về chiến tranh là
việc dự báo của Người về tính chất gay gắt, quyết liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu
nước: "Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều
của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn"
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2010, tr. 623).
Đồng thời, Người đã chứng minh tính tất yếu thắng lợi sẽ thuộc về dân tộc Việt
Nam và phương thức giành thắng lợi là: "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào". Với hệ
thống kiến thức về quy luật phát triển của xã hội, đứng trên lập trường duy vật bỉện
chứng, Hồ Chí Minh đã phân tích một cách khoa học và sâu sắc vai trò ngày càng tăng
của hậu phương trong chiến tranh.
Dựa vào phương pháp luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin và
tổng kết thực tiễn các cuộc chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều luận điểm
quan trọng xung quanh mối quan hệ biện chứng giữa con người và vũ khí. Người luôn
đánh giá cao vai trò của nhân tố con người, khẳng định con người là nhân tố cơ bản nhất
quyết định thắng lợi của chiến tranh. Song, không phải vì thế mà coi nhẹ vai trò của vũ

khí, trang bị và phương tiện chiến tranh.
Tư tưởng chiến tranh nhân dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân là một
17


trong những di sản quý báu trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Tư tưởng chiến tranh
nhân dân của Người đã thể hiện một cách giản dị nhưng rất sâu sắc, sinh động trong lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ
người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc... Hễ là người Việt Nam thì
phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm
dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống
thực dân Pháp cứu nước" (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 4, tr. 534). Đó chính là tính
đặc sắc của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới và là sự phát triển đến đỉnh
cao tư tưởng vũ trang toàn dân của chủ nghĩa Mác- Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể
Việt Nam.
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội
Trước hết, Hồ Chí Minh đã lập luận về mặt lý luận cho rằng sự ra đời của quân đội
là tất yếu, có tính quy luật của đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc ở Việt Nam. Người
viết: "Dân tộc Việt Nam nhất định phải được giải phóng. Muốn giải phóng thì phải đánh
phát xít Nhật và Pháp, muốn đánh chúng thì phải có lực lượng quân sự. Muốn có lực
lượng thì phải có tổ chức" (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr. 370).
Với cương vị là người tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện quân đội ta, Chủ tịch
Hồ Chí Minh thường xuyên coi trọng xây dựng bản chất giai cấp công nhân của quân đội.
Bản chất giai cấp đó liên hệ mật thiết với tính nhân dân trong tiến hành chiến tranh nhân
dân chống xâm lược. Người hết sức chú ý đến xây dựng, giáo dục, nuôi dưỡng các phẩm
chất cách mạng, bản lĩnh chính trị, tinh thần chiến đấu cho quân đội ta và xem đó là cơ sở,
nền tảng để xây dựng quân đội ta vững mạnh toàn diện, mới có thể trở thành quân đội
cách mạng và từng bước hiện đại.
Một trong những cống hiến của Hồ Chí Minh trong phát triến lý luận quân đội là sự
lập luận tính nhân dân của quân đội ta, sự thống nhất bản chất giai cấp công nhân và tính

nhân dân của quân đội ta. Người xem đó như một biểu hiện có tính quy luật của quá trình
phát sinh, phát triển của quân đội kiểu mới, của giai cấp vô sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
rất chú ý đến tính nhân dân của quân đội sắp ra đời. Người nhấn mạnh: "Bộ đội ta là bộ
đội của nhân dân" và chính Người cũng đã chăm lo giáo dục, rèn luyện để quân đội ta
mang tính chất nhân dân rộng rãi và sâu sắc.
Trong xây dựng quân đội nhà nước xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến
nguyên tắc chính trị - giai cấp. Trong mọi hoàn cảnh, Người bao giờ cũng coi trọng xây
dựng quân đội toàn diện, phù hợp với những yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Người
viết: "Phải không ngừng nâng cao trình độ chính trị, kỹ thuật và văn hoá, ra sức công tác
và lao động; tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, góp phàn xây dựng chủ nghĩa xã hội"
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 12, tr. 384).
Trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết
sức coi trọng giáo dục tinh thần quốc tế vô sản cho cán bộ, chiến sĩ và Người xem đó như
là một nguyên tắc quan trọng.
1.3.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Quá trình tiếp cận các quan điểm triết học của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chiến tranh,
quân đội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải làm rõ tư tưởng nhân văn của
Người khi đề cập về bạo lực cách mạng, về chiến tranh cách mạng và xây dựng quân đội
18


nhân dân, vì khi đề cập đến bạo lực cách mạng, Người luôn xuất phát từ mục đích nhân
văn. Tư tưởng nhân văn đã đan quyện với tính cách mạng và khoa học; kết hợp chặt chẽ
tính giai cấp, dân tộc và nhân loại làm nên cốt cách Hồ Chí Minh.
Trong các quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa đã chứa đựng sự thống nhất giữa tính nhân văn và tư tưởng bạo lực. Trên
cơ sở thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, xuất phát từ thực tiễn đất nước,
Hồ Chí Minh đã khẳng định vấn đề có tính quy luật là dùng bạo lực cách mạng, dùng tư
tưởng nhân văn để chống lại bạo lực phản cách mạng, phản nhân văn. Tính nhân văn của
bạo lực cách mạng, trong giải quyết vấn đề chiến tranh và hoà bình, trong đấu tranh vũ

trang là một nhân tố rất quan trọng để tạo sự thống nhất về chính trị tinh thần của cả dân
tộc.
Tư tưởng nhân văn về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa đã thu phục được tình cảm của loài người tiến bộ, của anh em bạn bè, tạo điều kiện
để kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại. Đó là những cống hiến xuất
sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bảo vệ, phát triển sáng tạo, các quan điểm cơ bản của
chủ nghĩa Mác- Lênin về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tố quốc xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam; là một bộ phận hữu cơ của tư tưởng Hồ Chí Minh và là nên tảng lý luận của Đảng
ta trong chiến tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp vũ trang bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa hiện nay.
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu1: Đối tượng, chức năng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu của học thuyết
Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội.
Câu 2: Bước ngoặt cách mạng trong triết học - xã hội học về chiến tranh và quân đội
do C. Mác và Ph. Ăngghen thực hiện.
Câu 3: V.I. Lênin bảo vệ, phát triển học thuyết của C. Mác và Ph. Ăngghen về chiến
tranh và quân đội.
Câu 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa

19


Chương 2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN VỀ CHIẾN
TRANH
2.1. Nguồn gốc, nguyên nhân và bản chất của chiến tranh
2.1.1. Nguồn gốc và nguyên nhân của chiến tranh
2.1.1.1. Khái niệm chiến tranh
Trong lịch sử đã có nhiều cách định nghĩa về chiến tranh.
Quan điểm tôn giáo cho rằng: chiến tranh là sự trừng phạt của Chúa Trời đối với loài

người do mắc tội tổ tông.
Chủ nghĩa Đácuyn xã hội quan niệm: chiến tranh là hiện tượng thuộc bản chất sinh
tồn của con người.
Mantuýt quan niệm: chiến tranh là hiện tượng để giải quyết nhân khẩu thừa;...
Những quan điểm này đều giải thích chiến tranh mang tính chất bản năng, duy tâm, thần
bí.
Một trong những nhà tư tưởng quân sự được các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác Lênin đánh giá cao là C.Ph.Claudơvít (1780-1831). Ông quan niệm: chiến tranh là hành
vi bạo lực của một lực lượng xã hội để buộc đối phương phục tùng ý chí của mình, là hoạt
động mà mỗi bên tham chiến huy động sức mạnh không hạn độ để giành thắng lợi. Với
quan điểm này, C. Ph. Claudơvít đã bàn đến hành vi có tính đặc trưng của chiến tranh là
bạo lực và bạo lực đó kế tục chính trị. Tuy nhiên, C. Ph. Claudơvít chưa luận giải được
đúng đắn tính chất chính trị của chiến tranh. Cho nên, những giải thích tiếp theo về chiến
tranh không tránh khỏi những sai lầm, hạn chế.
Chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm: Chiến tranh là hiện tượng chính trị - xã hội
mang tính lịch sử, là hoạt động đấu tranh vũ trang giữa các tập đoàn người trong một
nước, hoặc giữa các nước nhằm thực hiện mục đích chính trị nhất định.
Trước hết, chiến tranh là một hiện tượng chính trị - xã hội, xuất hiện, vận động theo
những quy luật xã hội. Vì vậy, khi giải thích hiện tượng chiến tranh quy vào tính bản
năng sinh vật, phi xã hội, phi chính trị đều không tránh khỏi sai lầm.
So với các hiện tượng chính trị - xã hội khác, đặc trưng cơ bản của chiến tranh là
hành vi bạo lực vũ trang. Mục đích của chiến tranh là nhằm thực hiện mục đích chính trị
nhất định. Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc về mặt nhà nước, cho nên
chiến tranh bao giờ cũng gắn với một giai cấp, dân tộc, nhà nước cụ thể. Như vậy, chiến
tranh gồm hai mặt cơ bản là chính trị và đấu tranh vũ trang.
2.1.1.2. Nguồn gốc của chiến tranh
Nguồn gốc của chiến tranh là vấn đề cơ bản của mọi quan điểm khi giải thích hiện
tượng chiến tranh. Trong lịch sử, có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc của chiến
tranh.
Những quan điểm duy tâm tôn giáo tìm nguồn gốc chiến tranh từ lực lượng siêu
nhiên. Ôguytxtanh, nhà thần học phương Tây cho rằng, nguồn gốc của chiến tranh là do

con người mắc nhiều tội lỗi, trái với ý trời nên trời trừng phạt.
Chủ nghĩa Đácuyn xã hội tìm nguồn gốc chiến tranh từ cạnh tranh sinh tồn, mang
tính bản năng, sinh vật.
Thuyết Mantuýt tìm nguồn gốc chiến tranh từ sự mất cân đối giữa tăng trưởng kinh
20


tế và dân số dẫn đến nạn nhân khẩu thừa và chiến tranh là biện pháp giải quyết hữu hiệu
nhất. Quan điểm này giải thích sản xuất vật chất tăng theo cấp số cộng, còn dân số tăng
theo cấp số nhân và đến một lúc nào đó sẽ tạo nhân khẩu thừa, để giải quyết tất yếu phải
nổ ra chiến tranh. Họ hô hào về những cái mồm thừa còn nguy hiểm hơn cả bom nguyên
tử để biện hộ cho hành động chiến tranh của chúng.
Thuyết quyết định luận chính trị - xã hội giải thích nguồn gốc chiến tranh từ học
thuyết đấu tranh giai cấp của C. Mác; trong đó, C. Mác đã khuyến khích con người đấu
tranh tàn sát, chém giết lẫn nhau.
Những cách quan điểm trên đều sai lầm, không xuất phát từ những mâu thuẫn của
hiện thực xã hội để tìm nguồn gốc của chiến tranh mà xuất phát từ lực lượng siêu nhiên,
từ bản năng sinh học hoặc từ ý chí chủ quan của con người. Với các cách giải thích này,
chiến tranh là không tránh khỏi và không loại trừ được đối với loài người.
Trái với những quan điểm trên, chủ nghĩa Mác- Lênin tìm nguồn gốc chiến tranh từ
hiện thực xã hội, từ những mâu thuẫn về kinh tế, chính trị, xã hội. Chủ nghĩa Mác- Lênin
chỉ ra, nguồn gốc chiến tranh từ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và đối kháng giai cấp
không thể điều hoà. Sự xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì xuất hiện giai cấp,
đối kháng giai cấp là tất yếu.
Trước sự bóc lột của giai cấp thống trị, giai cấp bị trị không ngừng đấu tranh, lúc
ngấm ngầm, lúc công khai, nhưng xu thế chung là ngày càng quyết liệt. Trước sức mạnh và
sự phản kháng của giai cấp bị trị, giai cấp thống trị cũng dùng các thủ đoạn, phương thức
khác nhau và phương thức cuối cùng là dùng sức mạnh quân sự, sức mạnh bạo lực để đàn
áp. Giai cấp bị trị chỉ có thể đánh đổ giai cấp thống trị về mặt nhà nước khi có lực lượng
tiên tiến lãnh đạo, tổ chức quần chúng nhân dân tạo nên sức mạnh bạo lực cách mạng và

tiến hành chiến tranh cách mạng giành chính quyền.
Trong giai đoạn thống trị xã hội, giai cấp thống trị không thoả mãn với lợi ích từ bóc
lột nhân dân lao động ở nước mình, mà còn mở rộng phạm vi bóc lột ra nước ngoài. Việc
mở rộng lợi ích ra nước ngoài, giai cấp thống trị cũng dùng nhiều thủ đoạn như mua chuộc,
dụ dỗ...và khi các phương thức đó không đạt mục đích thì chúng phát động chiến tranh và
chiến tranh nổ ra. Như vậy, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, đối kháng giai cấp tồn tại thì
chiến tranh là tất yếu của lịch sử.
Thực tiễn lịch sử chứng minh, xã hội cộng sản nguyên thuỷ dựa trên chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất, không có đối kháng giai cấp, chiến tranh không xuất hiện. Những
cuộc xung đột có tính bạo lực trong xã hội này chỉ là tranh giành không gian sinh sống,
không mang nội dung chính trị, cho nên không phải là chiến tranh. Ph.Ăngghen chỉ rõ:
“Trải qua hàng vạn năm trong chế độ cộng sản nguyên thủy, khi chưa có chế độ tư hữu,
chưa có giai cấp đối kháng thì chiến tranh với tính cách là một hiện tượng chính trị xã hội
cũng chưa xuất hiện. Mặc dù ở thời kỳ này đã xuất hiện những cuộc xung đột vũ trang.
Nhưng đó không phải là một cuộc chiến tranh mà chỉ là một dạng “lao động thời cổ”.. Bởi
vì, xét về mặt xã hội, xã hội cộng sản nguyên thủy là xã hội không có giai cấp, bình đẳng,
không có tình trạng phân chia thành kẻ giàu, người nghèo, kẻ đi áp bức bóc lột và người bị
áp bức bóc lột. Về kinh tế, không có của “dư thừa tương đối” để người này có thể chiếm
đoạt lao động của người khác, mục tiêu các cuộc xung đột đó chỉ để tranh giành các điều
kiện tự nhiên thuận lợi để tồn tại như: nguồn nước, bãi cỏ, vùng săn bắn hay hang động,…
Về mặt kỹ thuật quân sự, trong các cuộc xung đột này, tất cả các bên tham chiến đều không
21


có lực lượng vũ trang chuyên nghiệp, cũng như vũ khí chuyên dùng. Tất cả các thành viên
bộ lạc với mọi công cụ lao động thường ngày đều tham gia vào cuộc xung đột đó. Do đó
các cuộc xung đột vũ trang này hoàn toàn mang tính ngẫu nhiên tự phát.
Khi chế độ Chiếm hữu nô lệ ra đời với sự tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và
đối kháng giai cấp thì chiến tranh cũng xuất hiện như một tất yếu lịch sử. Từ đó đến nay,
những xã hội dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và đối kháng giai cấp đã nối tiếp

nhau kéo theo chiến tranh diễn ra liên miên. Thực tế cho thấy, từ khi chế độ Chiếm hữu nô
lệ ra đời đến nay, loài người không có lúc nào ngừng tiếng súng, không ở nơi này thì nơi
khác. Có thể nói rằng, chừng nào còn tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và đối kháng
giai cấp thì chiến tranh không thể tránh khỏi.
Ph.Ăngghen khẳng định, khi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất xuất hiện
và cùng với nó là sự ra đời của giai cấp, tầng lớp áp bức bóc lột thì chiến tranh ra đời và tồn
tại như một tất yếu khách quan. Chế độ áp bức bóc lột càng hoàn thiện thì chiến tranh càng
phát triển.

Nguồn gốc CT: LLSX
Của dư TĐ

Chế độ TH

đối kháng GC

( nguồn gốc sâu xa)

( nguồn gốc trực tiếp)

Chiến tranh

Lênin đã phát triển những luận điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen về chiến tranh
trong điều kiện lịch sử mới: trong thời đại ngày nay còn chủ nghĩa đế quốc là còn nguy cơ
xảy ra chiến tranh, chiến tranh là bạn đường của chủ nghĩa đế quốc.
Như vậy, chiến tranh có nguồn gốc từ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,
có đối kháng giai cấp và áp bức bóc lột, chiến tranh không phải là một định mệnh gắn liền
với con người và xã hội loài người. Chiến tranh chỉ là hiện tượng xã hội có tính lịch sử và
sẽ mất đi khi tiền đề kinh tế, chính trị của nó không còn. Muốn loại bỏ chiến tranh ra khỏi
đời sống xã hội, phải xoá bỏ chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp, xây dựng thành công

chế độ công hữu và xã hội không giai cấp - chế độ cộng sản chủ nghĩa.
2.1.1.3. Nguyên nhân của chiến tranh
Trong xã hội có chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp, chiến tranh là tất yếu, nhưng
không phải lúc nào và ở đâu cũng có chiến tranh. Chiến tranh chỉ nổ ra trong những điều
kiện nhất định với những nguyên nhân cụ thể của nó.
Nguyên nhân của chiến tranh là sự tác động tổng hợp của các điều kiện khách quan
và nhân tố chủ quan dẫn đến một cuộc chiến tranh cụ thể xuất hiện. Nguyên nhân của
chiến tranh được chia thành các cấp độ khác nhau, có nguyên nhân chung; nguyên nhân
đặc thù và nguyên nhân đơn nhất.
Nguyên nhân chung của chiến tranh phản ánh những mối liên hệ sâu sắc giữa
phương thức sản xuất bóc lột và những hiện tượng chính trị - xã hội do phương thức sản
xuất đó sinh ra dưới hình thức bạo lực vũ trang của giai cấp này sử dụng đối với giai cấp
khác.
Phương thức sản xuất bóc lột chứa đựng mâu thuẫn đối kháng. Chiến tranh biểu hiện
sự gay gắt cực độ của các mâu thuẫn chính trị và đồng thời là phương thức riêng để giải
quyết mâu thuẫn đó. Sự bóc lột càng cao thì mâu thuẫn càng phát triển, đồng thời đấu
22


tranh giai cấp cũng không ngừng tăng. Để bảo vệ lợi ích của mình, giai cấp thống trị, bóc
lột sẵn sàng sử dụng công cụ bạo lực vũ trang để đàn áp sự phản kháng của giai cấp bị trị.
Từ đó, chiến tranh nổ ra.
Nguyên nhân đặc thù của chiến tranh là chính sách hiếu chiến, phản động của những
kẻ cầm đầu nhà nước phản động. Để đạt được tham vọng tột độ về lợi ích, chúng sẵn sàng
đàn áp bằng sức mạnh bạo lực ở bất cứ điều kiện nào. Trong quan hệ giữa các quốc gia,
dân tộc, giai cấp thống trị bóc lột luôn tham vọng mở rộng bóc lột ra nước ngoài. Những
kẻ hiếu chiến luôn tìm mọi cách xâm lược bằng phát động chiến tranh. Đó là kết quả vận
động của nguyên nhân chung và tất yếu sẽ xuất hiện chiến tranh.
Nguyên nhân đơn nhất là những tác động có tính đột biến, tức thì từ những nhân tố
như: tính bất thường của cá nhân cầm đầu tổ chức, diễn biến không chuẩn xác của các

thông tin và phương tiện tiến hành chiến tranh,... trong những tình huống nhất định.
Nguyên nhân đơn nhất không mang tính phổ biến như những nguyên nhân khác,
nhưng nó không biệt lập với các nguyên nhân khác mà là kết quả vận động tổng hợp các
nguyên nhân chung, nguyên nhân đặc thù đến trình độ nhất định và trong bối cảnh cụ thể
nó có thể xuất hiện.
Sự vận động tổng hợp các nguyên nhân chung, nguyên nhân đặc thù tạo nên trạng
thái căng thẳng giữa hai bên chuẩn bị chiến tranh đến mức đã sẵn sàng, chỉ cần một tác
động nhỏ nào đó thì chiến tranh sẽ nổ ra.
Nguyên nhân đơn nhất xuất hiện và biểu hiện rất đa dạng. Bởi vì sự chuẩn bị tiến
hành chiến tranh của hai bên tham chiến đã đầy đủ, quan hệ trở nên căng thẳng thì rất nhiều
tình huống và nhân tố tác động cho xuất hiện nguyên nhân đơn nhất. Nguyên nhân đơn nhất
rất khó kiểm duyệt và đoán định. Trong bối cảnh chuẩn bị chiến tranh chống xâm lược mà
không muốn hay chưa muốn nổ ra ngay thì hạn chế xuất hiện nguyên nhân đơn nhất là rất
cần thiết có ý nghĩa rất lớn.
Nhận thức về nguyên nhân của chiến tranh cần phân biệt giữa nguyên nhân và
nguyên cớ. Nguyên cớ của chiến tranh là tác động của các nhân tố từ những mối liên hệ
bên ngoài, nhưng nằm trong ý đồ chủ quan của bên gây chiến. Khi bên gây chiến đã
chuẩn bị kỹ cho phát động chiến tranh, nhưng chưa có lý do, chúng thường viện ra một cớ
nào đó để dọn đường dư luận, phát động chiến tranh. Nguyên cớ chiến tranh rất phức tạp
và đa dạng.
Hiện nay, với tham vọng về địa vị và lợi ích có tính toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc,
các nguyên nhân chiến tranh vận động rất phức tạp. Nhận thức tính chất phức tạp của
nguyên nhân chiến tranh hiện nay là cơ sở chuẩn bị về tư tưởng để không bị bất ngờ khi
chiến tranh xảy ra.
Nguồn gốc và nguyên nhân của chiến tranh có sự khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ
với nhau. Nguồn gốc chiến tranh là những mâu thuẫn từ kinh tế, chính trị xã hội làm xuất
hiện hiện tượng chiến tranh trong lịch sử, còn nguyên nhân là những tác động trực tiếp
làm nổ ra những cuộc chiến tranh cụ thể. Đây là cơ sở giải thích nguồn gốc chiến tranh
tồn tại suốt lịch sử của xã hội có giai cấp, nhưng chiến tranh không phải lúc nào và ở đâu
cũng nổ ra.

Ngày nay, nguồn gốc chiến tranh vẫn tồn tại, nhưng chiến tranh chỉ nổ ra ở nơi này
hay nơi khác và chiến tranh thế giới khó có thể nổ ra trong một vài năm tới. Điều đó là do
23


nguyên nhân của chiến tranh đang xuất hiện cục bộ, chưa mang tính chất toàn thế giới.
2.1.2. Bản chất của chiến tranh, quan hệ giữa chiến tranh và chính trị
2.1.2.1. Bản chất của chiến tranh
Bản chất chiến tranh là vấn đề phức tạp, gây nhiều tranh cãi trong lịch sử, cũng như
hiện nay. Trong lịch sử đã có nhiều nhà tư tưởng, quân sự bàn về bản chất chiến tranh.
Thời Cổ đại, Arixtốt (384 - 322 trước Công nguyên) đã khái quát bản chất chiến
tranh là nghệ thuật chính trị.
G. Hêghen quan niệm chiến tranh là công cụ thực hiện mục đích chính trị.
C. Ph. Claudơvít cho rằng: "Chiến tranh của một cộng đồng tiến hành bao giờ cũng
là một hành vi chính trị, một sự kế tục của các quan hệ chính trị, một sự thực hiện các
quan hệ chính trị bằng các biện pháp khác (thủ đoạn bạo lực)" (C.Ph.Claudơvít, Bàn về
chiến tranh, Nxb QĐND, H, 1976 tr 55).
Các quan điểm trên có sự khác nhau, nhưng thống nhất với nhau ở nội dung chính
trị, ở hành động bạo lực của chiến tranh.
Đây là bước tiến lớn so với quan điểm duy tâm, tôn giáo, nhưng cũng không tránh
khỏi sai lầm. Sai lầm của những quan điểm trên là hiểu về chính trị chưa khoa học. Chính
trị theo quan điểm các nhà tư tưởng trên là chính trị chung chung không phải quan hệ giữa
các giai cấp, dân tộc về mặt nhà nước; chính trị chỉ đơn thuần là đối ngoại, không đề cập
đến đối nội và chính trị không bao hàm kinh tế.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đánh giá cao quan điểm của các nhà tư
tưởng trên, đặc biệt là quan điểm của Claudơvít và kế thừa, phát triển lý luận về bản chất
chiến tranh. V.I. Lênin khẳng định: "Bản chất chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị bằng
những biện pháp khác (cụ thể là bằng bạo lực)" (V.I Lênin, Toàn tập, Tập 26, Nxb TB,
M,1980, tr. 397), về hình thức khái quát của Claudơvít và V.I. Lênin là giống nhau, nhưng
lại hoàn toàn khác nhau về nội dung.

Cần hiểu: + Nói đến CT là nói đến đường lối chính trị của 1 GC, Nhà nước
+ Nói đến CT là nói đến BLVT
Đây là 2 mặt cơ bản phản ánh bản chất của chiến tranh, trong đó chính
trị là mục đích; đấu tranh vũ trang là phương tiện.
Bản chất chiến tranh trong quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin được hiểu: chiến
tranh là một hiện tượng chính trị xã hội có tính lịch sử; là sự tiếp tục của chính trị, là
chính trị từ đầu đến cuối nhưng chiến tranh không đồng nhất với chính trị, nó chỉ là kế tục
chính trị bằng thủ đoạn đặc thù, thủ đoạn bạo lực vũ trang.
Chính trị là mục đích, là nội dung của chiến tranh, còn chiến tranh chỉ là một trong
những phương thức tiến hành nhằm thực hiện chính trị. Mặt khác, chính trị là quan hệ
giữa các giai cấp, dân tộc về mặt nhà nước; chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế;
chính trị bao gồm cả đối nội và đối ngoại.
Tiếp cận bản chất chiến tranh trong sự thống nhất giữa hai mặt: chính trị và bạo lực
vũ trang không tách rời. Như vậy, những xung đột vũ trang trong xã hội cộng sản nguyên
thuỷ nhưng không có nội dung chính trị nên không phải là chiến tranh. Trong xã hội có
giai cấp, những phương thức thực hiện mục đích chính trị nhưng không sử dụng phương
thức bạo lực vũ trang cũng không phải là chiến tranh.
24


Các thế lực tiến hành chiến tranh xâm lược, phản động luôn tìm cách che đậy nội
dung chính trị để xuyên tạc bản chất chiến tranh. Những quan điểm cho rằng tiến hành
chiến tranh là thực hiện ý nguyện của Chúa, giương ngọn cờ sắc tộc, tôn giáo,... là tìm
cách che đậy nội dung chính trị, xuyên tạc bản chất chiến tranh.
Hiện nay, các thế lực phản động cũng đưa ra lý do lật đổ một chế độ độc tài, gia
đình trị hoặc bảo vệ thế giới tự do,... để che đậy nội dung chính trị phản động trong tiến
hành chiến tranh xâm lược.
2.1.2.2. Mối quan hệ giữa chiến tranh và chính trị
Quan hệ giữa chính trị và chiến tranh là nội dung cốt lõi của bản chất chiến tranh, có
mối quan hệ hữu cơ với nhau. Quan hệ giữa chính trị và chiến tranh là một phương diện

quan trọng của bản chất chiến tranh. Trong quan hệ này, chính trị là mặt bất biến, chiến
tranh là mặt khả biến. Mặt chính trị như cái chung, bản chất xuyên suốt các cuộc chiến
tranh, còn mặt khả biến có thể biến động khôn lường, nhưng thoát khỏi quỹ đạo của chính
trị. Trong mối quan hệ giữa chính trị và chiến tranh, chính trị quyết định chiến tranh; đồng
thời, chiến tranh có tác động to lớn trở lại chính trị.
 Chính trị quyết định chiến tranh
Chính trị quyết định chiến tranh trên tất cả các mặt cơ bản từ mục đích, tiến trình,
kết cục đến bản chất và tính chất chính trị xã hội của chiến tranh.
Chính trị quyết định mục đích chiến tranh. Bất kỳ cuộc chiến tranh nào đều hướng
tới một mục đích chính trị nhất định. Mục đích chính trị của chiến tranh biểu hiện ở nhiều
khía cạnh khác nhau. Mỗi giai cấp khác nhau tiến hành chiến tranh đều có mục đích chính
trị khác nhau. Giai cấp thống trị, bóc lột tiến hành chiến tranh nhằm mục đích giữ vững
chế độ chính trị hiện tại. Ngược lại, quần chúng nhân dân và giai cấp tiến bộ, cách mạng
tiến hành chiến tranh nhằm lật đổ chế độ chính trị đó, thiết lập chế độ mới. Với nước đi
xâm lược, mục đích chính trị của chiến tranh là thôn tính xâm lược dân tộc khác; các dân
tộc tiến hành chiến tranh chống xâm lược với mục đích giải phóng dân tộc, giữ vững độc
lập dân tộc, chủ quyền quốc gia. Như vậy, mỗi cuộc chiến tranh có mục đích cụ thể khác
nhau, nhưng thống nhất ở mục đích chính trị.
Chính trị quy định tiến trình, kết cục chiến tranh. Tiến trình và kết cục của chiến
tranh diễn biến rất phức tạp, nhưng cái chung nhất là do chính trị quy định. Mỗi giai đoạn
của tiến trình phát triển chiến tranh đều có mục đích chính trị cụ thể, nhưng thống nhất
với mục đích chung.
Tiến trình và kết cục của chiến tranh được chỉ đạo bởi mục đích chính trị của giai
cấp, nhà nước tổ chức tiến hành chiến tranh quyết định. Ở một thời đại cụ thể, chế độ
chính trị nào tiến bộ thì chiến tranh do nó tiến hành thường có xu hướng phát triển ngày
càng mạnh và giành thắng lợi và ngược lại. Đây là xu hướng chung của lịch sử chiến
tranh, V.I. Lênin khẳng định: "Mọi cuộc chiến tranh đều gắn với chế độ chính trị đã sinh
ra nó" (V.I Lênin, Toàn tập, Tập 32, Nxb TB, M,1981, tr. 100). Tuy nhiên, không phải
mọi cuộc chiến tranh do chế độ chính trị tiến bộ tiến hành đều thắng lợi và ngược lại, bởi
chiến tranh còn bị chi phối vì nhiều nhân tố khác.

Chính trị quyết định bản chất và tính chất chính trị xã hội của chiến tranh. Chiến
tranh là chính trị từ đầu đến cuối, thậm chí trước khi nổ ra chiến tranh, trong giai đoạn
chuẩn bị đã có chính trị, do chính trị quyết định. Bản chất tiến bộ cách mạng của chế độ
25


×