Tải bản đầy đủ (.docx) (106 trang)

Quản lý chi thường xuyên ngân sách Nhà nước đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo công lập của huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (685.08 KB, 106 trang )

1

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

DƯƠNG TRỌNG THỂ

QUẢN LÝ CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC
ĐÀO TẠO CÔNG LẬP CỦA HUYỆN ĐỊNH HÓA,
TỈNH THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế

HÀ NỘI, THÁNG 12 NĂM 2016


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

DƯƠNG TRỌNG THỂ

QUẢN LÝ CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC
ĐÀO TẠO CÔNG LẬP CỦA HUYỆN ĐỊNH HÓA,
TỈNH THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60340410


HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS,TS. NGUYỄN XUÂN QUANG

HÀ NỘI, THÁNG 12 NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của tôi. Các số
liệu trích dẫn có nguồn gốc rõ ràng, các kết quả nghiện cưu trong luận văn là
trung thực và chưa có công bố trong các công trình khác.
Hà Nội, tháng 12 năm 2016
Tác giả

Dương Trọng Thể


MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BHTN
BHYT
BTC
CNTT
CQTC
ĐVSDNS
GCN QSD
GD
GD&ĐT
GPMB
HĐND
HTX

KBNN
KH
KHCN
KPCĐ
KT - XH
MTQG
NS
NSĐP
NSNN
NTM
PTNT
SL
TB
TCCN
TDTT
THCS
THPT
UBND

Bảo hiểm thất nghiệp
Bảo hiểm y tế
Ban tổ chức
Công nghệ thông tin
Cơ quan Tài chính
Đơn vị sử dụng ngân sách
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Giáo dục
Giáo dục và đào tạo
Giải phóng mặt bằng
Hội đồng nhân dân

Hợp tác xã
Kho bạc nhà nước
Kế hoạch
Khoa học công nghệ
Kinh phí công đoàn
Kinh tế - Xã hội
Mục tiêu quốc gia
Ngân sách
Ngân sách địa phương
Ngân sách nhà nước
Nông thôn mới
Phát triển nông nhiệp
Số lượng
Trung bình
Trung cấp chuyên nghiệp
Thể dục thể thao
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Ủy ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG, HÌNH, SƠ ĐỒ


BẢNG
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Cùng với sự đổi mới chung của đất nước và thực hiện chương trình tổng
thể về cải cách hành chính nhà nước, trong những năm qua quản lý ngân sách
nhà nước đã có những đổi mới, cải cách và đạt được những kết quả quan trọng,
đặc biệt là từ khi Luật ngân sách nhà nước được Quốc hội khóa XI thông qua
ngày 16/12/2002, có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2004 với mục tiêu và ý

nghĩa quan trọng trong việc quản lý, điều hành ngân sách nhà nước, phát triển
kinh tế -xã hội, tăng cường tiềm lực tài chính đất nước, quản lý thống nhất nền
tài chính quốc gia, xây dựng ngân sách nhà nước lành mạnh, sử dụng tiết kiệm,
hiệu quả và tài sản nhà nước, thực hiện mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội.
Ngân sách nhà nước là công cụ tài chính quan trọng không thể thiếu để
nhà nước thực hiện chức năng nhiệm vụ. Sự phân cấp quản lý ngân sách nhà
nước phù hợp với sự phân cấp của bộ máy chính quyền tạo ra những đòn bẩy
tích cực nhằm phát triển mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng …
Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI của Đảng Cộng Sản Việt Nam năm
2012 đã khẳng định: Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương II khóa VIII,
trong điều kiện đất nước có nhiều khó khăn, nguồn lực còn hạn hẹp, được sự
quan tâm của Đảng, nhà nước và toàn xã hội, với sự nỗ lực của đội ngũ nhà
giáo, sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo công lập đã đạt được những thành tựu rất
có ý nghĩa. Quy mô giáo dục, mạng lưới Giáo dục và Đào tạo công lập có bước
phát triển nhanh; hệ thống giáo dục tương đối hoàn chỉnh từ Mầm non đến Tiểu
học, THCS, Đại học và sau Đại học; cơ sở vật chất từng bước được chuẩn hóa,
hiện đại hóa. Chất lượng giáo dục ở các cấp có tiến bộ, công tác quản lý giáo
dục có chuyển biến tích cực, đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục tăng về
số lượng, từng bước nâng cao về chất lượng. Lực lượng lao động qua đào tạo
tăng nhanh, góp phần quan trọng đưa nước ta thoát khỏi nước nghèo.


Tuy nhiên đến nay Giáo dục và Đào tạo công lập nước ta chưa thực sự là
quốc sách hàng đầu, động lực quan trọng nhất cho phát triển, nhiều hạn chế yếu
kém đã được nêu lên từ Nghị quyết Trung ương II khóa VIII năm 1996 vẫn chưa
được khắc phục cơ bản. Chất lượng Giáo dục và Đào tạo công lập chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quản lý Giáo dục và Đào tạo công lập
còn nhiều bất cập, còn hạn chế trong việc dự báo công tác đào tạo nguồn nhân
lực cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đát nước và hội nhập quốc tế;
quản lý chất lượng Giáo dục và Đào tạo công lập còn nhiều lúng túng, công tác

quy hoạch phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý chưa được quan tâm.
Đầu tư cho giáo dục còn mang tính bình quân; cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ
sở giáo dục còn thiếu và lạc hậu, chế độ chính sách đối với nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục chưa thỏa đáng.
Luật giáo dục được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 tạo cơ sở pháp lý
cho tổ chức và hoạt động giáo dục, trong thời gian qua Luật giáo dục đã góp
phần phát triển sự nghiệp giáo dục, nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân
lực, góp phần đào tạo nhân tài cho đất nước.
Vì vậy, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Quản lý chi thường xuyên ngân
sách Nhà nước đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo công lập của huyện
Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên”
2. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Xác lập khung lý thuyết cơ bản nghiên cứu quản lý chi thường xuyên
NSNN cho sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo công lập của địa phương cấp huyện,
làm rõ thực trạng quản lý chi thường xuyên NSNN cho địa phương/giáo dục
công lập huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên để từ đó thấy được những mặt tích
cực đã đạt được và những hạn chế còn vướng mắc để đưa ra các giải pháp khắc
phục yếu điểm để hoàn thiện quản lý chi NSNN cho sự nghiệp Giáo dục và và
Đào tạo của huyện Định Hoá tỉnh Thái Nguyên.


3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục tiêu nghiên cứu
Vận dụng lý thuyết của khoa học quản lý kinh tế nói chung và quản lý
ngân sách Nhà nước nói riêng vào nghiên cứu quản lý chi thường xuyên ngân
sách nhà nước cho sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo công lập trên địa bàn huyện
Định Hóa Tỉnh Thái Nguyên, đề xuất các giải pháp quản lý chi NSNN cho Giáo
dục và Đào tạo công lập trong thời gian tới hợp lý hơn.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác lập khung lý thuyết cơ bản nghiên cứu quản lý chi ngân sách thường

xuyên NSNN cho sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo công lập của huyện Định Hoá
tỉnh Thái Nguyên
- Phân tích thực trạng quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp
Giáo dục và Đào tạo công lập của huyện Định Hoá tỉnh Thái Nguyên. Kết hợp
với tổng quan về hệ thống Giáo dục và Đào tạo công lập của huyện và cơ sở
pháp lý quản lý chi thường xuyên NSNN cho hệ thống Giáo dục và Đào tạo
công lập huyện để rút ra kết luận về điểm mạnh cần phát huy và điểm yếu cần
khắc phục
- Đề xuất giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quản lý chi thường xuyên
NSNN cho sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo công lập của huyện Định Hoá, tỉnh
Thái Nguyên
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
+ Đối tượng
Quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp GD&ĐT của chính
quyền nhà nước địa phương (cấp huyện) và các khía cạnh, nội dung có liên quan
trực tiếp hoạt động quản lý chi thường xuyên NSNN cho Giáo dục và Đào tạo
công lập trên địa bàn huyện Định Hóa Tỉnh Thái Nguyên.
+ Phạm vi
Nội dung:


+ Từ những lý thuyết chung, tập trung nghiên cứu quản lý chi thường
xuyên NSNN cho sự nghiệp GD&ĐT công lập của chính quyền nhà nước địa
phương (cấp huyện)
+ Tiếp cận giải quyết chuyên môn quản lý theo chức năng: Lãnh đạo,
hoạch định, tổ chức thực hiện kế hoạch, kiểm tra kiểm soát
Không gian: Quản lý nhà nước về chi thường xuyên NSNN ở huyện
Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên
Thời gian Đề tài nghiên cứu phân tích thực trạng từ 2011 - 2016 và đề
xuất giải pháp định hướng đến 2020

5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết nghiên cứu quản lý chi thường xuyên ngân
sách nhà nước cho sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo công lập của địa phương
Chương 2: Thực trạng chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp Giáo dục và
Đào tạo công lập ở huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2011-2016
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự
nghiệp Giáo dục và Đào tạo công lập huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên


Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ CHI THƯỜNG
XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO CÔNG LẬP CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP HUYỆN
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. Ngân sách nhà nước
Trong hệ thống tài chính thống nhất NSNN là khâu tài chính tập chung giữ
vai trò chủ đạo. Đồng thời, NSNN là khâu tài chính được hình thành từ rất sớm
và gắn với sự tồn tại và phát triển của hệ thống quản lý nhà nước và nền kinh tế
hàng hoá, tiền tệ. Hiện nay, thuật ngữ “Ngân sách nhà nước” được sử dụng rộng
rãi trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội ở các quốc gia, tuy nhiên, quan niệm về
NSNN còn nhiều điểm chưa thực sự thống nhất.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư về kinh tế của Pháp định nghĩa: “Ngân
sách là văn kiện được Nghị viện hoặc Hội đồng thảo luận và phê chuẩn mà trong
đó, các nghiệp vụ tài chính (thu, chi) của một tổ chức công (Nhà nước, chính
quyền địa phương, đơn vị công) hoặc tư (doanh nghiệp, hiệp hội) được dự kiến
và cho phép”.
Tại Việt Nam, cũng có nhiều khái niệm khác nhau về NSNN. Theo giáo
trình Quản lý thu Ngân sách nhà nước (2010) của Học viện Tài chính [20] định
nghĩa: “NSNN là phạm trù kinh tế và là phạm trù lịch sử. NSNN được đặc trưng

bằng sự vận động gắn liền với quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung
của nhà nước nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước trên cơ sở luật định.
Nó phản ánh các quan hệ kinh tế giữa nhà nước và các chủ thể trong xã hội, phát
sinh khi nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia theo nguyên
tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu”.
Theo Khoản 14, Điều 04, Luật Ngân sách Nhà nước (83/2015/QH13),
thông qua tại kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 25 tháng 6 năm 2015: “NSNN là toàn
bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và thực hiện trong một


khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định để
bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước” [4].
Các quan điểm trên xuất phát từ cách tiếp cận vấn đề khác nhau và có nhân
tố hợp lý của chúng song chưa đầy đủ. Khái niệm NSNN là một khái niệm trừu
tượng nhưng NSNN là hoạt động tài chính cụ thể của Nhà nước, nó là một bộ
phận quan trọng cấu thành tài chính Nhà nước. Vì vậy, khái niệm NSNN phải
thể hiện được nội dung kinh tế - xã hội của NSNN, phải được xem xét trên các
mặt hình thức, thực thể và quan hệ kinh tế chứa đựng trong NSNN.
Về mặt hình thức, hoạt động của NSNN được biểu hiện dưới hình thức của
các khoản thu và chi tài chính của Nhà nước ở các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã
hội... Các khoản thu, chi này được tổng hợp trong một bảng dự toán thu - chi tài
chính được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Trong đó, với các
khoản thu mang tính chất bắt buộc (thuế, phí, lệ phí…)[3] của NSNN là một bộ
phận các nguồn tài chính chủ yếu được tạo ra thông qua việc phân phối thu nhập
quốc dân, được tạo ra trong các hoạt động kinh tế và các khoản chi cơ bản của
Ngân sách mang tính chất cấp phát phục vụ cho sự nghiệp đầu tư phát triển và
tiêu dùng của xã hội. Do đó, về mặt hình thức có thể hiểu: NSNN là toàn bộ các
khoản thu chi của Nhà nước có trong dự toán, đã được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt (Quốc hội) và được thực hiện trong một năm để đảm bảo việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.

Về nội dung, ẩn sau hình thức biểu hiện ra bên ngoài của NSNN là một quỹ
tiền tệ với các khoản thu và các khoản chi của nó, NSNN là hệ thống các quan
hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính của xã hội để
tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Về bản chất, NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với
quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước khi
Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm thực hiện các
chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định.
1.1.2. Chi Ngân sách nhà nước


1.1.2.1. Chi thường xuyên Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục
Theo quyết định số 1187/KB/KHTH ngày 10/9/2003 hướng dẫn kiểm soát,
thanh toán các khoản chi ngân sách nhà nước qua kho bạc nhà nước, Hà Nội [33]
định nghĩa: Chi ngân sách một công cụ của chính sách tài chính quốc gia có tác
động rất lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Chi NSNN thể hiện các quan hệ
tiền tệ hình thành trong quá trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm trang
trải cho các chi phí bộ máy nhà nước và thực hiện các chức năng kinh tế xã hội
mà nhà nước đảm nhận theo các nguyên tắc nhất định.
Theo đó, chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm đảm
bảo thực hiện chức năng của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định. Chi
NSNN là quá trình phân phối lại các nguồn tài chính đã được tập trung vào
NSNN và đưa chúng đến mục đích sử dụng. Do đó, Chi NSNN là những việc cụ
thể không chỉ dừng lại trên các định hướng mà phải phân bổ cho từng mục tiêu,
từng hoạt động và từng công việc thuộc chức năng của Nhà nước.
Những khoản chi này gồm:
− Chi các hoạt động sự nghiệp kinh tế, Giáo dục và Đào tạo công lập, y tế, xã hội,
văn hoá thông tin văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ,
môi trường, các hoạt động sự nghiệp khác do địa phương quản lý;

− Chi quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội (phần giao cho địa
phương);
− Chi hoạt động của các cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng cộng sản Việt Nam và
các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương;
− Chi hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức
xã hội - nghề nghiệp ở địa phương theo quy định của pháp luật;
− Chi thực hiện các chính sách xã hội đối với các đối tượng do địa phương quản
lý;
− Chi chương trình quốc gia do Chính phủ giao cho địa phương quản lý;
− Chi trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
− Chi các khoản chi khác theo quy định của pháp luật;


Chi NSNN bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau là quá trình phân phối và
quá trình sử dụng. Việc phân biệt hai quá trình này trong chi tiêu NSNN có ý
nghĩa quan trọng trong quản lý NSNN.
Quá trình phân phối: là quá trình cấp phát kinh phí từ NSNN để hình thành
các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng; Quá trình phân phối được thực hiện trên
dự toán và trên thực tế (chấp hành NSNN), dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau
như chức năng, nhiệm vụ, quy mô hoạt động, đặc điểm tự nhiên, xã hội... thể
hiện cụ thể dưới dạng định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi ngân sách.
Quá trình sử dụng: là việc sử dụng phần quỹ ngân sách đã được phân phối
của các đối tượng được hưởng thụ, hay còn gọi là quá trình thực hiện chi tiêu
trực tiếp các khoản tiền của NSNN. NSNN được sử dụng ở các khâu tài chính
Nhà nước trực tiếp, gián tiếp và các khâu tài chính khác phi Nhà nước.
 Khái niệm chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục
Theo giáo trình Quản lý tài chính nhà nước (2007), Nxb Tài chính, Hà Nội
[19] định nghĩa: Chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục là các khoản
chi tiêu của các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sử dụng Ngân sách dành cho các
cơ sở giáo dục - đào tạo để duy trì sự hoạt động của cơ sở giáo dục - đào tạo trên

cơ sở thực hiện nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực trên địa bàn.
Phân loại chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục bao gồm 4
nhóm chi chính
Nhóm 1: Chi Bộ máy
Đứng trên góc độ tài chính, đây là khoản chi tiêu thường xuyên như: Tiền
lương, tiền thưởng, phụ cấp, phúc lợi tập thể, các khoản đóng góp và các khoản
khác. Trong đó:
Tiền lương bao gồm: Lương ngạch bậc, lương tập sự, lương hợp đồng.
Tiền phụ cấp gồm: Phụ cấp chức vụ, phụ cấp khu vự, Ưu đãi, Thâm niên vượt
khung, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp làm thêm, phụ cấp thâm niên nghề...
Tiền thưởng gồm: Thưởng thường xuyên, thưởng đột xuất và thưởng khác.
Phúc lợi tập thể gồm: Trợ cấp khó khăn thường xuyên, trợ cấp khó khăn đột
xuất, tiền tàu xe, phúc lợi khác.


Các khoản đóng góp: Bảo hiểm xã hội, BHYT, BHTN, KPCĐ.
Nhóm 2: Chi quản lý hành chính
Nhóm này bao gồm các khoản chi: Chi thanh toán dịch vụ công cộng (tiền
điện, tiền nước, nhiên liệu, vệ sinh môi trường và dịch vụ công cộng khác); Chi
vật tư văn phòng (gồm văn phòng phẩm, công cụ dụng cụ và vật tư văn phòng
khác); Chi thông tin liên lạc (gồm điện thoại, fax, tuyên truyền, ấn phẩm truyền
thông...); Chi công tác phí (tiền vé máy bay, tàu xe, phụ cấp công tác phí, thuê
phòng ngủ, khoán công tác phí và công tác phí khác); Chi hội nghị phí (gồm tài
liệu, bồi dưỡng giảng viên, thuê phòng ngủ, thuê hội trường, chi bù tiền ăn và
các chi phí khác).
Nhóm 3: Chi nghiệp vụ chuyên môn.
Đây là khoản chi quan trọng nhất tác động trực tiếp đến công tác giáo dục.
Khoản chi này bao gồm: Chi cho vật tư dùng cho chuyên môn, thiết bị chuyên
dụng, sách, tài liệu, mua súc vật dùng cho hoạt động chuyên môn,...
Nhóm 4: Chi mua sắm sửa chữa thường xuyên tài sản.

Như mua thiết bị dạy học, máy chiếu, máy photocopy, máy điều hòa,…
phục vụ hoạt động giảng dạy,…
 Đặc điểm chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục
Chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục là quá trình phân phối, sử
dụng vốn NSNN để đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên của các trường cũng như
các cơ quan quản lý nhằm đảm bảo các trường thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục mang đầy đủ các đặc
điểm của chi thường xuyên NSNN, cụ thể:
Thứ nhất, chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục khá ổn định.
Nhận biết được tầm quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển của nền kinh tế
đất nước và để thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển của quốc gia, vì vậy cần
phải có khoản đầu tư ổn định và thích đáng cho ngành giáo dục. Hàng năm, Nhà
nước ta phải trích một khoản chi NSNN để đầu tư cho ngành giáo dục (chi thường
xuyên chiếm tỷ trọng lớn) bất kể nền kinh tế quốc gia đang tăng trưởng hay suy
thoái.


Thứ hai, nếu xét theo cơ cấu chi NSNN ở từng niên độ và mục đích sử
dụng cuối cùng của vốn cấp phát thì đại bộ phận các khoản chi thường xuyên
của NSNN cho sự nghiệp giáo dục có hiệu lực tác động trong khoảng thời gian
ngắn và mang tính chất tiêu dùng xã hội. Tuy nhiên khi xét về tác dụng lâu dài
thì đây là khoản chi mang tính chất tích luỹ đặc biệt. Khoản chi này là một trong
những nhân tố quyết định tới việc tăng trưởng kinh tế trong tương lai vì nó
không mất đi sau quá trình tiêu dùng mà tạo thành “chất xám” của con người
cho tiêu dùng trong tương lai. Xã hội ngày càng phát triển thì mọi của cải làm
ra, tỷ lệ “chất xám” trong sản phẩm đó càng lớn.
Thứ ba, Phạm vi và mức độ của khoản chi thường xuyên NSNN gắn chặt
với cơ cấu tổ chức của bộ máy Nhà nước, sự lựa chọn của Nhà nước trong việc
cung ứng các hàng hoá công cộng. Như chúng ta đã biết, giáo dục là hàng hoá
công cộng, trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước hiện nay thì

hoạt động giáo dục có sự chăm lo của cả Nhà nước và người dân, nhờ vậy mà
Nhà nước có thể thu hẹp được phạm vi và hạ thấp mức chi cho lĩnh vực này.
1.1.2.2. Quản lý chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo
dục
Theo giáo trình Giáo trình quản lý tài chính công (2007), Nxb Tài chính,
Hà Nội [21] định nghĩa: Quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo
dục là một khái niệm phản ánh hoạt động tổ chức điều khiển và đưa ra quyết
định của Nhà nước đối với quá trình phân phối và sử dụng nguồn lực NSNN cho
các cơ sở giáo dục - đào tạo nhằm thực hiện các chức năng vốn có của Nhà nước
trong việc quản lý nhà nước đối với các cơ sở giáo dục – đào tạo.
Xét về phương diện cấu trúc, quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự
nghiệp giáo dục bao gồm hệ thống các yếu tố sau:
Đối tượng quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục: Là toàn
bộ các khoản chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục.
Chủ thể quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục là các cơ
quan QLNN có thẩm quyền đối với lĩnh vực chi NSNN trên địa bàn Tỉnh


(HĐND các cấp, UBND các cấp, KBNN) và các đơn vị sử dụng NSNN (Sở
Giáo dục và Đào tạo, các cơ sở giáo dục - đào tạo trên địa bàn).
Công cụ và phương pháp quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp
giáo dục trên địa bàn cấp Huyện: Công cụ quản lý gồm các chế độ, chính sách,
các tiêu chuẩn, định mức do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành tác
động lên đối tượng và chủ thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý chi
NSNN.
Sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý thông qua việc thực
hiện các chức năng quản lý nhằm đạt được các mục tiêu cơ bản của quản lý chi
thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục. Đó là mục tiêu sử dụng chi
thường xuyên ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục một cách hợp lý, tiết
kiệm.

1.2. Vai trò của quản lý chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho sự
nghiệp Giáo dục và Đào tạo công lập của chính quyền cấp huyện
Theo giáo trình Vai trò của ngân sách trong phát triển kinh tế (2011), Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội [2] định nghĩa: Quản lý chi thường xuyên NSNN cho
sự nghiệp giáo dục là một nội dung của quản lý tài chính Nhà nước. Nội dung
các khoản chi của ngành giáo dục - đào tạo đa dạng, có quy mô lớn. Quản lý chi
thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục trên địa bàn cấp huyện là cần thiết
vì những lý do chủ yếu sau:
Thứ nhất: Quy mô của khoản chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo
dục. Trong các nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp giáo dục đào tạo, nguồn vốn đầu
tư từ ngân sách nhà nước vẫn giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Quy mô của khoản
chi NSNN nói chung, chi thường xuyên NSNN nói riêng cho giáo dục được thể
hiện trên các mặt sau:
Một là: Chi thường xuyên NSNN cung cấp nguồn tài chính chủ yếu để duy
trì, định hướng sự phát triển của hệ thống giáo dục quốc dân theo đúng chủ
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.


Hai là: Chi thường xuyên NSNN cung cấp nguồn lực chủ yếu giúp việc
củng cố, tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy.
Hai yếu tố này ảnh hưởng có tính quyết định đến chất lượng hoạt động giáo dục
- đào tạo. Những năm qua, vốn NSNN chi cho giáo dục đào tạo chủ yếu dành
cho những chi phí liên quan đến con người. Trong đó, chi lương và phụ cấp
lương cho giáo viên chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi thường xuyên giáo dục.
Hiện nay, tiền lương và phụ cấp và các chế độ cho giáo viên đều do ngân sách
nhà nước đảm bảo (trừ các trường dân lập, bán công...). Chế độ tiền lương hợp
lý sẽ đảm bảo cho giáo viên yên tâm công tác, đóng góp tài năng và trí tuệ cho
xã hội và ngược lại.
Ba là: Thông qua cơ cấu vốn, định mức chi thường xuyên ngân sách cho sự
nghiệp giáo dục đã có tác dụng điều chỉnh cơ cấu, quy mô giáo dục trong toàn

ngành. Trong điều kiện đa dạng hóa giáo dục - đào tạo như hiện nay, vai trò định
hướng của Nhà nước thông qua chi thường xuyên ngân sách để điều chỉnh quy
mô, cơ cấu giữa các cấp học, ngành học, giữa các vùng là hết sức quan trọng.
Một cơ cấu ngành học, bậc học hợp lý, kết hợp giữa đào tạo và sử dụng
nhân lực sau đào tạo sẽ đảm bảo cho giáo dục phát triển cân đối, có hiệu quả,
tránh hiện tượng thất nghiệp đang là vấn đề quan tâm của nhiều quốc gia.
Bốn là: Sự đầu tư của chi thường xuyên NSNN có tác dụng hướng dẫn, tạo
môi trường thuận lợi để thu hút các nguồn vốn khác tham gia đầu tư cho giáo
dục. Với chức năng quản lý xã hội, Nhà nước là chủ thể cung cấp các dịch vụ
công: giáo dục, y tế, thể dục thể thao... Trong điều kiện các tổ chức, cá nhân
chưa có đủ tiềm lực đầu tư độc lập cho các dự án giáo dục, nguồn vốn đối ứng
từ chi thường xuyên NSNN là rất quan trọng để thu hút các nguồn lực khác cùng
đầu tư cho giáo dục.
Với chức năng quản lý kinh tế, thông qua sự đầu tư của Nhà nước vào cơ sở
vật chất và một phần kinh phí hỗ trợ đối với các trường bán công, tư thục, dân lập
có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ phong trào xã hội hóa giáo dục - đào tạo về mặt tài


chính, góp phần thực hiện thành công chủ trương xã hội hoá giáo dục của Chính
phủ.
Thứ hai: Thực tiễn quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo
dục trên địa bàn cấp huyện hiện nay còn một số hạn chế nhất định.
Ở khâu lập dự toán: Hiện nay có nhiều cơ quan tham gia lập kế hoạch (cơ
quan tài chính, cơ quan chủ quản, cơ quan kế hoạch và đầu tư, đơn vị dự toán...),
quy trình lập dự toán phải qua nhiều bước. Căn cứ lập kế hoạch ở nhiều đơn vị
dự toán chưa sát đúng thực tế, hầu hết các đơn vị thụ hưởng ngân sách đều có xu
hướng lập dự toán chi tiêu tăng. Ngoài ra, một số định mức ngân sách chưa phù
hợp đã làm cho nhiều đơn vị khó khăn trong cân đối thu, chi tại đơn vị.
Ở khâu chấp hành dự toán: Quản lý chi thường xuyên NSNN cho giáo dục
đào tạo chưa phân biệt cụ thể quan hệ giữa quản lý ngân sách toàn ngành với quan

hệ quản lý ngân sách trên địa bàn nên chưa xây dựng được mô hình quản lý ngân
sách thống nhất cho giáo dục đào tạo trên phạm vi cả nước. Trong quá trình chấp
hành chi, một số khoản chi đơn vị chi sai chế độ, có dấu hiệu lãng phí; việc bảo
quản và sử dụng tài sản có giá trị còn nhiều hạn chế. Chi thường xuyên NSNN
chưa phát huy tác dụng khuyến khích khai thác nguồn vốn ngoài NSNN phục vụ
cho sự nghiệp giáo dục đào tạo. Ở nhiều địa phương, quan hệ giữa ngành giáo dục
và tài chính có nhiều điểm chưa thống nhất, chưa có sự phối hợp giữa quản lý theo
chuyên môn với quản lý tài chính.
Ở khâu quyết toán NSNN: Nhiều đơn vị nộp báo cáo quyết toán chưa đúng
với thời gian quy định, báo cáo quyết toán còn thiếu nhiều biểu mẫu...
1.3. Nội dung quản lý chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho sự
nghiệp Giáo dục và Đào tạo công lập ở cấp huyện
1.3.1. Xác lập cơ sở pháp lý quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự
nghiệp Giáo dục và Đào tạo công lập tại cấp huyện
Căn cứ Luật giáo dục năm 2005;
Căn cứ Luật giáo dục sửa đổi năm 2009;


Căn cứ Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 04 năm 2006 quy định
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên
chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập;
Căn cứ Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09 tháng 06 năm 2014 của Chính
phủ về việc ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị
quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị lần thứ Tám Ban
chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào
tạo công lập, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế;
Căn cứ Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 25 tháng 6 năm 2013 của Thủ tướng
Chính phủ về việc xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, Dự toán ngân
sách nhà nước năm 2014;

Căn cứ Thông tư số 90/2013/TT-BTC ngày 28 tháng 6 năm 2013 của Bộ
Tài chính Về việc hướng dẫn xây dựng dự toán ngân sách năm 2014;
Thực hiện chỉ thị số 15/CT-UBND ngày 03/7/2013 của UBND tỉnh về
việc xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục, dự toán ngân sách cho gíao dục năm
2014;
Căn cứ Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2003 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước;
Căn cứ Nghị định số 118/2008/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2008 của
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ
Tài chính;
1.3.2. Quản lý lập dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho sự
nghiệp Giáo dục và Đào tạo công lập
Theo Nghị định số 73/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 về quy chế xem xét,
thảo luận, quyết định dự toán, phân bổ ngân sách và phê chuẩn ngân sách, Hà
Nội [11]: Việc lập dự toán chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục
ngân sách cấp huyện do UBND Huyện, Sở Tài chính và Sở Giáo dục và Đào tạo


phối hợp thực hiện. Trong đó, chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan được quy
định cụ thể như sau:
UBND Tỉnh có nhiệm vụ: Căn cứ vào Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ,
Thông tư hướng dẫn, số kiểm tra về dự toán ngân sách của Bộ Tài chính, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, UBND tỉnh tổ chức hướng dẫn và thông báo số kiểm tra về dự
toán ngân sách cho các đơn vị trực thuộc và UBND cấp huyện, tổ chức và chỉ đạo
các đơn vị trực thuộc lập dự toán chi NSNN thuộc phạm vi quản lý.
Sau khi có ý kiến của Thường trực HĐND huyện, UBND tỉnh gửi báo cáo
dự toán chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục đến Bộ Tài chính, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, các cơ quan quản lý các chương trình mục tiêu quốc gia
(phần dự toán chi chương trình mục tiêu quốc gia) chậm nhất vào ngày 25 tháng 7
năm trước để Bộ Tài chính kiểm tra, tổng hợp trình Chính phủ.

Căn cứ nhiệm vụ chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục được
cấp trên giao, UBND tỉnh trình HĐND tỉnh quyết định dự toán chi thường
xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục và phương án phân bổ chi thường xuyên
NSNN cho sự nghiệp giáo dục cùng cấp, chậm nhất 5 ngày sau khi HĐND tỉnh
quyết định dự toán ngân sách hoặc dự toán chi thường xuyên NSNN cho sự
nghiệp giáo dục điều chỉnh, UBND tỉnh có trách nhiệm báo cáo Bộ Tài chính,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự toán chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo
dục huyện.
Căn cứ vào Nghị quyết của HĐND huyện, giao nhiệm vụ NSNN tại cơ sở
giáo dục - đào tạo cho từng cơ quan, đơn vị trực thuộc, nhiệm vụ chi và mức bổ
sung ngân sách cho cấp dưới.
Lập phương án điều chỉnh dự toán chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp
giáo dục và phương án phân bổ dự toán chi ngân sách cấp huyện, trình HĐND tỉnh
quyết định theo yêu cầu của Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong trường
hợp nghị quyết của HĐND tỉnh không phù hợp với nhiệm vụ sử dụng chi thường
xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục cấp trên giao.


Kiểm tra Nghị quyết về dự toán chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo
dục của HĐND cấp huyện; yêu cầu HĐND cấp tỉnh điều chỉnh lại dự toán chi
thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục trong trường hợp cần thiết;
Sở Tài chính có nhiệm vụ: Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với Sở Giáo dục
và Đào tạo xem xét dự toán chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục
của các đơn vị trực thuộc huyện, dự toán chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp
giáo dục của các huyện; lập dự toán chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo
dục tỉnh (gồm dự toán chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục các tỉnh
và dự toán chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục cấp huyện), dự toán
các khoản chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục ủy quyền báo cáo
UBND cấp tỉnh để trình Thường trực HĐND xem xét trước ngày 20 tháng 7
năm trước.

Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan trong việc tổng hợp,
lập dự toán chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục và phương án phân
bổ dự toán chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục ngân sách theo lĩnh
vực, nhiệm vụ chi được phân cấp.
1.3.3. Quản lý thực hiện dự toán chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp
Giáo dục và Đào tạo công lập
Theo tạp chí Quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước trong tiến trình cải
cách tài chính công (2005), Tạp chí Cộng sản [25] nêu:
Đối với cấp huyện và xã, UBND huyện có trách nhiệm tổ chức thực hiện
dự toán chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục ở cấp ngân sách huyện
và xã.
Đây là quá trình bao gồm toàn bộ các công việc từ khi có quyết định phê
duyệt dự án, đề tài, giao kế hoạch và dự toán ngân sách thực hiện cho đến khi
hoàn thành toàn bộ dự án, đề tài chuyên môn và nhiệm vụ thường xuyên thuộc
chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục cấp huyện. Quá trình này gồm
các công việc sau:
Đôn đốc, hướng dẫn đơn vị chủ trì thực hiện


Trong giai đoạn này, UBND tỉnh và các cơ quan tham mưu giúp việc là Sở
Giáo dục và Đào tạo , Sở Tài chính – Kế hoạch có trách nhiệm đôn đốc, hướng dẫn
đơn vị chủ trì thực hiện dự án, nhiệm vụ đảm bảo đúng mục tiêu, nội dung, tiến độ
kế hoạch và dự toán kinh phí đã được UBND tỉnh phê duyệt.
Điều chỉnh hoặc hủy bỏ dự án, đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện dự án, đề tài, nhiệm vụ, nếu phải thay đổi địa
điểm, hay thay đổi nội dung chuyên môn, thiết kế kỹ thuật - công nghệ do yêu
cầu quản lý, hoặc Nhà nước có thay đổi chính sách chế độ thì đơn vị chủ trì dự
án, đề tài, nhiệm vụ cấp tỉnh phải tiến hành lập tờ trình, thuyết minh chi tiết gửi
Sở Giáo dục và Đào tạo. Sở Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm phối hợp với
Sở Tài chính và các cơ quan có liên quan tổ chức xem xét, thẩm định về những

nội dung điều chỉnh, bổ sung và báo cáo UBND tỉnh phê duyệt điều chỉnh, bổ
sung.
Trường hợp có lý do chính đáng không thể tiếp tục thực hiện dự án, đề tài,
nhiệm vụ thì đơn vị chủ trì phải có văn bản trình UBND tỉnh xem xét, cho ý kiến.
Sau khi có quyết định của UBND huyện, Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Sở
Tài chính – Kế hoạch hướng dẫn đơn vị phải lập đầy đủ hồ sơ làm cơ sở thanh
quyết toán khối lượng công việc đã thực hiện, bao gồm: Quyết định dừng thực hiện
dự án, nhiệm vụ của cấp có thẩm quyền; Biên bản kiểm tra, xác định khối lượng
công việc đã thực hiện của cơ quan có thẩm quyền; Báo cáo quyết toán kinh phí,
khối lượng đã thực hiện; Các chứng từ kế toán kèm theo; Các văn bản khác có liên
quan đến dự án, đề tài, nhiệm vụ.
1.3.4. Quyết toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho sự nghiệp
giáo dục
Theo Thông tư số 161/2012/TT-BTC ngày 02/10/2012: Quy định chế độ
kiểm soát, thanh toán các khoản chi NSNN qua KBNN, Hà Nội [8]: Đây là khâu
kết thúc của chu trình quản lý các khoản chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp
giáo dục. Quyết toán chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục cũng
được lập từ cơ sở và tổng hợp từ dưới lên theo hệ thống các cấp dự toán và các


cấp ngân sách. Quá trình quyết toán chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp
giáo dục phải đảm các nội dung sau:
Phải lập đầy đủ các loại báo cáo quyết toán và gửi kịp thời các loại báo
cáo đó cho các cơ quan có thẩm quyền thẩm định, xét duyệt hoặc phê chuẩn theo
quy định của luật NSNN.
Số liệu trong báo cáo quyết toán phải đảm bảo chính xác, trung thực, theo
đúng mục lục ngân sách quy định.
Báo cáo quyết toán năm của các đơn vị dự toán và của ngân sách các cấp
phải được KBNN đồng cấp xác nhận về tổng số và chi tiết trước khi trình cấp có
thẩm quyền xem xét phê duyệt.

Qua công tác quyết toán chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục
sẽ giúp các cơ quan quản lý phân tích đánh giá quá trình chấp hành ngân sách,
chấp hành các định mức nhà nước đã quy định của các đơn vị thụ hưởng ngân
sách cũng như của các cấp ngân sách, nâng cao trách nhiệm của các đơn vị trong
quá trình sử dụng ngân sách; làm cơ sở cho việc xây dựng cũng như điều chỉnh
các định mức phân bổ chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục, xây
dựng dự toán chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục.
1.3.5. Kiểm tra, giám sát và đánh giá công tác quản lý chi thường xuyên
ngân sách nhà nước cho sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo công lập
UBND Huyện có trách nhiệm tổ chức kiểm tra việc chấp hành các chế độ
quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục của các đơn vị trực
thuộc và hướng dẫn các đơn vị thực hiện việc tự kiểm tra trong nội bộ đơn vị
mình và các đơn vị cấp dưới trực thuộc. Việc kiểm tra được thực hiện trong tất
cả các khâu của chu trình quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo
dục, từ khâu lập, phân bổ, giao dự toán chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp
giáo dục đến việc chấp hành dự toán và quyết toán chi thường xuyên NSNN cho
sự nghiệp giáo dục. Việc kiểm tra, kiểm soát được gắn với chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan QLNN cấp huyện.
Phòng Tài chính, KBNN huyện, đơn vị dự toán thuộc cấp huyện theo chức
năng nhiệm vụ được phân công có trách nhiệm tổ chức thực hiện chế độ kiểm
tra thường xuyên, định kỳ đối với các đơn vị, cá nhân, đơn vị sử dụng ngân sách


cấp huyện. Trong quá trình kiểm tra, xét duyệt và thẩm định quyết toán, nếu phát
hiện các khoản chi không đúng chế độ quy định của pháp luật phải thu hồi ngay
cho NSNN và hạch toán giảm chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục.
Phòng Tài chính chịu trách nhiệm tổ chức kiểm tra toàn bộ các khâu trong
chu trình quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục, đảm bảo cho
dự toán được lập chính xác; đảm bảo việc phân bổ và giao dự toán cho các đơn
vị sử dụng ngân sách đúng định mức; đảm bảo hạch toán kế toán đúng chế độ và

quyết toán ngân sách đầy đủ, đúng thời gian.
KBNN có trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát quá trình chấp hành dự toán của các
đơn vị sử dụng ngân sách thông qua việc kiểm soát, thanh toán các khoản chi thường
xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục của ngân sách cấp huyện.
Thủ trưởng đơn vị dự toán tự tổ chức kiểm tra việc chấp hành dự toán và
kiểm tra việc quản lý, sử dụng chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục
theo tiêu chuẩn định mức chi tiêu hiện hành của Nhà nước.
Hàng năm Thanh tra nhà nước huyện, tỉnh xây dựng kế hoạch thanh tra tình
hình sử dụng chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục trên địa bàn trình
Chủ tịch UBND huyện, tỉnh phê duyệt và triển khai thực hiện. Thanh tra tỉnh có
nhiệm vụ thanh tra tình hình sử dụng ngân sách và việc chấp hành các chế độ về
quản lý chi NSNN của các đơn vị dự toán, các tổ chức được ngân sách tỉnh hỗ
trợ và cá nhân thụ hưởng ngân sách theo quy định của luật pháp.
1.4. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới quản lý chi
thường xuyên ngân sách nhà nước cho sự nghiệp Giáo dục
và Đào tạo công lập của cấp huyện
 Các nhân tố chủ quan
Một là, vai trò của lãnh đạo, năng lực điều hành và tổ chức thực hiện của
cơ quan trong ngành giáo dục ở các cấp
Vai trò lãnh đạo, năng lực điều hành và tổ chức thực hiện của cơ quan trong
ngành giáo dục các cấp là rất quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp tới công tác
quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục. Cơ quan QLNN về
giáo dục tại địa phương cần phải có sự chủ động trong công tác xây dựng dự


toán, phân bổ và triển khai thực hiện trình UBND các cấp trong kế hoạch phát
triển giáo dục và dự toán ngân sách hàng năm trong quản lý chi thường xuyên
NSNN cho sự nghiệp giáo dục, đảm bảo cho nguồn chi thường xuyên NSNN
cho sự nghiệp giáo dục được sử dụng đúng kế hoạch, tránh sử dụng lãng phí và
sai mục đích trong việc phân bổ và sử dụng chi thường xuyên NSNN cho sự

nghiệp giáo dục. Tuy nhiên, thực tế cơ quan trong ngành giáo dục các cấp vẫn
chưa phát huy hết được vai trò của mình làm cho nguồn chi thường xuyên
NSNN cho sự nghiệp giáo dục bị thất thoát, lãng phí hoặc chưa sát sao trong các
công tác quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục.
Như vậy, nếu đội ngũ lãnh đạo có trình độ, năng lực điều hành tốt và công
tác tổ chức thực hiện của cơ quan trong ngành giáo dục các cấp hợp lý, phù hợp
với nhiệm vụ được giao thì hoạt động quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự
nghiệp giáo dục sẽ đạt hiệu quả và chất lượng cao, hạn chế tối đa sự thất thoát,
lãng phí NSNN cho hoạt động giáo dục và ngược lại.
Hai là, số lượng, kinh nghiệm và kiến thức của cán bộ quản lý chi thường
xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục
Bất kỳ lĩnh vực và ngành nghề nào cũng vậy luôn đòi hỏi kinh nghiệm và
kiến thức chuyên sâu của cán bộ thực hiện liên quan. Đối với công tác quản lý chi
thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục cũng vậy luôn luôn đòi hỏi kinh
nghiệm và kiến thức của cán bộ quản lý. Cán bộ quản lý chi thường xuyên NSNN
cho sự nghiệp giáo dục là nhân tố quan trọng tác động tới chất lượng mọi hoạt
động quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục. Các cán bộ ngành
giáo dục cần phải đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ trong quá trình
tham mưu phân bố và quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục:
tài chính, kế toán, xây dựng dự án, quản lý dự án,… đồng thời cán bộ ngành giáo
dục cần phải có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng. Chính sự
yếu kém và thiếu hụt kiến thức về quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp
giáo dục của cán bộ cơ quan trong ngành giáo dục sẽ dẫn tới vai trò mờ nhạt của
công tác quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục.
Từ đây, có thể đưa ra nhận định với đội ngũ cán bộ quản lý chi thường


xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục giàu kinh nghiệm và có trình độ chuyên
môn cao sẽ hỗ trợ đắc lực trong công tác tham mưu và quản lý chi thường xuyên
NSNN cho sự nghiệp giáo dục từ đó giúp công tác này đạt hiệu quả cao hơn và

ngược lại nếu đội ngũ cán bộ ngành giáo dục yếu kém về trình độ chuyên môn
thiếu sót các kinh nghiệm thực tiễn sẽ gây ra những sai sót trong công tác lập dự
toán chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục hoặc gây lãng phí ngân
sách nhà nước cho hoạt động giáo dục tại từng địa phương và dẫn đến công tác
quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục không đem lại hiệu quả
mong đợi.
Ba là, sự phối hợp giữa cơ quan quản lý giáo dục và cơ quan quản lý tài
chính các cấp
Trong hoạt động quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục
Sở Tài chính địa phương và cơ quan tài chính địa phương có nhiệm vụ cấp phát
chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục và kiểm soát công tác quản lý
chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục.
Sở Giáo dục và Đào tạo và các cơ sở giáo dục - đào tạo địa phương: sự
phối hợp giữa các cơ quan này là rất quan trọng đảm bảo được thông tin chính
xác cho quá trình quản lý nguồn chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo
dục: xây dựng kế hoạch, tổng hợp và phân bổ nguồn chi cho các nhiệm vụ trọng
tâm được thực hiện chặt chẽ hơn và tuân thủ theo đúng quy định của thông tư
liên tịch,
Trong công tác quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục
nếu có sự phối hợp, liên kết chặt chẽ giữa cơ quan quản lý giáo dục và cơ quan
quản lý tài chính các cấp thì công tác này sẽ đạt hiệu quả cao nó thể hiện ở công
tác lập dự toán nguồn kinh phí hàng năm chính xác tránh tình trạng thiếu hụt
kinh phí hay lãng phí nguồn chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục.
Từ đó tạo cơ sở để hoạt động quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp
giáo dục đạt hiệu quả cao và ngược lại.
Bốn là, nhận thức của cơ quan tài chính trong quản lý chi thường xuyên
NSNN cho sự nghiệp giáo dục



×