Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty Công nghiệp hóa chất mỏ Tây Bắc, giai đoạn 20162020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.62 KB, 53 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

NGUYỀN THỊ MINH HIỀN

NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA
CÔNG TY CÔNG NGHIỆP HÓA CHẤT MỎ TÂY
BẮC, GIAI ĐOẠN 2016-2020

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI, THÁNG 3 NĂM 2017


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỀ ÁN
NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA
CÔNG TY CÔNG NGHIỆP HÓA CHẤT MỎ TÂY
BẮC, GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

Người thực hiện: Nguyễn Thị Minh Hiền
Lớp: CCLLCT tỉnh Lào Cai
Chức vụ: Phó Giám đốc
Đơn vị công tác: Công ty TNHH Xây dựng tổng hợp
Minh Đức Lào Cai

HÀ NỘI, THÁNG 3 NĂM 2017



MỤC LỤC
MỤC LỤC.............................................................................................................................3
B. NỘI DUNG.......................................................................................................................4
C. KIẾN NGHỊ, KẾT LUẬN..............................................................................................46
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................48


DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
MỤC LỤC.............................................................................................................................3
B. NỘI DUNG.......................................................................................................................4
C. KIẾN NGHỊ, KẾT LUẬN..............................................................................................46
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................48


1
A. MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề án
Doanh nghiệp (DN) có vị trí đặc biệt quan trọng trong nến kinh tế, là bộ
phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP), hoạt động của DN góp
phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào
sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), góp phần quyết định phục hồi và tăng
trưởng kinh tế, tăng kinh ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải
quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, các DN Việt Nam
có nhiều thời cơ song cũng gặp nhiều thách thức. Để phát huy hiệu quả của
DN trong nền kinh tế đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
(SXKD) của các DN.
Công ty công nghiệp Hóa chất mỏ Tây Bắc là Công ty con của Tổng
công ty công nghiệp Hóa chất mỏ - Vinacomin trực thuộc Tập đoàn Công

nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam. Trong thời gian qua, các chỉ tiêu kinh tế
- kỹ thuật sản xuất của Công ty có sự tăng trưởng hàng năm, việc làm đời
sống của người lao động ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, để Công ty
ngày một phát triển và có vị thế trên thị trường, các sản phẩm của Công ty
phải có tính cạnh tranh cao, đặc biệt trong điều kiện thời điểm giá cả các mặt
hàng sản xuất, tiêu thụ của Công ty trên thị trường giảm mạnh thì việc nâng
cao hiệu quả SXKD là việc cấp thiết hơn bao giờ hết. Với mong muốn góp
phần xây dựng Công ty công nghiệp Hóa chất mỏ Tây Bắc ngày một phát
triển theo định hướng chiến lược của Tổng Công ty, Tập đoàn Công nghiệp
Than - Khoáng sản Việt Nam, tôi lựa chọn đề án "Nâng cao hiệu quả kinh
doanh của công ty Công nghiệp hóa chất mỏ Tây Bắc, giai đoạn 20162020" làm đề án tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính.


2

2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty công nghiệp Hóa chất mỏ
Tây Bắc giai đoạn 2016 - 2020, nhằm xây dựng Công ty ngày một phát triển
theo định hướng chiến lược của Tổng Công ty, Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam. Chủ động bám sát thị trường, làm tốt công tác tiếp thị
với chủ đầu tư, các đơn vị thi công tại các công trình trọng điểm, các mỏ lớn
để đẩy mạnh công tác cung ứng, ký hợp đồng cung ứng với các khách hàng có
đủ điều kiện sử dụng vật liệu nổ trên địa bà các tỉnh Tây Bắc, hàng năm ký
kết được trên 300 hợp đồng cung ứng VLNCN và nổ mìn dịch vụ. Chiếm
lĩnh, mở rộng thị phần cung ứng VLNCN và nổ mìn vụ: cung ứng VLNCN
chiếm trên 85% thị trường tỉnh Lào Cai và Sơn La, 100% thị trường Lai Châu
và Điện Biên; nổ mìn dịch vụ chiếm 100% các mỏ khai thác khoáng sản lớn
trên địa bàn các tỉnh Tây Bắc như: đồng Sin Quyền, Apatit Việt Nam, sắt Quý
Xa, đồng Tả Phời, đất hiếm Lai Châu,.v.v.. Mở rộng kinh doanh đa ngành, đặc
biệt là các sản phẩm hóa chất theo danh mục cho phép.

2.2. Mục tiêu cụ thể
- Chiếm lĩnh ngày càng nhiều thị phần cung ứng vật liệu nổ công nghiệp
(VLNCN) và nổ mìn dịch vụ trên địa bàn các tỉnh Tây Bắc.
- Xây dựng và củng cố thương hiệu Việt đối với sản phẩm Công ty cung
cấp theo ngành nghề kinh doanh.
- Nâng cao năng suất lao động, hoàn thiện việc bố trí sắp xếp đội ngũ và
tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực của Công ty.
- Tiết giảm chi phí trong hoạt động SXKD, hạ giá thành sản phẩm.
- Ngày một cải thiện điều kiện việc làm, thu nhập cho người lao động.


3

3. Giới hạn của đề án
- Đối tượng nghiên cứu: Hiệu quả hoạt động kinh doanh của DN.
- Không gian nghiên cứu: Tại Công ty công nghiệp Hóa chất mỏ Tây
Bắc, tỉnh Lào Cai.
- Thời gian: Việc thu thập số liệu, dữ liệu để phân tích, đánh giá thực
trạng hiệu quả SXKD của Công ty công nghiệp Hóa chất mỏ Tây Bắc được
thực hiện trong 3 năm từ 2013 - 2015. Thời gian để thực hiện đề án là 5 năm
từ 2016 - 2020.


4

B. NỘI DUNG
1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1 . Cơ sở lý luận
1.1.1 Tổng quan về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

Kinh doanh là khâu cuối của một chu trình sản xuất với mục tiêu cuối
cùng là mang lại lợi nhuận tối đa qua một loạt các hoạt động như: quản trị,
tiếp thị, tài chính, kế toán, sản xuất... Như vậy, tiến hành bất cứ hoạt động
kinh doanh nào cũng đều có nghĩa là tập hợp các phương tiện, con người đưa
vào hoạt động để mang lại lợi nhuận cho chủ thể. Có hai điểm cơ bản để phân
biệt hoạt động kinh doanh với các hoạt động xã hội khác không phải là kinh
doanh, ngay cả với hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế:
- Để tiến hành kinh doanh các chủ thể phải đầu tư về tài sản;
- Mục đích của các chủ thể khi tiến hành hoạt động này là lợi nhuận.
Hoạt động kinh doanh thường được thông qua các thể chế kinh doanh như
công ty, tập đoàn, doanh nghiệp tư nhân,... nhưng cũng có thể là hoạt động tự
thân của các cá nhân. Người ta gọi chung các thể chế kinh doanh này là doanh
nghiệp. Doanh nghiệp được hiểu là những pháp nhân hay thể nhân thực hiện
trên thực tế những hoạt động kinh doanh. Theo một khía cạnh khác, có thể
hiểu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ các nghiệp vụ phát
sinh trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, nó được
phản ánh qua các chỉ tiêu kinh tế của doanh nghiệp, qua báo cáo tài
chính,.v.v..
1.1.1.2 Bản chất của hiệu quả kinh doanh


5

Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, gắn với cơ chế thị
trường, có quan hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh
như: lao động, vốn, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu,... Nên doanh nghiệp
chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi việc sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình
kinh doanh có hiệu quả. Khi đề cập đến hiệu quả kinh doanh các nhà kinh tế
dựa vào từng góc độ xem xét để đưa ra các định nghĩa khác nhau:
“Hiệu quả kinh doanh được đo bằng hệ số giữa kết quả kinh doanh và

chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó”. Cách định nghĩa này, phản ánh được
kết quả với toàn bộ chi phí, coi hiệu quả kinh doanh là sự phản ánh trình độ
sử dụng chi phí. Tuy nhiên, quan niệm này chưa biểu hiện được tương quan
về lượng và chất giữa kết quả và chi phí, chưa phản ánh hết mức độ chặt chẽ
mối quan hệ này.
“Hiệu quả kinh doanh là mức độ thoả mãn yêu cầu của quy luật kinh
tế cơ bản của CNXH” cho rằng quỹ tiêu dùng với tính cách chỉ tiêu đại diện
cho mức sống của mọi người trong doanh nghiệp, là chỉ tiêu phản ánh hiệu
quả kinh doanh. Quan niệm này có ưu diểm là đã bám sát mục tiêu nền sản
xuất xã hội chủ nghĩa là không ngừng nâng cao mức sống vật chất và tinh
thần của nhân dân. Tuy nhiên, lựa chọn quỹ tiêu dùng để phản ánh hiệu quả là
chưa thấy đầy đủ vai trò của tích luỹ là nhằm phát triển sản xuất, là để có quỹ
tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Không thể đưa quỹ tiêu dùng lên tối đa
mà lại không tuân theo một tỷ lệ thích hợp giữa quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng,
phải kết hợp một cách tốt nhất lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài.


6

Trong nền kinh tế thị trường mọi hoạt động phải tính đến hiệu quả. Ở
đây, phải phân biệt hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội. Hiệu quả
thể hiện quan hệ giữa kết quả và chi phí bỏ ra. Trước hết, phải xác định hiệu
quả kinh doanh là thước đo để cân nhắc lựa chọn các giải pháp đầu tư, quyết
định đầu tư phát triển hay ngừng kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh có phần
định tính và định lượng.
- Các chỉ tiêu định lượng như: lợi nhuận, mức doanh lợi, hiệu qủa sử
dụng vốn kinh doanh,...
- Chỉ tiêu hiệu quả định tính như: khả năng cạnh tranh, niềm tin của
khách hàng, vị thế của doanh nghiệp.
Không đạt được hiệu quả kinh doanh thì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận

không thực hiện được, không có hiệu quả kinh doanh thì doanh nghiệp không
thể tồn tại. Bên cạnh đó phải tính đến hiệu quả kinh tế xã hội. Giải quyết vấn
đề xã hội của thương mại trong cơ chế thị trường không giản đơn. Ở đây, phải
tính đến vấn đề môi sinh, môi trường, sự phát triển đồng đều giữa các vùng,
các khu vực. Suy đến cùng, muốn có hiệu quả phải đảm bảo lợi ích vật chất
cho các dối tượng tham gia trước mắt và lâu dài. Tóm lại: “Hiệu quả kinh
doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân tài,
vật lực của doanh nghiệp thông qua việc so sánh giữa kết quả đạt được với
chi phí bỏ ra trong một khoảng thời gian lao động nhất định”.
Như vậy, có hai yếu tố để xác định hiệu quả kinh doanh:
Thứ nhất là các chi phí nguồn lực: các chi phí bao gồm chi phí về lao
động, thiết bị, nguyên vật liệu mà doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất kinh doanh
tạo ra các kết quả tương ứng; các nguồn lực bao gồm lao động, đất đai, tài
nguyên, vốn. Thực chất nguồn lực là toàn bộ các chi phí hiện tại, chi phí tiềm
năng, chi phí tương lai sẽ chi ra để doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh.


7

Thứ hai là kết quả về lợi ích kinh tế: nguồn lực và chi phí mà doanh
nghiệp bỏ vào sản xuất kinh doanh có thể đem lại nhiều loại kết quả khác
nhau. Có kết quả phù hợp với mục tiêu kinh doanh, nhưng cũng có kết quả
nằm ngoài mục tiêu kinh doanh, thậm chí đi ngược lại mục tiêu này vì vậy kết
quả ở đây phải là kết quả hữu ích đối với doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế
quốc dân. Kết quả đó, có thể là con số theo các chỉ tiêu cụ thể như sản lượng
hiện vật, giá trị sử dụng, doanh thu, lợi nhuận,... hoặc là kết quả trừu tượng
như làm sạch môi trường, nâng cao dân trí, ... Dựa vào hai yếu tố trên, hiệu
quả kinh doanh được xác định là đại lượng so sánh giữa kết quả với chi phí và
nguồn lực hay ngược lại. Khác với chỉ tiêu đầu vào (chi phí, nguồn lực) và chỉ
tiêu đầu ra (kết quả, lợi ích), chỉ tiêu hiệu quả là một tỷ số so sánh để phản

ánh chất lượng về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tiêu
chuẩn chất lượng của chỉ tiêu này chính là tối đa hoá kết quả lợi ích hoặc tối
thiểu hoá chi phí dựa trên các điều kiện về nguồn lực xác định.
1.1.2. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh
đối với các doanh nghiệp
1.1.2.1. Sự cần thiết khách quan phải nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp
Hiệu quả kinh doanh là một trong các tiêu chí quan trọng để các nhà
quản lý đánh giá quá trình thực hiện chức năng của mình. Việc xem xét và
tính toán hiệu quả kinh doanh không chỉ cho biết việc kinh doanh đạt ở trình
độ nào mà còn cho phép các nhà quản lý phân tích, tìm ra các yếu tố tác động
để đưa ra các biện pháp thích hợp trên cả hai phương diện tăng kết quả kinh
doanh và tiết kiệm chi phí nhằm nâng cao hiệu quả. Với tư cách là một tiêu
chí đánh giá và phân tích kinh tế, phạm trù hiệu quả không chỉ được sử dụng
ở góc độ tổng hợp, đánh giá chung tình hình sử dụng các nguồn lực trong
phạm vi toàn doanh nghiệp mà còn được sử dụng để đánh giá trình độ sử


8

dụng từng yếu tố đầu vào của toàn bộ doanh nghiệp hay từng bộ phận của
doanh nghiệp. Ngoài ra, hiệu quả kinh doanh còn là biểu hiện của việc lựa
chọn những phương án kinh doanh để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận
trong khi nguồn lực có hạn hay tối thiểu hoá chi phí để đạt được một kết quả
nhất định.
Do sự chi phối của “quy luật khan hiếm” buộc các doanh nghiệp nói
riêng và các nhà quản lý nền kinh tế xã hội nói chung phải cân nhắc việc quản
lý, sử dụng các nguồn lực sản xuất hạn chế của xã hội như thế nào để thoả
mãn nhu cầu ngày càng cao của con người. Điều này, buộc các doanh nghiệp
phải sử dụng các nguồn lực sao cho có hiệu quả nhất, tiết kiệm nhất và đây

cũng chính là một tất yếu để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nâng cao hiệu
quả kinh doanh là điều kiện thiết yếu để doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Mục tiêu sau cùng, bao quát và dài hạn của mọi doanh nghiệp kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường là tối đa hoá lợi nhuận, đây cũng là mục
tiêu quan trọng nhất của doanh nghiệp. Vì vậy, không chỉ tạo ra và duy trì khả
năng cạnh tranh để tồn tại và phát triển là đủ mà các doanh nghiệp còn mong
muốn để có lợi nhuận nhiều nhất và ngày càng cao trong điều kiện có thể. Để
thực hiện mục tiêu này, doanh nghiệp cần nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh là vấn đề đặt ra thường xuyên cho mỗi
doanh nghiệp khi kế hoạch hoạt động kinh doanh và khả năng về nguồn lực
có những thay đổi. Mỗi doanh nghiệp là một cơ thể sống, trong suốt chu kỳ
sống của mình, bắt đầu từ thời điểm ra đời cho đến khi phát triển, trưởng
thành, doanh nghiệp luôn nằm trong sự vận động, tạo nên bởi những thay đổi
từ những yếu tố cấu thành nội lực bản thân doanh nghiệp và những thay đổi
của môi trường bên ngoài đòi hỏi doanh nghiệp phải thích ứng. Vì vậy, đối
với bất kỳ một doanh nghiệp nào, nội dung hoạt động kinh doanh được xác
lập ban đầu không thể tồn tại bất di bất dịch trong suốt chu kỳ đời sống của


9

doanh nghiệp đó, mà nó luôn được thay đổi. Sự thay đổi nội dung hoạt động
kinh doanh của mỗi doanh nghiệp như thế nào là tuỳ thuộc tác động ảnh
hưởng của các yếu tố bên trong thuộc bản thân doanh nghiệp và các yếu tố
bên ngoài thuộc môi trường kinh doanh.
Trong suốt quá trình hoạt động, các doanh nghiệp luôn luôn phải đối
diện với môi trường kinh doanh biến động không ngừng, diễn biến phức tạp
và đầy rủi ro, bất trắc. Do đó, để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải
không ngừng đổi mới tổ chức bộ máy quản lý, cải tiến các nghiệp vụ kinh
doanh, tổ chức tốt mọi nguồn lực trong doanh nghiệp như: vật tư, tiền vốn, lao

động,... tận dụng mọi cơ hội kinh doanh để thực hiện các nghiệp vụ một cách
có hiệu quả nhất. Có thể nói rằng, đối với các doanh nghiệp việc đẩy mạnh
hoạt động kinh doanh là đòi hỏi khách quan không chỉ do sự thay đổi các yếu
tố bên trong thuộc bản thân doanh nghiệp mà còn do những biến động của
môi trường bên ngoài đặt ra. Mỗi doanh nghiệp vừa là một hệ thống khép kín,
trong đó, các bộ phận có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa là một hệ thống
mở, chịu ảnh hưởng của môi trường bên ngoài và có tác động ngược trở lại
với môi trường bên ngoài. Cơ cấu bộ máy tổ chức của doanh nghiệp và hệ
thống phương pháp quản lý của nó phụ thuộc nhiều vào yếu tố thuộc môi
trường bên ngoài như nguồn cung ứng hàng hoá, tình hình cung cầu hàng hoá
trên thị trường, trình độ phát triển kỹ thuật và công nghệ, tình hình cạnh tranh
trên thị trường. Những ràng buộc của môi trường bên ngoài khiến cho tổ chức
kinh doanh không thể duy trì mô hình truyền thống một cách ổn định vững
chắc với những thể chế thủ tục quy định chi tiết rõ ràng.
Sự biến đổi nhanh của môi trường kinh doanh và những xu hướng bất
định của nó buộc người quản lý doanh nghiệp phải có khả năng quyết định
nhanh chóng kịp thời. Nếu người quản lý không có khả năng ra quyết định
hoặc ra quyết định chậm thì tổ chức kinh doanh đó khó có khả năng thích
nghi được với những điều kiện mới, bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Để đáp ứng


10

những đòi hỏi của thị trường các doanh nghiệp phải nâng cao trình độ, đổi
mới hoạt động kinh doanh, đổi mới tổ chức, bộ máy quản lý, cải tiến nghiệp
vụ kinh doanh, quản lý và sử dụng tốt mọi nguồn lực trong doanh nghiệp. Từ
đó cho thấy, yêu cầu đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh là
vấn đề luôn đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu của
doanh nghiệp và đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước.
1.1.2.2. Vai trò, ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả SXKD

- Nâng cao hiệu quả SXKD sẽ tận dụng và tiết kiệm được các nguồn lực
hiện có.
- Nâng cao hiệu quả SXKD góp phần thúc đẩy tiến bộ khoa học và công
nghệ, tạo cơ sở cho việc thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Nâng cao hiệu quả SXKD sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hạ giá
thành sản phẩm và qua đó, góp phần tăng năng lực cạnh tranh của DN.
- Nâng cao hiệu quả SXKD sẽ góp phần nâng cao đời sống vật chất,
đời sống tinh thần cho người lao động trong DN.
Tuy nhiên, trong quá trình nâng cao hiệu quả SXKD, các doanh nghiệp
phải chú ý đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa các lợi ích.
1.1.2.3. Phương pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh
Nâng cao hiệu quả SXKD là điều kiện sống còn để DN tồn tại, phát
triển và thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, vì vậy, mọi DN đều quan
tâm nỗ lực cố gắng để nâng cao được hiệu quả SXKD.
Nếu hiệu quả SXKD được xét theo quan điểm là một đại lượng so
sánh giữa kết quả kinh tế đạt được so với chi phí đã bỏ ra để đạt được kết
quả kinh tế đó, tức là ta có công thức H =
trong 5 trường hợp sau:

KQ
, thì hiệu quả SXKD sẽ tăng lên
CP


11

(1) Tăng kết quả SXKD, đồng thời, giảm chi phí SXKD. Muốn vậy
phải đổi mới, sắp xếp tổ chức, dây chuyền công nghệ và tăng cường thực
hiện tiết kiệm, chống lãng phí.
(2) Tăng kết quả SXKD trong điều kiện chi phí SXKD không đổi.

Muốn vậy, phải tăng cường đổi mới, sắp xếp tổ chức và dây chuyền công
nghệ phù hợp, tổ chức lao động khoa học.
(3) Cả kết quả và chi phí SXKD đều tăng, nhưng tốc độ tăng của kết
quả SXKD nhanh hơn chi phí SXKD. Muốn vậy, phải đầu tư đổi mới công
nghệ để nâng cao năng suất lao động.
(4) Kết quả SXKD không đổi còn chi phí SXKD giảm. Muốn vậy, cần
tăng cường thực hiện tiết kiệm, cắt giảm các chi phí sản xuất không cần
thiết, chống lãng phí trong quá trình SXKD.
(5) Cả kết quả và chi phí SXKD đều giảm nhưng tốc độ giảm của kết
quả SXKD nhỏ hơn của chi phí SXKD. Trong trường hợp này, do những lý do
về điều kiện phát triển cần phải thu hẹp qui mô sản xuất, và do đó, phải cắt giảm
nhân công và các chi phí không cần thiết.
1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.3.1. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả SXKD của DN
Để đánh giá cụ thể về mặt chất lượng hoặc số lượng của việc nâng cao
hiệu quả SXKD, chúng ta cần xác định đúng đắn các tiêu chuẩn và chỉ tiêu
hiệu quả SXKD, cụ thể là: (1) Khi phân tích, đánh giá hiệu quả SXKD cần
xem xét trong bối cảnh DN hoạt động trong cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và tuân thủ hệ thống pháp
luật Nhà nước; (2) phải kết hợp hài hòa ba loại lợi ích: cá nhân, tập thể và
xã hội. Tuyệt đối không vì lợi ích cá nhân mà làm tổn hại đến lợi ích tập
thể và xã hội; (3) mức độ thu nhập thực tế của người lao động phải thường
xuyên tăng lên. Tiêu chuẩn này phản ánh chính xác hiệu quả SXKD của


12

DN và hiệu quả lao động - một yếu tố quyết định đối với hiệu quả SXKD.
1.1.3.2 Yêu cầu đối với hệ thống chỉ tiêu hiệu quả SXKD
Hệ thống chỉ tiêu hiệu quả SXKD là một tập hợp các chỉ tiêu có quan hệ

chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau. Để đo lường và đánh giá chính xác,
khoa học, hệ thống các chỉ tiêu này phải đáp ứng được các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, trong hệ thống các chỉ tiêu phải có các chỉ tiêu đánh giá tổng
hợp phản ánh chung tình hình kinh doanh dịch vụ, các chỉ tiêu bộ phận phản
ánh hiệu quả SXKD dịch vụ từng mặt, từng khâu như lao động, vốn và chi phí
... Các chỉ tiêu bộ phận là cơ sở cho việc tìm ra mặt mạnh, mặt yếu trong quá
trình sử dụng từng yếu tố trung gian vào quá trình kinh doanh.
Thứ hai, trong hệ thống các chỉ tiêu đánh giá phải đảm bảo tính hệ thống
và toàn diện. Tức là các chỉ tiêu hiệu quả phải phản ánh hiệu quả SXKD của
toàn bộ quá trình SXKD của DN.
Thứ ba, hệ thống các chỉ tiêu phải hình thành trên cơ sở những nguyên tắc
chung của hiệu quả, nghĩa là phải phản ánh được trình độ sử dụng lao động sống
và lao động vật hóa thông qua việc so sánh giữa kết quả và chi phí. Trong đó,
các chỉ tiêu kết quả và chi phí phải có khả năng đo lường được thì mới có thể so
sánh tính toán được.
Thứ tư, các chỉ tiêu hiệu quả phải có sự liên hệ so sánh với nhau, có
phương pháp tính toán cụ thể, thống nhất, các chỉ tiêu phải có phạm vi áp
dụng nhất định phục vụ cho mục đích nhất định của công tác đánh giá.
Thứ năm, hệ thống các chỉ tiêu phải đảm bảo phản ánh được tính đặc
thù của DN (qui mô, ngành nghề, sản phẩm,...).
1.1.3.3 Các chỉ tiêu hiệu quả SXKD của DN
(1) Hiệu quả sử dụng tổng tài sản
* Hiệu suất sử dụng tổng tài sản (HSSDTS)
HSSDTS=

Doanh thu thuần (Dt)

(1-1)



13

Tổng tài sản bình quân
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng tài sản bỏ ra kinh doanh trong kỳ thì
thu được bao nhiêu đồng doanh thu thuần và như vậy, giá trị chỉ tiêu này nhận
được càng lớn thì sẽ phản ánh hoạt động SXKD của DN càng hiệu quả.
* Hiệu quả sử dụng tổng tài sản (HQSDTS)
Lợi nhuận
(1-2)
Tổng tài sản bình quân
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng tài sản bỏ ra kinh doanh trong kỳ thì
HQSDTS =

thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận, do đó, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ việc
sử dụng tổng tài sản càng có hiệu quả hay hiệu quả SXKD càng cao.
(2) Hiệu quả sử dụng chi phí
* Hiệu suất sử dụng chi phí (HSSDCP)
Doanh thu thuần
(1-3)
Tổng chi phí
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng chi phí bỏ ra kinh doanh trong kỳ thì
HSSDCP =

thu được bao nhiêu đồng doanh thu, điều này chứng tỏ giá trị chỉ tiêu này
càng lớn thì DN càng có hiệu quả.
* Hiệu quả sử dụng chi phí (HQSDCP)
Lợi nhuận
(1-4)
Tổng chi phí
Chỉ tiêu này cho biết một chi phí bỏ ra kinh doanh trong kỳ thu được bao

HQSDCP =

nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ việc quản trị chi phí của
DN càng tốt và do vậy, hoạt động SXKD của DN có hiệu quả.
(3 ) Thu nhập bình quân, tiền lương bình quân của một lao động trong kỳ
* Tiền lương bình quân của một công nhân trong kỳ được tính theo công
thức:
Tiền lương bình quân của

Tổng quỹ lương

=
một công nhân trong kỳ
(1-5)
Số công nhân bình quân
* Thu nhập bình quân của một công nhân trong kỳ được tính theo


14

công thức:
Thu nhập bình quân
của một công nhân =

Tổng thu nhập
Số công nhân bình quân

(1-6)

trong kỳ

Thu nhập bình quân và tiền lương bình quân của công nhân ngày cao
cũng chứng tỏ DN đang trên đà phát triển và còn được thể hiện bởi hiệu quả
SXKD của DN.
(4) Năng suất lao động (NSLĐ) bình quân của một lao động, được thể
hiện qua công thức:
Giá trị sản lượng sản xuất hoàn thành trong kỳ
Số công nhân sản xuất bình quân trong kỳ
Trong đó: NSLĐ bq1cn là NSLĐ bình quân một lao động.

NSLĐ bq1cn =

(1-7)

NSLĐ là chỉ tiêu hiệu quả trong quá trình hoạt động SXKD. Phân tích
chỉ tiêu này để phát hiện các nhân tố ảnh hưởng tới NSLĐ, trên cơ sở đó, tìm
ra những biện pháp nâng cao NSLĐ.
(5) Hiệu quả sử dụng lao động
* Hiệu suất sử dụng lao động trong kỳ (HSLĐ)
Doanh thu thuần
(1-8)
Số lao động bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết một lao động trong kỳ làm ra được bao nhiêu đồng
HSLĐ =

doanh thu.
* Tỷ suất lợi nhuận trên lao động (HLNLĐ)
Chỉ tiêu này cho biết mức lợi nhuận trong kỳ của một công nhân là bao
nhiêu, chỉ tiêu này càng cao càng tốt.
HLNLĐ =


Lợi nhuận trước thuế
Số lao động bình quân trong kỳ

1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả SXKD của DN
1.1.4.1. Các nhân tố bên trong

(1-9)


15

- Lực lượng lao động: Đây là một nguồn lực, một yếu tố đầu vào quan
trọng bậc nhất và có tính chất quyết định đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Ngày nay, kỹ thuật và công nghệ đã thay đổi phương thức
lao động của con người trên nhiều lĩnh vực. Kỹ thuật công nghệ càng phát triển
đòi hỏi đội ngũ lao động càng phải có trình độ chuyên môn cao. Nguồn nhân
lực của doanh nghiệp phải đảm bảo đủ năng lực về thể chất và tinh thần đáp
ứng được yêu cầu của công việc. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần có biện
pháp sử dụng nhân lực hợp lý, bố trí lao động phù hợp với khả năng của từng
người, có chính sách đào tạo và đào tạo lại lao động cho phù hợp với sự thay
đổi của doanh nghiệp cũng như sự thay đổi của môi trường hoạt động chung.
- Quy mô doanh nghiệp: Quy mô hoạt động của doanh nghiệp có ảnh
hưởng quyết định đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc mở rộng hay thu hẹp
quy mô sẽ tác động trực tiếp tới chi phí đầu vào và doanh thu đầu ra của
doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh. Xác định quy mô tối
ưu của doanh nghiệp cũng là xác định mức lợi nhuận tối ưu theo từng thời kỳ.
- Cơ cấu sản xuất kinh doanh: Mỗi doanh nghiệp có một lợi thế nhất
định trong việc sản xuất kinh doanh một số loại hàng hoá, lợi thế này được
xác định trên cơ sở tiềm lực của doanh nghiệp, môi trường kinh tế xã hội và
những mối liên hệ giữa doanh nghiệp với môi trường mà doanh nghiệp hoạt

động. Doanh nghiệp xây dựng được danh mục hàng hoá với tỷ trọng hợp lý
của các mặt hàng sẽ phát huy được tối đa các nguồn lực của mình, đem lại
doanh thu cao nhất từ đó tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh.
- Trang thiết bị, công nghệ: Việc lựa chọn sử dụng trang thiết bị, công
nghệ sẽ có tác dụng nâng cao hiệu quả kinh doanh hoặc ngược lại. Trang thiết
bị, công nghệ càng hiện đại thì càng cho năng suất cao, tuy nhiên chi phí đầu
tư ban đầu lớn. Trang thiết bị, công nghệ kém hiện đại cho năng suất thấp, sản
phẩm kém chất lượng nhưng chi phí đầu tư thấp. Vì vậy, doanh nghiệp cần


16

chú ý lựa chọn trang thiết bị công nghệ phù hợp với khả năng về tài chính
cũng như chất lượng lao động của mình nhằm sản xuất ra sản phẩm có chất
lượng cao, giá thành hạ dẫn tới tối đa hoá lợi nhuận.
- Nguồn vốn hoạt động: Đây là nhân tố có tác động trực tiếp đến quy mô
hoạt động, tính an toàn và chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Việc lựa chọn
cơ cấu nguồn vốn hợp lý, sử dụng nguồn vốn có chi phí thấp, dễ tiếp cận, tính
an toàn cao là một yêu cầu cấp thiết để tăng tính hiệu quả và an toàn trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Chiến lược Marketing: Một chiến lược marketing bài bản, đầy đủ và
khoa học bao gồm một chuỗi các công việc cần phải thực hiện có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau 12 như: Hoạch định chiến lược tiếp thị, phân khúc thị
trường, lựa chọn mục tiêu, định vị thị trường mục tiệu. Từ đó đưa ra các chiến
lược sản phẩm, chiến lược giá, chiến lược phân phối, chiến lược chiêu thị.
Chiến lược marketing phù hợp sẽ giúp cho việc thực hiện các công đoạn này
đạt kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất, dẫn tới tăng hiệu quả kinh doanh.
- Quản trị doanh nghiệp: Hoạt động quản lý bao gồm các khâu cơ bản
sau: định hướng chiến lược cơ bản phát triển doanh nghiệp trong khoảng thời
gian nhất định, tuân chỉ mục tiêu đề ra, xây dựng kế hoạch phương án kinh

doanh, tổ chức hoạt động kinh doanh, đánh giá kiểm tra các hoạt động kinh
doanh. Các khâu của quá trình này làm tốt sẽ tăng năng suất lao động, giảm
chi phí kinh doanh từ đó làm tăng hiệu quả kinh doanh.
- Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin trong DN
Trong SXKD nếu biết mình, biết người và nhất là hiểu rõ được các đối
thủ cạnh tranh thì mới có đối sách giành thắng lợi trong cạnh tranh, có chính
sách phát triển mối quan hệ hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau. Kinh nghiệm thành công
của nhiều DN cho thấy nắm bắt được các thông tin cần thiết và biết xử lý và
sử dụng các thông tin đó kịp thời là một điều kiện rất quan trọng để ra các
quyết định SXKD có hiệu quả cao, đem lại thắng lợi trong cạnh tranh. Những


17

thông tin chính xác được cung cấp kịp thời sẽ là cơ sở vững chắc để DN xác
định phương hướng SXKD, xây dựng chiến lược SXKD dài hạn cũng như
hoạch định các chương trình SXKD ngắn hạn. Nếu không được cung cấp
thông tin một cách thường xuyên và liên tục, không có trong tay các thông tin
cần thiết và xử lý một cách kịp thời, DN không có cơ sở để ban hành các
quyết định SXKD dài hạn và do đó sẽ dẫn đến những thất bại.
1.1.4.2. Nhân tố thuộc môi trường bên ngoài
* Môi trường quốc tế và khu vực: Các xu hướng chính trị trên thế giới,
các chính sách bảo hộ và mở cửa, tình hình chiến tranh, sự bất ổn chính trị,
tình hình kinh tế,... toàn cầu và khu vực ảnh hưởng trực tiếp đến các
hoạt động của thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng như sự lựa chọn yếu
tố đầu vào của DN. Do vậy, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
SXKD của DN.
* Môi trường nền kinh tế quốc dân
- Môi trường kinh tế: Đây là nhân tố bên ngoài tác động rất lớn đến hiệu
quả SXKD của từng DN. Trước hết, phải kể đến chính sách phát triển kinh tế

của nhà nước, tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc dân, tốc độ lạm phát, thu nhập
bình quân trên đầu người,... Các chính sách kinh tế vĩ mô này tạo ra sự ưu tiên
hay kìm hãm sự phát triển của từng ngành, từng vùng kinh tế cụ thể do đó tác
động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả SXKD của các DN thuộc ngành, vùng
kinh tế nhất định.
- Môi trường văn hóa xã hội: Tình trạng thất nghiệp, trình độ giáo dục,
phong cách, tập quán, lối sống, tâm lý,... của người dân đều tác động một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp tới hiệu quả SXKD của DN và có thể theo chiều
hướng tích cực hoặc tiêu cực. Trình độ dân trí tác động rất lớn đến chất lượng
của lực lượng lao động xã hội nên tác động trực tiếp đến nguồn nhân lực của
DN. Chất lượng của đội ngũ lao động lại là nhân tố bên trong ảnh hưởng


18

quyết định đến hiệu quả SXKD của DN.
- Các yếu tố thuộc điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng. Các điều kiện tự
nhiên như: Tài nguyên khoáng sản, vị trí địa lý, thời tiết khí hậu,... ảnh hưởng
tới chi phí sử dụng nguyên nhiên vật liệu, năng lượng, mặt hàng kinh doanh,
năng suất, chất lượng sản phẩm, cung cầu theo mùa vụ,... do đó ảnh hưởng
đến hiệu quả SXKD của DN trong vùng địa lý.
* Nhân tố môi trường ngành
- Sự cạnh tranh của các DN hiện có trong ngành và khả năng ra nhập
mới của các DN ảnh hưởng tới hiệu quả SXKD của mỗi DN. Mức độ cạnh
tranh giữa các DN trong cùng một ngành với nhau ảnh hưởng trực tiếp tới
cung cầu, giá bán, tốc độ tiêu thụ sản phẩm của mỗi DN. Các DN trong ngành
luôn duy trì và tạo rào cản cản trở sự ra nhập mới bằng cách khai thác các lợi
thế riêng và định giá phù hợp, mở rộng thị trường.
- Yếu tố nhà cung cấp: Các nguồn lực đầu vào của một DN được cung
cấp chủ yếu từ các DN khác, các đơn vị kinh doanh và các cá nhân. Việc đảm

bảo chất lượng, số lượng cũng như giá cả các yếu tố đầu vào của DN phụ
thuộc vào tính chất của các yếu tố đó, phụ thuộc vào hành vi và tính chất của
người cung ứng. Vì vậy, phải tránh độc quyền của nhà cung cấp, giảm chi phí
đầu vào, tăng hiệu quả SXKD.
- Khách hàng: Là nguyên nhân tồn tại của DN vì khách hàng, thị trường
là yếu tố quyết định đến cầu - căn cứ quan trong để SXKD. Nếu không có
khách hàng thì DN không thể SXKD được chứ chưa xem xét đến hiệu quả.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
1.2.1. Cơ sở chính trị
Công ty công nghiệp Hóa chất mỏ Tây Bắc là đơn vị trực thuộc Tổng
công ty công nghiệp Hóa chất mỏ - Vinacomin là đơn vị 100% vốn Nhà nước.


19

Tổng công ty là một trong hai đầu mối được Nhà nước cho phép cung ứng
VLNCN phục vụ nền kinh tế quốc dân, là một đơn vị có bề dày truyền thống
trong quá trình xây dựng và phát triển ngành VLNCN. Trong nhiều năm qua
Tổng công ty là đơn vị luôn chủ động, sáng tạo và thực hiện tốt nhiệm vụ sản
xuất và cung ứng VLNCN, loại hàng hóa đặc biệt, hạn chế kinh doanh và kinh
doanh có điều kiện theo đúng quy định của Nhà nước.
1.2.2. Cơ sở pháp lý
- Nghị định Số 39/2009/NĐ-CP ngày 23 tháng 04 năm 2009
của Chính phủ quy định về vật liệu nổ công nghiệp.
- Pháp lệnh số 16/2011/UBTVQH12 ngày 30/6/2012 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ.
- Quyết định số 03/2012/QĐ-UBND ngày 04 tháng 02 năm 2012 của
UBND tỉnh Lào Cai ban hành quy định về quản lý vật liệu nổ công nghiệp
trên địa bàn tỉnh Lào Cai.
- Quyết định số 1834/QĐ - TTg ngày 28/10/2015 của Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt quy hoạch phát triển ngành VLNCN Việt Nam đến năm 2020,
định hướng đến năm 2030. Trong đó nhấn mạnh: Xây dựng, phát triển ngành
Vật liệu nổ công nghiệp Việt Nam theo hướng bền vững, trở thành một ngành
công nghiệp tiên tiến, thân thiện với môi trường, có cơ cấu sản phẩm hoàn
chỉnh đáp ứng được nhu cầu trong nước và hướng đến xuất khẩu các sản
phẩm có lợi thế cạnh tranh.
- Quyết định số 2427/QĐ-TTg ngày 22/12/2011 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Chiến lược phát triển khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030 nhấn mạnh:“Khai thác khoáng sản phải gắn với chế biến, tạo sản
phẩm có giá trị kinh tế cao. Đến năm 2020 chấm dứt các cơ sở chế biến
khoáng sản manh mún, công nghệ lạc hậu, hiệu quả kinh tế thấp, gây ô nhiễm


20

môi trường; hình thành các khu công nghiệp chế biến khoáng sản tập trung
với công nghệ tiên tiến, có quy mô tương xứng với tiềm năng của từng loại
khoáng sản”.
- Quyết định số 879/QĐ-TTg ngày 09/06/2014 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2035, cụ thể là: Tập trung vào 10 ngành công
nghiệp chủ yếu như: ngành cơ khí - luyện kim; ngành hóa chất; ngành điện tử,
công nghệ thông tin; ngành dệt may - da giày; ngành chế biến nông lâm thủy
sản, thực phẩm; ngành sản xuất vật liệu xây dựng; ngành khai thác và chế
biến khoáng sản; ngành điện; ngành than; ngành dầu khí.
- Quyết định số 1843/QĐ-HĐTV ngày 09/7/2012 của Hội đồng thành
viên Tổng công ty công nghiệp Hóa chất mỏ - Vinacomin về việc phê duyệt
Điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty công nghiệp Hóa chất mỏ Tây Bắc.
- Quyết định số 1854/ QĐ-HĐTV ngày 10/07/2012 của Hội đồng thành
viên Tổng công ty công nghiệp Hóa chất mỏ - Vinacomin về việc phân cấp

quản lý giữa Tổng công ty công nghiệp Hóa chất mỏ - Vinacomin và Công ty
công nghiệp Hóa chất mỏ Tây Bắc.
1.3. Cơ sở thực tiễn
Năm 2015, đánh dấu mốc quan trọng đối với các doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) khi chuyển đổi mô hình hoạt động thành Công ty Cổ phần trong đó
có Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam và các Công ty con,
trực thuộc. Điều đó làm tăng sự tự chủ về tài chính của DN, đồng thời cũng sẽ
tạo ra áp lực rất lớn đối với các DN hoạt động kém hiệu quả. Bên cạnh đó,
theo xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, thuế phí của hàng hóa nhập khẩu vào
thị trường trong nước trong giai đoạn 2015 - 2020 sẽ dần về 0% tạo ra một thị
trường sản phẩm đa dạng có tính cạnh tranh cao.


21

Từ đầu năm 2016, nhu cầu sử dụng VLNCN phục vụ nổ mìn khai thác
khoáng sản và các công trình giao thông, thủy điện, xây dựng trên địa bàn các
tỉnh Tây Bắc giảm mạnh, ngoài ra các khoản thuế, phí, lệ phí tại các địa
phương đều điều chỉnh tăng làm tăng chi phí giá thành gây ảnh hưởng lớn đến
doanh thu và lợi nhuận của Công ty. Đứng trước các thách thức trên việc nâng
cao hiệu quả SXKD là một trong các nhiệm vụ có tầm quan trọng hàng đầu
của DN, mang tính chất sống còn giúp cho DN đứng vững và phát triển được
trên thị trường.
Hiện nay, đối với nhiệm vụ sản xuất, cung ứng và sử dụng VLNCN tại
Việt Nam có hai đơn vị được phép thực hiện là Tổng công ty công nghiệp
Hóa chất mỏ Vinacomin và Tổng công ty vật tư công nghiệp quốc phòng.
Trong quá trình phát triển KT - XH của đất nước, nhu cầu sử dụng VLNCN
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày một gia tăng, trong
đó ngành khai thác mỏ đóng vai trò chủ đạo. Là một đơn vị chuyên sản xuất,
cung ứng và sử dụng VLNCN, Công ty công nghiệp Hóa chất mỏ Tây Bắc,

Tổng công ty công nghiệp Hóa chất mỏ - Vinacomin đã nhận thức rõ được
nhu cầu của thị trường và đang vươn lên phát triển khẳng định rõ vai trò của
một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn. Với việc nâng cao hiệu quả
SXKD, Công ty công nghiệp Hóa chất mỏ Tây Bắc sẽ đạt được mục tiêu
chiếm lĩnh thị phần VLNCN tại các tỉnh Tây Bắc, xây dựng và củng cố
thương hiệu Việt trên thị trường đồng thời góp phần thúc đẩy phát triển kinh
tế - chính trị - xã hội tại địa phương.
2. Nội dung thực hiện của đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
2.1.1. Một số nét khái quát về điều kiện tự nhiên, KT-XH của tỉnh Lào Cai
2.1.1.1 Điều kiện địa lý tự nhiên


×