Trang 42
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu
hút FDI trên đòa bàn tỉnh Bình Dương.
3.1 Mục tiêu và đònh hướng của tỉnh trong thu hút FDI.
3.1.1 Mục tiêu kêu gọi đầu tư
Để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh từ nay đến
năm 2010 và những năm tiếp theo, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài phải
phát triển ổn đònh hơn, đạt hiệu quả cao hơn so với thời kỳ trước để đẩy
nhanh tốc độ CNH-HĐH tỉnh nhà. Cụ thể, việc thu hút vốn FDI nhằm vào
các mục tiêu sau:
− Góp phần chuyển dòch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH, hình
thành một cơ cấu công nghiệp và dòch vụ hiện đại, trong đó công nghiệp giữ
vai trò quan trọng, tập trung sức đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh
cũng như của vùng và cả nước.
− Góp phần khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nguyên liệu
trong nước và nguyên liệu sẵn có tại đòa phương; làm tăng giá trò thông qua
chế biến các nguồn nguyên liệu nông lâm sản đòa phương, góp phần tăng kim
ngạch xuất khẩu của tỉnh trong những năm trước mắt và lâu dài.
− Tạo nguồn thu ngoại tệ và góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách
nhà nước trên đòa bàn; từng bước tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh để
thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động...
3.1.2 Đònh hướng thu hút đầu tư
Từ nay đến năm 2005 và 2010, tỉnh Bình Dương mời gọi sự hợp tác,
tạo mọi điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư trong và ngoài nước phát triển
các lónh vực sau:
− Khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút đầu tư vào các ngành công
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghệ thông tin và các ngành công
nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện và điện tử; những ngành mà đòa phương
có lợi thế mạnh về nguyên liệu và lao động.
− Tập trung thu hút FDI vào các KCN tập trung đã hình thành theo
quy hoạch được phê duyệt. Ưu tiên bố trí các ngành công nghiệp sạch, ít ô
nhiễm, công nghiệp có kỹ thuật cao, công nghiệp hỗ trợ vào các khu công
nghiệp của vùng kinh tế động lực phía Nam tỉnh (Thò xã Thủ Dầu Một,
huyện Thuận An, Dó An). Các ngành vật liệu xây dựng, gia công may mặc,
giày da, chế biến nông lâm sản... khuyến khích và có chính sách ưu đãi thích
hợp đầu tư vào các vùng phía Bắc tỉnh (Bến Cát, Tân Uyên, Phú Giáo, Dầu
Tiếng), trước tiên là phát triển ở các trung tâm xã, thò trấn... để vừa giải
quyết lao động vừa gắn bó với vùng nguyên liệu tại chỗ.
Trang 43
− Đẩy mạnh kêu gọi đầu tư nước ngoài trong các lónh vực thương
mại dòch vụ như: dòch vụ giao thông công cộng, vận tải chuyên dùng trong
công nghiệp, kinh doanh thương mại dòch vụ, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
và khu dân cư.
− Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài từ tất cả các nước và
vùng lãnh thổ đầu tư vào tỉnh, trong đó ưu tiên các nhà đầu tư có tiềm năng
lớn về tài chính và công nghệ; đồng thời tiếp tục thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài ở khu vực và chú ý các dự án quy mô vừa và nhỏ nhưng công nghệ
hiện đại.
− Quan tâm phát triển những ngành nghề truyền thống của đòa
phương như gốm sứ, sơn mài, điêu khắc; tạo nền tảng để liên doanh với nùc
ngoài, kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài để nâng cao trình độ công nghệ, phát
triển quy mô sản xuất các ngành nghề truyền thống.
3.2 Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI trên đòa bàn tỉnh Bình
Dương
3.2.1 Dự báo những điểm mạnh, điểm yếu cũng như những cơ hội,
thách thức (SWOT) của tỉnh trong thu hút FDI đến 2010.
a/ Những điểm mạnh:
− Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã được tỉnh áp
dụng vào thực tế tại đòa phương một cách nhất quán, linh hoạt; đặc biệt là
chủ trương nhất quán và xuyên suốt của lãnh đạo tỉnh trong việc khuyến
khích, kêu gọi thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
− Thực hiện cơ chế “một cửa, một đầu mối” thông thoáng, gắn bó
với các nhà đầu tư, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong quá trình xúc tiến,
thẩm đònh, cấp phép, triển khai sau cấp phép được thuận lợi và nhanh chóng.
Mạnh dạn thực hiện cơ chế phân cấp, ủy quyền cho các Sở, ngành, UBND
các huyện thò giải quyết tốt những vấn đề thuộc thẩm quyền nhằm phục vụ
tốt cho các nhà đầu tư.
− Tỉnh Bình Dương có những thuận lợi cơ bản và thế mạnh để phát
triển, nguồn tài nguyên phong phú, vò trí đòa lý thuận lợi, kinh tế phát triển
tương đối toàn diện với tốc độ cao. Sự phát triển bước đầu cơ sở hạ tầng của
tỉnh và việc hình thành, phát triển nhanh chóng các KCN tập trung, các cụm
quy hoạch công nghiệp... đã tạo tiền đề quan trọng trong thu hút vốn đầu tư
nước ngoài.
− Điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng thuận lợi, gần trung tâm kinh
tế lớn của cả nước, có thể tận dụng được các thế mạnh về nguồn lực và cơ sở
hạ tầng của vùng; gần sân bay, nhà ga, bến cảng..., thuận lợi trong việc đi lại
và giao lưu hàng hóa trong nước và quốc tế; nguồn nguyên liệu đầu vào cũng
như quỹ đất xây dựng dồi dào đảm bảo đáp ứng yêu cầu đầu tư và phát triển.
Trang 44
b/ Những điểm yếu:
− Cơ sở hạ tầng tuy đã nổ lực đầu tư nhiều nhưng vẫn chưa đáp ứng
được với yêu cầu phát triển. Nguồn vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
còn hạn chế, chưa thật sự huy động hết mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển.
Các công trình kết cấu hạ tầng của tỉnh và các đòa phương lân cận chưa hoàn
chỉnh và đồng bộ nhất là hệ thống giao thông, điện, nước...
− Tình trạng thiếu lao động có tay nghề, có trình độ trên đòa bàn tỉnh
vẫn còn phổ biến. Hầu hết là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo đến từ
các đòa phương khác trong cả nước, còn số lao động có tay nghề cao trong các
ngành cơ khí chế tạo, điện, điện tử... còn yếu cả về số lượng lẫn chất lượng,
gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, việc giải quyết
chổ ở cho số công nhân nhập cư cũng là một trong những vấn đề khó khăn
của tỉnh hiện nay.
− Các thủ tục hành chính, nhất là trong các lónh vực liên quan đến
đầu tư nước ngoài tuy đã được cải tiến đáng kể và được đánh giá là thông
thoáng hơn các đòa phương khác nhưng vẫn chưa được hoàn chỉnh lắm và đây
đó vẫn còn những thủ tục gây khó khăn cho các nhà đầu tư.
− Các biện pháp vận động, thu hút đầu tư nước ngoài chưa thật sự
được chú trọng, chưa chủ động tích cực trong công tác xúc tiến, mời gọi đầâu
tư, chủ yếu do các công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng thực hiện là chính.
c/ Cơ hội:
− Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ngày càng được đổi
mới và hoàn thiện theo hướng tạo ra môi trường đầu tư thật sự hấp dẫn, có lợi
hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đây là động lực quan trọng thúc đẩy
nhanh việc thu hút FDI vào nước ta. Các thủ tục hành chính liên quan đến
hoạt động FDI từng bước được cải cách theo cơ chế “ một cửa” tại chổ, tạo
điều kiện thuận lợi và lòng tin nơi các nhà đầu tư.
− Việt Nam là nước thuộc khu vực châu Á-Thái Bình Dương, có
những lợi thế về vò trí đòa lý, tài nguyên và lao động, nhất là được đánh giá là
quốc gia có nền kinh tế chính trò ổn đònh và an ninh tốt nhất nên có tiềm năng
lớn trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
− Cùng với xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế đang phát triển mạnh
mẽ, Việt nam đã chủ động gia nhập nhiều tổ chức của khu vực và thế giới,
ký kết Hiệp đònh thương mại Việt Mỹ, Hiệp đònh khuyến khích và bảo hộ
đầu tư với Nhật Bản và đang tích cực chuẩn bò gia nhập WTO... đã tạo điều
kiện thuận lợi đẩ tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
d/ Thách thức:
− Cạnh tranh trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài giữa các nước
trong khu vực và trên thế giới ngày càng diễn ra quyết liệt và gay gắt, nhất là
Trang 45
các nước khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc... với những điều kiện và
hoàn cảnh tương tự nhưng có một số mặt lợi thế hơn ta. Trên thực tế, Việt
Nam đã cố gắng cải thiện môi trường đầu tư, song các nước trong khu vực
cũng cải thiện và thậm chí còn hấp dẫn hơn môi trường đầu tư của ta.
− Một số văn bản pháp luật, cơ chế chính sách của Nhà nước trong
từng thời gian không đồng bộ, còn chồng chéo, hạn chế lẫn nhau và thường
hay thay đổi nên đã tạo tâm lý bất ổn cho các nhà đầu tư.
3.2.2 Một số giải pháp hỗ trợ:
a/ Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Luật pháp và các chính sách đầu tư nước ngoài ở nước ta tuy đã có
những cải tiến quan trọng thể hiện qua các lần sửa đổi, bổ sung chế độ, chính
sách liên quan đến đầu tư nước ngoài (mà gần đây là Nghò đònh 27/2003/NĐ-
CP của Chính phủ) nhưng vẫn chưa thật sự thông thoáng và cởi mở. Do đó,
trong thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng, điều chỉnh và hoàn
thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động FDI phát triển theo đúng đònh hướng và phù hợp
với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong thời gian tới.
Nâng cao hiệu quả xây dựng các văn bản pháp luật và hạn chế việc
ban hành quá nhiều văn bản dưới luật nhằm tránh sự chồng chéo, không
đồng bộ và thậm chí mâu thuẩn nhau. Theo đó, cần nghiên cứu xây dựng và
hoàn thiện và các văn bản pháp luật liên quan theo hướng thiết lập một mặt
bằng pháp lý chung áp dụng cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài
nhằm tạo ra môi trường ổn đònh, bình đẳng cho sản xuất kinh doanh. Việc
xây dựng khung pháp lý về đầu tư cần theo hướng thống nhất một luật đầu tư
chung, dần thay thế cho hệ thống hai Luật đầu tư hiện nay là Luật Đầu tư
nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước, tạo một sân chơi bình
đẳng cho các nhà đầu tư, kể cả trong nước và ngoài nước.
Mở cửa môi trường đầu tư hơn nữa thông qua việc nới rộng danh mục
khuyến khích đầu tư và giảm danh mục hạn chế đầu tư. Đa dạng hóa các hình
thức FDI để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới. Đồng thời mở rộng
lónh vực thu hút FDI phù hợp với các cam kết trong quá trình chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến
tới áp dụng chế độ một giá đối với các loại dòch vụ, phí, lệ phí... thống nhất
cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài, trước mắt là cước
viễn thông, điện, nước, dòch vụ vận chuyển hành khách, quảng cáo... nhằm
giảm chi phí đầu vào, chi phí trung gian cho các nhà đầu tư.
Tiếp tục đổi mới chính sách và kiện toàn hệ thống tài chính tiền tệ,
tạo môi trường tài chính lành mạnh, thông thoáng và minh bạch hơn. Các
Trang 46
chính sách về tài chính cần được nghiên cứu, xem xét và ban hành phù hợp
với tình hình thực tế tại Việt Nam và thông lệ quốc tế nhằm quản lý chặt chẽ
hơn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vừa tạo điều kiện thuận lợi
cho các nhà đầu tư trong quá trình hoạt động. Các chính sách tài chính cần có
sự thống nhất và quản lý được hoạt động của doanh nghiệp, tránh tình trạng
công ty con ở Việt Nam lỗ còn công ty mẹ ở nước ngoài thì lời.
Bên cạnh đó, cũng cần phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính
sách thuế phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, với
thực tế hoạt động của doanh nghiệp và các cam kết, thông lệ quốc tế theo
hướng đơn giản hóa các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế chung cho
cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, về chính sách đất đai,
Nhà nước cần ban hành chính sách cho phép các doanh nghiệp nhà nước khi
tham gia liên doanh dùng giá trò quyền sử dụng đất để góp vốn liên doanh
không phải hoàn vốn cho ngân sách hàng năm mà có thể sử dụng số vốn này
để tăng phần góp vốn của phía Việt Nam trong liên doanh, tăng dần tỷ trọng
vốn góp của phía Việt Nam theo hướng nâng cao tiềm lực, vò thế của phía
Việt Nam trong liên doanh.
b/ Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
Nâng cao hiệu quả quản lý và điều hành của Nhà nước trong lónh vực
FDI theo hướng tiếp tục cải tiến thủ tục cấp phép, khắc phục sự trì trệ, thiếu
trách nhiệm trong các cơ quan quản lý Nhà nước. Tiếp tục thực hiện chủ
trương đẩy mạnh việc phân cấp quản lý nhà nước về hoạt động FDI cho các
đòa phương bằng những văn bản, chính sách cụ thể, rõ ràng; phân cấp một
cách dứt khoát, mạnh dạn hơn cho đòa phương trên cơ sở đảm bảo thống nhất
về quy hoạch, chính sách và cơ chế quản lý, trong đó chú trọng phân cấp
quản lý nhà nước đối với hoạt động cấp phép và sau cấp phép của các dự án
FDI. Quy đònh cụ thể hơn loại dự án hay trường hợp nào phải lấy ý kiến thỏa
thuận của các Bộ, ngành và Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm tổ chức
việc lấy ý kiến trên cho đòa phương theo cơ chế “một cửa”. Việc bổ sung,
điều chỉnh giấy phép đầu tư của các dự án thuộc thẩm quyền cấp phép của
đòa phương theo phân cấp hoặc ủy quyền mà trước đây do Bộ Kế hoạch và
Đầu tư cấp phép đầu tư thì đề nghò giao cho UBND tỉnh và Ban quản lý các
KCN xem xét giải quyết.
Đối với các dự án đầu tư vào KCN, nhà nước cần thu hẹp khoảng
cách và tiến tới thống nhất cơ chế, chính sách đối với đầu tư trong nước và
đầu tư trực tiếp nước ngoài trong KCN. Bên cạnh đó, nhà nước cần có một
chính sách thích hợp đối với loại hình cụm phát triển công nghiệp tập trung
đối với khu vực vừa và nhỏ đã phát triển một số xí nghiệp công nghiệp nhưng