Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

De tai giai HH bang nhieu cach

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.52 KB, 9 trang )

I/. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Toán học cấp 2 có hai phân môn: Toán hình và Toán đại; Trong hai phân môn này nếu
giáo viên đã từng giảng dạy cũng rất dễ nhận thấy rằng: Đa số học sinh thích và say mê chứng
minh toán đại hơn toán hình chính vì vậy tỉ lệ học sinh yếu kém toán hình chiếm tỷ lệ cao hơn
toán đại.
Vì sao lại có hiện tượng trên? Có mấy nguyên nhân mà chúng ta cần tham khảo:
- Toán hình là một môn cần có tính tư duy cao do có tính trừu tượng đặc biệt là hình học
nên khó hiểu dẫn đến khó chứng minh, các em sẽ không thích học môn hình và từ đó các em
mất căn bản từ lớp dưới lên, các em lại càng them bế tắc khi gặp một bài toán phức tạp.
- Như chúng ta đều biết môn Toán hình được đưa vào các chương trình giảng dạy trong
nhà trường nhằm mục đích rèn luyện cho học sinh tính quan sát, so sánh, tư duy, suy luận làm
giàu trí tưởng tượng rất cao cho các em.
Nhằm góp cho bộ môn toán có một tài liệu nho nhỏ để tham khảo trong quá trình giảng
dạy môn toán hình có một ít kinh nghiệm để tạo cho các em hứng thú say mê trong học tập,
phát huy tính tích cực sáng tạo và giúp các em một cảm xúc khó quên khi giải một bài toán,
làm giàu trí tưởng tượng, phát huy được tư duy của học sinh như mục tiêu ban đầu khi đưa
nội dung toán hình vào chương trình toán cấp 2.
II/. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Muốn giải một bài toán hình cũng giống như chứng minh các bài toán khác trước hết
đòi hỏi học sinh phải đạt những yêu cầu cần có như sau:
1. Thuộc, hiểu những phương pháp, nguyên tắc để chứng minh bài toán hình.
2. Phải đọc kỹ đề bài biết đào sâu suy nghĩ, tư duy theo điều kiện đã cho.
3. Biết phân tích từng chi tiết một của đề bài cho và đề bài cần chứng minh điều gì.
Vì vậy khi tổ chức hoạt động dạy hình học cho các em, giáo viên cần phải giúp học sinh
vượt qua sự cá biệt trong tình huống cụ thể và đi vào suy luận để áp dụng cho tình huống
mới. Cần xây dựng hệ thống các hoạt động thành phần, các thao tác trong từng bài học, tiết
học trên cơ sở nội dung chương và phù hợp với trình độ nhận thức bài toán hình học. Vận
dụng kiến thức đã học để giải quyết một bài toán hình học.
Ví dụ: Để giúp các em lớp 6 nắm tính chất “Khi nào thì AM + MB = AB”, có thể tổ
chức các hoạt động như sau:
Hoạt động 1: Vẽ ba điểm thẳng hàng A, M, B sao cho M nằm giữa A và B. Đo AM,


MB, AB. So sánh AM + MB với AB. Nêu nhận xét.
Hoạt động 2: Vẽ ba điểm thẳng hàng A, B, M biết M không nằm giữa A và B đo AM,
MB, AM. So sánh AM + MB với AB. Nêu nhận xét.
Hoạt động 3: Cho ba điểm A, B, M thẳng hàng, M nằm giữa A và B. Biết AM = 3cm,
AB = 8cm. Tính MB.
Hoạt động 4: Cho ba điểm thẳng hàng A, B, C làm thế nào để chỉ đo hai lần mà biết
được độ dài của ba đoạn thẳng AB, BC, AC. Có mấy cách làm? Mục đích các hoạt động trên
nhằm giúp các em tiếp cận tính chất: “Nếu điểm M nằm giữa A và B”. Theo các cấp độ tư
duy hình học, các em chỉ có thể hiểu được tính chất toán học trừu tượng nếu cách dạy đảm
bảo nguyên tắc trực quan theo kiểu tiếp cận quy nạp, từ quan sát, thử nghiệm, đo, vẽ, đi đến
ước đoán thông qua quá trình đó các em chủ động tìm kiếm những kiến thức mới.
Các hoạt động nhằm phát huy được tính độc lập, sáng tạo và khả năng phán đoán của
các em trong hoạt động học tập, kiến thức hình học mang tính thực tiển. Từ đó để giải bài
toán hình đòi hỏi các em phải thuộc bài và hiểu bài, song song đó còn phải đọc kĩ đề bài biết
đào sâu suy nghĩ, biết phân tích từng chi tiết của đề bài cho và đề bài hỏi. Từ đó vận dụng
kiến thức đã học để giải quyết một bài toán hình. Trong khi mày mò tìm cách chứng minh
một bài toán chúng ta thường nhìn các khái niệm toán học lần lượt theo nhiều cách khác nhau
cho đến khi tìm ra cách chứng minh ngắn gọn nhất, hay nhất để chúng ta hướng dẫn giảng
dạy cho các em.
1
Ví dụ: Cho tứ giác ABCD, gọi M, N, P, Q theo thứ tự là các trung điểm của các cạnh
AB, BC, CD, DA. Hãy chứng minh: Tứ giác MNPQ là hình bình hành.
Trong một bài tốn có hình bình hành thì để chứng minh tứ giác là hình bình hành
chúng ta cần hướng dẫn cho học sinh nắm vững chắc và học thuộc lòng 6 dấu hiệu để nhận
biết một tứ giác là hình bình hành:
1/. Có hai cặp cạnh song song (định nghĩa).
2/. Có các cạnh đối bằng nhau.
3/. Có một cặp cạnh đối song song và bằng nhau.
4/. Có các góc đối bằng nhau.
5/. Có hai đường chéo cắt nhau tại trung điểm của mỗi đường.

6/. O là tâm đối xứng.
Hoặc hướng dẫn học sinh qua sơ đồ nhận biết 1 tứ giác là hình bình hành.
A
D
C
B
TỨ GIÁC
AB // DC; AD // BC
AD = DC; AD =BC
AB // DC; AB = DC
ˆ ˆ
ˆ ˆ
A C
B D

=


=


OA OC
OB OD
O
=


=




là tâm đối xứng
Trong một bài tốn có hình bình hành nếu xem nó là một tứ giác có các góc đối bằng
nhau mà bế tắc thì chúng ta sẽ hướng dẫn học sinh đổi cách nhìn khác chẳng hạn: Xem nó là
một tứ giác có hai đường chéo cắt nhau tại trung điểm của mỗi đường, có O là tâm đối xứng
nếu lại thất bại thì chúng ta có thể lại đổi cách khác lần nữa xem.
1/ Tứ giác có một cặp cạnh song song và bằng nhau là hình bình hành
GT ABCD là tứ giác
MA = MB; NB = NC
PC = PD; QA = QD.
KL MNPQ là hình bình hành.
2
O
D
C
B
A
H. BÌNH HÀNH
Q
M
P
N
L
C
B
A
Chứng minh:
Ta có MA = MB (gt)
MB = NC (gt)
⇒MN là đường trung bình của tam giác ABC.

⇒ MN // AC
2
AC
MN =
(1)
Ta có PC = PD (gt)

(2)
2
AC
PQ =
Từ (1) và (2) ⇒ MN // PQ
MN = PQ.
Vậy MNPQ là hình bình hành (vì có một cặp cạnh song song và bằng nhau)
2/ Tứ giác có hai cặp cạnh song song là hình bình hành
Q
M
P
N
D
C
B
A
GT ABCD là tứ giác
MA = MB; NB = NC;
PC = PD; QA = QD.
KL MNPQ là hình bình
hành
Chứng minh
Ta có: MA = MB (gt)

NB = NC (gt)
⇒ MN là đường trung bình của tam giác ABC.
⇒ MN // AC

2
AC
MN =
(1)
Ta có: QA = QD (gt)
3
PD = PC (gt)
⇒ QP là đường trung bình của tam giác ADC.

(2)
2
AC
QP =
Từ (1) và (2) ⇒MN = QP (*)
Ta có MA = MB (gt)
QA = QD (gt)
⇒ MQ là đường trung bình của tam giác ABD.

(3)
2
BD
MQ =
Ta có NB = NC (gt)
PC = PD (gt)
⇒ NP là đường trung bình của tam giác BCD.


(4)
2
BD
NP =
Từ (3) và (4) ⇒ MQ = NP (**)
Từ (*) và (**)⇒MNPQ là hình bình hành (vì có các cạnh đối bằng nhau).
Từ những kiến thức sẵn có, từ những cái nhìn theo nhiều khía cạnh khác nhau. Tôi đã
hướng dẫn học sinh phải giả một bài toán bằng nhiều phương pháp. Bằng những cách giải
khác nhau như:
1/ Phương pháp chứng minh suy diễn:
Ví dụ: Cho tứ giác ABCD có
µ
µ
A D=
; AB = CD. Hãy chứng minh tứ giác ABCD là hình
thang cân?
Cách 1:
F
E
D
C
B
A
GT
Tứ giác ABCD
ˆ
ˆ
A D=
AB = CD
KL ABCD là hình thang cân

Chứng minh
Hãy vẽ BE ⊥ AD
CF ⊥ AD ⇒ BE // CF (1)
∆ vuông ABE = ∆ vuông DCF.
⇒ BE = CF (2)
Từ (1) và (2) ⇒ BCFE là hình bình hành.
Do đó BC // AD.
Cách 2:
GT
Tứ giác ANCD
ˆ
ˆ
A D=
AB = CD
4
E
D
C
B
A
KL Tứ giác ABCD là
hình thang cân
Chứng minh
Hãy kẻ BE // CD (1) ⇒
ˆ ˆ
D E=
(đồng vị)

ˆ
ˆ

D A=
(gt) nên
ˆ
ˆ
A E=
⇒ ∆ ABE cân.
⇒ AB = BE mà AB = CD (gt)
Do đó: BE = CD (2)
Từ (1) và (2) ⇒ BCDE là hình bình hành
Do đó: BE // AD.
Cách 3:
F
E
D
C
B
A
GT
Tứ giác ANCD
ˆ
ˆ
A D=
AB = CD
KL Tứ giác ABCD là
hình thang cân
Chứng minh:
Hãy dựng EF là đường trung trực của đoạn AD ⇒ A và D đối xứng nhau qua EF.

ˆ
ˆ

A D=
(gt)
Và AB = CD (gt)
Nên B và C cũng đối xứng nhau qua EF.
⇒ BC ⊥ EF
Vậy BC // AD (vì cùng vuông góc với EF).
2/ Bằng phương pháp chứng minh phản chứng:
Cách 4:
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×