Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Nâng cao chất lượng quản lý giáo dục tại các trường mầm non huyện Nam Trực giai đoạn 2016 – 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.4 KB, 42 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do xây dựng đề án
Giáo dục và đào tạo luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng.
Trong Nghị quyết số 29/TW-NQ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
đã chỉ rõ quan điểm của Đảng đó là “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là
sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát
triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định: “Giáo dục là quốc
sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài”.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục mầm non chiếm một vị trí vô
cùng quan trọng, đây là bậc học đầu tiên, là nền tảng của ngành giáo dục và đào
tạo. Như Bác Hồ kính yêu đã từng nói: “Giáo dục mầm non tốt sẽ mở đầu cho một
nền giáo dục tốt”.
Giai đoạn phát triển của trẻ ở lứa tuổi mầm non có tính quyết định đến thể
lực, nhân cách, năng lực phát triển trí tuệ của trẻ trong suốt cả cuộc đời. Những kết
quả nghiên cứu về sự phát triển đặc biệt của não bộ trong những năm đầu tiên của
cuộc đời, những nghiên cứu về ảnh hưởng và ích lợi của các dịch vụ giáo dục mầm
non có chất lượng đã khiến Chính phủ ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong
đó có Việt Nam ngày càng quan tâm, phát triển giáo dục mầm non.
Quán triệt các văn kiện của Đảng về giáo dục và đào tạo, Tỉnh ủy, Ủy ban
nhân dân tỉnh Nam Định nói chung và Huyện ủy Nam Trực nói riêng đã đề ra mục
tiêu đến năm 2020 cho giáo dục và đào tạo đó là tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ
về chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo của tỉnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu học tập đa dạng của nhân dân, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội địa phương,
góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Giáo dục con người Việt Nam nói chung, con
người Nam Trực nói riêng phát triển toàn diện về nhân cách, kiến thức văn hóa, rèn
luyện nâng cao thể chất và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi
1



cá nhân, đảm bảo sống tốt và làm việc hiệu quả; Thực hiện giáo dục, đào tạo theo
hướng mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương
thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập, xây dựng nông thôn mới,
bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa,
xã hội hóa và hội nhập quốc tế; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc
dân tộc; tiếp tục giữ vững được thành tích là tỉnh nằm trong tốp dẫn đầu toàn quốc về
lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Ngành GD&ĐT huyện Nam Trực trong nhiều năm liên tục luôn là lá cờ đầu cho
giáo dục toàn tỉnh. Giáo dục mầm non Nam Trực cũng luôn nằm trong tốp dẫn đầu
của tỉnh, đánh giá thi đua hàng năm luôn đạt loại xuất sắc. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tích đã đạt được, giáo dục mầm non Nam Trực vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế
về vấn đề chất lượng quản lý giáo dục tại các trường mầm non như: công tác quản
lý của lãnh đạo các nhà trường chưa đồng đều; chất lượng của một bộ phận đội ngũ
giáo viên chưa cao, chưa linh hoạt, sáng tạo; cơ sở vật chất, trang thiết bị còn nhiều
thiếu thốn...
Chính vì vậy việc nâng cao chất lượng quản lý giáo dục mầm non huyện
Nam Trực phát triển bền vững đáp ứng với yêu cầu đổi mới theo tinh thần Nghị
quyết số 29/NQ-TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương
khóa XI là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ những nhận thức trên tôi chọn đề tài “Nâng cao chất lượng
quản lý giáo dục tại các trường mầm non huyện Nam Trực giai đoạn 2016 –
2020” làm đề án tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Cấp học giáo dục mầm non Nam Trực được xây dựng và phát triển theo
hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa” gắn với việc thực hiện Nghị quyết số
29/NQ-TW về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục.

2



Chất lượng quản lý giáo dục tại các trường mầm non được nâng cao góp
phần thiết thực nâng cao chất lượng giáo dục mầm non nói riêng, chất lượng giáo
dục ở huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định nói chung.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Củng cố, mở rộng mạng lưới trường, lớp, nâng tỷ lệ trẻ dưới 3 tuổi đến nhà
trẻ, nhóm trẻ từ 42.5% năm 2016 lên 50% năm 2020; trẻ từ 3 đến 5 tuổi đến lớp
mẫu giáo đạt 96% năm 2016 lên 98% năm 2020; duy trì tỷ lệ trẻ 5 tuổi đến lớp
mẫu giáo diện Phổ cập đạt 100% năm 2020.
- Giữ vững huyện đạt chuẩn Phổ cập GDMN cho trẻ em 5 tuổi.
- Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý chuyên môn, nâng cao chất lượng
thực hiện Chương trình giáo dục mầm non ở 100% trường mầm non.
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất thiết bị cho dạy và học. Đến năm 2020:
100% phòng học kiên cố, xây dựng đủ phòng học và các phòng chức năng theo quy
định của Điều lệ trường mầm non; 100% số trường mầm non đạt chuẩn Quốc gia.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên mầm non, phấn
đấu để từ 97.7% giáo viên đạt chuẩn trình độ đào tạo trở lên năm 2016 và đạt
100% năm 2020, trong đó có 61.2% đạt trên chuẩn năm 2016 và 80% năm 2020.
3. Giới hạn của đề án
3.1. Đối tượng:
Công tác quản lý giáo dục mầm non.
3.2. Không gian:
Các trường mầm non trên địa bàn huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
3.3. Thời gian:
Đề án thực hiện trong thời gian từ năm 2016 đến năm 2020.

3


B. NỘI DUNG

1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1Một số khái niệm
- Quản lý: là quá trình thực hiện các công việc xây dựng kế hoạch hành
động (bao gồm cả xác định mục tiêu cụ thể, chế định kế hoạch, quy định tiêu chuẩn
đánh giá và thể chế hóa), sắp xếp tổ chức (bố trí tổ chức, phối hợp nhân sự, phân
công công việc, điều phối nguồn lực tài chính và kỹ thuật...), chỉ đạo, điều hành,
kiểm soát và đánh giá kết quả, sửa chữa sai sót (nếu có) để bảo đảm hoàn thành
mục tiêu của tổ chức đã đề ra.
- Quản lý giáo dục là những tác động có hệ thống, có ý thức, hợp quy luật
của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của hệ thống giáo
dục nhằm đảm bảo cho hệ thống giáo dục vận hành bình thường và liên tục phát
triển, mở rộng cả về số lượng cũng như chất lượng.
Hay quản lý giáo dục là sự tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của
chủ thể quản lý lên hệ thống giáo dục nhằm huy động, tổ chức, điều phối, giám
sát...một cách hiệu quả các nguồn lực cho giáo dục và các hoạt động phục vụ cho
mục tiêu phát triển giáo dục đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
- Quản lý trường học là hệ thống những tác động có chủ đích, có kế hoạch,
hợp quy luật của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, nhân viên, cha mẹ học sinh
và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và
hiệu quả mục tiêu giáo dục.
- Nhà trường là tổ chức giáo dục cơ sở trực tiếp làm công tác giáo dục – đào
tạo. Trong Luật giáo dục 2005, khoản 2, điều 48 đã quy định: “Nhà trường trong hệ
thống giáo dục quốc dân, thuộc mọi loại hình đều được thành lập theo quy hoạch,
kế hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giao dục”.

4


- Trường mầm non là đơn vị cơ sở của bậc học mầm non, thuộc hệ thống

giáo dục quốc dân Việt Nam.
- Quản lý trường mầm non là tập hợp những tác động tối ưu của Hiệu trưởng
đến tập thể cán bộ, giáo viên và nhân viên nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục mầm
non trên cơ sở huy động, sử dụng các tiềm lực vật chất và tinh thần của nhà trường,
gia đình và xã hội.
Thực chất công tác quản lý trường mầm non là quá trình thực hiện chương
trình, nội dung chăm sóc, giáo dục trẻ; quản lý cán bộ, giáo viên, nhân viên và trẻ
gửi vào trường; quản lý sử dụng đất đai, trường sở, trang thiết bị, tài chính của nhà
trường theo quy định của pháp luật, kết hợp chặt chẽ với gia đình, các cá nhân và
tổ chức trong hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ; tuyên truyền hướng dẫn kiến thức
nuôi trẻ cho cha mẹ và cộng đồng cùng chăm sóc giáo dục trẻ.
- Chất lượng:
Theo Từ điển tiếng Việt, chất lượng là tổng thể những tính chất, thuộc tính
cơ bản của sự vật (sự việc)... làm cho sự vật (sự việc) này phân biệt với sự vật (sự
việc) khác.
Theo TCVN ISO 8402, chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể
tạo cho thực thể đó khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã nêu ra và nhu cầu tiềm
ẩn.
Như vậy, các quan niệm về chất lượng tổng quát tuy có khác nhau, nhưng
đều có chung một ý tưởng: Chất lượng là sự thỏa mãn một yêu cầu nào đó.
- Chất lượng quản lý giáo dục trường mầm non là sự đáp ứng của chủ thể
quản lý trường mầm non đối với những yêu cầu về mục tiêu giáo dục mầm non
được quy định tại Luật Giáo dục.
1.1.2. Các nhân tố tác động đến chất lượng quản lý giáo dục tại các
trường mầm non
- Trong hệ thống giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng, con
người giữ vai trò là trung tâm của hoạt động giáo dục. Con người vừa là chủ thể
5



vừa là khách thể quản lý. Mọi hoạt động giáo dục và quản lý giáo dục đều hướng
vào việc đào tạo và phát triển nhân cách thế hệ trẻ, bởi vậy con người là nhân tố
quan trọng nhất trong quản lý giáo dục, tác động đến chất lượng quản lý giáo dục
trong các nhà trường.
- Bối cảnh là môi trường kinh tế - xã hội, môi trường khoa học – công nghệ
và những xu thế của thời đại, điều kiện, hoàn cảnh, nền văn hóa của địa phương
cũng như truyền thống nhà trường nơi diễn ra hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục (sau đây gọi chung là giáo dục) trẻ mầm non... Các yếu tố này có thể tạo
thuận lợi hoặc gây khó khăn cho hoạt động giáo dục trẻ. Vì thế để quản lý hiệu quả
hoạt động giáo dục trẻ, chúng ta không thể không lưu tâm đến yếu tố bối cảnh. Cần
đặt hoạt động giáo dục của nhà trường vào trong bối cảnh văn hóa, chính trị, kinh
tế, xã hội của địa phương có biện pháp huy động hiệu quả khả năng tham gia giáo
dục của cha mẹ trẻ, của cộng đồng.
- Các yếu tố nguồn lực: cơ chế chính sách; cán bộ quản lý, giáo viên, nhân
viên, trẻ; chương trình; tài chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị...ảnh hưởng rất lớn
đến chất lượng quản lý giáo dục tại các trường mầm non.
- Quá trình giáo dục tại nhà trường gồm: hoạt động quản lý, hoạt động chăm
sóc, nuôi dưỡng của giáo viên, nhân viên và hoạt động học tập, vui chơi, sinh hoạt
của trẻ cũng tác động đến chất lượng quản lý giáo dục tại các trường mầm non.
- Kết quả giáo dục của nhà trường bao gồm: sự phát triển về thể chất, tình
cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách chuẩn bị cho
trẻ em vào lớp Một... đó chính là sản phẩm của giáo dục, nó tác động đến chất
lượng quản lý giáo dục tại các trường mầm non.
1.1.3. Tiêu chí đánh giá chất lượng quản lý giáo dục tại các trường mầm
non
Đánh giá chất lượng quản lý giáo dục tại các trường mầm non thực chất là
đánh giá việc quản lý con người. Điều đó tạo cho các chủ thể (người dạy và người
học) trong nhà trường một sự liên kết chặt chẽ không những chỉ bởi cơ chế hoạt
6



động của những tính quy luật khách quan của một tổ chức xã hội – nhà trường, mà
còn bởi hoạt động chủ quan, hoạt động quản lý của chính bản thân giáo viên và học
sinh.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
- Căn cứ Luật Giáo dục (năm 2005); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật giáo dục (năm 2009);
- Căn cứ Quyết định số 14/2008/QĐ-BGDĐT ngày 07/04/2008 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Điều lệ trường mầm non;
- Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8
khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; Nghị quyết số 44/NQCP ngày 09/6/2014 của Chính phủ Ban hành chương trình hành động thực hiện
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành
Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế;
- Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020”;
- Nghị quyết số 16-NQ/TU ngày 30/12/2011 của Ban thường vụ Tỉnh ủy về
nâng cao chất lượng đồng đều trong giáo dục phổ thông;
- Nghị quyết số 17-NQ/HU ngày 13/10/2013 của Ban Chấp hành Đảng bộ
huyện về phát triển sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo giai đoạn 2013 - 2015 định
hướng đến năm 2020;
- Nghi quyết số 01-NQ/ĐH ngày 10/07/2015 – Đại hội đại biểu Đảng bộ
huyện lần thứ XXV ( Nhiệm kỳ 2015-2020);
- Kết luận số 01-KL/HU ngày 16/10/2015 của Ban chấp hành Đảng bộ
huyện về việc tiếp tục thực hiện nghị quyết số 17-NQ/HU ngày 13/10/2013 của
7


Ban Chấp hành Đảng bộ huyện về phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo giai

đoạn 2013 - 2015 định hướng đến năm 2020;
1.3. Cơ sở thực tiễn
Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã xác định rõ mục tiêu của giáo
dục mầm non là: “... giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu biết, thẩm mỹ,
hình thành các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào lớp
Một. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi vào năm 2015,
nâng cao chất lượng phổ cập trong những năm tiếp theo và miễn học phí trước
năm 2020. Từng bước chuẩn hóa hệ thống các trường mầm non. Phát triển giáo
dục mầm non dưới 5 tuổi có chất lượng phù hợp với điều kiện của từng địa
phương và cơ sở giáo dục”. Đề thực hiện mục tiêu đó, đòi hỏi ngành giáo dục
mầm non phải đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ, trước hết là đổi mới và nâng
cao chất lượng quản lý giáo dục. Mầm non huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định cũng
đã và đang quyết tâm thực hiện thành công nhiệm vụ đó. Từ cấp Phòng đến cấp
trường đều thực hiện nghiêm túc việc đổi mới từ khâu xây dựng kế hoạch, bố trí
lực lượng, bồi dưỡng đội ngũ, tham mưu xây dựng các điều kiện dạy học đến công
tác kiểm tra, đánh giá, công tác thi đua khen thưởng, đánh giá, xếp loại cuối năm
học...đảm bảo đúng thực chất công tác quản lý giáo dục tại các nhà trường.
Tuy vậy, trong giai đoạn hiện nay giáo dục mầm non huyện Nam Trực vẫn
còn gặp không ít khó khăn, đó là: trình độ, chuyên môn, tay nghề của giáo viên
chưa đồng đều, đa số giáo viên vừa học vừa làm, một bộ phận cán bộ, giáo viên
nhận thức về đổi mới còn chậm, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ chưa đáp ứng
kịp với yêu cầu đổi mới. Việc đổi mới phương pháp giảng dạy trong trong đội ngũ
chưa thực sự hiệu quả. Bên cạnh đó phụ huynh thiếu quan tâm, chăm sóc giáo dục
con, chưa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc giáo dục trẻ trong trường
mầm non. Cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ chơi ngoài trời chưa đáp ứng với yêu
cầu đổi mới giáo dục. Diện tích đất ở một số địa phương dành cho trường còn hạn
8



hẹp, chưa đủ theo Điều lệ, một số trường mầm non diện tích sân chơi, sân dành
cho trẻ vận động chưa đáp ứng nhu cầu. Tiến độ xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia
chậm, còn gặp khó khăn do thiếu quỹ đất, thiếu phòng chức năng…
Vì vậy việc nâng cao chất lượng quản lý giáo dục trẻ ở các trường mầm non
nhằm thực hiện tốt chất lượng giáo dục phát triển, tiếp cận đổi mới phương pháp
giáo dục trẻ một cách toàn diện là rất cần thiết.
2. Nội dung thực hiện đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
Huyện Nam Trực nằm ở cửa ngõ phía Nam thành phố Nam Định, phía Bắc
giáp với thành phố Nam Định; phía Đông giáp huyện Vũ Thư (tỉnh Thái Bình) lấy
sông Hồng làm ranh giới; phía Tây giáp với huyện Vụ Bản, huyện Nghĩa Hưng; phía
Nam giáp với huyện Trực Ninh. Huyện có diện tích tự nhiên 161,7 km 2. Dân số
(năm 2013) là 193,18 nghìn người, Mật độ dân số bình quân 1.195 người/km 2 gồm
19 xã và 1 thị trấn. Thị trấn Nam Giang là trung tâm chính trị kinh tế văn hóa của
huyện.
Địa hình Nam Trực rất thuận lợi cho sự phát triển của ngành nông nghiệp.
Phía bắc và phía nam là vùng trũng, thuận lợi cho việc trồng lúa nước, vùng giữa
huyện từ tây sang đông, dọc theo con đường Vàng thuận lợi cho việc phát triển các
loại hoa màu và cây công nghiệp. Vùng đồng bãi chạy dọc theo đê sông Đào dài 15
km phía tây huyện và theo đê sông Hồng 14 km phía đông huyện thuận lợi cho
việc phát triển rau màu và nghề trồng dâu nuôi tằm. Chạy dọc từ bắc xuống nam là
sông Châu Thành cùng với các nhánh sông khác, thuận lợi cho hoạt động sản xuất
nông nghiệp và phát triển giao thông đường thuỷ; sông Hồng, sông Đào là nguồn
cung cấp nước chính phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và dân sinh trên địa bàn
huyện.
Từ Bắc xuống Nam huyện có có quốc lộ 21 dài 13 km ở phía Đông và tỉnh
lộ 490C (đường 55 cũ) dài 15,8 km ở phía tây; từ đông sang tây có 3 tuyến đường
giao thông chạy song song từ đường 21 sang đường 490C gồm các tuyến đường:
9



Đường Vàng, đường Trắng, đường Đen, tạo nên hệ thống giao thông thuỷ bộ liên
hoàn rất thuận lợi cho giao lưu và phát triển kinh tế.
Khí hậu huyện Nam Trực nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều.
Diện tích đất tự nhiên của huyện là 16.171 ha, chiếm 9,79% diện tích đất tự
nhiên toàn tỉnh, gồm: Đất nông nghiệp 11.579 ha, chiếm 71,61%; đất phi nông
nghiệp 4.522 ha, chiếm 27,96% và đất chưa sử dụng 70 ha, chiếm 0,43%.
Huyện có nền tảng phát triển sản xuất công nghiệp -TTCN dựa trên các làng
nghề truyền thống được phát triển từ rất lâu đời. Sản phẩm công nghiệp chủ yếu
của huyện là: Phụ tùng xe đạp, xe máy, sắt thép cán rút, thiết bị điện, nông cụ cầm
tay, đồ kim loại gia dụng, khăn mặt, gạch ngói,... Với bản chất cần cù, khéo léo,
người Nam Trực xưa đã nắm được bí quyết sản xuất trong nhiều nghề, sau này
được lưu truyền và phát triển thành các nghề nổi tiếng như: nghề rèn Vân Chàng
(thị trấn Nam Giang), nghề đúc đồng ở Đồng Quỹ (xã Nam Tiến), nghề làm bánh
kẹo ở Thượng Nông (xã Bình Minh), nghề trồng hoa cây cảnh ở Vị Khê (xã Điền
Xá), nghề làm hoa nhựa ở Báo Đáp (xã Hồng Quang), nghề trồng dâu nuôi tằm ở
xã Nam Thắng, nghề xây dựng nổi tiếng ở Vũ Lao (Tân Thịnh), nghề mộc ở Nam
Cường.
Từ năm 2010 đến nay nền kinh tế của huyện Nam Trực có bước tăng trưởng
khá và luôn giữ ở mức ổn định, cơ cấu kinh tế đang được tiếp tục chuyển dịch theo
hướng tích cực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân là 11-12%/năm. Cơ cấu kinh
tế như sau: Nông nghiệp - thuỷ sản chiếm 21,5 %; Công nghiệp - xây dựng chiếm
56,4% và Ngành dịch vụ chiếm 22,1%.
Từ ngàn xưa, nhân dân Nam Trực đã có truyền thống hiếu học. Trong các
khóa thi do các triều đại phong kiến tổ chức, Nam Trực có 18 người đạt học vị tiến
sỹ (trong khi cả tỉnh có 62 người đỗ tiến sỹ và phó bảng), 3 trong tổng số 5 trạng
nguyên của tỉnh Nam Định là người Nam Trực. Riêng làng Cổ Chử có Trần Văn
Bảo đỗ trạng nguyên, con là Trần Đình Huyên đỗ tiến sỹ. Đặc biệt, ở đời nhà Trần,
Nguyễn Hiền quê ở làng Dương A (xã Nam Thắng) đỗ trạng nguyên khi mới 13

tuổi - trạng nguyên nhỏ tuổi nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam.
10


Người dân Nam Trực yêu quê hương, đất nước, trong các cuộc đấu tranh
chống giặc ngoại xâm đã xuất hiện nhiều tấm gương anh dũng như: Trịnh Thị Cực,
Nguyễn Tấn, Vũ Đình Dung, Đoàn Danh Chẩn, Tú Cao, Vũ Đình Lộc, Đặng Trần
Sửa, Vũ Hữu Lợi, Vũ Văn Báo, Nguyễn Văn Triết, Vũ Ngọc Thuỵ...
Trải dài theo lịch sử, người dân Nam Trực đã đóng góp cho đất nước nhiều
hiền tài, những nhà khoa bảng xuất sắc, những trí sỹ cách mạng,... góp phần tô
thắm và làm rạng rỡ lịch sử quê hương. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và
đổi mới đất nước, những người con quê hương Nam Trực đang gắng sức dựng xây,
góp phần không nhỏ thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã
đề ra, xây dựng quê hương Nam Trực ngày càng văn minh, giàu đẹp;
Huyện Nam Trực có các khu điểm tham quan du lịch: Chùa Đại Bi (thị trấn
Nam Giang), đền Gin (xã Nam Dương), đền thờ trạng nguyên Nguyễn Hiền (xã
Nam Thắng), đình Hát (xã Hồng Quang), làng nghề cây cảnh Vị Khê (xã Nam
Điền), làng nghề đúc đồng Đồng Quỹ (xã Nam Tiến);
Lễ hội tiêu biểu: Chợ Viềng Nam Giang, hội chùa Đại Bi, hội đền Gin, hội
đình Hát, hội đền Y Lư, hội đình Tám,... Loại hình nghệ thuật dân gian đặc
sắc: Rối nước làng Rạch (xã Hồng Quang), rối cạn (thị trấn Nam Giang); Đặc
sản: Phở Giao Cù, kẹo lạc Thượng Nông,...
Tài nguyên nhân văn của Nam Trực rất phong phú, chứa đựng những nét
độc đáo, đặc trưng. Cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế, xã hội, các giá trị
nhân văn cũng đang được phục hồi và phát triển, các di tích được bảo vệ tôn tạo,
các sinh hoạt văn hoá truyền thống được khôi phục lại.
Đây là những điều kiện vô cùng quan trọng để huyện phát triển kinh tế, đặc
biệt là phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp năng động, đa dạng để hoà
nhập với xu thế phát triển kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật của tỉnh.
Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa tiếp tục phát triển, an ninh quốc phòng

được giữ vững.

11


2.2. Thực trạng chất lượng quản lý giáo dục tại các trường mầm non
huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định giai đoạn 2016-2020
2.2.1. Về quy mô trường mầm non
Năm học 2015-2016 toàn huyện có 33 trường mầm non/ 20 xã, thị trấn với
399 nhóm lớp và 12590 học sinh. Cụ thể:
- Công lập: Có 103 nhóm nhà trẻ và 256 lớp mẫu giáo, trong đó:
+ Nhà trẻ công lập huy động ra lớp là 2781/7803 trẻ đạt 35.6% dân số độ
tuổi;
+ Mẫu giáo công lập huy động ra lớp là 9046/9714 trẻ đạt 94% dân số độ
tuổi. Trong đó trẻ 5 tuổi ra lớp 2792/2792 đạt 100% diện Phổ cập.
- Tư thục: có 36 nhóm trẻ và 4 lớp mẫu giáo, trong đó:
+ Nhà trẻ tư thục ra lớp: 532/7803 trẻ đạt 6.8% dân số độ tuổi;
+ Mẫu giáo tư thục ra lớp: 231/9714 trẻ đạt 2% dân số độ tuổi. Không có trẻ
5 tuổi ra lớp tư thục.
*Tồn tại: Nam Trực là một huyện nhỏ nhưng số trường mầm non lại nhiều:
33 trường mầm non với 66 khu, trong đó có 12/33 trường có 01 khu đạt 36%, còn
lại 64% các trường có từ 2 khu đến 4 khu nên công tác quản lý, chỉ đạo gặp nhiều
khó khăn.
Tỷ lệ trẻ nhà trẻ ra lớp cả công lập và tư thục mới đạt 42.5%, so với mặt
bằng chung của Tỉnh là thấp (toàn tỉnh có trẻ nhà trẻ ra lớp đạt 46%) do bố mẹ đi
làm ăn xa như đi bán phở nhiều gửi con cho ông bà chăm nên khó huy động trẻ ra
lớp, điều này ảnh hưởng nhiều đến chất lượng quản lý của các nhà trường.
Tư thục có 40 nhóm lớp nhưng mới chỉ có 1 nhóm tư thục của xã Nam
Dương được cấp phép thành lập, còn lại đều chưa được cấp phép do đều không đủ
điều kiện về chất lượng chăm sóc, giáo dục và cơ sở vật chất, trang thiết bị theo

quy định tại Điều lệ trường mầm non nên công tác quản lý giáo dục đối với các
nhóm trẻ tư thục cũng gặp rất nhiều khó khăn.
12


2.2.2. Về chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ:
a.Công tác nuôi dưỡng và chăm sóc bảo vệ sức khoẻ:
Các trường mầm non đã đề ra nhiều biện pháp có hiệu quả để làm tốt công
tác nuôi dưỡng và chăm sóc bảo vệ sức khoẻ cho trẻ; xây dựng kế hoạch cụ thể,
triển khai kịp thời, thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát các hoạt động nuôi
dưỡng, chăm sóc sức khoẻ trẻ; phối hợp với các cơ sở y tế khám sức khoẻ định kỳ
cho 100% trẻ ra lớp; nâng mức ăn của trẻ lên để giảm tỷ lệ suy dịnh dưỡng thể nhẹ
cân và thể thấp còi; tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh trong việc nuôi dưỡng
và chăm sóc sức khoẻ cho trẻ...., cụ thể:
Mức đóng góp nuôi ăn bán trú của trẻ ở 33 trường mầm non là
10.000đ/trẻ/ngày;
Tổng số nhóm, lớp công lập được nuôi ăn là 359, số trẻ được nuôi ăn ở
trường mầm non là 11477 trẻ, trong đó: Nhà trẻ nuôi ăn cho 103 nhóm, số trẻ nuôi
ăn là 2537/2781 trẻ, đạt 91.2% trẻ đến trường; Mẫu giáo nuôi ăn cho 256 lớp, số
trẻ nuôi ăn là 8940/9046 trẻ, đạt 99% trẻ đến lớp.
Lớp 5 tuổi có ăn bán trú 87 lớp, đạt 100% tổng số lớp 5 tuổi. Số trẻ 5 tuổi
ăn bán trú là 2792 trẻ, đạt 100% số trẻ ra lớp.
Trẻ được nuôi theo chế độ 2 bữa chính + 1 bữa phụ ở nhà trẻ và 1 bữa chính
+ 1 bữa phụ ở mẫu giáo.
Trẻ được theo dõi sức khoẻ bằng biểu đồ tăng trưởng, được khám sức khoẻ
định kỳ, uống vitamin A, tiêm chủng phòng bệnh: 11827 trẻ, đạt 100% trẻ đến
trường công lập.
Kết quả theo dõi sức khoẻ trên biểu đồ tăng trưởng trẻ trường công lập tỷ lệ
trẻ suy dinh dưỡng như sau:
Nhà trẻ 2781 trẻ :

Trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân : 62 trẻ, chiếm 2.2%
Trẻ suy dinh dưỡng thể thấp còi : 71 trẻ, chiếm 2.6%
13


Trẻ béo phì: 0
Mẫu giáo 9046 trẻ :
Trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân : 238 trẻ, chiếm 2.6%
Trẻ suy dinh dưỡng thể thấp còi : 273 trẻ, chiếm 3.0%
Trẻ béo phì: 13 chiếm 0.1 %
Các trường mầm non đã chú ý bổ sung đồ dùng vệ sinh cá nhân, đồ dùng vệ
sinh chung, tăng cường vệ sinh môi trường.
Hầu hết trường mầm non cập nhật kịp thời các biện pháp phòng chống dịch
bệnh, thực hiện đúng các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm. Thực hiện các chế
độ ăn phù hợp cho từng độ tuổi trẻ nhà trẻ mẫu giáo, có sự điều chỉnh thay đổi thực
đơn từng mùa, theo tuần, theo tháng. Tăng cường bổ sung, sửa chữa, khắc phục
những vấn đề về cơ sở vật chất khu nuôi ăn do Phòng y tế huyện và Chi cục
VSATTP tư vấn.
Trong năm học các trường thực hiện đúng các chế độ chính sách đối với trẻ
mầm non theo quy định. Hoàn thành hồ sơ miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học
tập cho trẻ mầm non, miễn học phí cho 361 trẻ mẫu giáo, giảm học phí cho 419 trẻ
mẫu giáo, hỗ trợ chi phí học tập cho 346 trẻ mẫu giáo thuộc hộ nghèo, khuyết tật,
mồ côi.
* Tồn tại: Một số trường mầm non sắp xếp các phương tiện chăm sóc trẻ
chưa gọn gàng, đẹp mắt; còn 2 xã Nam Thái và Nam Hải chưa có nguồn nước sạch
sử dụng, một số bếp ăn chưa thực hiện theo quy trình một chiều; Cơ sở vật chất ở
một số nhóm lớp chưa thực sự an toàn trong chăm sóc trẻ; Công trình vệ sinh
nhóm lớp nhiều trường hiện nay chưa thực sự phù hợp và chưa đủ số lượng bồn,
bệt vệ sinh cho trẻ; Thiết bị, dụng cụ của nhà bếp, của phòng y tế ở một số trường
còn thiếu thốn nhiều; Công tác tuyên truyền về các hoạt động chăm sóc ở một số

trường sơ sài và không thường xuyên... Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tài
này chủ yếu là do công tác quản lý giáo dục ở nhiều nhà trường còn hạn chế, chưa
thực sự có chất lượng.
14


b. Về chất lượng thực hiện chương trình
Tổng số trường công lập thực hiện chương trình GDMN mới : 33/33 trường
mầm non
Tổng số nhóm – lớp công lập thực hiện chương trình GDMN là 359 nhóm
lớp, trong đó:
Nhóm trẻ thực hiện chương trình: 103 nhóm công lập học chương trình
GDMN theo độ tuổi trẻ;
Lớp MG thực hiện chương trình 5 tuổi: 87 lớp
Lớp MG thực hiện chương trình 4 tuổi: 86 lớp
Lớp MG thực hiện chương trình 3 tuổi: 83 lớp
Tất cả các trường đều có bổ sung thiết bị nhóm lớp bằng cả hình thức mua
sắm và tự làm, thực hiện tổ chức hội giảng cấp trường và thi đồ dùng thiết bị do cô
và trẻ tự tạo.
Trường thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy: 33/33
Trường ứng dụng công nghệ thông tin cho trẻ sử dụng: 10 trường. Số cháu
được chơi phần mềm vui học trên máy tính là 2193 trẻ .
Cán bộ quản lý và giáo viên nghiên cứu Bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi,
xây dựng được bộ công cụ theo dõi sự phát triển của trẻ, điều chỉnh kế hoạch phù
hợp với tình hình phát triển của trẻ 5 tuổi của lớp, đồng thời tuyên truyền, thống
nhất với gia đình trẻ trong việc chăm sóc- giáo dục trẻ.
Số trường có tổ chức đánh giá trẻ: 33 trường; Số lớp 5 tuổi được đánh giá 87
lớp, số cháu 5 tuổi được đánh giá 2792 trẻ.
Số trường thực hiện lồng ghép GD an toàn giao thông, GD bảo vệ môi
trường, GD sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả, GD trẻ khuyết tật hoà nhập

theo quy định, thực hiện lồng ghép, tích hợp nội dung GD bảo vệ môi trường, tài
nguyên, biển, hải đảo, ứng phó với biến đổi khí hậu và ứng dụng công nghệ thông
tin : 33/33 trường.
15


Nhiều trường đã tích cực nâng cao chất lượng thực hiện chuyên đề phát triển
vận động cho trẻ như tổ chức các hội thi “Ngày hội thể thao của bé”, “Bé khỏe bé
ngoan”..., thi tự làm đồ dùng, đồ chơi phát triển vận động cho trẻ đối với giáo viên.
Tất cả các nhà trường đều cố gắng xây dựng môi trường giáo dục theo
hướng lấy trẻ làm trung tâm của các hoạt động giáo dục trẻ.
Tỷ lệ trẻ đạt kết quả mong đợi của độ tuổi ở các chủ đề đã thực hiện đạt từ
85% trở lên ở cả nhà trẻ và mẫu giáo.
* Tồn tại: Một số giáo viên có trình độ sư phạm đạt chuẩn trở lên nhưng
năng lực thực tế còn hạn chế, chưa đổi mới trong phương pháp giảng dạy. Một số
trường chậm đổi mới trong tạo môi trường học tập cho trẻ, chưa thực sự lấy trẻ làm
trung tâm. Một số trường ít đồ dùng đồ chơi tự làm phát triển vận động cho trẻ,
chưa tạo được môi trường hấp dẫn cho trẻ vận động và vui chơi. Thiết bị giảng dạy
theo quy định tối thiểu của nhiều nhóm lớp còn thiếu, tỷ lệ thiết bị giảng dạy bền
đẹp thấp. Một số lớp có số lượng trẻ/ lớp cao so với quy định nên chất lượng giáo
dục hạn chế. Số lượng phòng chức năng thiếu nên thực hiện ứng dụng công nghệ
thông tin, chương trình KISSMAT, HĐ giáo dục âm nhạc, GD thể chất chưa đạt
hiệu quả cao.
2.2.3. Về đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên:
Hiện nay tổng số cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên là 820 người, trong đó
biên chế: 201 người; hưởng chế độ theo Quyết định 60 của Thủ tướng Chính phủ:
532 người; hợp đồng không thời hạn có bảo hiểm: 11 người; hợp đồng trường chưa
có bảo hiểm: 76 người
Hiệu trưởng: 33; Phó hiệu trưởng: 36; Giáo viên: 750; Nhân viên: 1
Trình độ đào tạo: Trên chuẩn: 494/820 người = 60.2%; đạt chuẩn: 309/820

người = 37.7%; chưa đào tạo: 17/820 người = 2.1%
Số cán bộ quản lý có trình độ trung cấp chính trị là: 20/69 đạt 29%; có 38 đ/c
đang học lớp Trung cấp chính trị.
16


Số cán bộ quản lý đã có chứng chỉ bồi dưỡng quản lý giáo dục là 58/69 đạt
84%.
Trong năm học 2015-2016, Phòng GD&ĐT đã mở 7 lớp bồi dưỡng thường
xuyên cho 69 cán bộ quản lý và 5 lớp cho 66 giáo viên cấp huyện và 100% giáo
viên cấp trường.
Đa số CBQL và giáo viên đều có ý thức tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ để phấn đấu vươn lên. Trong những năm gần đây, ngành
Giáo dục luôn quan tâm và tạo điều kiện để cho cán bộ, giáo viên theo học tại các
trường Đại học, Cao đẳng sư phạm, Trung cấp lý luận chính trị để đạt chuẩn, trên
chuẩn về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ quản lý giáo dục, trình độ chính
trị. Hằng năm, số người được cử đi đào tạo, bồi dưỡng ngày càng tăng, đáp ứng
yêu cầu về điều kiện, tiêu chuẩn của cán bộ, công chức, viên chức và phù hợp với
xu hướng phát triển chung toàn ngành, phát huy truyền thống của một vùng đất
hiếu học của tỉnh Nam Định.
Thời gian gần đây tỉnh cho phép các huyện được tuyển nhiều giáo viên mầm
non hơn nên huyện Nam Trực cũng thu hút được nhiều giáo viên khá và giỏi từ các
trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chính quy về giảng dạy. Năm học 2015-2016
toàn huyện đã tuyển dụng được 80 giáo viên mầm non trong đó có 1 giáo viên có
trình độ Thạc sĩ sư phạm mầm non.
* Tồn tại: So với Điều lệ trường mầm non cán bộ quản lý thiếu 25 người,
giáo viên còn thiếu 90 người, tỷ lệ định biên giáo viên/lớp mới đạt 1,8 nên cường
độ lao động của giáo viên là cao; nhân viên y tế, nhân viên kế toán, nhân viên văn
phòng thiếu nên giáo viên phải kiêm nhiệm nhiều, ảnh hưởng đến chất lượng giáo
dục trẻ, cán bộ quản lý mầm non cũng vất vả hơn cán bộ quản lý ở các bậc học

khác đặc biệt là khó khăn trong công tác quản lý tài chính.
Do đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên được đào tạo từ nhiều nguồn khác
nhau và từng thời điểm khác nhau nên chất lượng không đồng đều. Một bộ phận
giáo viên chưa thực sự cố gắng tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức và năng lực
chuyên môn, chậm đổi mới phương pháp giảng dạy nên hiệu quả công tác chưa
17


cao. Công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ nhà
giáo chưa thật sự thường xuyên và mang lại hiệu quả thiết thực.
Một số giáo viên có năng lực sư phạm ở các trường chưa phát huy được
những điểm mạnh trong thực hiện chương trình giáo dục mầm non. Một bộ phân
giáo viên không tích cực trong việc lập kế hoạch và xây dựng môi trường học tập
theo hướng lấy trẻ làm trung tâm. Đó là do sự nhiệt huyết đối với nghề của giáo
viên chưa cao và do một bộ phận giáo viên không chịu học hỏi, tìm tòi những kiến
thức, kinh nghiệm trong chuyên môn.
Mấy năm gần đây huyện có thêm nhiều các khu công nghiệp thu hút nhiều
công nhân kể cả những người có trình độ Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên
nghiệp trong đó có cả ngành sư phạm, mức lương của công nhân lại cao hơn so với
mức lương của giáo viên hợp đồng lao động trong các nhà trường. Chính vì vậy
các trường mầm non rất khó khăn trong việc hợp đồng giáo viên khi tình trạng giáo
viên đang thiếu nhiều.
2.2.4. Về cơ sở vật chất trường học
Toàn huyện có 359 phòng học, trong đó có 304 phòng học kiên cố và 55
phòng học bán kiên cố, trong đó có 9 phòng học nhờ của trường mầm non Nam
Giang (nhờ nhà chùa).
Hiện nay UBND huyện đã quy hoạch tổng thể cho 19 trường mầm non gồm:
Các công trình xây dựng mới trong năm học:
+ Phòng học xây mới đã đưa vào sử dụng là: 16 phòng (MN Nam Thắng 1;
MN Nam Hoa 4; MN Nam Minh 4, MN Nam Bình 5; MN Nam Thượng 2)

+ Số bếp nuôi xây mới, cải tạo là: 09 bếp (MN Nam Tân 1, MN Nam Thịnh
1, MN Nam Hoa 2, MN Nam Hùng 2, MN Thành 1, MN Nam Đồng 1, MN Nam
Bình 1).
+ Số công trình vệ sinh xây mới, cải tạo: 15 nhà (MN Nam Tân 1; MN Nam
Thắng 2; MN Nam Quang 1; MN Nam An 1; MN Nam Hoa 5; MN Nam Hùng 3;
MN Nam Bình 2)
Thiết bị, đồ dùng, đồ chơi theo TT 02/2010/BGDĐT: lớp 5 tuổi đạt 100%
18


Số trường được nối mạng Internet và có Wibsite: 33 trường
Tổng số máy vi tính toàn huyện là: 104 máy
Các trường làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục, thu hút các nguồn đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất, trường lớp, công trình vệ sinh, nguồn nước sạch, bếp ăn,
trang thiết bị các phòng chức năng
+ Tổng kinh phí đầu tư cho xây dựng, nâng cấp tu sửa cơ sở vật chất là:
15,620 tỷ đồng.
+ Tổng kinh phí đầu tư cho mua sắm trang thiết bị là: 0,944 tỷ đồng.
Số trường chuẩn quốc gia mức độ 1: 17/33 trường mầm non đạt 51.5%
* Tồn tại:
Một số trường còn thiếu quỹ đất so với quy định
So với Điều lệ trường mầm non về số trẻ/nhóm, lớp thì còn một số trường
còn thiếu phòng học do số trẻ /phòng quá đông.
Nhiều trường còn thiếu phòng chức năng, phòng hành chính quản trị theo
quy định của trường chuẩn quốc gia.
Một số trường còn thiếu nhà vệ sinh cho trẻ theo quy định, một số trường đã
có nhà vệ sinh nhưng lại không phù hợp với trẻ.
Một số trường đã chuẩn nhưng phòng học, phòng chức năng, các công trình
vệ sinh xuống cấp nhiều, việc cải tạo còn chậm.
Một số trường các phòng học, phòng chức năng không đảm bảo ánh sáng,

thiếu trang thiết bị.
Một số bếp đã xuống cấp, thiết kế không theo quy trình bếp một chiều.
Thiết bị, đồ dùng, đồ chơi cho các nhóm lớp ở một số trường mặc dù đã có
bổ sung nhưng vẫn còn thiếu đặc biệt là nhóm trẻ.
Sân vườn một số trường đã quy hoạch nhưng bố trì chưa khoa học, thiếu
không gian cho trẻ được vận động, bê tông hóa nhiều; còn một số trường thì sân
chơi chật chội, không rộng rãi cho trẻ được hoạt động và vui chơi, không có vườn
trồng rau, trồng cây, ít bóng mát, thiếu mái che đồ chơi ngoài trời
Tiến độ xây dựng trường chuẩn quốc gia ở một số trường còn chậm.
19


2.3. Đánh giá chung về hạn chế và nguyên nhân
Xét một cách khách quan, so với yêu cầu về đổi mới giáo dục hiện nay, giáo
dục mầm non huyện Nam Trực còn nhiều khó khăn và hạn chế như sau:
- Cơ sở vật chất ở một số trường còn thiếu thốn: phòng học xuống cấp, thiếu
nhiều phòng chức năng, các phòng hành chính quản trị, các công trình phụ trợ,
cảnh quan môi trường chưa phù hợp với trẻ, chưa đẹp mắt...Nguyên nhân là do
kinh phí bổ sung, tu sửa cơ sở vật chất còn hạn hẹp, công tác tham mưu của CBQL
chưa thực sự hiệu quả, công tác tuyên truyền của các trường còn chưa tích cực,
chưa thực sự mang lại hiệu quả, chính quyền địa phương chưa chú trọng, quan tâm
đầu tư cho GDMN.
- Việc huy động trẻ ra lớp, chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ
chưa thật sự đồng đều ở các nhà trường. Nguyên nhân là nhận thức của phụ huynh
đối với mỗi nhà trường là khác nhau, một bộ phận phụ huynh chưa tin tưởng vào
sự chăm sóc, giáo dục của các cô giáo đối với con mình, nghĩ rằng cho con ở nhà
sẽ tốt hơn, có những phụ huynh do kinh tế còn khó khăn, không có tiền đóng góp
cho con nên không cho con đến lớp; do công tác tuyên truyền của CBQL, giáo viên
một số nhà trường về sự phối hợp với phụ huynh để chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo
dục trẻ chưa tích cực, chưa chặt chẽ; do năng lực của một số giáo viên còn hạn chế,

chưa nhanh nhạy, thiếu sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp tổ chức giáo dục
lấy trẻ làm trung tâm, do năng lực quản lý của CBQL một số nhà trường chưa tốt,
thiếu sự nhạy bén, năng động để đổi mới môi trường giáo dục, nâng cao chất lượng
chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ.
- Đội ngũ CBQL bên cạnh một số đồng chí năng động, sáng tạo, nhiệt huyết
với nghề, với trường cũng còn nhiều đồng chí chưa nhanh nhậy, sáng tạo, chậm
tiến bộ, không có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, ngại tiếp cận với sự
đổi mới. Nguyên nhân là do một số đồng chí tuổi cao, một số đồng chí có trình độ
đào tạo trên chuẩn nhưng năng lực thực tế về công tác quản lý lại yếu kém, trì trệ,
thiếu sự năng động, sáng tạo để đổi mới.
- Một bộ phận giáo viên chưa thực sự cố gắng tu dưỡng, rèn luyện phẩm
chất đạo đức và năng lực chuyên môn, chậm đổi mới phương pháp giảng dạy nên
20


hiệu quả công tác chưa cao. Nguyên nhân là do công tác bồi dưỡng, nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ nhà giáo chưa thật sự thường xuyên và chưa
mang lại hiệu quả thiết thực. Một số giáo viên có năng lực sư phạm ở các trường
chưa phát huy được những điểm mạnh trong thực hiện chương trình giáo dục mầm
non. Một bộ phận giáo viên không tích cực trong việc lập kế hoạch và xây dựng
môi trường học tập theo hướng lấy trẻ làm trung tâm. Đó là do sự nhiệt huyết đối
với nghề của giáo viên chưa cao và do một bộ phận giáo viên không chịu học hỏi,
tìm tòi những kiến thức, kinh nghiệm trong chuyên môn.
2.3. Nội dung cụ thể đề án cần thực hiện:
Nâng cao chất lượng quản lý giáo dục tại 33 trường mầm non huyện Nam
Trực giao đoạn 2016 – 2020, đó là:
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng cho dạy và học, đảm bảo các
điều kiện theo quy định của trường mầm non đạt chuẩn quốc gia
Nâng cao chất lượng thực hiện Chương trình giáo dục mầm non, thực hiện có
hiệu quả việc đổi mới hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ theo quan điểm giáo dục toàn

diện, tích hợp, lấy trẻ làm trung tâm;
Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên mầm non đảm bảo đủ về số
lượng, có chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy trong
GDMN;
Thực hiện hiệu quả đổi mới và nâng cao chất lượng công tác quản lý đảm bảo
phát huy tối đa năng lực đội ngũ, hoàn thành tốt nhiệm vụ các năm học.
2.4. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý giáo dục tại các
trường mầm non huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định giai đoạn 2016-2020.
2.4.1. Tăng cường quản lý về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức,
lối sống cho đội ngũ cán bộ, giáo viên và nhân viên các trường mầm non.
Giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống có tầm quan trọng
đặc biệt, nó là điểm tựa, là tiền để để tiến hành các hoạt động trong các nhà trường.
Nhận thức chính trị của các thành viên trong nhà trường mà chủ yếu là nhận thức
21


về các chủ trương, đường lối của Đảng, nhà nước về chính trị, kinh tế xã hội và đặc
biệt về sự nghiệp giáo dục sẽ tạo ra cách nhìn nhận cũng như cách tiến hành các
hoạt động cụ thể, đồng bộ đúng hướng và có hiệu quả.
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy đảng về công tác giáo dục chính trị
tư tưởng đối với toàn thể cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên trong các nhà
trường nhằm giúp cho cán bộ, giáo viên và nhân viên nắm vững đường lối, chủ
trương, định hướng của Đảng và nhà nước nói chung và đường lối phát triển giáo
dục nói riêng.
Đẩy mạnh thực hiện phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh” gắn với cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là tấm gương tự học, sáng
tạo”, các cuộc vận động và các phong trào thi đua khác.
Giáo dục, định hướng tư tưởng đúng đắn cho cán bộ, giáo viên, nhân viên
quan tâm theo dõi tình hình thời sự địa phương, trong nước và thế giớ, thường
xuyên nêu cao cảnh giác, sẵn sàng đạp tan những âm mưu, thủ đoạn của các thế

lực thù địch.
2.4.2. Tăng cường hiệu quả công tác tuyên truyền
Thực hiện tốt công tác tuyên truyền về các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, Pháp luật của Nhà nước, nhất là các chủ trương, chính sách, Nghị
quyết về giáo dục đến tận mọi người dân. Phấn đấu mỗi cán bộ, giáo viên và nhân
viên các trường mầm non thực sự là một tuyên truyền viên.
Tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04
tháng 11 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục; về công cuộc đổi mới mà ngành giáo dục đang triển khai.
Kết hợp với trường tiểu học, trường THCS trên địa bàn tổ chức tốt cuộc họp
phụ huynh đầu năm để tuyên truyền cho phụ huynh, nhân dân hiểu rõ về công tác
PCGD, nội dung chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ; phương pháp nuôi dạy trẻ
theo khoa học
Tuyên truyền đến cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, cán bộ, giáo viên
và nhân dân về Đề án.
22


2.4.3. Bổ sung, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học
2.4.3.1. Giải pháp về công tác quy hoạch, tạo quỹ đất
* Quy hoạch:
- Hoàn thành Quy hoạch hệ thống các trường Mầm non trên địa bàn.
- Quy hoạch vị trí, diện tích các trường học tại từng xã, thị trấn.
- Quy hoạch mặt bằng chi tiết mỗi nhà trường theo tiêu chí chuẩn quốc gia.
- Việc quy hoạch vị trí, diện tích và quy hoạch mặt bằng chi tiết tất cả các
trường học trên địa bàn huyện, thời gian hoàn thành trong năm 2016.
*Quỹ đất:
- Tạo quỹ đất để đầu tư xây dựng cơ sở trường lớp theo quy hoạch mặt bằng
chi tiết đã phê duyệt
- Bổ sung diện tích cho các trường còn thiếu diện tích mặt bằng theo quy

định chuẩn;
- Tạo quỹ đất cho các trường chưa có mặt bằng do di chuyển vị trí mới.
- Việc rà soát, điều chỉnh bổ sung quy hoạch, xây dựng kế hoạch sử dụng đất
giai đoạn 2016-2020 phải đảm bảo nhu cầu về đất cho xây dựng các trường học
theo tiêu chí chuẩn quốc gia.
Trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thực hiện việc tạo quỹ đất cho
các trường học, phấn đấu hết năm 2017 tất cả các trường học có đủ diện tích đất
theo yêu cầu.
Các cơ sở giáo dục cần xây dựng và phê duyệt quy hoạch mặt bằng tổng thể
khuôn viên nhà trường, đảm bảo các công trình được đầu tư xây dựng đúng quy
hoạch, tránh việc đầu tư manh mún, chắp vá, không đồng bộ, không đạt chuẩn.
2.4.3.2. Giải pháp huy động và sử dụng nguồn lực
- Huy động các nguồn lực để thực hiện tăng cường cơ sở vật chất trường lớp,
mua sắm các trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi theo yêu cầu

23


- Ưu tiên nguồn ngân sách đầu tư của cấp huyện, xã cho xây dựng trường
lớp, tranh thủ các chương trình mục tiêu của Trung ương, Tỉnh ....
- Thực hiện tích cực các biện pháp để tạo nguồn đầu tư từ ngân sách: tăng
thu tiền cấp quyền sử dụng đất thông qua việc đấu giá quyền sử dụng đất, xử lý các
trường hợp vi phạm đất đai đủ điều kiện cấp quyền sử dụng đất theo Hướng dẫn
42, Hướng dẫn 1456 của sở Tài nguyên Môi trường, tiết kiệm chi thường xuyên
- Tích cực vận động, thu hút các nguồn kinh phí đầu tư từ các chương trình,
dự án; tranh thủ tối đa các nguồn tài trợ và các nguồn hợp pháp khác.
- Tích cực huy động xã hội hóa giáo dục: Huy động vốn đóng góp của tổ
chức, cá nhân để đầu tư xây dựng bảo dưỡng công trình kết cấu hạ tầng giáo dục
theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Công khai, minh bạch trong
huy động đầu tư xã hội hóa giáo dục từ cán bộ, giáo viên, nhân viên, phụ huynh

học sinh và các tổ chức, cá nhân, tạo niềm tin trong xã hội.
2.4.3.3. Giải pháp về tăng cường công tác quản lý nhà nước về xây dựng cơ
sở hạ tầng giáo dục
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước trong công tác tham mưu chủ
trương đầu tư, đảm bảo việc đầu tư đúng định hướng, đúng địa chỉ.
- Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra việc quản lý chất lượng
các công trình xây dựng.
- Xây dựng và ban hành các quy định về phân công, phân cấp quản lý các
công trình giáo dục phù hợp với đặc thù của ngành trên địa bàn huyện.
2.4.3.4. Làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, tạo sự đồng thuận trong xã
hội để mọi người dân ủng hộ và chia sẻ trách nhiệm với nhà nước trong đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng nói chung và của ngành giáo dục nói riêng.

24


2.4.4. Phát triển đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục
Tiến hành rà soát, đánh giá, thực hiện bổ nhiệm, bổ nhiệm lại đội ngũ cán bộ
quản lý đảm bảo yêu cầu chuẩn Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, thực hiện hiệu quả
đổi mới công tác quản lý. Dự kiến trong giai đoạn 2016-2020 bổ sung đủ 25 cán bộ
quản lý còn thiếu và thay thế 10 cán bộ quản lý do nghỉ chế độ.
Rà soát đội ngũ giáo viên để có kế hoạch tham mưu với UBND huyện tuyển
dụng thêm giáo viên mầm non. Dự kiến bổ sung thêm 90 giáo viên trong năm 2017
đảm bảo tương đối đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và chuẩn về trình độ. Phấn
đấu đến 2020 có 100% giáo viên có trình độ đạt chuẩn trở lên, trong đó có ít nhất
80% giáo viên có trình độ trên chuẩn, ít nhất 85% giáo viên được đánh giá, xếp
loại theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non từ loại khá trở lên. Tiếp tục tham
mưu với UBND huyện cân đối nguồn ngân sách để hợp đồng giáo viên, nhân viên
cho các trường mầm non còn thiếu nhằm đảm bảo đủ 2 giáo viên/lớp, giáo viên

dinh dưỡng đảm bảo 1 cô/65 trẻ mẫu giáo và 55 trẻ nhà trẻ. Tham mưu với UBND
huyện để điều động nhân viên Y tế của các trường Tiểu học sang kiêm nhiệm làm
nhân viên Y tế cho các trường mầm non trong cùng xã, thị trấn. Tham mưu với
UBND huyện có kế hoạch bổ sung nhân viên Kế toán cho các trường mầm non.
Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, mời giảng viên tham gia giảng dạy,
dành kinh phí thỏa đáng cho công tác đào tạo bồi dưỡng CBQL hàng năm. Tổ chức
cho CBQL được đi tham quan học tập, nghiên cứu thực tế để cập nhật kiến thức ở
trong tỉnh, ngoài tỉnh. Nội dung đào tạo, bổi dưỡng phải gắn liền với hoạt động
thực tiễn của CBQL.
Thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ, tiến hành đào tạo, bồi dưỡng về lý
luận chính trị, nghiệp vụ quản lý cho lực lượng kế cận trước khi bổ nhiệm.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra CBQL giáo dục của các cấp quản lý
và hoàn thiện chế độ chính sách đối với CBQL.

25


×