Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Tập bài giảng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa mác lê nin (phần 1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ GIANG (Chủ biên)
NGUYỄN THỊ THÙY LINH
BÙI LAN HƯƠNG

TẬP BÀI GIẢNG

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN (PHẦN 1)

(Lưu hành nội bộ)

HÀ NỘI – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ GIANG (Chủ biên)
NGUYỄN THỊ THÙY LINH
BÙI LAN HƯƠNG

TẬP BÀI GIẢNG

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN (PHẦN 1)
(Tài liệu dùng cho sinh viên toàn trường)



HÀ NỘI – 2017


MỤC LỤC
Trang

LỜI NÓI ĐẦU

1

Chương 1. NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC-LÊNIN

2

1.1. Khái lược về chủ nghĩa Mác – Lênin

2

1.1.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin và ba bộ phận lý luận cấu thành

2

1.1.2. Khái lược sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin

2

1.2. Đối tượng, mục đích và yêu cầu về phương pháp học tập, nghiên cứu
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin


10

1.2.1. Đối tượng, mục đích của việc học tập, nghiên cứu

10

1.2.2. Một số yêu cầu cơ bản về phương pháp học tập, nghiên cứu

10

Chương 2. CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

12

2.1. Thế giới quan và phương pháp luận

12

2.2. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy vật biện chứng

13

2.2.1. Sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong việc giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học

13

2.2.2. Chủ nghĩa duy vật biện chứng – hình thức phát triển cao nhất của chủ
nghĩa duy vật


15

2.3. Quan điểm duy vật biện chứng về vật chất, ý thức và mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức

18

2.3.1. Vật chất

18

2.3.2. Ý thức

26

2.3.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất với ý thức

32

2.3.4. Ý nghĩa phương pháp luận

33

Chương 3. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

34

3.1. Phép biện chứng và phép biện chứng duy vật


34

3.1.1. Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng

34

3.1.2. Phép biện chứng duy vật

36

3.2. Các nguyên lý cơ bản của phép biện chứng biện chứng duy vật

38

3.2.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

38

3.2.2. Nguyên lý về sự phát triển

40

3.3. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật

42

3.3.1. Cái riêng và cái chung

43


3.3.2. Nguyên nhân và kết quả

45


3.3.3. Tất nhiên và ngẫu nhiên

46

3.3.4. Nội dung và hình thức

48

3.3.5. Bản chất và hiện tượng

49

3.3.6. Khả năng và hiện thực

50

3.4. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật

50

3.4.1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại

52


3.4.2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập

55

3.4.3. Quy luật phủ định của phủ định

59

3.5. Lý luận nhận thức duy vật biện chứng

61

3.5.1. Thực tiễn, nhận thức và vai trò của thực tiễn với nhận thức

61

3.5.2. Con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý

64

Chương 4. CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

68

4.1. Vai trò của sản xuất vật chất và quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

68

4.1.1. Sản xuất vật chất và vai trò của nó


68

4.1.2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất

68

4.2. Biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

72

4.2.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng

72

4.2.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

73

4.3. Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội

74

4.3.1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội

74

4.3.2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội


77

4.4. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội và quá trình lịch sử - tự nhiên
của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội

79

4.4.1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội

79

4.4.2. Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã
hội

80

4.4.3. Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội

81

4.5. Vai trò đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội đối với sự vận động,
phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp

81

4.5.1. Giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát
triển của xã hội có đối kháng giai cấp

81


4.5.2. Cách mạng xã hội và vai trò của nó đối với sự vận động, phát triển của

83


xã hội có đối kháng giai cấp

4.6. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người và vai
trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân

85

4.6.1. Con người và bản chất con người

85

4.6.2. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần
chúng nhân dân

89

Tài liệu tham khảo

92


LỜI NÓI ĐẦU
Môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin học phần 1là
môn học bắt buộc của sinh viên theo học tất cả các trường Đại học, Cao đẳng ở nước

ta nói chung sinh viên toàn trường Trường đại học Sư phạm Hà Nội 2 nói riêng. Môn
học cung cấp những kiến thức nền tảng về thế giới quan và phương pháp luận cho
người học, là hành trang cần thiết giúp sinh viên nhận thức và hoạt động thực tiễn có
hiệu quả. Tuy nhiên do mang tính khái quát cao nên nội dung kiến thức không tránh
khỏi mang tính trừu tượng, làm đơn giản, rõ ràng, chi tiết giúp sinh viên dễ dàng tiếp
thu kiến thức môn học hơn là kì vọng của nhóm tác gả khi biên soạn tập bài giảng này!
Cuốn sách này giới thiệu về các nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác –Lênin
(phần 1) dùng cho sinh viên toàn trường Trường đại học Sư phạm Hà Nội 2. Nội dung
chính của tài liệu này bao gồm những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
bao gồm cả phần chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tập bài
giảng bao gồm 4 chương lớn với những kiến thức cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin
phần 1 bao gồm những nguyên lý , các quy luật cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin.
Tập bài giảng với mục đích cung cấp cho sinh viên những hiểu biết đúng dắn
nhất nên đã cho các ví dụ cụ thể và sinh động, dễ hiểu để sinh viên tiếp thu tốt hơn.
Trong tập bài giảng, các tác giả cuối mỗi phần còn cho các câu hỏi để củng cố kiến
thức đã học.
Tập bài giảng này được xây dựng theo phương châm phù hợp với chương trình
đào tạo sinh viên của trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 theo chương trình của Bộ
Giáo dục và Đào tạo. Bên cạnh đó tài liệu này còn có giá trị thực tiễn, đồng thời tăng
cường khả năng tự học, tự nghiên cứu của sinh viên.
Tài liệu này cũng bao gồm các câu hỏi và các ví dụ giúp Sinh viên dễ hiểu và
ứng dụng lý luận vào thực tiễn nhằm đáp ứng tốt nhất cho việc tự học của sinh viên.
Tập bài giảng là công trình nghiên cứu công phu của một nhóm tác giả, mặc dù
vậy cũng còn có những thiếu sót, các tác giả mong muốn nhận được góp ý của quý
thầy cô và các bạn.
Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 12 năm 2016

Các tác giả


1


Chương 1 NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC-LÊNIN
1.1. Khái lược về chủ nghĩa Mác - Lênin
1.1.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin và ba bộ phận lý luận cấu thành
1.1.1.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin “là hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học do
C.Mác, Ph.Ăngghen xây dựng, V.I.Lênin bảo vệ và phát triển; được hình thành trên
cơ sở tổng kết thực tiễn,là sự kế thừa và phát triển những giá trị của lịch sử tư tưởng
nhân loại, trên cơ sở thực tiễn của thời đại; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai
cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới
giải phóng con người; là thế giới quan và phương pháp luận phổ biến của nhận thức
khoa học.
1.1.1.2. Ba bộ phận lý luận cơ bản cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin bao gồm hệ thống tri thức phong phú về nhiều lĩnh vực,
nhưng trong đó có ba bộ phận lý luận quan trọng nhất là: triết học, kinh tế chính trị học
và chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Triết học Mác-Lênin có đối tượng nghiên cứu là những quy luật chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học, dù theo trường phái nào, thì cũng đều là thế
giới quan và nhân sinh quan của con người; khi xã hội có giai cấp thì thế giới quan và
nhân sinh quan mang tính giai cấp. Triết học Mác-Lênin là thế giới quan, nhân sinh
quan của giai cấp công nhân hiện đại, đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động trong
thởi đại ngày nay.
- Kinh tế chính trị học Mác-Lênin là khoa học xã hội, đối tượng nghiên cứu của
nó là mặt xã hội của sản xuất, tức là quan hệ sản xuất hay là quan hệ kinh tế giữa
người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật
chất. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là quan hệ sản xuất nhưng quan hệ

sản xuất lại tồn tại và vận động trong sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất. Mặt
khác, quan hệ sản xuất tức là cơ sở hạ tầng xã hội cũng tác động qua lại với kiến trúc
thượng tầng, nhất là các quan hệ về chính trị, pháp lý .... có tác động trở lại mạnh mẽ
với quan hệ sản xuất. Vậy, đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là quan hệ sản
xuất trong sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học: Những quy luật và tính quy luật chính trị - xã hội
của quá trình phát sinh, hình thành và phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa; những nguyên tắc cơ bản, những điều kiện, con đường, hình thức và phương
pháp đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân để thực hiện quá trình chuyển biến
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
-Như vậy, ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác-Lênin đều có đối tượng
nghiên riêng nhưng đều nằm trong một hệ thống khoa học lý luận thống nhất – đó là
khoa học về giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức bóc
lột, tiến tới giải phóng con người.
1.1.2. Khái lược sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin
1.1.2.1. Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác
- Điều kiện kinh tế-xã hội:
Chủ nghĩa Mác ra đời trong những năm 40 của thế kỷ XIX. Trong thời gian này,
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển ở nhiều nước châu Âu, mà cuộc cách
2


mạng này đã diễn ra đầu tiên ở nước Anh vào cuối thế kỷ XVIII. Cuộc cách mạng
công nghiệp không những đánh dấu bước chuyển biến từ nền sản xuất thủ công tư bản
chủ nghĩa sang nền sản xuất đại công nghiệp, mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã
hội, trước hết là sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản.
Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ ra một
cách gay gắt. Đó là mâu huẫn giữa tính chất xã hội hóa của nền sản xuất với tính chất
tư bản chủ nghĩa của sự chiếm hữu về tư liệu sản xuất và về sản phẩm xã hội. Mâu
thuẫn này biểu hiện thành sự đối kháng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Nhiều

cuộc đấu tranh của công nhân nổ ra ở Pháp, Đức, Anh. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa
của công nhân: ở Ly-ông (Pháp) năm 1831-1834.
Phong trào Hiến chương ở Anh từ năm 1835 đến năm 1848.
Cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Xêlêdi(Đức) năm 1848 v.v..đó là những bằng
chứng lịch sử cho thấy giai cấp vô sản đã tở thành một lực lượng chính trị độc lập, tiên
phong cho cuộc đấu tranh cho nền dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội.
Thực tiễn cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản đề ra nhu cầu phải có lý luận
cách mạng thật sự khoa học để giải thích đúng đắn bản chất của chủ nghĩa tư bản, vai trò
lịch sử của giai cấp vô sản, triển vọng của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản và
tương lai của xã hội loài người nói chung. Chủ nghĩa Mác ra đời là sự đáp ứng yêu cầu
khách quan đó, gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và trở thành vũ khí lý
luận của cuộc đấu tranh, đồng thời chính thực tiễn cách mạng cũng trở thành tiền đề
thực tiễn cho sự khái quát và phát triển không ngừng lý luận của chủ nghĩa Mác.
Mặt khác, sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cho phép khái
quát nhiều nguyên lý quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử: về vai trò của sản xuất
vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, vai trò của cơ sở hạ tầng
đối với kiến trúc thượng tầng, vai trò của đấu tranh giai cấp trong lịch sử, vai trò của
quần chúng nhân dân trong sự phát triển lịch sử; trên cơ sở đó, Mác đưa ra những dự
kiến khoa học về khả năng xóa bỏ giai cấp, khả năng tiến tới một xã hội tốt đẹp trong
tương lai.
- Tiền đề lý luận: Chủ nghĩa Mác có 3 nguồn gốc lý luận: Triết học cổ điển đức,
Kinh tế học chính trị Anh và Chủ nghĩa xã hội Pháp, Anh.
Trong đó Triết học cổ điển Đức là tiền đề lý luận trực tiếp.
C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa hạt nhân hợp lý trong Phép biện chứng của
Hêghen là lý luận về sự phát triển, loại bỏ cái vỏ duy tâm của nó, đưa nó về với quan
điểm duy vật về tự nhiên và lịch sử.
Hai ông cũng nhận thấy công lao to lớn của Hê-ghen là đã phê phán phương pháp
siêu hình và lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại Hê-ghen đã diễn đạt được nội dung
của phép biện chứng dưới dạng lý luận chặt chẽ thông qua một hệ thống các quy luật,
phạm trù.

Hai ông trên cơ sở phê phán tính chất duy tâm thần bí trong triết học Hê-ghen, kế
thừa hạt nhân hợp lý trong triết học của Hê-ghen, xây dựng thành công phép biện
chứng duy vật.
Đồng thời C.Mác kế thừa chủ nghĩa duy vật và tư tưởng vô thần của Phoi-ơ-bắc,
khắc phục những chế siêu hình của nó. Trên cơ sở đó, C.Mác sáng lập nên chủ nghĩa
duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật.
Hai ông đã phê phán nhiều hạn chế cả về phương pháp, cả về quan điểm, đặc biệt
là những quan điểm liên quan tới việc giải quyết quan điểm xã hội của Phoi-ơ- bắc,
3


bên cạnh đó hai ông cũng đánh giá cao vai trò tư tưởng của Phoi-ơ-bắc trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, khẳng định giới tự nhiên là tính thứ nhất, tồn
tại vĩnh viễn, không phụ thuộc vào nhận thức của con người. Chủ nghĩa duy vật, vô
thần của Phoi-ơ-bắc đã tạo tiền đề quan trọng cho bước chuyển của Các- Mác và Ăngghen từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật và là một tiền đề lý luận của
quá trình chuyển từ lập trường chủ nghĩa dân chủ-cách mạng sang lập trường chủ
nghĩa cộng sản.
Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh: với những đại biểu lớn của nó là
Adam Smith (1723-1790) và David Ricardo (1772-1823) đã góp phần vào quá trình
hình thành quan niệm duy vật về lịch sử của chủ nghĩa Mác.
Smits và Ricacđô là người có công lớn trong việc mở đầu xây dựng lý luận về giá
trị lao động trong lĩnh vực nghiên cứu kinh tế học chính trị. Smits và Ricacđô đã đưa
ra những kết luận quan trọng về nguồn gốc của lợi nhuận, về tính chất quan trọng hàng
đầu của quá trình sản xuất vật chất về những quy luật kinh tế. Song do những hạn chế
về phương pháp nghiên cứu nên các nhà kinh tế học chính trị cổ điển Anh đã không
cho thấy được tính lịch sử của giá trị, không thấy được mâu thuẫn của hàng hóa và sản
xuất hàng hóa, không thấy được tính hai mặt của sản xuất hàng hóa cũng như không
phân biệt được sản xuất hàng hóa giản đơn với sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa,
chưa phân tích được chính xác những biểu hiện của giá trị trong phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa.

Mác-Ăng-ghen trên cơ sở kế thừa những yếu tố khoa học trong lý luận về giá trị
lao động và những tư tưởng tiến bộ của các nhà kinh tế học chính trị cổ điển Anh đã
không thể vượt qua được để xây dựng nên lý luận về giá trị thặng dư, luận chứng khoa
học vể bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản cúng như sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa
xã hội.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng:đã có một quá trình phát triển lâu dài và đạt đến
đỉnh cao vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX với các nhà tư tưởng tiêu biểu là
H.Xanh Xi mông, S. Phu ri ê, R Ôoen.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng thể hiện đạm nét tinh thần nhân đạo, phê phán
mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản trên cơ sở vạch trần cảnh khốn cùng cả về vật chất và tinh
thần của người lao động trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và đã đưa ra nhiều tư
tưởng sâu sác về quá trình phát triển của lịch sử cũng như dự đoán về những đặc trưng
cơ bản của chủ nghĩa xã hội tương lai.
Hạn chế của chủ nghĩa xã hội không tưởng là đã không luận chứng được một
cách khoa học về bản chất của chủ nghĩa tư bản, không phát hiện quy luật phát triển
của chủ nghĩa tư bản và cúng không nhận thức được vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân với tư cách là một lực lượng xã hội có khả năng xóa bỏ chủ nghĩa tư
bản để xây dựng một xã hội bình đẳng, không có bóc lột.
Tinh thần nhân đạo và những quan điểm đúng đắn của các nhà chủ nghĩa xã hội
không tưởng về lịch sử, về đặc điểm của xã hội tương lai đã trở thành một trong những
tiền đề lý luận quan trọng cho sự ra đời của lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội trong
chủ nghĩa mác.
Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là một tất yếu lịch sử. Những điều kiện lịch sử đã
chín muồi cho phép các nhà khoa học đi đến những kết luận duy vật biện chứng về thế
giới nói chung và về xã hội loài người nói riêng. Chủ nghĩa Mác không thể ra đời sớm
hơn khi chưa có đủ những tiền đề vật chất và tư tưởng cần thiết. Mặt khác, nó cũng
không thể không ra đời được. Sự thật cho thấy rằng trong thời điểm này, đã có một số
4



nhà tư tưởng khác cũng đi đến những kết luận duy vật lịch sử một cách độc lập với
C.Mác và Ph.Ăngghen.
- Tiền đề khoa học tự nhiên
Chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác là kết quả của sự tổng kết những thành
tựu tư tưởng của nhân loại, được chứng minh và phát triển dựa trên những kết luận mới
nhất của khoa học tự nhiên, trong đó có 3 phát minh quan trọng nhất:
+ Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng.Năng lượng không tự sinh ra
mà cũng không tự mất đi, nó chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác mà thôi).
Quy luật này đã chứng minh một cách khoa học về mối quan hệ không tách rời nhau,
sự chuyển hóa lẫn nhau và được bảo toàn của các hình thức vận động của vật chất
trong giới tựn nhiên. Đây là cơ sở khoa học để khẳng định rằng vật chất và vận động
của vật chất không thể do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt. Chúng chỉ chuyển
hóa từ dạng này sang dạng khác, hình thức này sang hình thức khác mà thôi.
+ Thuyết tiến hóa của Darwin. Darwin đã kế thừa những thành tựu của Lamax
để viết nên tác phẩm Nguồn gốc các loài vào năm 1859. Thuyết tiến hóa đã đem lại cơ
sở khoa học về sự phát sinh, phát triển đa dạng bởi tính di truyền, biến dị và mối liên hệ
hữu cơ giữa những loài thực vật, động vật trong quá trình chọn lọc tự nhiên.
Học thuyết tiến hóa của ông đã luận chứng về quá trình đấu tranh sinh tồn của
muôn loài, qua sự chọn lọc tự nhiên, dần dần sản sinh ra những giống loài mới. Từ đó
ông đưa ra lý luận về sự tiến hoá của sinh vật mà hạt nhân là sự chọn lọc tự nhiên, vén
bức màn bí ẩn về sự tiên hoá của các loài trong tự nhiên. Lý luận tiến hoá sinh vật đã
áp dụng quan điểm lịch sử vào lĩnh vực sinh vật học. Nó luận chứng về quá trình lịc sử
của giới hữu cơ, chứng minh rằng, thực vật, động vật, bao gồm cả loài người đều là
sản phẩm phát triển của lịch sử.
- Học thuyết tế bào: Học thuyết tế bào do GS. M.Slaiđen (trường Đại học
Gana,ở Đức) xây dựng năm 1838. Là một căn cư khoa học chứng minh sự thống nhất
về mặt nguồn gốc, hình thái và cấu tạo vật chất của cơ thể thực vật, động vật và giải
thích quá trình phát triển sự sống trong mối liên hệ của chúng.
Ông cho rằng, tế bào là đơn vị sống cơ bản nhất trong kết cấu của mọi thực vật.
Qúa trình phát dục của thực vật là quá trình hình thành và phát triển của tế bào. Sau

đó, vào năm 1839 GS. T.Svannơ (GS phẫu thuật người của trường Đại học Ruăng ở
Đức) đã mở rộng học thuyết tế bào từ giới thực vật sang giới động vật, khiến loài
người nhận thức được rằng, tế bàolà đơn nguyên kết cấu chung của mọi cơ thể sinh
vật. Những phát hiện nêu trên đã vạch ra quá trình biện chứng của sự vận động, phát
triển, chuyển hoá không ngừng của bản thân giới sinh vật.
1.1.2.2. Giai đoạn hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác
C.Mác (Karl Marx, 1818-1883)
C.Mác sinh ở Trier (Đức), học Đại học ở Bon, Berlin. Ông có bằng tiến sĩ triết
học. Năm 1842 viết báo và trở thành chủ bút tờ Rheinische Zeitung. Năm 1843, tờ báo
bị đóng cửa và Mác bị trục xuất. Ông sang Paris (Pháp), Brussels (Bỉ) và cư trú lâu dài ở
Luân Đôn (Anh). Năm 1844 C.Mác và Ph.Ăngghen gặp nhau và trở thành đôi bạn thân
thiết, cùng cộng tác với nhau suốt cuộc đời làm khoa học và hoạt động cách mạng.
Những tác phẩm chủ yếu của C.Mác và Ph.Ăngghen: Phê phán triết học pháp
quyền Hêghen (1843); Bản thảo kinh tế - triết học 1844; Hệ tư tưởng Đức (1844); Gia
đình thần thánh (1845 - 1846); Tuyên ngôn Đảng cộng sản (1848); Phê phán Kinh tế
học chính trị (1859); Nội chiến ở Pháp (1871); Phê phán cương lĩnh Gotha (1875); Tư
bản (xuất bản thành 3 quyển trong những năm 1867- 1895) .
5


Ph.Ăngghen (Friedrich Engels, 1820-1895)
Ph.Ăngghen sinh ở Barmen (nay là Wuppertal). Bố của ông là một nhà doanh
nghiệp lớn ở Đức lúc bấy giờ. Tuy nhiên, Ph.Ăngghen lại say mê nghiên cứu khoa học
và triết học và cùng với Mác hoạt động trong phong trào cách mạng của giai cấp công
nhân và trở thành một trong những lãnh tụ của giai cấp vô sản thế giới.
Ngoài những tác phẩm viết chung với Mác, Ph.Ăngghen còn viết: Tình cảnh giai
cấp công nhân Anh (1844); Chống Đuy – ring(1878); Nguồn gốc của gia đình, sở hữu
tư nhân và nhà nước(1884); Biện chứng của tự nhiên(1872-1882); L.Phoi-ơ-bắc và sự
cáo chung của triết học cổ đển Đức (1886-1888); Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội
từ không tưởng đến khoa học (1892)….

* Giai đoạn hình thành chủ nghĩa Mác
- Thời gian từ 1842 về trước: C.Mác và Ph.Ăngghen là những thanh niên đầy nhiệt
tình và lòng nhân đạo, say mê nghiên cứu triết học, nhưng chưa thoát khỏi lập trường triết
học duy tâm và lập trường dân chủ cách mạng.
- Thời kỳ hình thành triết học Mác diễn ra từ 1842 đến 1848.
+ Bước chuyển từ lập trường duy tâm và dân chủ cách mạng sang lập trường
duy vật và chủ nghĩa xã hội khoa học bắt đầu từ khi Mác làm việc ở báo Sông Ranh từ
tháng 5-1842.
+ Năm 1843, sau khi báo Sông Ranh bị đóng cửa, Mác bắt tay viết tác phẩm
Phê phán triết học pháp quyền Hêghen.
+ Từ 1844, C.Mác và Ph.Ăngghen cộng tác với nhau từng bước xây dựng triết
học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
+ Năm 1844, Mác viết tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học 1844, nói lên vai
trò của lao động sản xuất vật chất trong việc sáng tạo ra bản thân con người và loài
người, vạch ra những biểu hiện và nguyên nhân của sự tha hóa của người công nhân
dưới chủ nghĩa tư bản.
+ Cũng trong năm 1844, Ph.Ăngghen viết tác phẩm Tình cảnh giai cấp công
nhân Anh.
+ Cuối năm 1844, C.Mác và Ph.Ăngghen viết tác phẩmGia đình thần thánhđể
phê phán thế giới quan duy tâm của các đại biểu trong nhóm Hêghen trẻ, qua đó trình
bày những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
+ Năm 1845, Mác viết Luận cương về Phoi-ơ-bắc, vạch ra những hạn chế của
Phoi-ơ-bắc trong quan niệm về con người và làm rõ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
+ Năm 1845-1846, hai ông viết tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, tiếp tục phê phán
Hêghen và chủ nghĩa duy tâm nói chung, phê phán những hạn chế của chủ nghĩa duy
vật trước Mác, đặc biệt là quan điểm duy tâm về lịch sử của Phoi-ơ-bắc. Đồng thời
trong tác phẩm này hai ông cũng trình bày một cách có hệ thống những nguyên lý của
chủ nghĩa duy vật lịch sử và tính tất yếu của chủ nghĩa cộng sản.
+ Năm 1847, hai ông viết tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, phê phán tính
chất duy tâm, siêu hình trong quan niệm về các phạm trù kinh tế của P.Prudhon, phát

triển phương pháp biện chứng duy vật, những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa
học, của kinh tế học chính trị.
+ Cuối 1847 đầu 1848 C.Mác và Ph.Ăngghen viết tác phẩm Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản. Hai ông trình bày một cách hoàn chỉnh lý luận về giai cấp và đấu
tranh giai cấp, vai trò lịch sử của giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, cương lĩnh cách
6


mạng của giai cấp vô sản. Bằng luận cứ khoa học và xác đáng, Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản đã vạch ra tính tất yếu của xã hội cộng sản, trong đó, khi sự đối kháng giai
cấp bị xóa bỏ thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng không còn. “Thay cho xã hội tư sản
cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong
đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người”1
* Giai đoạn phát triển chủ nghĩa Mác
- Sau 1848 là thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển triết học của
mình. Trong thời kỳ này, C.Mác và Ph.Ăngghen tham gia phong trào đấu tranh của
giai cấp vô sản và triết học của các ông trở thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản ở các
nước lớn ở châu Âu và châu Mỹ.
- Từ 1848 đến Công xã Paris năm 1871, C.Mác và Ph.Ăngghen viết nhiều tác
phẩm để tổng kết phong trào đấu tranh giai cấp ở Pháp như tác phẩm Đấu tranh giai
cấp ở Pháp(1848-1850),Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapac(18511852),Cách mạng và phản cách mạng ở Đức(do Ph.Ăngghen viết 1851-1852). Bộ
Tư bản cũng được Mác viết trong thời kỳ này.
- Từ 1871 trở đi, C.Mác và Ph.Ăngghen có thêm kinh nghiệm của Công xã Pari.
Những tác phẩm hai ông viết trong thời kỳ này tiếp tục khái quát kinh nghiệm đấu
tranh giai cấp của giai cấp công nhân, phát triển ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác
và làm phong phú thêm những nguyên lý của chủ nghĩa Mác. Mác tiếp tục viết tác
phẩm Tư bản, còn Ph.Ăngghen viết các tác phẩm Chống Duyring (1876-1878), biện
chứng của tự nhiên (1873-1883). Sau khi Mác qua đời năm 1883, Ph.Ăngghen hoàn
thành việc xuất bản bộ Tư bảncủa Mác, đồng thời tiếp tục lãnh đạo phong trào giai

cấp công nhân và viết một số tác phẩm như: Nguồn gốc của gia đình, sở hữu tư nhân
và nhà nước (1884),L.Phoi-ơ-bắcvà sự cáo chung của triết học cổ điển Đức(1886).
1.1.2.3. Giai đoạn bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác
Triết học Mác được V.I.Lênin bảo vệ, phát triển và vận dụng trong cách mạng vô
sản nên được gọi là triết học Mác-Lênin.
Vlađimir Ilich Lênin (1870-1924) sinh ở Simbirsk. Tên họ thật là Vladimir Ilyich
Ulyanov.V.I Lênin là người tổ chức Đảng Cộng sản Liên Xô và lãnh đạo Cách mạng
Tháng Mười thành lập nước Nga Xô Viết. Ông là người bảo vệ, vận dụng và phát triển
chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng.
Lênin phát triển chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng; lý luận nhận thức; lý luận về
giai cấp và đấu tranh giai cấp; lý luận về nhà nước và cách mạng vô sản, về chuyên chính
vô sản, về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
* Bối cảnh lịch sử mới và nhu cầu bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác
- Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã bước sang một giai đoạn
mới: chủ nghĩa tư bản độc quyền, chủ nghĩa đế quốc, là giai đoạncao của chủ nghĩa tư
bản. Các nước tư bản chia nhau thị trường thế giới và gây ra cuộc chiến tranh thế giới
1914-1918. Bản chất bóc lột và thống trị của chủ nghĩa tư bản ngày càng bộc lộ rõ nét,
mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản ngày càng sâu sắc, điển hình là mâu thuẫn giữa
giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
Tại các nước thuộc địa, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc tạo nên sự
thống nhất giữa cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản, giữa nhân dân
1

Các Mác và Ăng ghen toàn tập (1994), NXB Chính trị quốc gia, tập 4, tr.628.

7


các nước thuộc địa với giai cấp công nhân ở chính quốc. Trung tâm của cuộc đấu
tranh cách mạng giai đoạn này là nước Nga. Giai cấp vô sản Nga và nhân dân lao

động Nga dưới sự lãnh đạo của Đảng Bô sê vích đã trở thành ngọn cờ đầu của cách
mạng thế giới
- Cách mạng vô sản đã trở thành nhiệm vụ trực tiếp.
- Sau khi Ph.Ăngghen qua đời, các phần tử cơ hội trong Quốc tế II xuyên tạc chủ
nghĩa Mác. Tình hình đó đòi hỏi Lênin phải tiến hành đấu tranh bảo vệ và phát triển
chủ nghĩa Mác.
- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong khoa học tự nhiên, nhất là trong vật lý
học, có một loạt phát minh khoa học làm đảo lộn quan niệm siêu hình về vật chất và
vận động, gây ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý học. Một số nhà khoa
học tự nhiên, đặc biệt trong lĩnh vực vật lý học, do thiếu sự vững chắc về phương pháp
luận triết học duy vật nên đã rơi vào tình trạng khủng hoảng thế giới quan. Chủ nghĩa
duy tâm lợi dụng tình trạng khủng hoảng này để tấn công và bác bỏ chủ nghĩa duy vật
gây ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức và hành động của các phong trào cách mạng.V.
I. Lênin phải tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và bảo vệ và phát triển chủ
nghĩa duy vật.
Đây cúng là thời kỳ chủ nghĩa Mác được truyền bá rộng rãi vào nước Nga.
Ddeere bảo vệ quyền lợi và địa vị của giai cấp tư sản, những trào lưu tư tưởng như:
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại v.v.. đã mang
danh đổi mới chủ nghĩa Mác để xuyên tạc và phủ nhận chủ nghĩa Mác.
* Vai trò của V.I Lênin đối với việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong
điều kiện lịch sử mới
Trước năm 1907, V.I. Lênin lãnh đạo phong trào công nhân Nga, tiến hành đấu
tranh chống phái dân túy. V.I. Lênin viết các tác phẩm như: Những người bạn dân là
thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao(1894);Nội
dung kinh tế của chủ nghĩa dân túy và sự phê phán trong cuốn sách của ông
Stơruvê về nội dung đó(1894); Làm gì(1902);Hai sách lược của Đảng dân chủ - xã
hội trong cách mạng dân chủ (1905).
Sau thất bại của cuộc cách mạng 1905-1907, V.I.Lênin viết tác phẩm Chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1908);Bút ký triết học(19141916); Ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác; tác phẩm C.Mác; Chủ nghĩa đế
quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản(1916);Nhà nước và cách

mạng(1917).Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán, Lênin phê phán chủ nghĩa duy tâm chủ quan và phát triển chủ nghĩa duy vật,
phát triển lý luận nhận thức duy vật biện chứng. Trong tác phẩm Bút ký triết học,
Lênin tổng kết và phát triển phép biện chứng duy vật.
Lênin đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác vào hoàn cảnh cụ thể của nước Nga
và lãnh đạo thành công cuộc cách mạng Tháng Mười Nga, mở ra cho nhân loại một
thời đại mới: thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới.
Sau Cách mạng Tháng Mười, Lênin nghiên cứu giải quyết các vấn đề của cách
mạng vô sản, xây dựng cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ,
vấn đề xây dựng đảng và nhà nước. Những tác phẩm trong thời kỳ này là: Những
nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết (1918); Bệnh ấu trĩ tả khuynh và tính
tiểu tư sản (1918); Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản(1820); Về
8


Chính sách kinh tế mới (1921); Vềtác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu (1922).
Đặc biệt, trong chính sách kinh tế mới, Lênin nêu lên tư tưởng về nền kinh tế nhiều
thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.1.2.4. Chủ nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn phong trào cách mạng thế giới
Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới.
- Cách mạng tháng Mười mở ra cho nhân loại thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới:
+ Sau cuộc cách mạng Tháng Mười thì chủ nghĩa xã hội từ lý luận đã trở thành
thực tiễn, lịch sử phát triển của xã hội loài người xuất hiện hình thái kinh tế - xã hội
mới đối lập với hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa.
+ Chiều hướng phát triển chủ yếu, trục chuyển động xuyên suốt của lịch sử từ
sau Cách mạng Tháng Mười Nga là đấu tranh xoá bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa và xây
dựng chủ nghĩa xã hội.

+ Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga, các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào
Cộng sản và công nhân quốc tế trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong cuộc đấu
tranh vì hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên phạm vi thế giới.
+ Sau Cách mạng Tháng Mười, cách mạng giải phóng dân tộc nằm trong phạm
trù cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhiều quốc gia sau khi giành được độc lập dân tộc đã
đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
- Sau khi Lênin qua đời, Đảng Cộng sản Liên Xô và các đảng cộng sản trên thế
giới tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và vận dụng nó trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
+ Chủ nghĩa xã hội đã đem lại những thành tựu to lớn ở Liên Xô, đưa nước Nga
từ một nước tư bản lạc hậu thành một trong những nước có công nghiệp và khoa học
tiên tiến nhất thế giới. Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội đã góp phần tiêu diệt chủ nghĩa
phát xít, cổ vũ và ủng hộ phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội trên
toàn thế giới. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều dân tộc bị áp bức và lạc hậu trên thế
giới hướng về Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa như là ngọn cờ tiêu biểu cho độc
lập, dân chủ và công bằng xã hội. Tuy nhiên, các đảng cộng sản cầm quyền ở các nước
đã mắc phải sai lầm trong việc nhanh chóng xóa bỏ kinh tế thị trường, xóa bỏ các
thành phần kinh tế tư nhân, đồng nhất hợp tác hóa với tập thể hóa, duy trì quá lâu hệ
thống quan liêu bao cấp khi tình hình thế giới đã có những biến đổi lớn lao.
- Trong những năm đầu thập kỷ 80, chủ nghĩa xã hội bắt đầu lâm vào cuộc
khủng hoảng: sản xuất rơi vào tình trạng trì trệ, hiệu quả và tính tích cực xã hội giảm
sút. Do sai lầm trong cải tổ, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ.
Tuy nhiên, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu không đồng nhất với sự
sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung. Một số nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc,
Việt Nam ... thực hiện thành công công cuộc đổi mới chủ nghĩa xã hội, chẳng những đã có
thể ra khỏi khủng hoảng, mà còn thực hiện tốt hơn những mục tiêu của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
- Sự tan rã của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu không phải là thất bại của
chế độ và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội, mà chỉ là sự thất bại của một mô
hình thực tiễn nhất định, tức mô hình Liên Xô của chủ nghĩa xã hội. Việc đổi mới

thành công chủ nghĩa xã hội ở một số nước đã mở ra cho nhân loại nhiều triển vọng
mới. Nhân loại chẳng những không từ bỏ chủ nghĩa xã hội, mà trái lại, tìm kiếm một
9


mô hình mới của chủ nghĩa xã hội phù hợp với tình hình mới.
- Công cuộc đổi mới ở nước ta do Đảng ta phát động và lãnh đạo không có
nghĩa là từ bỏ mà là nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững sự lãnh đạo của Đảng; kiên trì mục tiêu chủ
nghĩa xã hội; nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh cho phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước ta và trên thế giới trong tình
hình hiện nay.
1.2. Đối tượng, mục đích và yêu cầuvề phương pháp học tập, nghiên cứu những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
1.2.1. Đối tượng, mục đích của việc học tập, nghiên cứu
- Đối tượng học tập, nghiên cứu “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa MácLênin” là: “những quan điểm và học thuyết” của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I Lênin
trong phạm vi những quan điểm, học thuyết cơ bản nhất thuộc ba bộ phận cơ bản cấu
thành chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Mục đích của việc học tập, nghiên cứu Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin là để xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học và vận
dụng sáng tạo những nguyên lý đó trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Đồng thời
hiểu rõ cơ sở lý luận quan trọng nhất của Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam; nền tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng niềm tin,
rèn luyện và tu dưỡng đạo đức nhằm đáp ứng được với tình hình mới.
1.2.2. Một số yêu cầu cơ bản về phương pháp học tập, nghiên cứu
- Thứ nhất, những luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin không phải là lý luận
“chết cứng”, một chiều mà nó luôn luôn vận động và phát triển cùng với tiến trình phát
triển của lịch sử nhân loại. Do đó, khi học tập và nghiên cứu những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin cần phải hiểu đúng tinh thần, thực chất của nó; tránh bệnh
kinh viện, giáo điều trong quá trình học tập, nghiên cứu và vận dụng các nguyên lý cơ
bản đó trong thực tiễn.

- Thứ hai, sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin là một quá
trình. Trong quá trình ấy, những luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin có mối quan hệ
mật thiết với nhau, bổ sung và hỗ trợ nhau. Vì vậy, học tập, nghiên cứu mỗi luận điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin chúng ta phải đặt trong mối quan hệ với các luận điểm khác,
ở các bộ phận cấu thành khác, có như vậy mới thấy được sự thống nhất trong tính đa
dạng và nhất quán của chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Thứ ba, học tập và nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa MácLênin để hiểu rõ cơ sở lý luận quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, phải gắn những luận điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin với điều kiện thực tiễn của Việt Nam và bối cảnh của thời đại, có
như vậy mới thấy được sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện trong từng giai đoạn lịch sử.
-Thứ tư;Học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
để đáp ứng yêu cầu của con người Việt Nam trong giai đoạn mới.Vì vậy quá trình học
tập, nghiên cứu đồng thời cũng là quá giáo dục, tự giáo dục, tu dưỡng và rèn luyện để
từng bước hoàn thiện mình trong đời sống cộng đồng xã hội.
Thứ năm, chủ nghĩa Mác-Lênin không phải là một hệ thống khép kín, nhất
thành bất biến, trái lại, đây là một hệ thống lý luận không ngừng vận động và phát
triển trên cơ sở những thành tựu của văn minh nhân loại. Vì vậy, việc học tập, nghiên
10


cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin đồng thời cũng là quá trình
tổng kết, đúc kết kinh nghiệm để góp phần phát triển tính khoa học, tính cách mạng và
nhân văn vốn có của nó. Mặt khác, việc học tập, nghiên cứu các nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác-Lênin cũng cần phải đặt nó trong tiến trình phát triển của lịch sử tư
tưởng nhân loại, có như vậy chúng ta mới đảm bảo được tính khoa học và tính cách
mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Câu hỏi:
1. Trình bày tiền đề ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin.
2. Đối tượng, mục đích, yêu cầu về phương pháp nghiên cứu, học tập những nguyên lý

cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin.

11


Chương 2 CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
2.1. Thế giới quan và phương pháp luận
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế
giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó.
Thế giới quan đóng vai trò định hướng cho toàn bộ cuộc sống của con người, từ thực
tiễn đến hoạt động nhận thức thế giới cũng như tự nhận thức bản thân để từ đó xác
định lý tưởng, hệ giá lối sống, nếp sống của mình. Như vậy, thế giới quan đúng đắn,
khoa học là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực và trình độ phát triển của thế
giới quan là một trong những tiêu chí cơ bản để đánh giá sự trưởng thành của mỗi
cánhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội.
Trong lịch sử nhân loại đã tồn tại 3 hình thức thế giới quan cơ bản là:
- Thế giới quan thần thoại. Đây là hình thức thế giới quan của người nguyên
thuỷ trong giai đoạn sơ khai của lịch sử và nó còn tồn tại lâu dài đến nhiều thế kỷ sau
đó. Đặc trưng của thế giới quan thần thoại, nó phản ánh những kết quả cảm nhận ban
đầu của con người về thế giới mà trong đó các yếu tố hiện thực và tưởng tượng, cái có
thật và cái hoang đường, tư duy và xúc cảm hoà quyện vào nhau.
- Thế giới quan tôn giáo: Đó là sự phản ánh hiện thực một cách hư ảo, đặc trưng
của thế giới quan tôn giáo là niềm tin vào sự tồn tại và sức mạnh của một đấng siêu
nhiên, của thần thánh. Tôn giáo tin vào lực lượng trên trời, vào đấng sáng thế.
Ôguytxtanh (350 – 430) đã nói, Chúa hoàn toàn làm chủ và định đoạt số phận
của con người và số phận của thế giới. Chúa ban phát cho con người nguồn sống. Vì
vậy, con người không thể kỳ vọng vào điều gì khác ngoài sự ân sảng của chúa. “Con
người chỉ là kẻ bộ hành trên trái đất, là cây nêu trước gió mạnh”.
- Thế giới quan triết học diễn tả quan niệm dưới dạng hệ thống các phạm trù,
quy luật đóng vai trò như những bậc thang trong quá trình nhận thức. Như vậy, Triết

học được coi như trình độ tự giác trong quá trình hình thành phát triển của thế giới
quan. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, đóng vai trò định hướng, củng cố
và phát triển của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử.
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống quan điểm, các
nguyên tắc chỉ đạo con người tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương
pháp trong nhận thức và thực tiễn. Phương pháp luận có nhiều cấp độ; trong đó,
phuơng pháp luận triết học là phương pháp luận chung nhất.
Thế giới quan và phương pháp luận triết học là lý luận nền tảng của chủ nghĩa
Mác – Lênin: là sự kế thừa, phát triển tinh hoa chủu nghĩa duy vật và phép biện chứng
trong lịch sử tư tưởng của nhân loại.
Chủ nghĩa duy vật trong chủ nghĩa Mác – Lênin là chủ nghĩa duy vật biện
chứng với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học: là chủ nghĩa duy vật
lịch sử với tư cách là hệ thống: các quan điểm duy vật biện chứng về nguồn gốc, động
lực và những quy luật chung nhất chi phối sự vận động, phát triển xã hội loài người.
Phép biện chứng trong chủ nghĩa Mác-Lênin là phép biện chứng duy vật với tư
cách là “học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sấc nhất và
không phiến diện”, học thuyết về tính tương đối của nhận thức – “cái mà ngày nay
người ta gọi là lý luận nhận thức hay nhận thức luận”.
Nắm vững những nội dung cơ bản về thế giới quan và phương pháp luận triết
học của chủ nghĩa Mác — Lênin vừa lả điều kiện tiên quyết đế nghiên cứu toàn bộ hệ
thống lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, vừa là điều kiện tiên quyết để vận dụng nó
12


một cách sáng tạo trong hoạt động nhận thức và thực tiễn nhằm giải quyết những vấn
đề mà đời sống xã hội của đất nước, của thời đại đang đặt ra.
2.2. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy vật biện chứng
2.2.1. Sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong việc giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học
Trái đất vận động như thế nào? Thuộc về vấn đề của vật lý địa cầu. Nhưng trái

đất vận động là do nó tự vận động hay là do cái hích bên ngoài, có hay không lực thúc
đẩy thì đây lại thuộc về vấn đề của triết học. Vậy triết học là gì?
Triết học: Nguyên trong tiếng Hy Lạp Philosophie. Philos có nghĩa là “người
yếu quý” “người bạn” và sophie có nghĩa là “trí khôn”, “khôn khéo”, “khôn ngoan”,
“sự thông thái”.
Những nghĩa này không hoàn toàn khác nhau vì theo người Hy Lạp ngày xưa
có hiểu biết thời đại mới là không ngoan, nhờ đó mà có thể hành động khôn khéo,
không hiểu biết thì không thể thành công.
Khái niệm triết học thay đổi theo lịch sử Đông - Tây, nhưng thường có hai yếu tố:
- Yếu tố nhận thức
Tri thức về vũ trụ và con người, giải thích bằng một hệ thống tư duy
- Yếu tố nhận định
Đánh giá về mặt đạo lý để có thái độ, hành động.
“Triết học là một hệ thống quan điểm chung về thế giới (Tự nhiên, xã hội) và
vai trò của con người trong thế giới đó”.
“Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội; là hệ thống những quan
điểm, quan niệm chung nhất của con người về thế giới; về mối quan hệ giữa tồn tại và
nhận thức; về vị trí và vai trò của con người trong thế giới đó; về những quy luật
chung nhất của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy”.
Triết học với tư cách là thế giới quan bao gồm vấn đề của rất nhiều lĩnh vực (tự
nhiên, xã hội và tư duy nhân loại), rất nhiều phương diện (bản thể luận, nhận thức luận,
giá trị luận, nhân sinh quan, phương pháp luận), nhưng trong đó có một vấn đề xuyên
suốt các lĩnh vực và phương diện quyết định toàn bộ tính chất hệ thống triết học và có
tác dụng chi phối đối với việc giải quyết các vấn đề triết học, đó chính là vấn đề cơ bản
của triết học.
2.2.1.1. Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
Trong tác phẩm “L.Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của Triết học cổ điểm
Đức”Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi triết học, đặc biệt là triết
học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại” (Toàn tập, t. 21,tr.403).
Trong thế giới có vô vàn hiện tượng nhưng chung qui lại chúng ta chỉ phân làm

hai loại, một là, những hiện tượng vật chất (tồn tại, tự nhiên), hai là, những hiện tượng
tinh thần (tư duy, ý thức). Do vậy, vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức được
goi là “vấn đề cơ bản lớn nhất” của triết học. Vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và
là điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học. Đây được coi là vấn đề
cơ bản vì:
- Bất kỳ một trường phái triết học nào cũng đều phải giải quyết vấn đề này bằng
cách này hay cách kia
- Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học - mối quan hệ giữa tư duy và tồn
tại là cơ sở để giải quyết vấn đề khác của triết học: vận động, không gian, thời gian…
13


- Giải quyết vấn đề cơ bản này của triết học là tiêu chuẩn để xác định lập trường
thế giới quan của các triết gia và các trường phái triết học.
+ Tự nhiên - tinh thần
+ Tồn tại - tư duy
+ Vật chất – ý thức
Vấn đề cơ bản của triết học gồm hai mặt:
- Mặt thứ nhất (mặt bản thể luận) trả lời câu hỏi: trong mối quan hệ giữa tư duy
và tồn tại, giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào sinh ra
cái nào, cái nào quyết định cái nào? (Trong mối quan hệ giữa con người với giới tự
nhiên thì vị trí và vai trò của con người đối với giới tự nhiên như thế nào?).
Chủ nghĩa duy vật là trường phái triết học xuất phát từ quan điểm: bản chất của
thế giới là vật chất; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất có trước ý
thức và quyết định ý thức.
Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học cho rằng: bản chất của thế giới là tinh
thần; ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức có trước và quyết định vật
chất.
Ngoài sự phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, người ta còn phân
biệt:

Thuyết nhất nguyên là khuynh hướng triết học cho rằng thế giới chỉ có một bản
nguyên, là thực thể vật chất hoặc thực thể tinh thần có trước và quyết định. Tùy theo
quan niệm cho rằng vật chất hay tinh thần là thực thể của thế giới mà thuyết nhất
nguyên có hai hình thức tương ứng: thuyết nhất nguyên duy vật và thuyết nhất nguyên
duy tâm.
Thuyết nhị nguyên cho rằng có hai thực thể vật chất và ý thức song song tồn tại,
không phụ thuộc lẫn nhau.
- Mặt thứ hai (mặt nhận thức luận) trả lời câu hỏi: tư duy con người có khả năng
nhận thức thế giới chung quanh hay không?(Trong mối quan hệ giữa con người với
giới tự nhiên thì khả năng nhận thức của con người với giới tự nhiên ra sao?).
Trong việc giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học có hai khuynh
hướng đối lập nhau là thuyết khả tri và thuyết bất khả tri. Đa số các nhà triết học
khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới, có khả năng đạt được
chân lý khách quan. Một số các nhà triết học phủ nhận một phần hay toàn bộ khả năng
nhận thức của con người. Những nhà triết học này thuộc thuyết bất khả tri (có nghĩa là
không thể nhận thức được). Đại biểu của khuynh hướng này là Protagor, D.Hium,
I.Cantơ

14


CNDV
Mặt thứ nhất

Nhất nguyên (duy nhất )

Nhị nguyên (2 mặt)
CNDT

Khả tri


Nhận thức được thế giới

Mặt thứ hai

Bất khả tri

Không nhận thức được thế giới

2.2.1.2. Sự đối lập giữa hai quan điểm duy vật và duy tâm trong việc giải quyết vấn
đề cơ bản của triết học
- Chủ nghĩa duy vật là trào lưu triết học cho rằng tồn tại (tự nhiên, vật chất) có
trước tư duy (tinh thần, ý thức), và quyết định ý thức.
Chủ nghĩa duy vật có những hình thức lịch sử cơ bản: chủ nghĩa duy vật ở
phương Đông và Hy Lạp cổ đại, chủ nghĩa duy vật Tây Âu thế kỷ XVII, XVIII và chủ
nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăng - ghen sáng lập.
- Chủ nghĩa duy tâm là trào lưu triết học cho rằng tư duy, ý thức có trước vật
chất, sinh ra và quyết định vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức: Chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ
nghĩa duy tâm chủ quan. Chủ nghĩaduy tâm khách quan cho rằng có một lực lượng
siêu tự nhiên (ý niệm, ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới, Trời, Thượng đế) có trước,
sinh ra và quyết định thế giới vật chất. Những đại biểu của trào lưu này là Platônn,
G.V.Hêghen, Thomas Aquinas (Tômát Đacanh), v.v.. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan
cho rằng cảm giác, ý thức quyết định vật chất, vật chất không tồn tại độc lập mà phụ
thuộc vào cảm giác, ý thức. Những đại biểu của trào lưu này là George Berkeley
(Beccơli), David Hume (Đavít Hium).
2.2.2. Chủ nghĩa duy vật biện chứng - hình thức phát triển cao nhất của chủ
nghĩa duy vật
Trong lịch sử, cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy
vật đã được hình thành và phát triển với ba hình thức cơ bản là: chủ nghĩa duy vật chất

phác. chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
2.2.2.1. Chủ nghĩa duy vật chất phác
- Đây là hình thái lịch sử đầu tiên của chủ nghĩa duy vật, nó xuất hiện ở nhiều
dân tộc trên thế giới như: Ấn Độ, Trung Quốc, Hy Lạp…
+ Tư tưởng triết học Phật giáo nguyên thủy chứa đựng những yếu tố duy vật và
biện chứng chất phác, thể hiện rõ nét nhất ở quan niệm về tính tự thân sinh thành, biến
đổi vạn vật, tuân theo tính tất định và phổ biến của luật nhân - quả. Con người sinh ra
là nhờ sự hội tụ của tinh cha huyết mẹ.
15


+ Tư tưởng triết học về Ngũ hành: Năm yếu tố cơ bản: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa
- Thổ tương sinh tương khắc, là cội nguồn sinh ra vạn vật.
Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật
thời cổ đại. Trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, chủ nghĩa duy vật giai đoạn
này đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể, coi đó là thực thể đầu tiên,
là bản nguyên của vũ trụ.
Tuy còn nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật thời kỳ cổ đại đã có nhiều
đóng góp cho lịch sử phát triển của tư tưởng nhân loại vì nó đã lấy bản thân giới tự
nhiên để giải thích giới tự nhiên, nó không viện đến thần linh hay một đấng sáng tạo
nào để giải thích thế giới.
2.2.2.2. Chủ nghĩa duy vật siêu hình
Chủ nghĩa duy vật siêu hình xuất hiện từ khoảng thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII
và đạt đỉnh cao vào thế kỷ XIX.
- Đây là thời kì phát triển rực rỡ của cơ học đó là quan điểm xem xét thế giới
theo kiểu máy móc tác động tới các nhà duy vật.
- Các nhà duy vật chỉ xem xét giới tự nhiên và con người như hệ thống máy
móc phức tạp khác nhau mà thôi.
- Chủ nghĩa duy vật thời kì này là siêu hình vì họ chỉ thấy sự vật là trong trạng
thái biệt lập, ngưng đọng, không vận động.

- Nhìn nhận về sự phát triển của sự vật hiện tượng: Không thừa nhận sự phát
triển của sự vật, nếu có chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng
2.2.2.3. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được
V.I.Lênin và những người kế tục bảo vệ và phát triển. Kế thừa những tinh hoa trong
lịch sử triết học của nhân loại và vận dụng những thành tựu của khoa học tự nhiên
đương thời C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên những quan điểm, nguyên lý, quy
luật cơ bản nhất của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
*Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ
quan điểm thực tiễn:
+ Khẳng định quan điểm duy vật về thế giới, đặt nền móng cho chủ nghĩa duy
vật về sau
+ Đấu tranh chống lại quan điểm chủ nghĩa duy tâm tôn giáo về thế giới.
+ Sự ra đời của Chủ nghĩa duy vật biện chứng tạo ra bước ngoặc lịch sử, Mác
đặt quan điểm thực tiễn vào trong triết học, thay đổi tận gốc quan điểm triết học.
Chủ nghĩa duy vật khẳng định: vật chất có trước và quyết định ý thức (nguyên
tắc xuất phát của Chủ nghĩa duy vật biện chứng), nếu không thấy quan điểm này sẽ rơi
vào chủ nghĩa duy tâm, biểu hiện chủ quan duy ý chí.
+ Ý thức không phải là sự phản ảnh thụ động, rập khuôn, máy móc mà là sự
phản ảnh tích cực, năng động, sáng tạo và có sự tác động trở lại đối với vật chất, nếu
không thấy điều này sẽ rơi vào Chủ nghĩa duy tâm tầm thường, Chủ nghĩa duy vật siêu
hình, máy móc.
Mác không những đã làm cuộc cách mạng chủ nghĩa triết học mà còn là cơ sở
khắc phục những khuyết điểm, những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác.
*Sự thống nhất của thê giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng.
16


- Phép biện chứng duy vật trình bày một cách hệ thống, chặt chẽ, có tính biện
chứng của thế giới thông qua những phạm trù và những quy luật chung nhất của thế

giới (tự nhiên, xã hội và tư duy).
- Phép biện chứng của Mác và Ănghen hình thành dựa trên sự kế thừa có chọn
lọc những thành tựu của những nhà Triết học trước đó. Mác cải tạo phép biện chứng
của Heghen, lọc bỏ những yếu tố duy tâm và đặt nó trên cơ sở thế giới quan duy vật.
Đồng thời Mác kế thừa quan điểm duy vật của Phơ Bách. Như vậy phép biện chứng
duy vật của Mác và Ăngghen là sự thống nhất về thế giới quan duy vật và biện chứng.
Phép biện chứng đòi hỏi khi nhận xét các sự vật hiện tượng thì đặt chúng trong sự vận
động, biến đổi và phát triển, từ đó có cách nhìn đúng đắn về chúng.
* Quan niệm duy vật về lịch sử.
- Thành tựu to lớn, vĩ đại nhất của Mác: Đánh dấu cột mốc triết học trong lịch
sử, làm cho Chủ nghĩa duy vật triệt để dựa trên 2 phát kiến: Quan niệm duy vật lịch sử
và học thuyết giá trị thặng dư.
- Với sự ra đời của Chủ nghĩa duy vật biện chứng thì “Chủ nghĩa duy vật bị lấy
ra khỏi hầm trú ẩn cuối cùng của nó” (Anghen).
- Mác đã tổng kết lịch sử dựa vào sự kế thừa tư tưởng nhân loại trong quan
điểm về xã hội đồng thời với việc khái quát thực tiễn mới. Do vậy trong đánh giá
Lênin nói: “Cùng với học thuyết giá trị thặng dư, quan niệm DVLS đã mang lại cho
loài người nhận thức vĩ đại mà còn là công cụ cải tại thế giới.
*Tính khoa học và tính cách mạng.
+ Tính khoa học.
- Phản ảnh đúng đắn bản chất sựu vật hiện tượng, kế thừa những tinh hoa của
lịch sử triết học nhân loại nói chung và của Phương Đông, Phương Tây cổ đại và triết
học cổ điển Đức và được chứng minh bằng những thành tựu của KH-KT hiện nay. Đặc
biệt khoa học tự nhiên (thế kỷ 19) với 3 thành tựu khoa học lớn: Thuyết tiến hoá,
Thuyết tế bào và định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng phản ảnh đúng đắn bản chất và các quy luật của
thế giới, điều này đã được khoa học và thực tiễn cách mạng kiểm nghiệm.
- Giá trị: Là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận, đặt hướng cho sự phát triển
các giá trị KH khác nhau.
+ Tính Cách mạng.

Không chỉ dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn nhận thức và cải tạo thế giới,
cải tạo con người. Căn cứ vào thực tiễn cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới vì con
người, hướng con người vào cái mới, cái tốt đẹp hơn. Đó là phương pháp luận phổ
biến định hướng và phát triển xã hội, là vũ khí tinh thần cho giai cấp công nhân và
nhân dân lao động trên thế giới trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân,
giải phóng con người, giải phóng toàn xã hội. Đó là hệ thống mở luôn được bổ sung
bằng những thành tựu của khoa học và thực tiễn xã hội.
Biểu hiện của sự thống nhất của tính Cách mạng và tính khoa học: tính Cách
mạng và tính khoa học bao hàm nhau. Tính cách mạng càng cao thì tính khoa học càng
thực tiễn.
Tóm lại có thể nói chủ nghĩa duy vật biện chứng mới thực sự đóng vai trò là cơ
sở lý luận của thế giới quan khoa học. Các hệ thống triết học khác, do những hạn chế
của nó nên không thể là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học được.
17


2.3. Quan điểm duy vật biện chứng về vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức
2.3.1. Vật chất
2.3.1.1. Phạm trù vật chất
Việc khám phá ra bản chất và cấu trúc tồn tại của thế giới xung quanh ta, mà
trước hết là thế giới của những vật hữu hình là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong
lịch sử nhận thức của nhân loại. Hầu hết các trường phái triết học đều bằng cách này
hay cách khác giải quyết vấn đề này. Và bởi vậy trong triết học phạm trù vật chất xuất
hiện.
Phạm trù là gì? Phạm trù là khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt,
những thuộc tính, những mối liên hệ chung cơ bản của các sự vật, hiện tượng thuộc
một lĩnh vực hiện thực nhất định gọi là phạm trù.
- Vật chất được hiểu một cách khái quát nhất là một phạm trù cơ bản, phạm trù
nền tảng của chủ nghĩa duy vật. Vật chất là phạm trù cơ bản, phạm trù nền tảng của

chủ nghĩa duy vật bởi 2 lí do sau:
+ Thứ nhất: phạm trù này chứa đựng toàn bộ nội dung thế giới quan, phương
pháp luận rất sâu sắc của chủ nghĩa duy vật .
+ Thứ hai: từ phạm trù này mà toàn bộ phạm trù khác mới được giải quyết
VD: phạm trù ý thức, vận động -đứng im, không gian, thời gian…Tất cả những
vấn đề này đều được giải quyết dựa trên nền tảng của phạm trù vật chất. Chính vì vậy
phạm trù vật chất là phạm trù nền tảng của chủ nghĩa duy vật nên chủ nghĩa duy tâm
đã chống lại chủ nghĩa duy vật bằng cách phủ nhận phạm trù vật chất của chủ nghĩa
duy vật để qua đó làm sụp đổ chủ nghĩa duy vật
- Phạm trù vật chất ra đời cách đây trên dưới 2500 năm trong triết học Hy Lạp
cổ đại. Ngay từ lúc mới xuất hiện xung quanh phạm trù này đã diễn ra cuộc đấu tranh
gay gắt giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Nội dung của phạm trù vật chất
không phải là bất biến, nó có sự biến đổi và phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau.
* Khái quát quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất
- Chủ nghĩa duy tâm: phủ nhận vật chất với tính cách là thực tại khách quan.
Cho rằng thế giới vật chất là tạo vật của thượng đế, hoặc là “sự kết hợp” những cảm
giác của con người.
-Chủ nghĩa duy vật cổ đại: thừa nhận thế giới là thế giới vật chất, tồn tại khách
quan. Họ đi tìm bản nguyên của thế giới và gắn nó với những vật thể cụ thể (bản nguyên
là khởi nguyên ban đầu, là khởi thủy, là cái gốc đầu tiên của thế giới)
- Phương Đông cổ đại:
+ Ấn Độ: phái Lôkayata cho rằng bản nguyên của thế giới là do 4 yếu tố: đất,
nước, lửa, không khí. Bốn yếu tố này kết hợp với nhau tạo ra các sự vật hiện tượng
trong thế giới.
+ Trung Quốc: thuyết ngũ hành quy bản nguyên của thế giới là 5 yếu tố: kim - mộc
- thủy - hỏa - thổ. Năm yếu tố này không tách rời mà luôn chuyển hóa, tương tác với nhau
tạo thành tính muôn màu muôn vẻ của thế giới.
- Phương Tây cổ đại
+ Talét: quy vật chất về nước vì theo ông nước sinh ra mọi vật, nước rất cần
thiết cho sự sống, không có nước không có sự sống và nước cũng nhấn chìm đi tất cả.

+ Anaximen: quy vật chất về không khí vì theo ông không khí giãn ra thành
18


lửa, đông lại thành gió, đất, đá…
+ Hêraclít: quy vật chất về lửa vì theo ông lửa là cơ sở của mọi sự liên kết và
biến hóa, lửa sinh ra mọi vật và cũng thiêu rụi tất cả.
+ Đêmôcrít: cho nguyên tử là khởi nguyên của thế giới.
- Phương Tây (thế kỷ XVII – XVIII) chủ nghĩa duy vật:Kế thừa nguyên tử luận
thời cổ đại, các nhà duy vật thời cận đại tiếp tục coi nguyên tử là những phần tử vật
chất nhỏ nhất, không phân chia được, vẫn tách rời chúng một cách siêu hình với vận
động, không gian và thời gian. Họ chưa thấy được vận động là thuộc tính cố hữu của
vật chất. Các nhà triết học thời kỳ này còn đồng nhất vật chất với một thuộc tính nào
đó của vật chất như đồng nhất vật chất với năng lượng, với khối lượng.
Tóm lại, các nhà triết học trước Mác đại đều không trả lời được câu hỏi, bản chất
của thế giới là gì? Mà họ lại đi vào nghiên cứu, tìm hiểu cấu tạo của vật chất. Do vậy, họ
đã khẳng định, vật chất là cái bất biến, cái cụ thể nào đó. Quan niệm này đã tồn tại suốt
nhiều thế kỷ trong lịch sử triết học.Quan điểm duy vật thời kì cận đại (thế kỉ XVII –
XVIII)
Thời kì này bằng thực nghiệm khoa học người ta đã tìm ra nguyên tử, do đó quan
niệm vật chất là nguyên tử càng được củng cố và trở thành quan niệm chung, phổ biến
thời kì bấy giờ và người ta đi đến thống nhất vật chất là nguyên tử.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của quan điểm máy móc siêu hình trong khoa học tự
nhiên thời kì bấy giờ nên quan niệm về vật chất cũng mang tính cơ giới, siêu hình.
Ngoài ra họ còn đồng nhất vật chất với khối lượng, hay coi khối lượng là vật chất. Các
nhà khoa học thời kỳ này như:
+ Niu tơn: đồng nhất vật chất với khối lượng, vận động của vật chất là vận động
cơ học tách rời vận động, không gian, thời gian
+ Spinôza: nhà triết học người Hà Lan – theo ông thế giới là thế giới của các sự
vật riêng lẻ và ông cũng máy móc khi cho rằng: toàn bộ thế giới là một hệ thống toán

học có thể nhận thức đến cùng được nhờ phương pháp hình học.
Nhận xét: Tuy còn nhiều hạn chế song quan điểm của các nhà triết học thời kì
cận đại có những đóng góp nhất định đó là :
- Đứng vững trên lập trường duy vật để nghiên cứu vật chất qua đó củng cố,
thúc đẩy quan điểm duy vật phát triển.
- Đấu tranh trực diện chống chủ nghĩa duy tâm
- Tiền đề cơ sở cho triết học Mác.
* Bối cảnh lịch sử khi V.I.Lênin đưa ra định nghĩa vật chất.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một loạt phát minh khoa học như:
+ Năm 1895 W.Conrad Roentgen (1845 – 1923) phát hiện ra tia X, một loại
sóng điện từ có bước sóng từ 0,01 đến 100.10-8 cm
+ Năm 1896 Antoine Henri Becquerel (1852-1908) phát hiện ra hiện tượng
phóng xạ trong chất uranium và sau đó MarieCurie (1867-1934) tiếp tục phát triển.
Với phát hiện này, người ta hiểu ra rằng quan niệm về sự bất biến của nguyên tử là
không chính xác.
+ Năm 1897 Sir Joseph Thomson (1856 – 1940) phát hiện ra điện tử và chứng
minh được rằng điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử. Nhờ
phát minh này, lần đầu tiên trong khoa học sự tồn tại của nguyên tử được chứng minh.
+ Năm 1901 Kaufman, nhà bác học người Đức đãchứng minh được khối lượng
19


của điện tử không phải là khối lượng tĩnh mà nó sẽ thay đổi theo tốc độ vận động của
điện tử.
+ Năm 1905 Albert Eisntein(1879-1955) đã phát minh ra thuyết tương đối hẹp
(E=mc2) là nền tảng cho sự phát triển năng lượng nguyên tử và là một trong những cơ
sở khoa học của các lý thuyết hiện đại về vũ trụ.
Các phát minh khoa học này gây ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong
vật lý học. Một số các nhà vật lý học giải thích một cách duy tâm các hiện tượng vật
lý: vật chất tiêu tan mất. Các nhà triết học duy tâm chủ quan đã lợi dụng quan điểm

này để tấn công, phủ nhận vật chất và chủ nghĩa duy vật. Tình hình đó đòi hỏi Lênin
phải đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật.
* Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vật chất
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, vật chất là cái tồn tại khách quan, độc lập với ý
thức con người. Thế giới vật chất luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng, ở đâu có
vật chất là có vận động và vận động không ngừng.
* Định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất, nội dung và ý nghĩa của định nghĩa
* Định nghĩa
Các phát minh khoa học này gây ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong
vật lý học. Một số các nhà vật lý học giải thích một cách duy tâm các hiện tượng vật lý
và cho rằng vật chất tiêu tan. Trong hoàn cảnh đó, các nhà triết học duy tâm chủ quan
lợi dụng cơ hội này để khẳng định bản chất “phi vật chất” của thế giới, khẳng định vai
trò của các lực lượng siêu nhiên đối với quá trình sáng tạo ra thế giới, cơ sở tồn tại của
chủ nghĩa duy vật không còn nữa.
Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán
V.I.Lênin đã phân tích tình hình phức tạp ấy và chỉ rõ:
Những phát minh có giá trị to lớn của vật lý học cận đại không hề bác bỏ chủ
nghĩa duy vật. Không phải “vật chất tiêu tan”mà chỉ có giới hạn hiểu viết về vật chất
của con người về vật chất là tiêu tan. Nghĩa là cái mất đi không phải là vật chất mà là
giới hạn của sự nhận thức vê vật chất.
Theo Lênin những phát minh mới nhất của khoa học tự nhiên không hề bác bỏ
vật chất mà chỉ làm rõ hơn hiểu biết còn hạn chế của con người về vật chất. Giới hạn
tri thức của chúng ta hôm qua còn là nguyên tử thì hôm nay đã là các hạn cơ bản và
ngày mai chính cái giới hạn đó sẽ mất đi. Nhận thức của con người ngày càng đi sâu
vào vật chất, phát hiện ra những kết cấu mới của nó.
Tình hình mới của lịch sử và thời đại đặt ra là phải chống lại chủ nghĩa duy tâm,
khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác trong quan niệm về vật
chất. Muốn vậy, phải có môt quan niệm đúng đắn, khoa học về vật chất. Kế thừa tư
tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trên cơ sở khái quát những thành tựu mới nhất của
khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX về mặt triết học, trên cơ sở phê

phán những quan điểm duy tâm và siêu hình về vật chất, V.I.Lênin đã đưa ra định
nghĩa vật chất như sau:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”1
*Phương pháp định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin
Thông thường khi định nghĩa về một sự vật hiện tượng người ta thường sử dụng
1

V.I.Lênin toàn tập (1978), NXB Tiến bộ Mátxcơva, Tập 18, tr.151.

20


×