Tải bản đầy đủ (.docx) (107 trang)

Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên địa bàn tỉnh Phú Thọ: Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.53 KB, 107 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

NGUYỄN THẾ VINH

THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI (FDI) TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế

HÀ NỘI, THÁNG 1 NĂM 2017


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

NGUYỄN THẾ VINH

THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI (FDI) TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60340410

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS,TS. NGUYỄN AN HÀ

HÀ NỘI, THÁNG 1 NĂM 2017




3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực có nguồn gốc rõ ràng.
Hà Nội, ngày 3 tháng 1 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Thế Vinh

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập tại Học viện Chính trị khu vực I, Luận văn “ Thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên địa bàn tỉnh Phú Thọ: Thực trạng và giải
pháp” thể hiện những kiến thức mà học viên đã nghiêm túc nghiên cứu, tiếp thu, lĩnh


4

hội. Để có được kết quả này, không thể không nhắc đến sự tạo điều kiện quan tâm
giúp đỡ của Ban giám đốc học viện, các phòng, ban chức năng và các Thầy cô giáo
trực tiếp giảng dạy tại Học viện Chính trị khu vực I, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình,
chu đáo của PGS.TS Nguyễn An Hà đã giúp tôi hoàn thành bản Luận văn này.
Cho phép tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn An Hà,
Ban Giám đốc Học viện, các phòng, ban chức năng và các Thầy cô giáo trực tiếp
giảng dạy tại Học viện Chính trị khu vực I và đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi trong quá
trình nghiên cứu.
Trong khuôn khổ giới hạn của đề tài và khả năng của mình, chắc chắn Luận văn
khó tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế vì vậy tôi mong nhận được nhiều ý kiến chỉ
dẫn của các Thầy, Cô giáo và đồng nghiệp để tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện đề tài.

Hà Nội, ngày 3 tháng 1 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Thế Vinh


5

MỤC LỤC


6

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DA

Dự án

ĐTNN

Đầu tư nước ngoài

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FIE

Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài

GDP


Tổng sản phẩm quốc nội

GRDP

Tổng sản phẩm trên địa bàn

KCN

Khu công nghiệp

KCN - CCN

Khu công nghiệp – Cụm công nghiệp

KT – XH

Kinh tế - xã hội

NCS

Nghiên cứu sinh

NSNN

Ngân sách nhà nước

NSTW

Ngân sách trung ương


TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

TX

Thị xã

UNCTAD

Hội nghị Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển

XDCB

Xây dựng cơ bản


7

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU


8
LỜI MỞ ĐẦU
1. Ý nghĩa và tính cấp thiết của đề tài
Đối với những nước đang phát triển và tích lũy vốn nội bộ trong nền kinh tế
còn thấp như Việt Nam thì cần phải thu hút vốn từ bên ngoài cho đầu tư phát triển,
trong đó việc thu hút FDI là một tất yếu khách quan. Đây là nguồn lực quan trọng
cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Thực tế cho thấy, thời gian

vừa qua vốn FDI đã và đang là một kênh bổ sung vốn, công nghệ rất quan trọng cho
nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển và tăng trưởng kinh tế. Những thành
tựu đạt được trong việc thu hút nguồn vốn FDI thời gian qua đã tạo cho đất nước
nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực cho các ngành công nghiệp
như dầu khí, hóa chất, lắp ráp ô tô, công nghệ thông tin... Bên cạnh đó, nguồn vốn
FDI cũng góp phần hình thành và phát triển hệ thống các khu công nghiệp, khu chế
xuất và đặc biệt gần đây là khu công nghệ cao.
Vị trí địa lý của Phú Thọ là một trong những thuận lợi để giao lưu, trao đổi
với bên ngoài, tạo ra nhiều cơ hội to lớn cho việc phát triển kinh tế - xã hội và khai
thác các tiềm năng hiện có của tỉnh.
Những năm qua, Phú Thọ đã đạt được kết quả nội bật trên các lĩnh vực công
nghiệp hóa, hiện đại hóa thúc đẩy kinh tế tăng trưởng với tốc độ tăng trưởng bình
quân đạt mức cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng bình quân trên 7% trong gần 20
năm qua (tính từ thời điểm tái lập tỉnh- 1997). Trong đó, phát triển thương mại,
công nghiệp và dịch vụ, xây dựng tăng trưởng khá, an sinh xã hội được quan tâm,
chú trọng, bước đầu hình thành nông nghiệp đô thị, nông nghiệp công nghệ cao,
công nghệ sạch gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm, hình thành chuỗi giá trị từ sản
xuất giồng, thức ăn, gia công, thu mua, chế biến và phân phối; giá trị sản xuất công
nghiệp tăng nhanh, là đầu tàu tăng trưởng kinh tế.Với sự nỗ lực cố gắng không
ngừng của các cấp, các ngành tỉnh Phú Thọ, đã tạo chuyển biến tích cực trong việc
cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh, tạo thuận lợi cho
các thành phần kinh tế hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh. Tỉnh đã thu
hút các tập đoàn kinh tế lớn tạo giá trị sản xuất và xuất khẩu công nghiệp tăng
mạnh, hình thàng các sản phẩm chủ lực điện tử, công nghệ cao, chế biến. Đầu tư


9
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển hướng hiện đại; Xúc tiến đầu tư
với cơ chế, giải pháp thông thoáng, ưu tiên nhà đầu tư năng lực và công nghệ cao;
Lĩnh vực văn hóa, giáo dục có chất lượng ngày càng cao; công tác chăm sóc, bảo vệ

sức khỏe nhân dân được đảm bảo; chính sách an sinh xã hội, giải quyết việc làm,
giảm nghèo được quan tâm; quốc phòng, an ninh chính trị được giữ vững.
Trong những đóng góp cho sự phát triển vượt bậc của Phú Thọ thời kỳ từ khi
tái lập tỉnh (1997) đến nay, nhất là trong khoảng thời gian từ năm 2010 trở lại đây,
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các lĩnh vực kinh tế của tỉnh là
nguồn lực to lớn, góp phần đặc biệt quan trọng cho sự phát triển kinh tế- xã hội của
tỉnh. Trong giai đoạn từ năm 2010 đến nay, nhận thức sâu sắc về vai trò quan trọng
của việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào địa phương. Chính quyền tỉnh Phú Thọ
đã có sự nhanh nhạy trong việc đưa ra nhiều chính sách ưu đãi, kêu gọi các nhà đầu
tư nước ngoài. Tính đến hết tháng 11 năm 2015, toàn tỉnh đã thu hút 458 dự
án, trong đó có 111 dự án FDI với tổng vốn đầu tư gần 603,3 triệu USD. Các dự án
FDI đa dạng về qui mô và hình thức với số vốn từ vài chục triệu lên tới hàng tỷ
USD, theo hình thức BOT, Liên doanh hay doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Địa điểm đầu tư là nhiều huyện, thị trên địa bàn tỉnh song vẫn tập trung các dự án
đầu tư lớn vào khu vực thành phố Việt Trì và vùng lân cận.
Tuy nhiên, xét trên điều kiện và năng lực thực tế, trên mục tiêu phát triển
của tỉnh xây dựng thành thành phố trực thuộc trung ương vào năm 2020, không gian
phát triển cho các nguồn vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh còn hết sức rộng lớn. Việc thu
hút vốn từ bên ngoài để thúc đẩy kinh tế phát triển còn chưa tương xứng với tiềm
năng, đặc biệt là nguồn vốn FDI.
Trong giai đoạn tới đây cùng với việc triển khai các nghị quyết của Đại hội
Đảng lần thứ XII, cùng với quá trình hội nhập kinh tế sâu rộng của nước ta khi triển
khai TPP, FTA với EU và Cộng đồng kinh tế ASEAN, đang đặt ra những cơ hội và
thách thức mới cho tỉnh Phú thọ trong việc cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao
khả năng cạnh tranh tạo ra cơ chế nhằm thu hút, quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn
vốn này. Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả đã chọn đề tài “Thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) trên địa bàn tỉnh Phú Thọ: Thực trạng và giải pháp”, làm đề
tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý kinh tế.



10

2. Tình hình nghiên cứu
Các kết quả nghiên cứu tiếng Việt
Lĩnh vực FDI đã và đang được nhiều tác giả nghiên cứu làm rõ thể hiện trong các
đề tài luận văn, luận án, các hội thảo khoa học, các sách, báo và tạp chí trong và
ngoài nước. Có thể kể ra các công trình đã nghiên cứu gần đây nhất đó là:
• Luận án Tiến sỹ
- "Các giải pháp tài chính nhằm tăng cường thu hút và quản lý FDI tại Việt
Nam" của NCS Lê Công Toàn năm 2001 [45]. Trong luận án này tác giả đã hệ
thống các lý luận về vai trò của các giải pháp tài chính trong quản lý và thu hút FDI,
kinh nghiệm của một số nước châu Á trong việc sử dụng các công cụ tài chính để
thu hút FDI, đánh giá thực trạng sử dụng các giải pháp tài chính trong thu hút và
quản lý FDI ở việt nam giai đoạn 1998 – 2000 đã đề ra các giải pháp cụ thể về tiền
tệ, chi ngân sách, thuế... và cũng đề ra các điều kiện cần thiết để thu hút và tăng
cường quản lý FDI giai đoạn 2001 – 2010.
- "Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI
tại thành phố Hồ Chí Minh" của NCS Trần Đăng Long năm 2002 [21], nội dung của
luận án này tác giả đã tiến hành nghiên cứu công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động FDI về lý thuyết và thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh, đề ra các giải pháp
hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI.
- "Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp của các nước G7 vào
Việt Nam" năm 2004, của NCS Trần Anh Phương [36]. Tác giả của luận án đã đánh
giá thực trạng thu hút vốn đầu tư FDI của nhóm G7 vào Việt Nam giai đoạn 1998 –
2002, xem xét mức độ tác động tới quá trình kinh tế xã hội của đất nước để từ đó đề
ra 2 nhóm giải pháp cấp bách như: gia tăng FDI từ Nhật Bản, Anh, Mỹ, Pháp và
nhóm giải pháp lâu dài
- "Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Việt
Nam" của NCS Nguyễn Thị Kim Nhã năm 2005 [35], đã mô tả bức tranh toàn cảnh
về thu hút FDI ở Việt Nam năm 1988 đến năm 2005, đánh giá các mặt thành công

và hạn chế các hoạt động thu hút FDI tại Việt Nam, phân tích các nguyên nhân ảnh
hưởng đến thành công và hạn chế đó. Từ đó nêu rõ các vấn đề cần tiếp tục xử lý để


11
tăng cường thu hút FDI trong thời gian tới. Điểm mới của luận án này là khi tính
lượng vốn FDI vào Việt Nam thì chỉ tính phần vốn đưa từ bên ngoài vào và cũng đã
luận giải một cách khoa học khái niệm "Hiệu quả các dự án FDI đã triển khai" là
một nhân tố tác động đến thu hút FDI của một quốc gia.
- "Một số biện pháp thúc đẩy việc triển khai thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) tại Việt Nam", năm 2006 của NCS Bùi Huy Nhượng [34]. Tác giả
của luận án ngoài việc hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về đầu tư trực tiếp
nước ngoài, đã có những đóng góp mới về mặt lý luận liên quan đến triển khai và
thúc đẩy triển khai thực hiện dự án FDI điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong
công tác quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài sau khi cấp
phép đầu tư. Luận án cũng phân tích và đánh giá khá toàn diện bức tranh về tình
hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo sự vận động của nguồn vốn này,
từ việc thu hút đến triển khai hoạt động thực hiện các dự án đây được coi là cơ sở
quan trọng cho việc hoạch định chính sách về FDI trong thời gian sắp tới.
• Các đề tài cấp tỉnh, thành phố, cấp Bộ
- "Chiến lược đổi mới chính sách huy động các nguồn vốn nước ngoài phục vụ
sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 – 2010" (2000) [38], Đề tài cấp
Bộ của Vụ Tài chính đối ngoại, Bộ Tài chính, chủ nhiệm đề tài TS. Trương Thái
Phiên. Trong đề tài này, tác giả đã đưa ra các giải pháp chủ yếu thu hút nguồn vốn
FDI như: Đổi mới cơ cấu FDI nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất
lượng xây dựng quy hoạch đối với FDI, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế
chính sách quản lý nhằm cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài, mở rộng hợp tác
đầu tư nước ngoài theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, đẩy mạnh cải cách thủ
tục hành chính, cải tiến công tác tổ chức bộ máy quản lý, phân cấp và cơ chế hút
vốn, nâng cấp cơ sở hạ tầng, thúc đẩy hoạt động hỗ trợ, xúc tiến FDI, tăng cường

công tác bảo hộ sở hữu trí tuệ, phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực trong nước phục vụ có hiệu quả hoạt động FDI.
- "Nghiên cứu các giải pháp cơ bản nhằm thu hút nguồn vốn FDI đầu tư vào Hà
Nội giai đoạn 2001 – 2005", mã số 01X-07/13-2001-1, của Sở Kế hoạch và Đầu tư
Hà Nội, chủ nhiệm đề tài Trần Văn Lưu [22]. Trong phần giải pháp, đề tài đã đề cập


12
một số vấn đề chủ yếu như tư duy kinh tế, cải cách hành chính trong công tác xúc
tiến thu hút FDI và xét duyệt cấp giấy phép đầu tư cho dự án, quy hoạch đô thị, phát
triển nguồn nhân lực và tạo việc làm, thúc đẩy xuất khẩu, đa dạng hóa hình thức đầu
tư, chính sách thuế, đền bù và giải phóng mặt bằng, quản lý vĩ mô, kiện toàn hệ
thống pháp luật, cân đối nguồn tài chính để thực hiện công tác xúc tiến FDI, thúc
đẩy thu hút dòng vốn FDI vào các khu công nghiệp.
Các công trình nghiên cứu bằng tiếng Anh
Về các nghiên cứu nước ngoài, chúng tôi chỉ có điều kiện khảo cứu các nghiên
cứu bằng tiếng Anh với các tác phẩm nổi bật như: Alfaro L. et al. (2003), FDI
and economic growth: the role of local Financial market (FDI và sự phát triển
kinh tế: vai trò của thị trường tài chính địa phương); Faramarz Akami (2008),
Foreign Direct Investment in Developing countries: Impact on Distribution and
Employment (Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các nước đang phát triển: Tác động
trong phân bổ và việc làm); Hansen H. and Rand J. (2004), On the casual link
between FDI and growth in developing countries (Mối liên hệ giữa FDI và tăng
trưởng ở các nước đang phát triển); Mottable, Dhaka (2007), Determinants of
foreign direct invesment and its impact on economic growth in developing countries
(Các yếu tố quyết định đầu tư trực tiếp nước ngoài và ảnh hưởng của nó đối với
tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển).
Các nghiên cứu chúng tôi khảo sát chủ yếu liên quan đến lý thuyết về đầu tư
trực tiếp nước ngoài; về đánh giá các luồng vốn trong nền kinh tế thế giới và sự lưu
chuyển của nó; về kinh nghiệm thu hút đầu tư của các quốc gia; về giá trị và tác

động nguồn vốn nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của các quốc gia, vùng
lãnh thổ. Đó là những tri thức quý báu giúp cho việc thực hiện luận án, ít nhất ở
khâu nghiên cứu lý thuyết được tiến hành thuận lợi.
Như vậy, cho đến nay đề tài về vốn FDI ở Việt Nam đã được nhiều người
quan tâm, nghiên cứu. Trong các nghiên cứu đó các tác giả đều đề cập đến những lý
luận về vốn FDI, đều có phân tích về thực trạng về vốn FDI tại Việt Nam, vùng kinh
tế và sử dụng nguồn vốn này. Tuy nhiên, ở luận văn dự định tiến hành, tác giả chỉ
tập trung nghiên cứu vốn FDI vào Phú Thọ dưới hai góc độ: thu hút FDI và nâng


13
cao hiệu quả của FDI. Về thu hút FDI , trên cơ sở đánh giá thực trạng, luận văn đưa
ra các giải pháp cụ thể cho tỉnh Phú Thọ trong thu hút vốn FDI trong thời gian tới.
Về hiệu quả của FDI, cách tiếp cận nhìn theo góc độ đóng góp của FDI đối với tỉnh
như nộp ngân sách, giải quyết công ăn việc làm, góp phần phát triển hạ tầng, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa v.v…
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào địa bản
tỉnh Phú Thọ giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2016, đánh giá hiện trạng và đề xuất
các kiến nghị cho giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu: Phân tích, đánh giá thực trạng việc thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2010- 2016. Đề xuất các kiến nghị, giải
pháp để thúc đẩy hiệu quả hơn nữa việc thu hút đầu tư trục tiếp nước ngoài vào tỉnh
Phú Thọ trong giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa và làm rõ các vấn đề về lý luận có tính khoa học đối với hoạt
động thu hút vốn FDI vào địa phương.
- Đánh giá thực trạng thu hút vốn FDI tại tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2010-2016.
- Xây dựng và kiểm định mô hình phản ánh hiệu quả vốn FDI tại tỉnh Phú

Thọ giai đoạn như trên.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm tăng cường thu hút vốn FDI vào tỉnh
Phú Thọ trong thời gian sắp tới (đến năm 2020, tầm nhìn 2030)
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn sẽ sử dụng các phương pháp truyền
thống như:
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, diễn dịch quy nạp...
- Phương pháp điều tra khảo sát: Thông qua các phiếu điều tra khảo sát thu
về từ các nhà đầu tư nước ngoài có các dự án đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ và tiến hành phỏng vấn sâu các chuyên gia, các cán bộ quản lý nhà nước làm


14
công tác xúc tiến thu hút vốn FDI của các cơ quan nghiên cứu, các cơ quan chức
năng tỉnh Phú Thọ, nhất là tại Sở Kế hoạch & Đầu tư tỉnh Phú Thọ.
- Phương pháp tổng hợp: Từ kinh nghiệm thu hút vốn FDI của công tác thu
hút tại các địa phương khác, nước ngoài, từ các hội nghị, hội thảo, các chuyên gia
về thu hút vốn FDI, qua phỏng vấn trực tiếp những người làm công tác thu hút.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được trình bày theo kết cấu 3
chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
địa phương.
Chương 2: Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh tỉnh
Phú Thọ giai đoạn 2010-2016
Chương 3: Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
tỉnh Phú Thọ giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn 2030


15


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO ĐỊA PHƯƠNG
1.1. Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của vốn FDI
a. Khái niệm về vốn FDI
Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF thì FDI là: “một hoạt động đầu tư được thực hiện
nhằm đạt được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh
thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư
là giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp”.
Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa: “đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở
hữu tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một
khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh
hưởng quyết định đổi với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong
thực thể kinh tế ấy”.
Theo luật đầu tư 2005 thì: “FDI là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt
Nam vốn bằng tiền hoặc bằng bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư
theo quy định của luật này”, trong đó nhà đầu tư nước ngoài được hiểu là tổ chức
kinh tế, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam”.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “Đầu tư trực
tiếp là hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu
dài với một doanh nghiệp đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh
hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp nói trên bằng cách :
+ Thành lập hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn
quyền quản lý của chủ đầu tư.
+ Mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có.
+ Tham gia vào một doanh nghiệp mới.
+ Cấp tín dụng dài hạn (> 5 năm)
+ Quyền kiểm soát : nắm từ 10% cổ phiếu thường hoặc quyền biểu quyết trở lên”.



16
Từ những khái niệm trên có thể đưa ra một cách hiểu khái quát về đầu tư trực
tiếp nước ngoài như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình thức
di chuyển vốn quốc tế. Trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp
quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn”.
Sự ra đời và phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài là kết quả tất yếu của
quá trình quốc tế hóa và phân công lao động quốc tế.
Vốn trong khái niệm này có thể được hiểu là tài sản hữu hình (máy móc, thiết
bị, quy trình công nghệ, bát động sản, các loại hợp đòng và giáy phép có giá trị …)
hoặc tài sản vô hình (quyền sở hữu tí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý…) hoặc
tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…).
Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài.
Hai đặc điểm cơ bản của FDI là: có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế và
chủ đầu tư (pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động sử dụng vốn và
quản lí đối tượng đầu tư.
b. Đặc điểm về vốn FDI
- FDI chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích hàng đầu là tìm kiếm lợi nhuận
(theo cách phân loại ĐTNN của UNCTAD, IMF và OECD, FDI là đầu tư tư nhân)
Các nước nhận đầu tư, nhất là các nước đang phát triển cần lưu ý điều này khi
tiến hành thu hút FDI, phải xây dựng cho mình một hành lang pháp lý đủ mạnh và
các chính sách thu hút FDI hợp lý để hướng FDI vào phục vụ cho các mục tiêu phát
triển kinh tế, xã hội của nước mình, tránh tình trạng FDI chỉ phục vụ cho mục đích
tìm kiếm lợi nhuận của các chủ đầu tư.
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định,
tùy theo luật đầu tư nước ngoài (tại Việt Nam, khi liên doanh, số vốn góp của bên
nước ngoài phài lớn hơn hoặc bằng 30% vốn pháp định)
- Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Đối với doanh
nghiệp liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh thì quyền quản lý doanh nghiệp

và quản lý đối tượng hợp tác tùy thuộc vào mức vốn góp của các bên khi tham gia,
còn đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì người nước ngoài (chủ đầu tư)
có quyền quản lý hoàn toàn doanh nghiệp.


17
- Lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh
doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh
nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc sát
nhập các doanh nghiệp với nhau.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay gắn liền với các hoạt động kinh doanh
quốc tế của các công ty đa quốc gia và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chính
sách về FDI của mỗi quốc gia tiếp nhận đầu tư thể hiện chính sách mở cửa và quan
điểm hội nhập quốc tế về đầu tư, đây được coi là nhân tố kéo. Mặt khác, các công ty
đa quốc gia, trong chiến lược phát triển của mình sẽ mở rộng phạm vi hoạt động khi
có điều kiện phù hợp.
Bên cạnh những đặc điểm trên, FDI còn có một số đặc điểm cơ bản sau:
- FDI ít chịu sự chi phối của chính phủ: FDI do các nhà đầu tư hoặc doanh
nghiệp tư nhân thực hiện nên nó ít chịu sự chi phối của chính phủ, đặc biệt là nó ít
bị phụ thuộc vào mối quan hệ giữa nước của chủ đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư so
với các hình thức di chuyển vốn quốc tế khác.
- FDI tạo một nguồn vốn dài hạn cho nước chủ nhà: FDI thường dài hạn nên
không dễ rút đi trong thời gian ngắn. Do đó nước chủ nhà sẽ được tiếp nhận một
nguồn vốn lớn bổ sung cho vốn đầu tư trong nước mà không phải lo trả nợ.
- Quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn gắn liền với chủ đầu tư: Trong thời gian
đầu tư, quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn gắn liền với chủ đầu tư, thành viên hội
đồng quản trị và việc điều hành, quản lý quá trình sản xuất kinh doanh được phân
chia theo tỷ lệ góp vốn. Quyền lợi của chủ đầu tư được gắn liền với lợi ích do đầu
tư mang lại.

- FDI là hình thức kéo dài “chu kỳ tuổi thọ sản xuất”, “chu kỳ tuổi thọ kỹ
thuật” và “nội bộ hóa di chuyển kỹ thuật”. FDI sẽ giúp cho doanh nghiệp chuyển
giao được công nghệ lạc hậu ở nước mình nhưng dễ được chấp nhận ở nước có trình
độ phát triển thấp hơn và từ đó kéo dài được chu kỳ sản xuất.
- Các bên tham gia vào các dự án FDI thường có quốc tịch khác nhau và sử
dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Vì mỗi quốc gia có ngôn ngữ riêng nên tất yếu


18
trong FDI sẽ có sự khác nhau về ngôn ngữ. Đặc điểm này đòi hỏi phải sử dụng ngôn
ngữ quốc tế và ngôn ngữ nước sở tại trong các văn bản của dự án và trong quá trình
hoạt động của dự án.
- Trong quá trình thực hiện các dự án FDI, có sự “cọ xát” giữa các nền văn hóa
khác nhau, sự “cọ xát” này đòi hỏi cần có sự giao hòa văn hóa giữa các bên liên
quan từ đó có được sự hợp tác tốt đẹp. Điều này lý giải hiện tượng khi mới đầu tư
vào một thị trường nào đó, các nhà đầu tư nước ngoài thường lựa chọn hình thức
doanh nghiệp liên doanh để giảm bớt rủi ro, nhưng khi đã tìm hiểu và rõ hơn về thị
trường đầu tư thì họ lại có xu hướng đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài để
có thể toàn quyền quyết định mà không muốn có sự phụ thuộc hay tranh chấp trong
các quyết định đầu tư.
1.1.2. Các hình thức chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, hiện nay tại Việt Nam có các hình
thức đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Business Co-operation Contract):
Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu
tư trong đó các bên quy trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên
để tiến hành đầu tư kinh doanh tại Việt Nam mà không thành lập pháp nhân mới.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được kí kết giữa đại diện có thẩm quyền
của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh và hoàn toàn khác với hợp đồng
thương mại, hợp đồng giao nguyên liệu lấy sản phẩm và các hợp đồng khác ở chỗ

nó quy định rõ việc phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên. Có thể nói, hợp tác
kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức kinh doanh quốc tế,
trong đó, liên kết giữa các đối tác tương đối lỏng lẻo. Căn cứ pháp lý quan trọng
nhất đối với các dự án đầu tư theo hình thức này là hợp đồng hợp tác kinh doanh và
hệ thống pháp luật nước sở tại.
Đối với nước tiếp nhận:
- Ưu điểm: giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, thiếu công nghệ, tạo ra thị trường
mới nhưng đảm bảo được an ninh quốc gia và nắm được quyền điều hành dự án.


19
- Nhược điểm: khó thu hút đầu tư, chỉ thực hiện được đối với một số ít lĩnh
vực dễ sinh lời.
Đối với nước đầu tư:
- Ưu điểm: tận dụng được hệ thống phân phối có sẵn của đối tác nước sở tại
vào những lĩnh vực hạn chế đầu tư thâm nhập được như thị trường truyền thống của
nước chủ nhà; không mất thời gian và chi phí cho việc nghiên cứu thị trường mới và
xây dựng các mối quan hệ; không bị tác động lớn do khác biệt về văn hoá; chia sẻ
được chi phí và rủi ro đầu tư.
- Nhược điểm: không được trực tiếp quản lý điều hành dự án, quan hệ hợp tác
với đối tác nước sở tại thiếu tính chắc chắn làm các nhà đầu tư e ngại.
Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác
thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định kí giữa chính
phủ nước ngoài hoặc do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh
nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với chủ đầu tư nước
ngoài trên cơ sở hợp đồng kinh doanh (Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam).
Khái niệm liên doanh là một hình thức tổ chức kinh doanh có tính chất quốc tế, hình
thành từ những sự khác biệt giữa các bên về quốc tịch, quản lý, hệ thống tài chính,
luật pháp và bản sắc văn hoá; hoạt động trên cơ sở sự đóng góp của các bên về vốn,

quản lí lao động và cùng chịu trách nhiệm về lợi nhuận cũng như rủi ro có thể xảy
ra; hoạt động của liên doanh rất rộng, gồm cả hoạt động sản xuất kinh doanh, cung
ứng dịch vụ, hoạt đọng nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai.
Đối với nước tiếp nhận đầu tư:
- Ưu điểm: giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, giúp đa dạng hoá sản phẩm,
đổi mới công nghệ, tạo ra thị trường mới và tạo cơ hội cho ngưòi lao động làm việc
và học tập kinh nghiệm quản lí của nước ngoài.
- Nhược điểm: mất nhiều thời gian thương thảo các vấn đề liên quan đến dự án
đầu tư, thường xuất hiện mẫu thuẫn trong quản lý điều hành doanh nghiệp; đối tác
nước ngoài thường quan tâm đến lợi ích toàn cầu, vì vậy đôi khi liên doanh phải


20
chịu thua thiệt vì lợi ích ở nơi khác; ngoài ra, thay đổi nhân sự ở công ty mẹ có ảnh
hưởng tới tương lai phát triển của liên doanh.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài:
- Ưu điểm: tận dụng được hệ thống phân phối có sẵn của đối tác nước sở tại;
được đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh dễ thu lời, lĩnh vực bị cấm hoặc hạn chế
đối với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; thâm nhập được những thị
trường truyền thống của nước chủ nhà. Không mất thời gian và chi phí cho việc
nghiên cứu thị trường mới và xây dựng các mối quan hệ. Chia sẻ được chi phí và rủi
ro đầu tư.
- Nhược điểm: khác biệt về nhìn nhận chi phí đầu tư giữa hai bên đối tác; mất
nhiều thời gian thương thảo mọi vấn đề liên quan đến dự án đầu tư, định giá tài sản
góp vốn giải quyết việc làm cho người lao động của đối tác trong nước; không chủ
động trong quản lý điều hành doanh nghiệp, dễ bị mất cơ hội kinh doanh khó giải
quyết khác biệt về tập quán, văn hoá.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của
nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý

và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh (Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam). Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành quản lý
của chủ đầu tư nước ngoài nhưng vẫn phải tuỳ thuộc vào các điều kiện về môi
trường kinh doanh của nước sở tại, đó là các điều kiện về chính trị, kinh tế luật
pháp, văn hóa, mức độ cạnh tranh…Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có tư cách
pháp nhân là 1 thự thể pháp lý độc lập hoạt động theo luật pháp nước sở tại. Thành
lập dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Đối với nước tiếp nhận:
- Ưu điểm: nhà nước thu được ngay tiền thuê đất, tiền thuế mặc dù doanh
nghiệp bị lỗ; giải quyết được công ăn việc làm mà không cần bỏ vốn đầu tư; tập
trung thu hút vốn và công nghệ của nước ngoài vào những linh vực khuyến khích
xuất khẩu; tiếp cận được thị trường nước ngoài.


21
- Nhược điểm: khó tiếp thu kinh nghiệm quản lý và công nghệ nước ngoài để
nâng cao trình độ cán bộ quản lý, cán bộ kĩ thuật ở các doanh nghiệp trong nước.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài:
- Ưu điểm: chủ động trong quản lý điều hành doanh nghiệp nhằm thực hiện
được chiến lược toàn cầu của tập đoàn; triển khai nhanh các dự án đầu tư; được
quyền chủ động tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng phục vụ yêu cầu
phát triển chung của tập đoàn.
- Nhược điểm: chủ đầu tư phải chịu toàn bộ rủi ro trong đầu tư; phải chi phí
nhiều hơn cho nghiên cứu tiếp cận thị trường mới; không xâm nhập được vào
những lĩnh vực có nhiều lợi nhuận thị trường trong nước lớn, khó quan hệ với các
cơ quan quản lý Nhà nước nước sở tại.
1.1.3. Những tác động của FDI đối với nền kinh tế
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng đối với các nước đang
phát triển. Để tăng trưởng và phát triển kinh tế các nước đang phát triển gặp rất
nhiều khó khăn về vốn, công nghệ, thị trường cũng như các kinh nghiệm và những

kiến thức trong quản lý.... Cho nên, các nước đang phát triển không ngừng cải thiện
môi trường đầu tư để tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng. Như vậy đầu tư trực tiếp nước
ngoài có ảnh hưởng rất lớn đến nước nhận đầu tư, trong phần lý thuyết đề cập tới
những tác động như sau:
1.1.3.1. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tổng cầu:
Để tạo sản phẩm cho xã hội, trước hết cần đầu tư. Đầu tư là một yếu tố
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế.
Xét theo mô hình kinh tế vĩ mô, đầu tư là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng cầu. Khi tổng cung chưa kịp thay đổi, gia tăng đầu tư(I) làm cho tổng cầu( AD)
tăng nếu các yếu tố khác không đổi.
AD = C +I+G +X- IM
C: Tiêu dùng.
I: Đầu tư:
G: Tiêu dùng chính phủ


22
X: Xuất khẩu.
M: Nhập khẩu.
Trên thực tế, tăng trưởng kinh tế một số nước không chỉ dựa trên khả năng
sản xuất mà còn phụ thuộc vào khả năng sản xuất được sử dụng, cùng với độ mạnh
của cầu (Sundrum, 1990). Sự tăng lên trong bất cứ thành phần nào của tổng cầu sẽ
dẫn đến sự tăng lên của GDP và tỷ lệ thu nhập. FDI có khả năng góp phần vào tăng
trưởng kinh tế của nước nhận đầu tư thông qua ảnh hưởng tích cực tới tổng cầu.
Sau cầu đầu tư ban đầu, cầu đầu tư kế tiếp – bởi các FIEs – cho đầu vào của sản
phẩm cũng rất quan trọng. Khi các FIEs tạo đầu tư trực tiếp và thiết lập nên sản xuất ở
nước nhận đầu tư. Nó cung cấp không chỉ thu nhập cho người lao động mà cả tiết kiệm
cho nước nhận đầu tư, cải thiện năng suất lao động của khu vực truyền thống.
Tác động quan trọng khác về cầu của FDI là ảnh hưởng liên kết sau khi vào

khu vực nội địa của nước nhận đầu tư. Thông qua việc mua nguyên liệu, sản phẩm
trung gian do địa phương làm, FIEs có thể tạo cầu cho những sản phẩm này. Như
vậy, cung nội địa sẽ được khuyến khích để tạo ra nhiều đầu ra hơn, cung cấp cho
cầu của FIEs.
Hơn nữa, FDI, đặc biệt hướng xuất khẩu, xúc tiến cán cân xuất khẩu của
nước nhận đầu tư. Tận dụng lợi thế lao động rẻ, trẻ ở các nước này, cùng với những
kênh và chuyên môn của mình, FIEs hướng tới xúc tiến xuất khẩu cho các hãng nội
địa bằng việc sử dụng nguyên liệu và trung gian đầu vào của địa phương. Xuất khẩu
mở rộng đưa ra một số chỉ số quan trọng cho nền kinh tế cạnh tranh, trực tiếp
khuyến khích tăng trưởng kinh tế và cải thiện hiệu quả công nghiệp của nước nhận
đầu tư.
Hiện nay, có hai quan điểm về vai trò của FDI ở nước nhận đầu tư. Cách
nhìn thứ nhất như là động lực cho nước chủ nhà, coi FDI có tác động tích cực tới
tăng trưởng kinh tế. Cách nhìn nhận khác thì cho rằng FDI là công cụ phá hủy quốc
tế bởi MNCs (các công ty đa quốc gia). Đầu tư của MNCs vào các nước đang phát
triển dẫn đến nền kinh tế phụ thuộc, hủy hoại kinh tế của nước nhận đầu tư. Ví dụ
cụ thể, chúng ta không thể phủ nhận vai trò to lớn của FDI đối với tốc độ phát triển


23
mạnh mẽ của các nước NICs (Hong Kong, Đài Loan, Singapore và Hàn Quốc), tuy
nhiên, tác động tích cực đó lại không xuất hiện ở Mỹ Latinh và Châu Phi.
1.1.3.2. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài theo tổng cung
Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính là cung trong nước và cung
từ nước ngoài. Bộ phận chủ yếu cung trong nước là một hàm của các yếu tố sản
xuất: vốn, lao động, tài nguyên, công nghệ... thể hiện qua phương trình sau:
Q = F( K,L,T,R...).
K: Vốn đầu tư.
L: Lao động.
T: Công nghệ.

R: Nguồn tài nguyên.
Các nhà kinh tế chỉ ra khung cảnh của các quốc gia đang phát triển có nền
kinh tế bị kìm hãm do thiếu vốn, tài nguyên thiên nhiên, công nghệ, lao động có kỹ
năng, chuyên môn quản lý hay ngoại tệ. Đấy chính là những “nút thắt” kìm hãm sự
phát triển của của nền kinh tế đang phát triển. Xóa bỏ hay làm giảm bớt những
khoảng cách này là chìa khóa cho những quốc gia muốn tăng trưởng kinh tế và hiện
đại hóa đất nước. Dựa trên các lý thuyết kinh tế phát triển, những nhà kinh tế học đã
chỉ ra FDI có khả năng ảnh hưởng tích cực tới tăng trưởng kinh tế của một nước
đang phát triển thông qua các kênh sau:
Đầu tiên, FDI có thể góp phần tạo lập vốn cho nước nhận đầu tư thông qua
dòng vốn đầu tư vào trong nước, và nó còn có đóng góp thêm vào tiết kiệm nội địa.
Theo công thức tiết kiệm bằng đầu tư, FDI làm tăng khả năng đầu tư của nước mà
dòng FDI chảy vào. Hơn nữa, FDI có thể mang lại những máy móc, thiết bị công
nghệ mới, đó là những hàng hóa mà nước nhận đầu tư chưa có khả năng tự sản xuất.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa FDI và đầu tư nội địa là không xác định được.
Như Arekoug (1976) nhận định FDI có thể kích thích hoặc chiếm chỗ những nhà
đầu tư nội địa. Hơn thế, sự gia tăng tư bản nước ngoài làm giảm áp lực trên tỷ lệ
trao đổi đưa lại sự khuyến khích cho đầu tư nội địa. Dù vậy, FDI cũng không thể
thay thế đầu tư bản địa ở nước nhận đầu tư. Khi FDI được đưa vào trong nước, các
nhà đầu tư nước ngoài có thể cạnh tranh với nhà đầu tư bản địa nhằm vào việc sử


24
dụng nguồn lực khan hiếm như giấy phép nhập khẩu, lao động có kỹ năng,…, và do
vậy, nguồn cung của những nguồn lực khan hiếm này bị giảm đi với các nhà đầu tư
bản địa. Mặt khác, nếu những nhà đầu tư nước ngoài này có xu hướng bán sản
phẩm của họ tại thị trường nội địa, đạt thị phần cao thì sẽ dẫn đến việc các hãng địa
phương bị loại bỏ ngay trên sân nhà, hay có khả năng buộc phải thu hẹp thị phần đã
bị san sẻ. Bên cạnh đó, nhà đầu tư có khả năng loại bỏ cơ hội đầu tư của nhà đầu tư
địa phương dựa trên lợi thế công nghệ và quyền lực thị trường của mình.

FDI có thể xúc tiến sản xuất tại khu vực nội địa nước nhận đầu tư thông qua
chuyển giao công nghệ, đào tạo lao động địa phương về quản lý và kỹ thuật. Rất
nhiều nhà kinh tế đồng ý rằng FDI đem lại sự phát triển công nghệ, chuyển giao và
truyền bá công nghệ, góp phần quan trọng trong nền kinh tế nước nhận đầu tư. Và
trong các hình thức thì liên doanh là hình thức thuận tiện cho việc chuyển giao và
truyền bá công nghệ.
Thêm vào đó, thông qua ảnh hưởng của liên kết trước, hãng đầu tư nước
ngoài cung cấp thiết bị, máy móc và các sản phẩm trung gian cho hãng nội địa. Khi
có sự sẵn sàng của đầu vào, việc sản xuất của hãng nội địa có thể được khuyến
khích. Hơn nữa, những sản phẩm sản xuất bởi FIEs (các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài) có thể thay thế sản phẩm nhập khẩu, giúp nước nhận đầu tư giảm sự
phụ thuộc vào nhập khẩu, từ đó, giảm thâm hụt cán cân thanh toán.
Cuối cùng, FIEs cũng góp phần vào thu nhập thuế của chính phủ nước nhận
đầu tư. Tuy nhiên, đóng góp ròng còn phụ thuộc vào thu nhập thuế được trả bởi
FIEs có lớn hơn những chi phí mà nước nhận đầu tư phải bỏ ra cho việc thiết lập và
cải thiện cơ sở hạ tầng thu hút FDI.
1.1.3.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nguồn vốn quan
trọng để bổ sung vốn cho đầu phát triển.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp
sự thiếu hụt về vốn ngoại tệ của các nước nhận đầu tư đặc biệt là đối với những
nước đang phát triển.
Hầu hết các nước đang phát triển đều rơi vào cái “ vòng luẩn quẩn” đó là:
thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp rồi hậu quả là thu nhập


25
thấp. Tình trạng luẩn quẩn này là “điểm nút” khó khăn nhất mà các nước này phải
vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo tăng trưởng kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm vào
tình trạng trì trệ của sự nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo ra được điểm đột phá
chính xác một mắt xích “ vòng luẩn quẩn” này. Trở ngại lớn nhất đối với các nước

đang phát triển là vốn đầu tư và kỹ thuật. Vốn đầu tư là cơ sở để tạo ra công ăn việc
làm trong các nước, đổi mới công nghệ, kỹ thuật tăng năng suất lao động… Từ đó
tạo tiền đề tăng thu nhập, tăng tích luỹ cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên để
tạo vốn cho nền kinh tế nếu chỉ trông chờ vào tích luỹ nội bộ thì hậu quả khó tránh
khỏi sẽ là sự tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới. Do đó vốn nước ngoài sẽ
là một “cú hích” để góp phần đột phá thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn đó. Đặc biệt
FDI là một nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây nợ
cho nước nhận đầu tư. Hơn nữa luồng vốn này có lợi thế hơn so với luồng vốn vay
ở chỗ: thời hạn trả nợ vốn vay thường cố định và đôi khi quá ngắn so với một dự án
đầu tư, còn thời hạn của FDI thì thường linh hoạt hơn.
Theo mô hình lý thuyết ” hai lỗ hổng” của Cherery và Stout, có hai cản trở
chính cho sự tăng trưởng của một quốc gia đó là: (1) Tiết kiệm không đủ cho nhu
cầu đầu tư gọi là “ lỗ hổng tiết kiệm”. (2) Thu nhập của hoạt động xuất khẩu không
đủ đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu được gọi là “lỗ hổng thương
mại”. Hầu hết các nước đang phát triển hai lỗ hổng trên rất lớn. Vì vậy FDI còn là
một nguồn quan trọng không chỉ là sự bổ sung nguồn vốn nói chung mà cả sự thiếu
hụt về ngoại tệ nói riêng, bời vì FDI góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh và mở
rộng khả năng xuất khẩu cuả nước nhận đầu tư, thu một phần lợi nhuận từ các công
ty nước ngoài, thu ngoại tệ từ hoạt động dịch vụ phục vụ nước ngoài.
FDI vào các nước đang phát triển sẽ tạo tác động tích cực đối với việc huy
động các nguồn vốn khác như ODA, vốn đầu tư trong nươc… và từ đó kích thích
tăng trưởng kinh tế, dần tạo nên một hình ảnh đáng tin cậy về nước này trong các tổ
chức và cá nhân nước ngoài. Chính lòng tin ấy sẽ tác động trở lại, góp phần đẩy
nhanh tốc độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các nước đang phát triển.


×