Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Tu lieu Vat li huu ich cho cac ban

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.85 KB, 46 trang )

1. Vai trò và ảnh hưởng của Enistein trong thế kỉ XX.
“Số phận tôi giống hệt số phận của con lừa. Cũng như con lừa tôi không bao giờ nản
chí. May quá! Khi tạo ra con lừa Chúa đã cho nó một tấm da dày…”. Câu nói của Einstein
thể hiện sức chịu đựng, lòng kiên nhẫn, tinh thần quả cảm vượt lên mọi thử thách để vươn
đến thành công. Einstein đuợc coi là nhà vật lý vĩ đại nhất của thế kỉ XX. Ông đã có
những đóng góp to lớn cho nền khoa học nói chung và vật lý học nói riêng.
Những ảnh hưởng của Einstein đối với nền khoa học không chỉ ở thế kỉ XX mà cho đến hiện
nay – thế kỉ XXI và chắc chắn trong cả tương lai nữa là điều mà không một ai có thể phủ nhận, đặc
biệt là các công trình về vật lý lý thuyết. Các công trình của Einstein đóng vai trò quan trọng, ảnh
hưởng và mang lại nhiều ứng dụng thiết thực đến nền khoa học thế kỉ XX.
Cuối thế kỉ XIX, nền vật lý học tưởng chừng như đã hoàn chỉnh với cơ học Newton và điện từ
học của Maxwell. Thế nhưng trên nền trời trong xanh của vật lý học lại xuất hiện những khủng hoảng
không thể giải quyết được bằng các lý thuyết cũ: hiệu ứng quang điện, tia X, phóng xạ, thí nghiệm
“âm” của Mechelson. Trong hoàn cảnh đó, Einstein đã kế thừa và phát triển những quan điểm của
Planck, ông đã đưa ra thuyết quang lượng tử giả thích thành công hiện tượng quang điện vào năm
1905. Cùng năm đó, với những ý nghĩ đã nung nấu từ rất lâu, Einstein đã cho ra đời thuyết tương đối
hẹp, thuyết tương đối hẹp đã giải thích được hoàn toàn thí nghiệm không phát hiện được gió ete. Các
công trình vật lý lý thuyết của Einstein đã mở ra một cuộc cách mạng trong vật lý thế kỷ XX.
Nhờ giải thích được hiệu ứng quang điện Einstein đã được Viện hàn lâm khoa học Thụy Điện
trao tặng giải thưởng Nobel vào năm 1921. Hiệu ứng này đã đưa khoa học đến những khám phá về
laser mà ngày nay có rất nhiều ứng dụng vô cùng quan trọng: máy in laser; chế tạo pin mặt trời – một
thiết bị biến ánh sang mặt trời thành dòng một chiều; những bộ cảm biến tự động; những linh kiện tự
động dùng trong video camera; trong công nghệ cắt may và đặc biệt có ý nghĩa hơn cả là những ứng
dụng trong y học để chữa bệnh…
Thuyết tương đối hẹp đã mở ra một chân trời mới. Nó loại bỏ hoàn toàn khỏi khoa học những
quan niệm về không gian, thời gian tuyệt đối, khối lượng bất biến… Một trong những thành công đặc
biệt của thuyết tương đối hẹp là Einstein đã tìm ra mối lien hệ giữa năng lượng và khối lượng: E = mc
2
.
Đây là một phương trình có ý nghĩa ứng dụng vô cùng quan trọng, nó dự đoán cho loài người một
nguồn năng lượng khổng lồ chứa đựng trong vật chất: năng lượng nguyên tử. Nguồn năng lượng này


được các nhà khoa học say mê nghiên cứu và thành công đầu tiên phải kể đến là bom nguyên tử. Tuy
hậu quả mà nó gây ra khi Mỹ ném hai quả bom xuống Nagasaki và Hirosima là vô cùng nặng nề nhưng
chúng ta cũng phải nhìn nhận một cách khách quan rằng: nhờ lý thuyết của Einstein mà chúng ta mới
có những nhà máy điện nguyên tử giải quyết gánh nặng về năng lượng. Cũng nhờ lý thuyết này mà mở
1
ra một số nghiên cứu mới không chỉ có ý nghĩa trong thế kỉ XX mà hiện nay cũng là sự quan tâm lớn
của các nhà khoa học như: siêu chảy, siêu dẫn, vật lý năng lượng cao, công nghệ nano, … Những
nghiên cứu này đã và đang mang lại cho con người những ứng dụng to lớn. Vì vậy, phương trình E =
mc
2
xứng đáng được gọi là “phương trình thâu tóm cả vũ trụ” hay “phương trình của Chúa”.
Thuyết tương đối rộng được Albert Einstein công bố vào năm 1916 là cơ sở cho các ngành vật
lý hiện đại. Nó mở ra một hướng nghiên cứu mới: vật lý siêu vĩ mô, là lý thuyết cơ bản để đưa ra các
mô hình về sự hình thành của vũ trụ, dự đoán về lỗ đen,… Nhờ đó con người đã tiến xa vào vũ trụ, xây
dựng được các cách giải thích của sự hình thành thế giới vật chất.
Tên tuổi của Einstein gắn liền với thuyết tương đối, hiệu ứng quang điện, chuyển động
Brown… Tuy nhiên vai trò và ảnh hưởng của Einstein trong thế kỉ XX không chỉ dừng lại ở lĩnh vực
vật lý lý thuyết, ông còn để lại cho nhân loại nhiều phát minh sáng chế kĩ thuật khác nhau: các máy
lạnh gia dụng, loa từ giảo, các phương pháp đo điện lượng rất nhỏ, các bơm từ thủy động lực, …
Chúng ta hẳn sẽ rất thiếu sót rất lớn khi chỉ nói đến Einstein là một nàh vật lý lý thuyết xuất sắc
hay một nhà phát minh sáng chế tài ba phục vụ cho cuộc sống con người và mục đích nghiên cứu khoa
học. Einstein còn là một “chiến sĩ hòa bình”. Einstein là một người hòa bình chủ nghĩa, ông phản đối
hết thảy mọi thứ chiến tranh. Ông đã có nhiều bài phát biểu, kêu gọi phản đối chiến tranh, từ chối phục
vụ quân dịch,… Einstein chỉ không muốn cho Đức quốc xã sở hữu trước một loại vũ khí hủy diệt nên
đã kí tên vào bức thư ngày 02-08-1939 khuyến cáo tổng thống thứ 32 của Hoa Kỳ Roosevelt cho xúc
tiến nghiên cứu phản ứng phân hạch dấy chuyền Urani dẫn đến đề án Manhattan chế tạo bom nguyên
tử. Hậu quả nặng nề do bom nguyên tử gây ra khi Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản đã
làm Einstein vô cùng day dứt và trăn trở. Ông đã vận động, kêu gọi chống vũ khí hạt nhân trên toàn thế
giới.
Einstein còn là tấm gương sáng ngời về sự say mê khoa học, sự giản dị trong lối sống, lòng

nhân ái đối với mọi người. Ông cũng là một thầy giáo mẫu mực với phương pháp giảng dạy độc đáo,
mẫu mực, dẫn dắt sự nghiên cứu của các nhà khoa học sau này. Có lẽ nhiều nàh khoa học nói riêng và
nhiều người trong thế kỉ thứ XX, hôm nay và cả tương lại chọn Einstein làm thần tượng của mình, là
tấm gương để phấn đấu vươn lên trong khoa học và cuộc sống.
Như vậy, vai trò và ảnh hưởng của Albert Einstein trong thế kỉ XX không chỉ là những đóng
góp to lớn về vật lý lsy thuyết, các công trình khoa học, các sáng chế phát minh mà còn là một chiến sĩ
hòa bình đấu tranh vì hạnh phúc nhân loại, góp phần chống vũ khí hủy diệt – vũ khí hạt nhân bảo vệ an
ninh hòa bình thế giới. Ông mãi là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ vươn lên trong khoa học và cuộc
2
sống. Chắc chắn rằng vai trò to lớn của Einstein không chỉ ảnh hưởng đến thế hệ thế kỉ XX mà hiện
nay và cả tương lai nữa. Và có lẽ ngàn năm sau nữa, tên tuổi Albert Einstein vẫn còn sáng chói như
một nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỉ XX.
2. Thí nghiệm Vật lí vui giúp chúng mình học tập hiệu quả hơn:
Với những ai yêu thích môn Vật lí thì những thí nghiệm Vật lí vui luôn được
teen chúng mình thực hiện, chí ít cũng là một vài lần. Dù kết quả của chúng
có đúng so với lí thuyết hay không, bạn vẫn cảm thấy rất lí thú. Hãy cùng
xem chúng mình đã thực hiện thí nghiệm này chưa nhé!
Thử tài với môn Vật lí và giành học bổng
Trong thực tế cuộc sống có những hiện tượng tự nhiên rất đơn giản , chúng mình vẫn thường gặp
hàng ngày và luôn muốn đi sâu tìm hiểu về chúng để thỏa mãn trí tò mò của bản thân. Một ví dụ đơn
giản là bạn muốn kiểm tra trứng khi ta luộc có chín không mà không cần đập ra. Bạn hãy sử dụng một
số kiến thức cơ học để vượt qua khó khăn nho nhỏ này. Đặt quả trứng định thử lên một cái đĩa và
dùng hai ngón tay quay nó một cái. Trứng sống thì ngay bắt nó quay cũng khó. Nhưng trứng chín
(nhất là chín kỹ) thì quay nhanh đến mức không thể thấy rõ hình dạng và lâu hơn hẳn.
Hiện tượng này được giải thích là do quả trứng chín kỹ quay như toàn thể một vật đặc; còn quả trứng
sống thì lòng trứng lỏng ở bên trong không thể ngay tức khắc nhận được chuyển động quay, nên do
quán tính của mình, nó kìm hãm chuyển động của vỏ cứng. Lòng trứng lúc này đóng vai trò vật hãm
chuyển động.
Đây là một thí nghiệm mà bất kì bạn nào trong số chúng mình đều có thể thực hiện được vì nó hoàn
toàn đơn giản. Những thí nghiệm vật lí vui không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa là vui, giải trí mà nó

còn giúp chúng mình giải thích được một số hiện tượng thường gặp, thậm chí là những hiện tượng
luôn là bí ẩn mà các nhà khoa học vẫn đang dày công nghiên cứu. Trên thực tế, nếu chúng mình biết
cách áp dụng giữa những thí nghiệm vật lí vui với các câu hỏi, đề kiểm tra thì việc học tập sẽ trở nên
dễ dàng hơn. Đó cũng là một trong những bí quyết giúp việc học tập của chúng mình không còn là áp
lực mà trở thành niềm vui. Như vậy việc học tập sẽ đạt kết quả cao hơn.
Để có thể tiến hành những thí nghiệm Vật lí vui chúng mình cũng cần có những kiến thức cần thiết.
Như trong thí nghiệm trên đây, để giải thích được hiện tượng đó, chúng mình phải vận dụng những
kiến thức về cơ học. Vì vậy hãy bắt đầu những niềm vui, những sở thích của mình bằng việc trau dồi
những kiến thức Vật lí qua mỗi bài học. Đó cũng là một trong những mục tiêu mà cuộc thi Tú tài Số
mong muốn mang đến cho tất cả chúng ta. Kiến thức luôn luôn là vô tận nhưng trí tuệ của con người
luôn mong muốn khám phá những điều vô tận đó. Với mỗi bạn học sinh chúng mình việc học tập là
quan trọng nhất vì vậy hãy biết tích lũy kiến thức cũng như luôn làm giàu kho tàng tri thức của bản
thân để trở thành teen hiện đại.
Học tập là một quá trình tiếp thu và tích lũy kiến thức. Mỗi bạn đều có một phương pháp riêng và có
những hiệu quả nhất định. Và để đi đến thành công mỗi người đều có con đường đi riêng. Rất có thể
3
thành công từ cuộc thi Tú tài Số sẽ là sự khởi đầu cho con đường học tập của bạn.
3. Bí ẩn về ảo ảnh:
Đàn súc vật chở hàng đang lầm lũi bước đi trên sa mạc cháy bỏng, bỗng trước mặt mọi người
hiện lên cả một cái hồ lớn. Nhưng vài phút trôi qua, cái hồ ma
ấy bắt đầu bị lớp sương mù màu đỏ nhạt bao phủ, mờ nhạt rồi
bay vút lên trời và biến mất. Đó là ảo ảnh hồ, một thứ ảo ảnh
phổ biến nhất.
4. Những bóng ma trong không trung
Thảo nguyên bao la trải dài vô tận. Mặt trời chói lọi đang nhô cao khỏi chân trời báo trước một ngày
oi bức. Người đánh xe cho tôi cứ liếm môi hoài, thỉnh thoảng lại giục con ngựa xấu xí bước gióng
một...
Ở phía trước hiện ra một mặt hồ lớn. Mặt nước hồ trải dài như một dải nước rộng dọc đường chân trời
và nhận chìm cả những cột điện tín rung rinh với những cây bạch dương mọc thưa thớt trên thảo
nguyên. Một con chim to vẫy cánh bay lên khỏi mặt nước và tiến lại phía chúng tôi, nó trở nên nhỏ

dần trông thấy. Bỗng chẳng còn thấy hồ, chẳng còn thấy chim đâu nữa...
- Ảo ảnh mất rồi, - người đánh xe thốt lên phá vỡ cảnh im lìm. - Oi quá! - đoạn ông ta vẫy ngọn roi về
phía chân trời xa xa. - Anh xem thế nào đến chiều cũng có giông.
5. Ảo ảnh phía chân trời
Đúng, đó chính là ảo ảnh, một trong những hiện tượng mà từ thời xa xưa, con người đã gắn nó với
những sức mạnh bí ẩn, vô hình của tự nhiên. “Biển quỷ” - dân cư miền Bắc Phi hiện giờ còn gọi ảo
ảnh như thế.
Ở phương Đông, ai cũng biết câu chuyện cổ tích về nàng tiên Morgana. Nàng thích trêu ghẹo những
khách bộ hành mỏi mệt, chỉ cho họ thấy trên sa mạc những ốc đảo nở hoa, những hồ đầy ắp nước,
những đô thị trù phú có những tháp giáo đường Hồi giáo với những vườn cây treo lơ lửng trên không
trung. Nàng cho họ thấy chỉ để cám dỗ họ đi chệch đường. Sau đó, khi ảo ảnh đã tan ra trong không
khí, nàng sẽ cười nhạo nỗi thất vọng của đám lữ khách ấy. Câu chuyện cổ này để lại dấu ấn của nó
trong ngôn ngữ. Người ta gọi bất cứ hình ảnh hư ảo nào đánh lừa nào là phata-morgana, tức là nàng
tiên Morgana.
Khi nói về ảo ảnh, người ta thường nghĩ đến một sa mạc cháy bỏng và đàn súc vật trở hàng đang lầm
lũi bước đi trên biển cát nhấp nhô. Phía trước, bên đường chân trời mờ nhạt bỗng xuất hiện một bề
mặt to lấp loáng. Cái gì vậy? Những con lạc đà dấn thêm vài bước, và trước mặt mọi người hiện lên
cả một cái hồ lớn. Làn gió nhẹ làm mặt nước gợn lăn tăn.
Hồ nom rõ ràng đến nỗi không thể nghi ngờ gì về tính chất có thực của nó. Nhưng vài phút trôi qua,
và cái hồ ma ấy bắt đầu bị lớp sương mù màu đỏ nhạt của sa mạc bao phủ, nó mất đi những đường nét
rồi thình lình bay vút lên trời và mất hút.
4
Đó là ảo ảnh hồ, một thứ ảo ảnh phổ biến nhất, thường hay xuất hiện hơn cả. Trong những ngày nóng
nực, những cái hồ trên sa mạc như vậy là một hiện tượng gặp ở Bắc phi. Chiều chiều, một khu vực
nào đó bị nung đốt suốt ngày liền biến thành vùng đất ngập lụt. Tất cả những gì ở khoảng cách ba bốn
cây số đều bị nước vây quanh. Những thôn xóm nom tựa như những hòn đảo giữa một cái hồ rộng.
Càng lại gần làng, cái bờ của vùng nước ảo kia càng lùi ra xa và cái nhánh nước ngăn cách ta với làng
dần dần trở nên hẹp lại cho đến khi biến mất hoàn toàn, còn cái hồ vẫn giữ nguyên hình dạng bắt đầu
lùi xa dần và luôn luôn ở một khoảng cách không bao giờ đạt tới được.
Ở Liên Xô cũ, những ảo ảnh như vậy không lạ lẫm gì với cư dân miền ven biển Caxpi, miền thảo

nguyên Crưm, miền đồng bằng sông Vonga. Người ta cũng nhìn thấy ảo ảnh trên mặt đường láng
nhựa: vào những ngày mặt trời thiêu đốt, có những “hố nước” trôi qua trước mũi xe như vừa mới qua
cơn mưa vậy. Trên mặt hồ phản ánh những đám mây với bầu trời xanh. Ôtô chạy với vận tốc 60
kilômet một giờ, và suốt gần mười phút, ở phía trước luôn luôn nhìn thấy dải nước lừa dối kia. Và nếu
những ảo ảnh tương tự không hề làm cho con người ta ngạc nhiên, thì những dạng ảo ảnh khác lại có
thể không chỉ gây kinh ngạc, mà thậm chí còn dọa nạt được con người.
- Có lần tôi dừng lại bên lối vào một hẻm núi, - một người đã từng ở Angiêri kể lại, - và ngồi nghỉ trên
một tảng đá. Bỗng nhiên ở bên dưới cách tôi chừng năm mươi mét, tôi nom thấy một người cũng ngồi
trên một tảng đá. Khi tôi đứng dậy, người kia cũng đứng lên. Khi tôi lại gần người đó, thì anh ta cũng
tiến lại phía tôi! Đến khi đến gần hơn thì vô cùng sửng sốt, tôi nhận ra chính mình trong con người đó.
Sự giống nhau ấy làm tôi hoảng đến nỗi tôi chìa tay ra. Con người y hệt tôi kia cũng làm như vậy.
Nhưng khi tôi quả quyết xáp lại gần hơn thì bóng ma biến mất.
Ảo ảnh về tàu ma -
Người Hà Lan bay.
Ngày xưa, thời còn sử dụng thuyền buồm, ở trên các biển, đều lan truyền một truyền thuyết về con tàu
ma - “Người Hà Lan bay”. Người thuyền trưởng của con tàu đó vì tội báng bổ chúa trời nên đã phải
chịu tội suốt đời lang thang trên khắp các biển và đại dương mà không được bỏ neo ở đâu cả. Các
thủy thủ tin rằng, việc gặp gỡ con tàu buồm ghê sợ đó là điềm báo trước tai họa đắm tàu. Song những
cuộc gặp gỡ ấy lại xảy ra thật thường xuyên! Con tàu ma bất ngờ xuất hiện trong đám sương mù, nó
lẳng lặng trôi qua trước mắt đám thủy thủ, không hề đáp lại các tín hiệu, rồi sau đấy lại bất chợt biến
đi như lúc xuất hiện vậy.
Năm 1878, vào thời gian xảy ra chiến tranh giữa người Mỹ với người da đỏ, một toán lính rời đồn
Abraham Linhcôn đi ra. Một lúc sau những người còn lại trong đồn nhìn toán lính đó đang tiến bước
ở trên trời. Người ta liền bảo rằng toán lính đó đã bị giết chết và bây giờ họ đang nhìn thấy linh hồn
những người ấy. Vài ngày sau, quả nhiên toán lính bị những người da đỏ tiêu diệt. Những người mê
tín nhớ rất dai sự trùng hợp ngẫu nhiên của các sự kiện. Tất cả những điều đó không phải cái gì khác
hơn là những ảo ảnh. Hình như trên trời đang diễn ra một “màn kịch” viễn tưởng vậy.
Ở vùng bờ biển Xixilia, vào lúc mặt trời mọc, trên mặt biển thường thấy xuất hiện những cung điện
nguy nga, những ngọn tháp và pháo đài trên không trung, những người không lồ, những cây cối và
động vật khổng lồ; tất cả những cái đó quần tụ lại rồi tản ra, đuổi bắt lẫn nhau, thay hình đổi dạng,

cảnh tượng này thay thế cảnh tượng khác.
5
Một lần, những thủy thủ thám hiểm vùng cực đã gặp “ảo ảnh” như thế. Con tàu của họ len lỏi giữa
những núi băng và các tảng băng vỡ ra từ những cách đồng băng. Chúng lấp lánh và trở nên chói lọi
dưới ánh mặt trời rực rỡ. Bỗng chân trời phân đôi ra, những vật thể ở xa liền bay lên không trung, treo
lơ lửng trên đó và không ngừng thay đổi hình dạng. Như trong ống kính vạn hoa vậy, những hình thù,
những sự vật lạ thường thoắt ẩn thoắt hiện trước mắt những thủy thủ đứng ngây ra vì quá đỗi sửng
sốt: khi thì xuất hiện một cái gì đó giống như ngọn tháp, khi là những hình người nào đó trông thật phi
lý, khi lại là một thanh gươm, thế rồi tất cả những cái đó bỗng nhiên được thay thế bằng đường viền
rõ nét của một núi băng lớn làm ta nhớ đến pháo đài cổ bất khả xâm phạm. Những cách đồng băng
trông giống như những bình nguyên trên đấy có đủ cây cối, gấu, chó, chim chóc, người như thể đang
nhảy múa trong không trung.
Như các bạn thấy đấy, thật là lắm hình nhiều vẻ. Nhưng bản chất của tất cả các bức tranh ma quái xảy
ra trong không trung đó đều chỉ là một mà thôi.
“Có thể, - ở đây sẽ có một người nào khác nói, - bản chất của các “ảo ảnh” như vậy chỉ là một, nhưng
xin hãy giải thích thật rõ ràng và dễ hiểu, làm sao lại có thể xuất hiện một bức tranh lạ lùng đến thế:
những người lính hành quân trên bầu trời? ! Và xin hãy chú ý: tất cả những người lính ấy sau đó đều
bị chết!”
Chúng ta sẽ còn nói tiếp về sự trùng hợp ngẫu nhiên của các sự kiện khác nhau. Còn bây giờ chúng ta
cũng phân tích xem những bóng ma lạ lùng đó xuất hiện như thế nào trong bầu khí quyển trái đất.
6. Theo những quy luật quang học
Trên bờ ao có một cây liễu. Chúng ta nhìn thấy bóng phản chiếu của nó trên mặt nước lặng như trong
gương vậy.
Vì sao thế? Những tia ánh sáng phản chiếu từ cái cây mọc trên bờ ao sẽ tới mắt chúng ta bằng hai con
đường: một số tia đi thẳng qua lớp không khí, và chúng ta nhìn thấy hình ảnh của cây, còn những tia
khác phản chiếu từ mặt gương của ao, khi đập vào mắt, chúng sẽ tạo nên một hình ảnh thứ hai - nhưng
lộn ngược của cây. Vốn dĩ mắt chúng ta không thể phát hiện được sự sai lệch của tia sáng, chúng luôn
luôn tiếp nhận hình ảnh của vật như thể các tia sáng đi thẳng từ các vật đó vậy. Vì thế chúng ta nhìn
thấy hình ảnh cây liễu được phản chiếu bởi mặt gương của nước theo một đường thẳng đi từ mắt tới
mặt nước.

Như vậy ảo ảnh là một sự phản chiếu gương như thế của các vật, cây cối, con người khác
nhau. Chỉ có điều tấm gương ở đây không phải là kính, không phải là nước, mà chính là
không khí.
Tấm gương khí quyển ấy xuất hiện trong những điều kiện nào?
Chúng ta thường quen cho rằng các tia sáng truyền đi theo đường thẳng trong không khí. Nhưng nếu
nói thật nghiêm túc thì còn xa mới là như vậy. Vốn không khí bao quanh chúng ta là không đồng nhất,
nó bao gồm các lớp có mật độ khác nhau. Và thế có nghĩa là không thể có sự truyền ánh sáng theo
đường thẳng trong không khí được. Những quy luật của quang học là như vậy. Hiểu được các quy luật
đó không phải là khó.
Một cái thìa được thả vào một cốc nước chè. Chiếc thìa như bị gãy ra. Nguyên nhân là ở chỗ nước và
không khí có mật độ khác nhau. Khi đi qua một môi trường - không khí ít đậm đặc hơn - đến môi
trường khác đậm đặc hơn là nước, các tia sáng thay đổi đường truyền thẳng của mình, vả lại theo một
nguyên tắc hoàn toàn xác định là chúng bị lệch về phía môi trường đậm đặc hơn. Trong trường hợp
6
của chúng ta thì đó là nước. Khi đi từ thủy tinh vào nước, tia sáng bị khúc xạ về phía thủy tinh có mật
độ lớn hơn so với nước.
Thế còn khi ánh sáng truyền qua bầu khí quyển thì sao? Mỗi khi tia sáng đi từ lớp không khí có mật
độ nhất định vào lớp không khí có mật độ hơi nước, nó liền bị khúc xạ ít nhiều, và thay đổi đường
truyền thẳng của mình.
Ta nên nhớ rằng vào mùa hè, những ngôi nhà, công trình, cây cối trên đường chân trời, dường như
cũng run rẩy, đung đưa. Tất nhiên, không phải chính chúng, mà những hình ảnh của chúng đang run
rẩy. Nhưng như thế có nghĩa gì? Đó là, những tia sáng được các vật phản chiếu lại và đi đến mắt
chúng ta đã liên tục thay đổi hướng. Nói cách khác, đường đi của chúng hoàn toàn không phải là
thẳng.
Người ta gọi đó là sự khúc xạ. Sự khúc xạ nhỏ luôn xảy ra (chỉ trừ một trường hợp, khi các tia sáng từ
các thiên thể đập vào mắt chúng ta theo chiều thẳng đứng). Do có sự khúc xạ đó mà ta thấy các thiên
thể như nằm ở vị trí cao hơn của chúng trong thực tế. Vào buổi xế chiều, chúng ta thấy mặt trời lưu lại
5-10 phút sau khi đã khuất xuống đường chân trời. Chúng ta thấy các vật ở xa đều cao hơn và gần hơn
một chút so với vị trí thực của chúng.
Sự khúc xạ ánh sáng trong bầu khí quyển của trái đất là một hiện tượng bình thường xảy ra ở khắp

mọi nơi. Và chúng ta lại thường không nhận thấy hiện tượng đó: sự khúc xạ các tia sáng là rất nhỏ,
chúng không làm chuyển dịch vị trí và không làm sai lệch hình ảnh của các vật nhìn thấy một cách rõ
rệt.
Nhưng cũng có khi khác đi. Đôi khi các tia sáng phản chiếu từ một số lớp không khí như từ một
tấm gương và như vậy chúng bị lệch đi đáng kể. Chẳng hạn, điều đó diễn ra vào mùa hè, khi mặt
trời hâm nóng bầu không khí, đặc biệt là các lớp dưới. Khi đó, các lớp này trở nên ít đậm đặc hơn.
Những tia sáng đi từ vật nào đó tới mặt đất sẽ phản chiếu lại từ lớp không khí như vậy như từ bề mặt
nước, chúng đi lên trên và đập vào mắt người quan sát. Lúc đó chúng ta có thể nom thấy ảo ảnh “hồ”
hay là ảo ảnh dưới.
Chúng ta lấy ví dụ ảo ảnh trên sa mạc. Những con tàu của sa mạc - những con lạc đà - đang chậm rãi
chuyển động. Như bị thiêu đốt trong lò, cát và đá hừng hực bốc hơi nóng. Không trung tĩnh lặng. Bầu
trời bị che phủ bằng một màn sương màu đỏ nhạt; mặt trời chìm nghỉm và đường chân trời mất hút.
Lớp không khí cuối cùng bị đốt nóng hơn cả vì cát bỏng rẫy, và vì thế nó bị loãng đi nhiều. Lớp
không khí bên trên bị nung nóng ít hơn, vì vậy nó đậm đặc hơn. Hiện tượng đó thường xảy ra vào nửa
đầu của ngày, khi lớp không khí sát mặt đất đã bị nung nóng mà các lớp trên còn lạnh.
Mật độ không khí ở cả hai lớp kề sát nhau ấy trong trường hợp này không còn đồng nhất nữa. Thế là
trong những điều kiện như vậy, đâu đó ở chân trời, phía trước đoàn súc vật chở hàng hiện ra một cái
hồ ma, còn trên thực tế, đó là sự phản chiếu bầu trời ở tấm gương của lớp không khí bên dưới.
Tấm gương không khí có thể xuất hiện ở cả các lớp trên của bầu khí quyển - chúng ta có thể nhìn thấy
trên đó sự phản chiếu của những vật ở xa bị khuất sau chân trời trong những điều kiện bình thường.
Khi đó chúng ta nom thấy chúng khá cao và gần hơn là chúng tồn tại trên thực tế.
Trong những điều kiện nào thì xuất hiện tấm gương không khí trên?
Thường là vào sáng sớm, khi các lớp dưới của không khí còn khá lạnh vì tiếp xúc với mặt đất, còn các
lớp trên thì ấm hơn, ở bên trên có thể cấu tạo nên một lớp không khí phản chiếu.
7
Người ta thường thấy các ảo ảnh trên hơn là các ảo ảnh ở dưới biển, cũng như ở
các vùng vĩ độ ven cực, nơi các lớp không khí bên dưới hầu như lúc nào cũng lạnh hơn các lớp trên. Ở
phương Bắc, hiện tượng này thường có vào mùa đông và mùa xuân, vào những ngày có gió ấm áp
thổi từ phương Nam tới, trong khi những lớp dưới của bầu khí quyển vẫn còn lạnh vì tuyết phủ.
Trên biển cả, có thể nhìn thấy trong ảo ảnh trên hình ảnh những hòn đảo và con tàu ở xa khuất sau

chân trời. “Tôi đã nhìn thấy qua ống nhòm những đường nét và thiết bị trên tàu rõ đến nỗi, - một nhà
thám hiểm vùng cực viết - tôi đã không hề đắn đo thừa nhận đó là chiếc tàu của cha tôi. Sau này, khi
so sánh các bản đồ hoa tiêu của cả hai tàu, chúng tôi mới vỡ lẽ ra rằng chúng tôi đã ở cách nhau một
khoảng cách năm mươi cây số, tức là họ đã không thể nhìn thấy nhau được
Tùy thuộc vào tính chất của sự phản chiếu do tấm gương không khí trên, đôi khi chúng ta nhìn
thấy ảo ảnh thẳng ngay trên đầu ta ở cao tít trên không trung, dưới dạng hình ảnh lộn ngược.
Những ảo ảnh như vậy thậm chí còn hay xảy ra nữa. Có một câu chuyện nổi tiếng của một nhà thám
hiểm khi đến Italia, ở trên bờ biển đã nhìn thấy trên không trung hình ảnh lộn ngược của cả một thành
phố. Vô cùng sửng sốt, ông ta liền vội vàng vẽ ngay những gì đã thấy, rồi sau đó đi tiếp để tìm kiếm
nguyên nhân của hiện tượng kỳ lạ đó. Sau vài cây số tiếp theo ông ta đã tới chính thành phố mà trước
đó ông đã nhìn thấy hình ảnh của nó trên không trung.
Thành phố Lômônôxôp nằm trên bờ vịnh Phần Lan, cách Lêningrát 40 kilômet. Từ nơi đây rất khó
nhìn rõ được Lêningrát. Nhưng có những ngày mà dân cư thành phố Lômônôxôp nhìn thấy Lêningrát
rõ như trên lòng bàn tay. Hình như thành phố hiện lên trên không trung. Khi đó, từ Lômônôxôp nhìn
rõ hình sông Nêva, cầu cống, một số ngôi nhà cao tầng biệt lập. Vậy là chúng ta gặp được ở đây sự
phản chiếu trực tiếp các vật trong tấm gương không khí lạ lùng dường như bao trùm cả mặt đất.
Cuối cùng, cũng có khi xảy ra như thế này: Cao tít trên không trung xuất hiện ảo ảnh trên kép - đồng
thời cả hình ảnh trực tiếp và hình ảnh lộn ngược. Hình ảnh như vậy được quan sát thấy trong bầu khí
quyển, các lớp không khí có mật độ khác nhau phân bố không đều. Còn nếu lớp không khí nóng nằm
xen giữa hai lớp không khí lạnh hơn thì sẽ hình thành những điều kiện để xuất hiện ảo ảnh ba. Điều
này hay xảy ra ở các biển vùng cực.
Tất cả đều do tấm gương đó
Mặc cho tất cả tính chất khác thường của những “bóng ma” tương tự, bản chất
của chúng là ở tự nhiên, và có thể giải thích được. Trước mắt chúng ta chính là ảo ảnh trên mà thôi,
chỉ có điều bề ngoài nó nom thật khủng khiếp đối với những người mê tín.
Tôi còn nhớ một câu chuyện rất thú vị xảy ra ngay trong thời đại chúng ta. Đó là vào những năm 20
của thế kỷ này. Một chiếc tàu viễn dương theo tuyến hành trình thường lệ từ châu Âu sang châu Mỹ.
Bỗng tại một nơi cách quần đảo Anh không xa, tất cả những người trên boong đều nhìn thấy con tàu
“Người Hà Lan bay”. Ý nghĩ về con tàu ma ghê gớm liền hiện lên trong tâm trí các hành khách và
thủy thủ. Con tàu bí ẩn đe dọa đâm vào chiếc tàu thủy. Đến giây phút căng thẳng nhất, viên thuyền

8
trưởng bằng một giọng thất thanh ra lệnh đổi hướng chạy tàu. Nghiêng sang mạn phải, chiếc tàu buồm
lướt qua.
Những hành khách hốt hoảng, sững sờ đã nhìn thấy một điều còn kỳ lạ hơn nữa: trên boong có những
người mặc... các bộ quần áo cổ xưa đang nhốn nháo. Họ giơ tay lên và kêu to những gì đó.
Khi chiếc tàu thủy đến bến cảng, sự việc huyền bí ấy đã lan ra khắp nơi. Trên nhiều tờ báo Anh và Mỹ
xuất hiện các bài báo dài viết về những bóng ma. Người ta viết rằng cuộc gặp gỡ với chiếc tàu buồm
huyền thoại nọ là một chứng minh hùng hồn về sự tồn tại của thế giới bên kia. Trên thực tế, không thể
có chuyện nhầm lẫn được một khi có hàng trăm người đã tận mắt thấy rõ con tàu ma với các thủy thủ
của nó!
Song chẳng bao lâu mọi chuyện đã được làm sáng tỏ. Chiếc tàu khách viễn dương đúng là đã chạm
trán với chiếc tàu “Người Hà Lan bay”... được đóng để quay phim. Trong khi đang tiến hành quay
phim trên biển thì một trận bão nổi lên. Những người có mặt trên tàu đã không thể điều khiển các
cánh buồm, và gió đã đẩy họ ra ngoài khơi. Phải vài ngay sau, những người kiệt sức vì hoảng sợ ấy
mới được vớt lên khỏi tàu, còn “Người Hà Lan bay” thì được đưa về cảng.
Thế đấy, đôi khi những hoàn cảnh trùng hợp nhau lại xảy ra bất ngờ đến thế nào! Trong những trường
hợp có thể thấy rõ sự mê tín đã bùng nổ ra sao. Đôi khi chứng “suy nhược thần kinh” thậm chí còn
gặp ở nhà “duy vật kiên định” nữa. Sau khi đã va chạm với hiện tượng hiếm có gây kinh hoàng, con
người không chỉ bắt đầu tự mình tin, mà còn đi thuyết phục người khác rằng “đúng lần này” họ đã
thật sự chạm trán với các sức mạnh thuộc thế giới bên kia.
Câu chuyện xảy ra với “Người Hà Lan bay” ở thế kỷ 20 vừa được nói trên kia là một bằng chứng rõ
rệt về điều này. Hàng nghìn người tin vào sự tồn tại của thế giới bên kia. Vậy làm sao mà đòi hỏi hơn
được ở những thủy thủ dốt nát của bao thế kỷ trước, khi họ đã nhìn nhận rành rành chiếc tàu buồm
ghê gớm trôi ngay bên cạnh, con tàu mà theo định kiến chung của mọi nhà hàng hải báo trước một tai
họa nào đó sẽ xảy đến...
Nếu sau đó trên tàu có ai đó bị chết, hay một trận giông tố ác liệt nổi lên, hoặc tồi tệ hơn nữa là xảy ra
đắm tàu, các thủy thủ liền tin chắc lỗi ở đây là do cuộc chạm trán với con tàu của người chết.
Thế nhưng nếu chuyến đi biển kết thúc an toàn (tất nhiên điều này đâu phải chỉ có một lần), người ta
liền quên phắt cuộc gặp gỡ “rủi ro” ấy. Đặc tính của tâm lý, của trí nhớ của chúng ta vốn là như thế.
Sau đây là một ví dụ đơn giản. Đã hàng chục, hàng trăm lần chúng ta quan sát thấy mèo đen chạy

ngang đường (Người châu Âu cho rằng đó là điểm gở báo sự rủi ro). Ý nghĩ về điềm báo nực cười
liền xuất hiện rồi lập tức bị quên đi. Và trên thực tế, không có điều gì khó chịu xảy ra với bạn cả.
Nhưng nếu sau cuộc gặp gỡ với con vật bốn chân “mang điềm ác” đó xảy ra một điều khó chịu hoặc
không may nào đó với một người thì sao đây.
Lập tức ký ức của người đó liền nhắc nhủ: trước đó mèo đen đã xuất hiện! Thế là lúc này khó mà
thuyết phục cho anh ta tin rằng, sự trùng hợp ấy chẳng nói lên điều gì cả. Khó là bởi vì anh ta nhớ rõ -
đến hàng năm trời - về sự việc đó và hoàn toàn quên đi mọi sự việc khác. Bởi vì nếu như trong số
mười trường hợp ngẫu nhiên mà có một dấu hiện nào đó tỏ ra là đúng dẫu chỉ một lần thì chúng ta sẽ
ghi nhớ điều đó nhanh hơn tất cả những sự việc không trùng hợp.
Lẽ dĩ nhiên, mọi điều như thế là hợp lý chỉ khi người đó có khuynh hướng mê tín dị đoan.
Đó cũng là điều xảy ra trong những cuộc chạm trán với “Người Hà Lan bay”: các thủy thủ nhìn thấy ở
phía xa những con tàu buồm được tấm gương không khí phản chiếu, và bởi họ không biết đến những
quy luật của quang học khí quyển, nên họ tin tưởng chắc chắn vào thế giới bên kia.
9
Các bạn hẳn cuộc gặp gỡ với “bóng ma” bên hẻm núi ở Angiêri chứ? Những ảo ảnh không khí lặp lại
giống hệt như thế thường hay xuất hiện bên những bức tường bị đốt rất nóng. Bức tường ở đây có thể
là mặt đất, còn lớp không khí sát với nó bị đốt nóng mạnh hơn cả, vì vậy trở nên loãng hơn lớp không
khí kề bên. Ranh giới giữa hai lớp này trở thành tấm gương không khí.
Những hình ảnh ở các ảo ảnh bên gần như bao giờ cũng bằng với các vật được phản ánh về mọi kích
thước. Đó có thể là do ảo ảnh đôi, ảo ảnh ba, thậm chí cả ảo ảnh bốn nữa.
Thường thì các ảo ảnh xuất hiện khi lặng gió; gió làm vỡ tấm gương không khí. Nhưng trong tự nhiên
làm gì có tĩnh lặng hoàn toàn. Tuy vậy trong không khí thỉnh thoảng vẫn nảy sinh những điều kiện
cho việc xuất hiện các ảo ảnh. Thế có nghĩa là tấm gương không khí không đến nỗi mỏng manh như
thế: những dao động nhẹ của không khí không đáng sợ lắm đối với nó. Và như vậy, khi các lớp không
khí có mật độ khác nhau khẽ di chuyển, chúng sẽ dao động, phá vỡ các ranh giới giữa chúng với nhau,
và trong không trung liền xuất hiện những bức tranh kỳ dị nhất. Tấm gương không khí bất định, tựa
như tấm gương bằng thủy tinh cong, sẽ làm sai lạc đi hiện thực đến mức không thể nhận ra nữa.
Vào thế kỷ 19, ở Angiêri đã xảy ra một chuyện liên quan đến một đội lính Pháp. Đội lính này đang đi
trên sa mạc. Phía trước, cách họ chừng sáu kilômet có một đàn hồng hạc đang nối đuôi nhau đi, loại
chim này ở Angiêri không thiếu gì. Khi đàn hồng hạc đi đến dải ảo ảnh, từng con một biến hình giống

như một kỹ sĩ Ảrập. Lính Pháp liền quả quyết rằng ở phía chân trời có cả một đội quân Ảrập đông
đảo.
Ảo giác do ảo ảnh gây ra mạnh đến nỗi viên đội chỉ huy liền phái một tên lính đi trinh sát. Khi tên lính
tiến đến gần, hắn nom thấy đàn hồng hạc. Nhưng bản thân tên lính cũng đi vào dải ảo ảnh. Bốn vó con
ngựa của hắn có kích thước to đến nỗi nom như hắn đang cưỡi một giống vật kỳ lạ. Chiều cao con vật
dễ đến vài mét. Từ xa có cảm tưởng như con vật ấy đang đi trên bề mặt một chiếc hồ nước rộng.
Ở Liên Xô, những “bóng ma” như thế hay thấy ở gần Xivasơ, bên eo đất Pêrêkôxki. Mùa hè, hầu như
vào ngày nắng nào cũng vậy, cây cối, gò đồi, nhà cửa cứ như nô rỡn trong không trung. Chúng không
ngừng thay hình đổi dạng...
Ta cũng nên nhớ lại câu chuyện buồn cười đã từng xảy ra vào thế kỷ trước với những người tham gia
đoàn thám hiểm của nhà nghiên cứu địa cực người Thụy Điển Nordensen. Gần trạm nghỉ của đoàn
thám hiểm xuất hiện một con gấu trắng to. Mọi người vội cầm súng chạy ra. Nhưng vào lúc mọi
người chuẩn bị bóp cò thì “con gấu” đã sải rộng đôi cánh bay lên trời. Khi bay nó trở nên nhỏ dần và
biến thành ... chim hải âu.
Cũng có khi ảo ảnh làm người ta vỡ mộng thật sự. Chẳng hạn chúng ta biết rõ các thủy thủ Thụy Điển
đã mất bao nhiêu thời gian để đi tìm hòn đảo ảo ảnh xuất hiện trên biển Bantic giữa quần đảo Alan và
bờ biển Thụy Điển.
Song có lần ảo ảnh lại có ích. Năm 1902, nhà thám hiểm địa cực nổi tiếng người Anh, thuyền trưởng
Xcôt đã giả định rằng, xa hơn về phía nam có một mạch núi. Điều phỏng đoán của ông sau đó đã
được nhà nghiên cứu địa cực người Na Uy R. Amunđxen khẳng định, chính ông đã tìm thấy mạch núi
ở nơi Xcôt dự đoán.
Bây giờ chúng ta cùng nhớ lại hình dạng của ảo ảnh mà nhiều người có thể thấy vào tiết thu ở các
vùng lãnh thổ Liên Xô. Khi hạ xuống bên đường chân trời, mặt trời bỗng nhiên thay đổi hình dạng.
Đĩa mặt trời bỗng nhiên biến thành hình tam giác, một giây sau chúng ta thấy nó đã có hình cây nấm,
sau đó mặt trời lại có hình quả trứng, hình thang ... Đã thế, mặt trời còn nhảy múa, lúc thì nó nhô lên,
lúc lại hạ xuống, còn khi áp sát đường chân trời thì nó lúc ẩn lúc hiện.
10
Đó là hiện tượng kỳ thú xảy ra trong khí quyển chứ không phải điều gì khác. Song những người sùng
đạo cho đến tận bây giờ vẫn gắn hiện tượng đó với đức tin của mình. “Mặt trời chơi đùa, - họ bảo, -
chỉ vào dịp lễ phục sinh, vì mặt trời mừng ngày lễ vĩ đại ấy!” Nhưng dễ dàng thấy rằng ảo ảnh đó có

thể quan sát được cả vào những ngày bình thường cả mùa xuân lẫn đầu mùa hạ.
Những điều “kỳ dị” đó được giải thích rất đơn giản. Như trên đã nói: các tia sáng không phải là đi
thẳng trong bầu khí quyển. Vì nguyên nhân đó mà chúng ta nhìn thấy các vật thể khác nhau đôi khi
không phải ở chỗ nó đang tồn tại, hoặc ở hình dạng méo mó hẳn đi hay không nhận ra nổi. Mặt trời
đùa rỡn chính là hiện tượng như vậy.
Khi ranh giới giữa những lớp không khí khác nhau (có mật độ khác nhau) luôn luôn thay đổi, khi
không khí ở trên mặt đất thường xuyên chuyển động, chúng ta có thể thấy được trò đùa rỡn của mặt
trời. Các tia mặt trời lúc này bị lệnh đi nhiều lần trong khí quyển, hành trình của chúng luôn luôn thay
đổi. Và chúng ta có cảm giác mặt trời không ngừng thay đổi hình dạng của mình. Hiện tượng này xảy
ra vào những ngày không khí bị đốt nóng ở sát mặt đất và luôn luôn chuyển động, đồng thời mật độ
của nó liên tục thay đổi.
Khi mặt trời vừa nhô lên khỏi chân trời, các tia sáng của nó bắt đầu đi qua các lớp không khí yên tĩnh
và đồng nhất hơn, trò chơi chấm dứt. Ảo ảnh biến mất.
7. Cột khói hình nấm của vụ nổ bom nguyên tử
Khi một quả bom nguyên tử nổ, sẽ hình thành một cột khói
hình nấm. Đó là do nhiệt lượng sinh ra làm biến dạng các lớp
khí quyển một cách khác nhau.
Có 15% năng lượng phát ra dưới dạng phóng xạ, 35% dưới dạng nhiệt và
50% dưới dạng sóng xung kích truyền đi với vận tốc lớn hơn 1.000 km/h, càn
quét mọi thứ trên đường đi. Trong vài phần triệu giây sau vụ nổ, bức xạ X khủng khiếp phóng thích ra
làm nóng không khí. Một khối cầu khí nóng rực hình thành có đường kính 1 km với sức nóng lên đến
vài triệu độ. Không khí nóng nhẹ hơn không khí lạnh nên khối cầu khí sẽ dâng lên cao, tạo thành một
dòng không khí mạnh mẽ đi lên, cuốn hút vật chất bị phá huỷ do vụ nổ. Hiện tượng này tạo ra chân
"cây nấm".
US DEPARTMENT OF ENERGY /
SCIENCE PHOTO LIBRARY. SPL
Reference Number: T165/126
Chân nấm hình thành ở tầng đối lưu (ở độ cao 15 km), nơi mà cứ lên 1 km, nhiệt độ sẽ giảm 6 độ C.
Từ 18 đến 50 km (tầng bình lưu), nhiệt độ tăng từ 0 đến 27 độ C. Giữa hai tầng này là vùng đỉnh đối
lưu mà khi tiếp xúc với nó, cái "mũ nấm" sẽ hình thành. Quả cầu lửa đã nguội lại, không còn đủ năng

lượng để tiếp tục bốc lên cao nữa và lan rộng theo chiều ngang, làm thành cái mũ trước khi vật chất
rơi xuống dần dần.
11
Tuy nhiên, trái với những gì người ta thường nghĩ, cái nấm lửa đó không phải là đặc thù của một vụ
nổ nguyên tử. Thật ra một vụ nổ do chất nổ hoá học thông thường với cường độ mạnh như thế cũng
tạo nên cái nấm. Và một vài vụ phún xuất núi lửa có tính chất nổ cũng tạo thành một cái nấm tro, khí
và khói.
8.Ngoài thể rắn, thể lỏng, thể khí ra vật chất còn ở trạng thái nào khác nữa không?
Vật chất xung quanh chúng ta thật là muôn hình muôn vẻ phong phú đa dạng. Nếu cần phân loại chắc
bạn có thể chỉ ra ngay không khó khăn gì cái nào là chất rắn cái nào là chất lỏng cái nào là chất khí.
Ngoài 3 loại đó ra vật chất còn ở trạng thái nào khác nữa không? Hãy lấy nước làm ví dụ: đun nóng
một cục băng đến mức độ nhất định nó (thể rắn) sẽ biến thành nước (thể lỏng) nhiệt độ tăng lên nữa
nước sẽ bốc hơi (thể khí). Nếu tiếp tục tăng nhiệt độ hơi nước lên cao hơn nữa thì sẽ được kết quả như
thế nào?
Khi nhiệt độ chất khí cao hơn vài ngàn độ thì các electron mang điện âm bắt đầu bứt khỏi nguyên tử
và chuyển động tự do nguyên tử trở thành các ion mang điện dương. Nhiệt độ càng cao thì số electron
bứt ra khỏi nguyên tử chất khí càng nhiều hiện tượng này được gọi là sự ion hoá của chất khí. Các nhà
khoa học gọi thể khí iron hoá là "trạng thái plasma".
Ngoài nhiệt độ cao ra dùng các tia tử ngoại tia X tia  cực mạnh chiếu vào chất khí cũng có thể làm
cho nó biến thành plasma.
Có thể bạn cảm thấy plasma rất hiếm có. Nhưng thực ra đó lại là một trạng thái phổ biến trong vũ trụ.
Trong lòng phần lớn những vì sao phát sáng trong vũ trụ đều có nhiệt độ và áp suất cực cao vật chất ở
trong lòng các vì sao này đều ở trạng thái plasma. Chỉ có ở một số hành tinh tối và vật chất phân tán
trong thiên hà mới có thể tìm thấy chất rắn chất lỏng và chất khí.
Ngay xung quanh chúng ta cũng thường gặp vật chất ở trạng thái plasma. Như ở trong ống đèn huỳnh
quang đèn neon trong hồ quang điện sáng chói đều có thể tìm thấy dấu vết của nó. Hơn nữa trong tầng
ion xung quanh trái đất trong hiện tượng cực quang trong khí phóng điện sáng chói ở khí quyển và
trong đuôi của các sao chổi ta đều có thể tìm thấy trạng thái plasma kỳ diệu này.
Các nhà khoa học đã phát hiện được các ngôi sao lùn trắng trong vũ trụ có kích thước không lớn
nhưng mật độ của chúng thì rất đáng kinh ngạc. Mật độ của chúng ước tính gấp từ 36 đến mấy trăm

triệu lần mật độ của nước. Đó là vì duyên cớ gì?
Vật chất là do các nguyên tử cấu tạo thành. ở vật chất thông thường trong nguyên tử và giữa các
nguyên tử với nhau có khoảng không rất lớn. Trung tâm của nguyên tử là hạt nhân phía ngoài là các
lớp electron chuyển động quanh nó hạt nhân nguyên tử rất nặng trọng lượng của nó chiếm tới 99%
trọng lượng toàn bộ nguyên tử thế nhưng thể tích của hạt nhân rất nhỏ giả sử nguyên tử là một ngôi
nhà cao to thì hạt nhân nguyên tử chỉ là một viên bi thuỷ tinh đặt giữa ngôi nhà vì vậy khoảng không
bên trong nguyên tử cũng rất lớn.
ở bên trong ngôi sao lùn trắng áp suất và nhiệt độ đều rất lớn. Dưới áp suất mấy triệu atmotsphe
không chỉ khoảng cách giữa các nguyên tử với nhau bị giảm đi mà ngay các lớp electron đều bị ép
chặt vào với nhau lúc đó bên trong vật chất chẳng còn khoảng trống nào nữa vì thế vật chất trở nên
đặc biệt nặng. Vật chất như vậy được các nhà khoa học gọi là "trạng thái siêu đặc". Bên trong các
ngôi sao lùn trắng vật chất ở trạng thái siêu đặc như vậy ở trung tâm trái đất mà chúng ta đang sống áp
suất đạt tới 3,55 tỷ bar (1 atmotsphe = 1013 bar = 760 tor) vì vậy cũng tồn tại một số vật chất ở trạng
thái siêu đặc nhất định.
12
Giả sử lại tăng thêm áp lực lên vật chất ở trạng thái siêu đặc thì những hạt nhân nguyên tử và electron
đã bị ép chặt đến mức không thể chặt hơn nữa do đó hạt nhân nguyên tử sẽ bị vỡ ra từ bên trong
phóng ra các proton và nơtron. Khi xảy ra điều đó thì cấu tạo vật chất có những thay đổi căn bản
proton kết hợp với electron biến thành nơtron. Trạng thái như thế được gọi là "trạng thái nơtron".
Mật độ của vật chất ở trạng thái nơtron còn làm cho người ta kinh ngạc hơn so với vật chất ở trạng
thái siêu đặc thì nó lớn hơn 100 000 lần! Một cục vật chất ở trạng thái nơtron to bằng bao diêm có thể
nặng tới 3 tỷ tấn cần tới hơn 96000 đoàn xe lửa lớn mới kéo nổi nó.
Người ta cho rằng trong vũ trụ một số ngôi sao có thể có vật chất ở trạng thái như vậy và được gọi là
sao nơtron.
Vì thế đến đây chúng ta biết rằng vật chất không chỉ có ba trạng thái rắn lỏng khí mà thôi.
9. Điều gì xảy ra khi một người chết trong vũ trụ?
Về cơ bản, anh ta sẽ bị đóng thành băng khô trong khoảng chân không băng giá của
vũ trụ. Nước trong cơ thể hóa băng và cuối cùng biến mất.
Băng có thể bốc hơi mà không cần trải qua giai đoạn hóa lỏng. Do không có ôxy nên không có sự
phân hủy và có rất ít chứng cớ để cho rằng sẽ có sự mục rữa do vi khuẩn. Tuy nhiên, cần bao lâu để

trở thành băng khô? Không ai có thể biết. Quá trình này cũng diễn ra tương tự nhưng sẽ lâu hơn nhiều
nếu một người chết trong bộ quần áo du hành.
Ở đây cũng nói thêm về việc sinh nở trong vũ trụ. Chắc chắn, toàn bộ quá trình giao hợp, phôi học và
đỡ đẻ chưa được thử nghiệm từ đầu đến cuối trên một loài vật có vú nào trong vũ trụ. Chẳng hạn, các
nhà khoa học chưa rõ lực hút có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với việc thụ tinh của con người.
Mức độ phóng xạ trong vũ trụ, đặc biệt là càng vào sâu trong khoảng không, càng cao hơn trên mặt
đất, cho nên nguy cơ sinh ra quái thai do phóng xạ sẽ cao hơn, trừ khi có các biện pháp ngăn chặn
thích hợp.
Một vấn đề khác là ở hầu hết các giống loài, lực hút có liên quan đến sự đối xứng song phương (hai
nửa của cơ thể phát triển cân xứng) và sự phân biệt đầu - chân. Người ta tự hỏi liệu môi trường không
trọng lượng có làm mất đi tính cân xứng đó. Trong một nghiên cứu của Liên Xô trước đây về sự thai
nghén của loài chuột trong vũ trụ, các báo cáo cho rằng chuột sinh ra bình thường. Tuy nhiên, chúng
được thụ thai trên mặt đất từ trước và trở về đẻ trên mặt đất, nên cuộc nghiên cứu chưa thể kết luận
được.
Ngoài ra, về lý thuyết, các vấn đề y khoa phát sinh trong vũ trụ có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của
thai phụ, như mất canxi trong xương, gián đoạn hoóc môn và chất lỏng trong cơ thể, mất sự săn chắc
của cơ do không có trọng lượng...
Quá trình chuyển dạ có thể sẽ kéo dài hơn một chút nếu các đứa trẻ vũ trụ không chịu chui xuống như
trẻ trên trái đất thường làm trong những tuần cuối của quá trình thai nghén. Tuy vậy, bản thân việc đỡ
đẻ có nhiều khả năng sẽ y như trên mặt đất bởi vì việc co giãn cơ trong lúc chuyển dạ không phụ
thuộc vào lực hút.
10.Những bí mật về sét
13
Khi sát nhập vào tia sét từ trên trời xuống, luồng sét đất nối mạch với sét trời và một phần năng lượng
của sét được theo đó truyền xuống. Quá trình này có thể lặp đi lặp lại nhiều lần và nhờ đó làm tiêu đi
thế điện của đám mây sét. Dựa trên nguyên lý này mà nhà vật lý Faraday phát minh ra cột thu lôi để
chống sét, nói cho đúng hơn là để hút sét rồi truyền năng lượng của nó xuống đất cho tiêu đi.
Các nhà thờ thường được xây cao, có vòm, có tháp nhọn và cây thánh giá trên nóc, có chiều cao nhất
trong vùng cho nên trở thành những cột thu lôi hút sét, bị sét đánh nhiều hơn tất cả những toà nhà ở
chung quanh. Những cây đứng đơn độc, nhất là cây cao cũng có thể đóng vai trò như những cột thu

lôi. ở những vùng địa hình bằng phẳng thì những chỗ thường hay bị sét đánh nhất là những khu vực
có nước chảy ngầm, có ống nước hay có những thân quặng, tức là những nơi có độ dẫn điện cao hơn.
Từ khi xuất hiện những toà nhà cao và công trình có độ cao hơn 100-200 mét, ví dụ các toà nhà chọc
trời, các cột vô tuyến truyền hình (chẳng hạn như tháp Vô tuyến truyền hình Ostankimo ở Matxcova
cao hơn 500 mét), đã giúp người ta phát hiện được một hiệu ứng mới lý thú: Đó là chúng chẳng
những có thể thay đổi được phương hướng của sét đánh xuống đất mà bản thân còn thúc đẩy tạo thành
những đám mây sét. Tất nhiên những toà nhà chọc trời và công trình cao này luôn luôn bị sét đánh nên
phải lắp thu lôi đặc biệt mới bảo vệ được.
Nhiệt độ của sét thường vào khoảng 25-30 nghìn độ Kelvin. Khi sét đánh chẳng những loé những tia
sáng loá mắt mà còn có cả phóng xạ tia cực tím và tia Rơnghen nữa. Những vật càng ở gần nơi sét
đánh thì càng chịu phóng xạ cao. Tuy đường kính của luồng sét trong giai đoạn chủ yếu của nó không
lớn-chỉ khoảng 3cm, nhưng mật độ năng lượng ở đây thì lớn vô cùng. Sét có khả năng nung chảy hoặc
thiêu thành tro những vật liệu bằng kim loại. Nó có thể vặn gẫy cây hoặc hay thậm chí nhổ cả rễ lên.
Năng lượng phát xạ của sét lớn đến nỗi ánh sáng của một tia chớp có thể nhìn thấy từ trên mặt trăng.
Đường đi của sét gần mặt đất có thể rất phức tạp. Để nghiên cứu trường hợp của những trẻ em Nhật bị
sét đánh, người ta mô phỏng sét đánh trong phòng thí nghiệm. Qua đó thấy rằng nếu cài lên đầu hình
nhân giả thí nghiệm một cái lược hay trâm cài bằng kim loại, gài lên ngực nó một cái cúc kim loại hay
thắt cho nó thắt lưng có khoá bằng kim loại thì dòng điện sẽ đi qua những vật kim loại ấy mà không
tổn hại đến hình nhân. Khi nghiên cứu những máy bay bị sét đánh, người ta thấy rằng không hiếm khi
sét đánh chảy đầu những chiếc đinh tán ở vỏ máy bay nhưng lại không gây tổn hại gì đến những tấm
vỏ ở đây. Cũng có khi sét đánh chảy đầu đinh tán nằm ở phía trong vỏ máy bay.
ở những nơi nào thường hay có sét? ở trong những vĩ tuyến của nước Nga trong một năm chỉ có
khoảng 20-30 ngày xảy ra cơn giông và có sấm sét. Nhưng trên thế giới có những vùng mà mùa giông
bão kéo dài tới 150-200 ngày. Trong mỗi cơn giông thường có tới vài chục, có khi tới vài trăm tiếng
sét. Nhưng cũng có khi cơn giông chỉ có một tiếng sét duy nhất. ở những nơi thường xảy ra giông và
nhiều sấm sét là những nơi địa hình và cấu tạo ngầm của đất thuận lợi cho việc thu hút sét và thường
bao giờ cũng bị sét đánh liên tục. Nhưng người có óc quan sát phát hiện được điều này, có thể tìm
được những mạch nước ngầm ở đấy, hoặc có thể lợi dụng để làm trò phù thuỷ "hô phong hoán vũ" gọi
được sét.
Sét có thể tạo nên những điều kỳ diệu. Những điều kỳ diệu này được giải thích là do những hiệu quả

vật lý có liên quan đến đặc điểm của sét. Sét có thể tạo ra những bức tranh hay hình vẽ không? Độ
sáng chói của sét làm loá mắt chúng ta khi ta trông thấy tia chớp từ cách xa vài cây số, hình ảnh ấy đã
in đậm vào mắt chúng ta rồi. Còn khi phải nhìn gần thì độ sáng ấy mạnh hơn gấp hàng trăm lần, thậm
chí hàng nghìn hàng triệu lần. Có những trường hợp tia sét làm cho phi công loá mắt như bị mù suốt
mấy phút, thậm chí suốt mấy giờ liền. Mật độ của luồng ánh sáng này đủ để làm cho da bị sạm đen,
một kiểu như phải bỏng hay cháy nắng. Đó là phản ứng của da đối với tia cực tím hoặc tia phóng xạ.
11. Một nhật thực làm thay đổi toàn thế giới
14
Trong trọn hai thế kỉ, các nhà khoa học tin tưởng hoàn toàn vào cái nhìn của Isaac
Newton về sự hình thành của vũ trụ và cách vận động của vật chất trong nó. Tuy
nhiên, chân lý của sự tuyệt đối đã bị thử thách bởi một nhà khoa học trẻ người Do
Thái, Albert Einstein. Sự đối đầu giữa hai trí thông minh lớn nhất của nhân loại được
đánh dấu bằng lần Nhật thực toàn phần ngày 29/5/1919.
a. Quan niệm Vũ trụ bất dịch
Trong cuốn sách nổi tiếng, Principia, Newton giải thích sự vận động của vũ trụ
trong khuôn khổ của những công thức toán học, có thể được áp dụng cho mọi
hoạt động trong vũ trụ, từ sự chuyển động của các hành tinh cho đến đơn giản
là “một quả táo rơi.” Theo lý thuyết của Newton, không gian là một thứ không
thể dịch chuyển hay thay đổi, là nền cho những vật thể chuyển động trong nó. Thời gian cũng không
nằm ngoài quy luật đó, tốc độ thời gian trôi qua là như nhau đối với tất cả mọi người ở mọi nơi trong
vũ trụ. Thời gian và không gian là hai khái niệm nền tảng, có thể so sánh với một hệ quy chiếu không
đổi trong đó các vật chất vận động đúng theo các định lý toán học và vật lý.
b. Người đã bẻ cong không gian và thời gian
1905, Einstein tóm gọn lại lý thuyết của mình về sự tương đối của chuyển động, thời gian, và không
gian trong Thuyết tương đối đặc biệt (Special Theory of Relativity). Phải đến 10 năm sau đó, Einstein
mới hoàn thành Thuyết tương đối (General Theory of Relativity) trong đó có đề cập đến mọi khía
cạnh của vật lý (song song với những vấn đề đã được Newton đề cập). Đáng chú ý nhất là cách giải
thích hoàn toàn mới của Einstein về lực hấp dẫn. Trong vũ trụ của Einstein, không gian có thể bị bẻ
cong khi tới gần một vật thể có khối lượng rất lớn. Sự bẻ cong của không gian là một trong những yếu
tố khiến các vật thể, ví dụ như các hành tinh, chuyển động trên quỹ đạo xung quanh các vật thể khác

lớn hơn, trong trường hợp của chúng ta là Mặt Trời.
c. Dùng Mặt Trời làm vật thí nghiệm
Einstein và Eddington
Einstein and Eddington Lý thuyết của Einstein chưa được ông công bố rộng rãi, tuy nhiên thông qua
nhiều con đường đã tới tay Arthur Stanley Eddington, nhà vật lý học và thiên văn học lớn của nước
Anh. Eddington nhận ra rằng Thuyết tương đối có thể thử nghiệm được. Nếu không gian thật sự có
thể bị bẻ cong bởi lực hấp dẫn, thì ánh sáng đi qua khoảng không gian đó không thể đi theo một
đường thẳng mà cũng sẽ bị bẻ cong. Lực hấp dẫn càng lớn, ánh sáng sẽ càng bị bẻ cong mãnh liệt
hơn. Và Mặt Trời là vật thể có khối lượng lớn nhất – có lực hấp dẫn lớn nhất- nằm gần chúng ta, rất
tiện cho thí nghiệm này. Đây là lúc lỗ đen vẫn chưa được xem xét và tìm hiểu một cách nghiêm túc, vì
vậy, Mặt Trời là vật thí nghiệm lý tưởng. Tuy nhiên, một khó khăn không khó để nhận ra, đó là ánh
sáng Mặt Trời sẽ choán hết ánh sáng bị bẻ cong của những ngôi sao đằng sau nó.
15
Eddington nhận ra rằng, Nhật thực toàn phần là thời điểm lý tưởng để quan sát, vì khi Mặt Trời bị che
khuất, chúng ta có thể nhìn thấy những ngôi sao ngay bên cạnh nó. Nếu Thuyết tương đối là đúng, thì
lực hấp dẫn của Mặt Trời sẽ làm cho những ngôi sao này chuyển dịch vị trí so với vị trí bình thường
trên bầu trời của chúng (đã được quan sát và ghi lại trong những thời gian khác khi Mặt Trời ở xa
chúng).
Eddington tạo sức ép lên Hội Khoa học Anh để tổ chức cuộc thí nghiệm. Nhà thiên văn học Hoàng
Gia, Frank Watson Dyson, biết rằng lần Nhật thực năm 1919 là cơ hội lý tưởng cho cuộc thí nghiệm
này. Nhật thực toàn phần sẽ diễn ra trong vòng 6 phút (so với những lần khác khoảng 2-3 phút), hơn
nữa khi Nhật thực xảy ra, Mặt Trời sẽ nằm ngay cạnh Hyades, một nhóm sao có độ sáng khá lớn.
Đường đi của Nhật thực toàn phần bắt đầu từ miền Bắc Brazil, đi qua Đại Tây Dương, tới Tây Châu
Phi. Hai địa điểm quan sát được chọn ra, một là Sobral, Brazil, và hai là đảo Principe, nằm trong vịnh
Guinea, phía Tây Châu Phi. Eddington dẫn đầu cuộc thí nghiệm tại Principe, Andrew Crommelin
thuộc Đài thiên văn Hoàng gia dẫn đầu cuộc thí nghiệm tại Sobral.
d. Ngày định mệnh
Tuy nhiên, vào ngày 29/5, ngày dự kiến Nhật thực xảy ra, tại Principe, trời bão và mưa lớn. Khi mưa
ngớt vào buổi chiều, Eddington đã chụp được vài kiểu ảnh qua mây. Tại Sobral, tuy thời tiết thuận lợi
nhưng Crommelin đã phạm phải nhiều sai lầm cơ bản trong việc dựng kính thiên văn. Ông điều chỉnh

kính thiên văn vào buổi tối trước ngày Nhật thực, nhưng không tính tới những thay đổi có thể xảy ra
do sự tăng nhiệt độ từ đêm tới sáng. May mắn thay, Crommelin đem theo một chiếc kính thiên văn dự
phòng (dù không mạnh bằng chiếc kia) và những bức ảnh chụp được bằng chiếc kính dự phòng này có
lẽ là những bức có giá trị nhất.
Sau Nhật thực, Eddington tự mình kiểm tra lại vị trí của Hyades trong những bức ảnh mới chụp so với
vị trí thông thường của nó. Việc này đòi hỏi sự chính xác đến tuyệt đối, bởi những bức ảnh chụp được
khá mờ, và cũng do ảnh hưởng của vầng hào quang xung quanh mặt trời.
Vào 6/11, Hội Khoa học Hoàng Gia Anh tập trung tại cuộc hội thảo, trong đó Dyson, với tư cách là
một thành viên, thông báo kết quả của cuộc thí nghiệm, khẳng định rằng kết quả này đồng ý với
Thuyết tương đối của Einstein. Sự khẳng định này làm rung chuyển giới báo chí. Trong một đêm,
Einstein trở thành cái tên quen thuộc trong mọi gia đình.
Tuy nhiều nhà khoa học vẫn tỏ ra nghi ngờ kết quả của cuộc thí nghiệm, và Eddington đã phải điều
chỉnh một số kết quả ban đầu, trong những lần nhật thực toàn phần tiếp theo, Thuyết tương đối của
Einstein đã được kiểm nghiệm và chứng minh là hoàn toàn có cơ sở.
12. Có thể đi ngược thời gian?
16
Có rất nhiều tác phẩm văn học viết về những chiếc máy đặc biệt có thể đưa con người quay trở về
quá khứ hoặc đi tới tương lai. Tât nhiên tất cả những câu chuyện này chỉ là sản phẩm của trí tưởng
tượng mà không có bất cứ cơ sở khoa học nào.
Nhưng sự tưởng tượng về những cỗ máy thời gian phải chăng cũng phản ánh ước muốn của con
người về quyền lực đối với thời gian và vận mệnh của mình.
Với sự hiểu biết sâu sắc của con người về sự hoạt động của thời gian và vận tốc ánh sáng, theo lý
thuyết thì chúng ta có thể chạy đua với thời gian, nhưng chúng ta chỉ có thể đi tới tương lai mà
không thể quay trở về quá khứ. Tất nhiên không bằng cách xây dựng một cỗ máy thời gian, bấm vài
cái nút và chúng ta có mặt ở tương lai, mà bằng cách du hành trong vũ trụ trên một chiếc tàu vũ trụ
có khả năng đạt tới một vận tốc rất lớn.
Để có thể du hành với thời gian, chúng ta phải đi với vận tốc bằng vận tốc của ánh sáng, hoặc ít nhất
một vận tốc đủ lớn rất gần với vận tốc ánh sáng. Tuy nhiên, vấn đề nan giải là không thể có một vật
thể nào có thể có vận tốc bằng với vận tốc ánh sáng, theo như Thuyết tương đối đặc biệt của
Einstein. Trong lý thuyết này, Einstein chỉ ra rằng khi một vật tăng vận tốc của nó lên, vận tốc càng

lớn thì trọng lượng của vật càng lớn. Trọng lượng của một vật càng lớn thì càng khó để nó có thể
tiếp tục tăng vận tốc. Khi vận tốc của một vật đạt tới gần vận tốc ánh sáng, trọng lượng của nó trở
nên quá lớn, gần như vô tận, vì vậy nó không thể tiếp tục tăng vận tốc để đạt tới vận tốc ánh sáng
hoặc hơn thế.
Một điểm đáng chú ý là chúng ta không cần phải đạt tới vận tốc ánh sáng để có thể du hành vào
tương lai. Thuyết tương đối của Einstein đã chứng minh điều này. Khi một vật thể đạt tới vận tốc
gần với vận tốc ánh sáng, thời gian trôi chậm lại. Nếu bạn ở trong một chiếc tàu vũ trụ có vận tốc
bằng 95% vận tốc ánh sáng, trong khoảng thời gian 10 năm, thì khi trở về Trái Đất, 32 năm đã đi
qua đối với những người khác. Tuy nhiên, với trình độ kỹ thuật hiện nay, chúng ta không có cách
nào có thể tăng vận tốc một vật lên gần với vận tốc ánh sáng. Tàu vũ trụ nhanh nhất hiện nay có thể
đạt tới 17.500 miles/h (tương đương với 28.163 km/h), 40000 lần chậm hơn so với vận tốc ánh sáng.
Với tốc độ này, một nhà du hành vũ trụ sẽ phải mất 1 tỷ năm để có thể tiến lên 1 năm so với người
bình thường. Chúng ta không có đủ thời gian, cũng như nguồn nhiên liệu để làm được chuyện này.
Điều này có nghĩa là việc đi tới tương lai là không thể cho đến khi chúng ta phát minh ra cách tăng
vận tốc một vật lên gần với vận tốc ánh sáng. Cho tới lúc đó, có lẽ việc thoát khỏi tầm kiểm soát của
thời gian là một điều khó có thể đạt được.
13. Ánh sáng mặt trời màu gì?
Hàng ngày khi mặt trời mọc lên hoặc lặn xuống, nó có màu đỏ, tại sao vậy nhỉ? Đó là vì vào lúc mặt
trời mọc lên hoặc lặn xuống, ánh sáng của nó phải đi qua một lớp không khí rất dày ngang mặt đất và
bị không khí hấp thu khá nhiều nên trông thấy có màu đỏ. Thực ra ánh sáng mặt trời có 7 màu: đỏ, da
cam, vàng, lục, lam, chàm, tím hợp với nhau mới thành ra màu trắng.
Có lúc, trên bầu trời xuất hiện cầu vồng, 7 màu của nó do những hạt nước nhỏ trên cao chia ánh sáng
mặt trời ra mà tạo nên sắc màu rực rỡ. Nếu bạn phết lên một cái mặt bàn tròn quay được cả 7 màu đó
17
theo một tỉ lệ nhất định, rồi cho mặt bàn xoay thật nhanh, lúc ấy bạn sẽ thấy trên mặt bàn toàn là một
màu trắng.
14. Tại sao dây điện thoại vặn xoắn?
Dây vặn xoắn để loại bỏ sức nóng. Khi người ta căng nó ra, dây nhận năng lượng, năng lượng này
khuếch tán dưới dạng sức nóng lúc dây trở về hình dạng đầu tiên. Nhưng đôi khi, dây không thể loại
bỏ sức nóng. Lúc này, nó cần một hình thức ổn định hơn, có khả năng hấp thu phần năng lượng bổ

sung. Giải pháp là biến đổi vòng xoắn duy nhất thành nhiều vòng xoay theo hướng ngược lại. áp suất
cao trên những chỗ đảo ngược sẽ hấp thu số năng lượng dư thừa.
15. Chỗ ngồi tốt nhất trong rạp chiếu bóng
Nếu thường xem phim, bạn sẽ nhận thấy có một số hình tượng nổi lên khác thường
trên màn ảnh: hình người tựa hồ như tách khỏi bối cảnh và nhô lên, giống như cảnh
thực vậy. Thực tế, ảo giác này không phụ thuộc vào tính chất của cuốn phim, mà vào
chỗ ngồi của bạn trong rạp.
Các ảnh trên phim mặc dù được quay bằng những ống kính có tiêu cự rất ngắn nhưng khi chiếu lên
màn ảnh thì đã được phóng đại lên rất nhiều - đến một trăm lần - do đó có thể nhìn bằng hai mắt trên
một khoảng rất xa. Ta sẽ thấy sự nổi lên rõ nhất khi nhìn ảnh trên màn dưới một góc đúng bằng góc
mà máy quay phim "nhìn" nguyên vật trong lúc quay. Lúc ấy, trước mắt chúng ta sẽ hiện ra những
cảnh tượng tự nhiên.
Nhưng làm thế nào để tìm được khoảng cách phù hợp với góc trông tốt nhất ấy? Muốn thế, cần phải
chọn một chỗ ngồi trước hết đối diện với chính giữa tấm ảnh, và hai nữa, tiêu cự của vật kính lớn hơn
chiều rộng của cuốn phim bao nhiêu lần thì chỗ ngồi đó phải cách màn ảnh một khoảng lớn hơn chiều
rộng của ảnh bấy nhiêu lần.
Để quay phim, nói chung người ta thường dùng những ống kính có tiêu cự 35 mm, 50 mm, 75 mm,
100 mm, tùy theo đặc điểm của đối tượng được quay. Chiều rộng tiêu chuẩn của cuộn phim thường là
24 cm. Vậy, đối với tiêu cự là 75 mm chẳng hạn, thì sẽ được
Khoảng cách phải tìm/chiều rộng của tranh = tiêu cự/chiều rộng cuốn phim = 75/24, cho kết quả gần
bằng 3.
Vậy là muốn tìm khoảng cách từ chỗ ngồi tốt nhất tới màn ảnh trong trường hợp này, ta chỉ việc nhân
chiều rộng của hình trên màn ảnh với 3 là được. Giả sử chiều rộng của hình trên màn ảnh là 6 bước thì
chỗ ngồi xem phim tốt nhất phải là cách màn ảnh 18 bước.
16. Cầu vồng
Cầu vồng là gì?
Tôi xin bổ sung thêm cho rõ hơn.
Một cách tổng quát, hiện tượng cầu vồng sinh ra bởi sự khúc xa, phản xạ của tia sáng Mặt trời qua
những hạt nước nhỏ hình cầu (lí tưởng).
18

×