Tải bản đầy đủ (.doc) (156 trang)

LUAN văn tác động của chính sách tiền tệ đối với kiểm soát lạm phát ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (906.61 KB, 156 trang )

A.
1.

PHẦN MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài
Ngày nay, chính sách tiền tệ ngày càng khẳng định được tầm quan trọng

của nó đối với nền kinh tế. Như chúng ta đã biết, chính sách tiền tệ là một công cụ
chủ yếu để giải quyết các vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng, lạm phát.
Từ thực tế cho thấy, đứng trước thực trạng lạm phát các năm gần đây đã
có rất nhiều biến động. Cụ thể là năm 2008, tình hình lạm phát đã diễn ra rất cao.
Chính vì thế, nước ta đã chuyển mục tiêu tăng trưởng kinh tế sang chính sách ưu
tiên kiềm chế lạm phát. Từ đó lạm phát đã có xu hướng giảm dần và kinh tế vĩ mô
có dấu hiệu ổn định hơn. Như vậy, việc kiểm soát hợp lý tình hình lạm phát của
một nền kinh tế là vô cùng quan trọng. Thực trạng khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế thế giới đã tác động tiêu cực đến kinh tế nước ta trong năm 2009. Tuy
nhiên, việc thực hiện kịp thời các giải pháp kinh tế, nền kinh tế nước ta đã vượt qua
khủng hoảng, duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức cao (5,32%), kiểm soát lạm phát ở
mức thấp (6,52%), các cân đối kinh tế lớn về cơ bản được giữ vững, hệ thống tài
chính ngân hàng duy trì và tiếp tục phát triển. Kết quả này có sự đóng góp tích cực
của việc thực thi chính sách tài khoá mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng, thận
trọng. Trong năm 2010 và những năm tiếp theo, thời kỳ hậu suy giảm kinh tế, kinh
tế nước ta tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức do diễn biến phức tạp
của kinh tế thế giới và trong nước, việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp chính
sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm có ý nghĩa quan trọng và rất cần thiết.
Cho nên, việc điều chỉnh chính sách tiền tệ cho phù hợp với nhu cầu của
nền kinh tế là một vấn đề thiết yếu. Cho nên, Việt Nam xác định mục tiêu tang
trưởng kinh tế và công bằng xã hội là cần phải có những giải pháp để điều chỉnh và
xây dựng chính sách tiền tệ của đất nước một cách có hiệu quả. Vấn đề này thực sự
là một vấn đề khó khăn đối với tất cả các nước trên thế giới nói chung và đối với


Việt Nam nói riêng.


Xuất phát từ quá trình học tập lý thuyết và thực tế, tác giả chọn đề tài:
“Tác động của chính sách tiền tệ đối với kiểm soát lạm phát ở Việt Nam” làm luận
văn tốt nghiệp thạc sĩ.
2.

Tình hình nghiên cứu liên quan
Hiện nay, đã có rất nhiều nghiên cứu về tác động của chính sách tiền tệ

đối với kiểm soát lạm phát ở Việt Nam và thế giới như:
-

Tác động của chính sách tỷ giá đến lạm phát ở Việt Nam. Tác giả:

Thạc sỹ Nguyễn Thị Thái Hưng
-

Giải pháp cho chính sách tiền tệ và chính sách tài chính ở Việt Nam

năm 2013 của PGS.TS Nguyễn Thị Nhung và ThS Phan Diên Vỹ
-

Xây dựng quy tắc cho chính sách tiền tệ Việt Nam của Đào Thanh

Trường, Nguyễn Quang Tú và Mai Nguyệt Ánh.
-

The Role of monetary Policy của Milton Friedman.


3.

Giới hạn và phạm vi nghiên cứu

-

Về không gian đề tài được nghiên cứu trong phạm vi của Việt Nam.

-

Về thời gian nghiên cứu từ năm 2007 đến 2013.

4.

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

-

Làm rõ lý luận của chính sách tiền tệ.

-

Làm rõ thực trạng tác động của chính sách tiền tệ trong vấn đề kiểm

soát lạm phát ở Việt Nam từ 2007 đến 2013.
-

Đưa ra các giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát ở Việt Nam thông qua


tác động của chính sách tiền tệ tại quốc gia này.

5.

Đóng góp mới của đề tài
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về tác động của chính sách tiền tệ đối

với kiểm soát lạm phát ở Việt Nam nhưng kết quả thực hiện còn chưa cao. Chính
sách tiền tệ luôn luôn cần thay đổi để phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, để khắc phục


những hạn chế của chính sách tiền tệ, tác giả xin đưa ra một số giải pháp để khắc
phục như: nâng cao tính độc lập và triển vọng của ngân hang Nhà nước, đẩy mạnh
phát triển chính sách tiền tệ.
6.

Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp lý luận, phương pháp duy vật biện chứn,

phương pháp logic lịch sử. Phương pháp phân tích và tổng hợp vấn đề. Phương
pháp thu thập và xử lý thông tin. Phương pháp bình luận và đánh giá vấn đề.
7.

Kết cấu nội dung cần nghiên cứu

Chương 1. Cơ sở lý luận, thực tiễn của chính sách tiền tệ và tác động của nó
đối với kiểm soát lạm phát.
Chương 2. Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ đối với vấn đề kiểm soát
lạm phát ở Việt Nam từ 2007 đến 2013.
Chương 3. Giải pháp của chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát ở Việt

Nam từ 2015 đến 2020.


CHƯƠNG 1
Cơ sở lý luận, thực tiễn của chính sách tiền tệ và tác động của nó đối với
kiểm soát lạm phát
1.1.

Tổng quan về chính sách tiền tệ

1.1.1. Khái niệm về chính sách tiền tệ và vai trò của chính sách tiền tệ
Khái niệm về chính sách tiền tệ:
Chính sách tiền tệ là quá trình quản lý cung tiền của cơ quan quản lý tiền tệ
(có thể là ngân hàng trung ương), thường là hướng tới một lãi suất mong muốn để
đạt được những mục đích ổn định và tăng trưởng kinh tế như kiềm chế lạm phát,
duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh
tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định,
có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui định
mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối.
Vai trò của chính sách tiền tệ:
Kinh tế thị trường thực chất là một nền kinh tế tiền tệ. Trong đó, chính sách
tiền tệ bao giờ cũng là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng
nhất của nhà nước, bên cạnh chính sách tài khóa, chính sách phân phối thu nhập,
chính sách kinh tế đối ngoại.
Ngân hàng trung ương sử dụng chính sách tiền tệ nhằm gây ra sự mở rộng
hay thắt chặt lại trong cung ứng tiền tệ, để ổn định giá trị đồng tiền, đưa sản lượng
và việc làm của quốc gia đến mức mong muốn.
Trong một quãng thời gian nhất định nào đó, chính sách tiền tệ của một quốc
gia có thể được hoạch định theo một trong hai hướng sau đây:
Một là, chính sách tiền tệ mở rộng nhằm tăng lượng tiền cung ứng, khuyến

khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo việc làm. Trường hợp này chính
sách tiền tệ nhằm chống suy thoái kinh tế, chống thất nghiệp.


Hai là, chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm lượng tiền cung ứng, hạn chế
đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá đà của một nền kinh tế. Trường hợp này, chính
sách tiền tệ nhằm chống lạm phát.
Chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản, chủ yếu nhất của Ngân hàng trung
ương. Có thể coi chính sách tiền tệ là linh hồn, xuyên suốt trong mọi hoạt động của
Ngân hàng trung ương. Các hoạt động khác của Ngân hàng trung ương đều nhằm
mục đích thực thi chính sách tiền tệ đạt được các mục tiêu đó.
Chính sách tiền tệ, một mặt là cung cấp đủ phương tiện thanh toán cho nền
kinh tế (lượng tiền cung ứng), mặt khác phải giữ ổn định giá trị đồng tiền trong
nước. Để thực hiện được điều đó, thông thường trên thế giới, việc xây dựng và
thực hiện chính sách tiền tệ được giao cho Ngân hàng trung ương. Có một số nước,
việc xây dựng chính sách tiền tệ vẫn là Ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, trong
lĩnh vực này, Ngân hàng trung ương cần được độc lập ở một mức độ nhất định với
chính phủ.
1.1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
1.1.2.1.

Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ

Trong điều kiện lưu thông tiền vàng hay tiền giấy tự do đổi ra vàng, thì giá
trị tiền tệ luôn luôn được ổn định, do cơ chế tự phát của tiền vàng.
Trong điều kiện lưu thông tiền giấy không được tự do chuyển đổi ra vàng,
lạm phát luôn là khả năng tiềm tang., thậm chí khó tránh khỏi ở các nước. Lúc này
với chức năng của mình, Ngân hàng trung ương luôn coi việc kiểm soát lạm phát,
ổn định giá cả đồng tiền là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ. Ổn định giá cả
là điều ai cũng mong muốn. Bởi vì, giá cả tăng lên gây tình trạng khó khăn trong

cuộc sống của một bộ phận người lao động, mất ổn định nền kinh tế - xã hội. Tình
trạng đó gây khó khăn trong việc hoạch định các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội,
gây ra sự xung đột quyền lợi giữa một số nhóm dân cư. Do vậy, kiểm soát lạm phát
nhằm ổn định giá cả hàng hóa và dịch vụ là tiền đề cho việc phát triển kinh tế lâu
bền, bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động.


Thông qua chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ương có thể góp phần quan
trọng vào việc kiểm soát lạm phát. Nếu chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung
ương nhằm mở rộng cung ứng tiền tê thì giá cả hàng hóa và dịch vụ sẽ tăng lên, tất
yếu sẽ dẫn đến tình trạng lạm phát. Ngược lại, chính sách tiền tệ Ngân hàng trung
ương nhằm thắt chặt cung ứng tiền tệ thì sẽ làm cho giá cả của hàng hóa và dịch vụ
giảm xuống, như vậy tỷ lệ lạm phát giảm xuống. Kiểm soát lạm phát được biểu
hiện trược hết ở chỗ ổn định giá trị đối nội của đồng tiền, tức là sực mua của nó đối
với hàng hóa và dịch vụ trên thị trường trong nước. Mặt khác, nó được biểu hiện sự
ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền, được đo bằng tỷ giá hối đoái thả nổi. Trong
nền kinh tế mở, cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế, tỷ giá đồng tiền trở
thành mối qua tâm của các quốc gia. Bởi vì, một sự tăng lên trong giá trị đồng bản
tệ so với ngoại tệ sẽ hạn chế cạnh tranh trên thị trường quốc tế, hạn chế xuất khẩu.
Ngược lại, giá trị đồng bản tệ giảm xuống so với ngoại tệ sẽ khuyến khích xuất
khẩu, hạn chế nhập khẩu.
Giá trị đối nội và giá trị đối ngoại của đồng tiền có quan hệ mật thiết với
nhau. Muốn ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế - xã hội, nhà nước phải có biện
pháp ổn định giá trị hàng hóa và dịch vụ trong nước và ổn định tỷ giá hối đoái.
Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền cũng không đồng
nghĩa với việc tỷ lệ lạm phát bằng không. Bởi vì, trong thực tế để có một tỷ lệ lạm
phát giảm xuống thì thường phải chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp gia tăng nhất định
nào đó. Trong các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, không thể có được một
sự ổn định giá trị đồng tiền, khi nền kinh tế đang có một tỷ lệ lạm phát vừa đủ
(thường một con số mỗi năm) là cần thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhưng

cần phải chống lạm phát phi mã (hai con số mỗi năm) và siêu lạm phát (trên hai
con số mỗi năm).
1.1.2.2.

Tạo việc làm

Việc làm cho người lao động là một vấn đề quan trọng đối với bất cứ quốc
gia nào trên thế giới. Bởi vì hai nguyên nhân sau:


Một là, nếu thất nghiệp cao sẽ làm cho gia đình của họ bị khó khăn về tài
chính, làm mất đi long tự trọng cá nhân và là một trong những nguyên nhân làm
tăng thêm tội ác.
Hai là, thất nghiệp tăng, nền kinh tế không chỉ tăng thêm những người lao
động ngồi không, mà còn tăng thêm những nguồn tài nguyên để không như nhà
máy, thiết bị… và làm cho tổng sản phẩm quốc dân (GDP) giảm xuống.
Rõ ràng công ăn việc làm cao là điều ai cũng mong muốn. Thông qua chính
sách tiền tệ có thể tác động đến công ăn việc làm, tức là đến tỷ lệ thất nghiệp trong
nền kinh tế. Nếu chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương nhằm mở rộng cung
ứng tiền tệ thì tạo điều kiện mở rộng đầu tư sản xuất, các doanh nghiệp và nền kinh
tế cần nhiều lao động hơn, công ăn việc làm cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp. Ngược lại
cung ứng tiền tệ giảm xuống sẽ thu hẹp các hoạt động sản xuất kinh doanh, các
doanh nghiệp và nhà nước cần ít lao động hơn, công ăn việc làm giảm, tỷ lệ thất
nghiệp tăng.
Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu công ăn việc làm cao không đồng nghĩa với tỷ
lệ thất nghiệp bằng không, mà ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Bởi vì, trong thực
tế có một số người thất nghiệp là có lợi cho nền kinh tế. Đó là khi người lao động
quyết định đi tìm một công việc khác tốt hơn, phù hợp hơn, thì người lao động đó
bị thất nghiệp trong thời gian đang tìm việc làm. Hoặc một số người lao động tự
nguyện rời bỏ công việc của mình để theo đuổi các hoạt động khác như học tập, du

lịch… và khi họ quyết định gia nhập trở lại thị trường lao động, họ phải mất một
thời gian để tìm đúng công việc mà họ mong muốn. Mặt khác, thông thường để có
một tỷ lệ công ăn việc làm cao thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát gia tăng nhất
định nào đó. Hai mục tiêu này luôn triệt tiêu nhau trong quá trình thực thi chính
sách tiền tệ.
1.1.2.3.

Tăng trưởng kinh tế

Mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn gắn với mục tiêu việc làm cao. Chính sách
tiền tệ có thể tác động đồng thời đến hai mục tiêu này. Khi cung ứng tiền tệ tăng


lên, trong ngắn hạn lãi suất tín dụng giảm sẽ khuyến khích đầu tư, mở rộng sản
xuất kinh doanh, nhà nước và doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng lao động nhiều
hơn, làm tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi cung tiền tệ giảm,
trong ngắn hạn lãi suất tăng sẽ hạn chế đầu tư, thu hẹp hoạt động sản xuất kinh
doanh, nhà nước và doanh nghiệp cần ít lao động hơn, làm cho mức sản lượng
giảm, tăng trưởng kinh tế chậm lại.
1.1.2.4.

Quan hệ giữa các mục tiêu

Nhìn tổng quát và các chiến lược lâu dài thì các mục tiêu chính sách tiền tệ
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Điều đó cho thấy
rằng, trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ không thể tuyệt đối hóa một mục
tiêu nào, không thể giải quyết các mục tiêu một cách độc lập trên tầm vĩ mô. Tuy
nhiên, có nơi có lục, trong thời gian ngắn có thể xảy ra sự xung đột, thậm chí triệt
tiêu lẫn nhau giữa các mục tiêu. Điều thường gặp và dễ thấy nhất là sự mâu thuẫn
giữa tỷ lệ lạm phát với tỷ lệ thất nghiệp. Tuy vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau,

song nhìn chung, mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng bản
tệ, trên cơ sở đó để ổn định và phát triển kinh tê - xã hội.
Từ thực tiễn các nước phát triển theo cơ chế thị trường cho thấy, vận hành
chính sách tiền tệ, để đạt được các mục tiêu của nó cần có sự phối hợp với các
chính sách vĩ mô khác.
Trước hết, phải phối hợp với chính sách tài khóa trong quá trình thực thi
chính sách tiền tệ. Bởi vì, mục tiêu của chính sách tài khóa là nhằm điều chính thu
nhập và chi tiêu của chính phủ, hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và sử dụng
nhân lực ở mức tiềm năng.. Nhưng điều đó còn phụ thuộc vào tình hình thu chi của
ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước vững vàng là cơ sở quan trọng bậc nhất
cho giá trị đồng bản tệ được ổn định. Ngược lại, sự thiếu hụt ngân sách nhà nước,
bất kể được bù đắp bằng con đường nào (vay Ngân hàng trung ương, vay các tổ
chức, cá nhân trong nước, vay nước ngoài) đều trực tiếp hoặc gián tiếp làm cho giá
trị đồng tiền mất ổn định.


Thông thường, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ đều phát huy tác
dụng thông qua ảnh hưởng của nó đối với tổng cầu. Trong khi đó, theo cơ chế thị
trường thì tiền lương và giá cả lại được quyết định bởi các yếu tố của thị trường.
Trong thực tế, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ có thể làm tăng nhu cầu,
giảm thất nghiệp, nhưng sẽ gia tăng lạm phát. Giải quyết mâu thuẫn này, cần có sự
phối hợp chặt chẽ với chính sách phân phối thu nhập trong quá trình thực thi chính
sách tiền tệ. Trong trường hợp này, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước
phải thể hiện sự kiểm soát chặt chẽ về tiền lương, tiền thưởng và giá cả.
Đối với các nước kém phát triển và đang phát triển, thường bội chi ngân
sách nhà nước lớn và kéo dài, cán cân thanh toán thâm hút, tăng trưởng kinh tế
chưa cao… Ở đó đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ chính sách đối ngoại trong
quá trình thực thi chính sách tiền tệ. Đó phải là một chính sách kinh tế mở, hướng
xuất khẩu, mặt khác phải tranh thủ tối đa trình độ công nghệ, khoa học kỹ thuật và
mọi nguồn vốn từ bên ngoài. Trong đó, đặc biệt là quan hệ với các tổ chức kinh tế,

tài chính quốc tế, như Ngân hàng thế giới, quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng phát triển
Châu Á…
1.1.3. Công cụ của chính sách tiền tệ
1.1.3.1.

Nghiệp vụ thị trường mở

Nghiệp vụ thị trường mở là việc Ngân hàng trung ương mua và bán chứng
khoán có giá, mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc Nhà nước, nhằm làm thay đổi lượng
tiền cung ứng. Sở dĩ Ngân hàng trung ương tiến hành đại bộ phận nghiệp vụ thị
trường tự do của mình với tín phiếu kho bạc nhà nước là vì thị trường tín phiếu kho
bạc nhà nước có dung lượng lớn, tính lỏng cao, rủi ro thấp.
Ngân hàng trung ương mua bán chứng khoán trên thị trường sẽ làm thay đổi
cơ số tiền tệ (tiền đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng và tiền dự trữ trong hệ
thống ngân hàng). Đó là nguồn gốc chính gây nên sự biến động trong cung ứng
tiền tệ.


Khi Ngân hàng trung ương mua chứng khoán, làm tăng cơ số tiền tệ, qua đó
làm tăng lượng tiền cung ứng.
Khi Ngân hàng trung ương bán chứng khoán, thu hẹp cơ số tiền tệ, qua đó
làm giảm lượng tiền cung ứng.
Thị trường mở là công cụ quan trọng nhất của Ngân hàng trung ương trong
việc điều tiết lượng tiền cung ứng, bởi những ưu thế vốn có của nó như:
Một là, Ngân hàng trung ương có thể kiểm soát được hoàn toàn lượng
nghiệp vụ thị trường tự do.
Hai là, linh hoạt và chính xác có thể được sử dụng ở bất cứ mức độ nào, điều
chỉnh một lượng tiền cung ứng lớn hay nhỏ.
Ba là, Ngân hàng trung ương dễ dàng đảo ngược lại tình thế của mình.
Bốn là, thực hiện nhanh chóng, ít tốn kém về chi phí và thời gian.

1.1.3.2.

Chính sách chiết khấu

Chính sách chiết khấu là công cụ của Ngân hàng trung ương trong việc thực
thi chính sách tiền tệ, bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng kinh
doanh. Khi ngân hàng trung ương cho vay các ngân hàng kinh doanh, làm tăng
thêm tiền dự trữ cho hệ thống ngân hàng, từ đó làm tăng thêm lượng tiền cung ứng.
Ngân hàng trung ương kiểm soát công cụ này chủ yếu bằng cách tác động
đến giá cả khoản vay (lãi suất cho vay tái chiết khấu).
Khi Ngân hàng trung ương nâng lãi suất tái chiết khấu tức làm cho giá của
các khoản vay tăng, hạn chế cho vay các ngân hàng kinh doanh, làm cho khả năng
cho vay đối với nền kinh tế của các ngân hàng kinh doanh giảm xuống, lượng tiền
cung ứng giảm.
Ngược lại, khi Ngân hàng trung ương giảm lãi suất cho vay tái chiết khẩu,
giá của khoản vay rẻ hơn, khuyến khích cho vay các ngân hàng kinh doanh, làm
cho khả năng cho vay của các ngân hàng kinh doanh đối với nền kinh tế tăng lên,
lượng tiền cung ứng tăng lên.


Những khoản cho vay tái chiết khấu của ngân hàng trung ương đối với các
ngân hàng thương mại được gọi là cửa sổ chiết khấu bằng nhiều cách để khoản vốn
cho vay của mình khỏi bị sử dụng không đúng và hạn chế việc vay đó. Các ngân
hàng đến vay chiết khấu ở ngân hàng trung ương thường phải chịu ba khoản chi
phí: lợi tức chiết khấu, phí về việc phải làm đúng theo các điều tra của ngân hàng
trung ương về khả năng thanh toán của ngân hàng khi đến vay tại cửa sổ chiết
khấu, phí về việc rất có thể bị ngân hàng trung ương theo đuổi một số chính sách
thắt chặt tiền tệ nhằm chống lạm phát.
Ngoài việc sử dụng làm một công cụ để ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ và cung
ứng tiền tệ, chính sách chiết khấu còn quan trọng ở chỗ nhằm tránh khỏi những

cơn hoảng loạn tài chính cho các ngân hàng thương mại.
Bởi vì, tiền dự trữ bắt buộc được lập tức điều đến các ngân hàng nào cần
thêm dự trữ hơn cả. Ngân hàng trung ương sử dụng công cụ chiết khấu để tránh
những cơn sụp đổ của tài chính bằng cách thực hiện vai trò người cho vay cuối
cùng là một yêu cầu cực kỳ quan trọng để tiến hành chính sách tiền tệ thành công.
Ví dụ ngân hàng dự trữ liên bang Hoa Kỳ cho vay chiết khấu đối với ngân hàng
Franklin National tháng 5 năm 1974, với số tiền 1,75 tỷ đô la (khoảng 5 % tổng số
dự trữ trong hệ thống ngân hàng) đã tránh cho ngân hàng này khỏi sụp đổ. Hay
ngân hàng dự trữ liên bang Hoa Kỳ cho vay chiết khấu đối với ngân hàng
Continental Illiois năm 1984, với số tiền trên 5 tỷ đô la, đã ngăn chặn sự sụp đổ
của ngân hàng này.
Chính sách chiết khấu là một công cụ rất quan trọng trong việc thực thi
chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương. Nó không chỉ điều tiết lượng tiền
cung ứng, mà còn thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng đối với các tổ chức tín
dụng và tác động đến điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế.
Tuy nhiên, với công cụ này, Ngân hàng trung ương bị động trong việc điều
tiết lượng tiền cung ứng. Bởi vì, Ngân hàng trung ương chỉ có thể thay đổi lãi suất


chiết khấu nhưng không thể bắt buộc các ngân hàng thương mại phải vay chiết
khấu ở Ngân hàng trung ương.
1.1.3.3.

Dự trữ bắt buộc

Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải giữ lại, mà không
được dùng để cho vay hoặc đầu tư, mức dự trữ này do Ngân hàng trung ương quy
định và bằng một tỷ lệ nhất định so với tổng sổ tiền gửu của khách hàng tại các tổ
chức tín dụng. Chế độ dự trữ bắt buộc ở các nước khác nhau, ở các thời kỳ khác
nhau thì có thể khác nhau. Nhưng nhìn chung, dự trữ bắt buộc đều mang tính pháp

luật, được giữ ở Ngân hàng trung ương và không được hưởng lãi suất.
Ngân hàng trung ương sử dụng dự trữ bắt buộc để tác động đến lượng tiền
cung ứng trên hai phương diện:
Thứ nhất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các ngân
hàng thương mại. Theo thuyết tạo tiền, từ một lượng tiền dự trữ ban đầu, hệ thống
ngân hàng thương mại có thể tạo ra một lượng tiền gửi lớn gấp nhiều lần, với công
thức tổng quát:
Tiền gửi mới tạo ra = Tiền dự trữ ban đầu x (1/tỷ lệ dự trữ bắt buộc)
Trong đó, (1/tỷ lệ dự trữ bắt buộc) là hệ số nhân tiền, với hai giả thiết:
Các ngân hàng thương mại không có tiền dự trữ dư thừa so với tỷ lệ dự trữ
bắt buộc mà Ngân hàng trung ương yêu cầu.
Các khoản tiền gửi do các ngân hàng thương mại tạo ra đều được dữ lại
trong hệ thống ngân hàng.
Do vậy, nếu Ngân hàng trung ương quyết định tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ
bắt buộc sẽ làm cho hệ số tạo tiền thu hẹp hoặc tăng lên. Ví dụ, nếu tỷ lệ dự trữ bắt
buộc là 10% thì với một lượng tiền dự trữ gấp 10 lần. Tương tự như vậy, nếu tỷ lệ
dự trữ bắt buộc tăng lên 20% thì lượng tiền gửu mới do hệ thống ngân hàng thương
mại tạo ra tăng 5 lần; nếu dự trữ bắt buộc giảm xuống 5% thì lượng tiền gửi mới do
hệ thống ngân hàng thương mại tạo ra tăng 20 lần.


Thứ hai, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến lãi suất cho vay của hệ thống
ngân hàng thương mại. Như đã nói ở trên, tiền dự trữ bắt buộc đều phải mở tài
khoản và gửi ở Ngân hàng trung ương và không được hưởng lãi, cho dù các Ngân
hàng thương mại vẫn phải trả lợi tức cho các khoản tiền gửi ở ngân hàng mình. Vì
vây, khi mức dự trữ tăng lên, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải tăng lãi suất
cho vay đối với nền kinh tế, giá các tài khoản vay đắt hơn, khả năng cho vay các
ngân hàng thương mại giảm xuống và theo đó lượng tiền cung ứng cũng giảm
xuống. Ngược lại, khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm xuống, các ngân hàng thương mại
có cơ hội giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, giá các khoản vay rẻ hơn, tăng

khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại và theo đó lượng tiền cung ứng
tăng lên.
Hiện nay, công cụ dự trữ bắt buộc đóng vai trò kém phần quan trọng trong
quá trình thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương, bởi nó phức tạp,
kém linh hoạt, ảnh hưởng đến lợi nhuận các ngân hàng kinh doanh.
Ba công cụ trên đây của chính sách tiền tệ thường được các nước phát triển
theo cơ chế thị trường sử dụng có hiệu quả. Ở các nước chưa phát triển, khi các
công cụ chính sách tiền tệ trên đây sử dụng còn nhiều hạn chế thì trong quá trình
thực thi chính sách tiền tệ, các nước đó có thể sử dụng một số công cụ hỗ trợ khác
như: kiểm soát hạn mức tín dụng, kiểm soát lãi suất của các ngân hàng thương
mại.
1.1.3.4.

Kiểm soát hạn mức tín dụng

Hạn mức tín dụng được xác định trên cơ sở chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và
chỉ tiêu lạm phát dự kiến hàng năm, ngoài ra còn dựa vào một số tín hiệu thị
trường khác: tỷ lệ thất nghiệp, tỷ giá, thâm hụt ngân sách nhà nước, tốc độ lưu
thông tiền tệ… Trên cơ sở đó, hạn mức tín dụng được phân bổ cho các ngân hàng
thương mại, cho từng thời kỳ phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ.
Để hạn chế việc tạo tiền quá mức của ngân hàng thương mại làm tăng khối
lượng tiền tệ trong nền kinh tế, Ngân hàng trung ương quy định hạn mức tín dụng


tối đa cho từng ngân hàng thương mại. Trong phần lớn các trường hợp, những hạn
mức riêng này được các định căn cứ vào tỷ trọng cho vay của nó trong quá khứ so
với tổng mức cho vay của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng thương mại chỉ được
cấp tín dụng cho nền kinh tế tối đa bằng hạn mức tín dụng được quy định.
Hạn mức tín dụng được ngân hàng trung ương sử dụng như một công cụ
quan trọng của chính sách tiền tệ, khi mà các công cụ truyền thống kém hiệu quả.

Tuy nhiên, khống chế hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất thị trường tăng lên,
làm giảm cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại, làm lệch lạc cơ cấu đầu tư
của các ngân hàng thương mại, làm phát sinh các thị thường tài chính “ngầm”
ngoài sự kiểm soát của Ngân hàng trung ương, gây khó khăn về vốn cho các doanh
nghiệp nhỏ.
1.1.3.5.

Quản lý lãi suất của ngân hàng thương mại

Khi sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương (thị
trường mở, chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng) đều có tác động
đến lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế. Trong đó,
đặc biệt là lãi suất chiết khấu của Ngân hàng trung ương tác động mạnh đến lãi
suất cho vay của các ngân hàng thương mại. Nhưng khi các công cụ trên đây hoạt
động chưa có hiệu quả, thì Ngân hàng trung ương có thể trực tiếp quy định khung
lãi suất hoặc trần lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại. Để tránh rủi ro,
bảo vệ quyền lợi của các ngân hàng, Ngân hàng trung ương thường quy định mức
lãi suất sàn tối đa cho tiền gửi và lãi suất trần tối thiểu cho tiền vay. Nếu nhằm bảo
đảm quyền lợi cho khách hàng của ngân hàng thương mại, thì Ngân hàng trung
ương thường quy định ngược lại: mức lãi suất tối thiểu cho tiền gửi và mức tối đa
cho tiền vay. Ngân hàng trung ương muốn kiểm soát được lãi suất, bởi vì lãi suất
có tác động mạnh đến tiết kiệm và đầu tư, qua đó tác động vào tăng trưởng kinh tế
và giá cả.


Tuy nhiên, kiểm soát lãi suất của các ngân hàng thương mại sẽ triệt tiêu cạnh
tranh trong quá trình hoạt động của nó. Hiện nay, các nước phát triển đã và đang
chuyển sang quá trình tự do hóa lãi suất ngân hàng.
1.2.


Tác động của chính sách tiền tệ đối với kiểm soát lạm phát

1.2.1. Khái quát lý luận về lạm phát
1.2.1.1.

Khái niệm về lạm phát

Theo những lý thuyết về lạm phát trước đây và thực tế cho thấy rằng có rất
nhiều cách hiểu, định nghĩa về lạm phát khác nhau giữa các trường phái kinh tế.
Chẳng hạn từ điển kinh tế của Liên Xô ghi: Lạm phát là tình trạng khối lượng
tiền giấy tràn đầy các kênh lưu thông tiền tệ vượt quá mức nhu cấu kinh tế thực tế,
làm cho tiền tệ mất giá, là phương tiện phân phối lại thu nhập quốc dân.
Nhưng theo J.M.Keynes và trường phái tiền tệ ở Đức và Mỹ thì quan niệm:
lạm phát là sự vi phạm quá trình tái sản xuất nằm trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ, là
sự phát hành tiền quá mức tạo ra cầu dư thừa thường xuyên.
Chandeler và Cliner với trường phái lạm phát giá cả thì khẳng định: lạm phát là
sự tăng giá hàng bất kỳ kể cả dài hạn hay ngắn hạn, chu kỳ hay đột xuất. Trong khi đó
Matrukhin lại cho rằng: trong đời sống, tổng mức giá cả tăng trước hết thông qua việc
tăng giá không đồng đều ở từng nhóm hàng hóa và rút cuộc dẫn đến việc tăng trưởng
mức giá cả nói chung. Với ý nghĩa như vậy, có thể xem sự mất giá của đồng tiền là
lạm phát. Ông cũng chỉ rõ: lạm phát là hình thức tràn trề tư bản một cách tiềm tàng, là
sự phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân thông qua giá cả giữa các khu
vực của quá trình tái sản xuất xã hội, các ngành kinh tế và các giai cấp, các nhóm dân
cư xã hội. Ở mức bao quát hơn, Samuelson và Nordhaus cho rằng: lạm phát xảy ra khi
mức chung của giá cả và chi phí tăng lên.
Lạm phát đã được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các
nhà kinh tế. Trong mỗi công trình của mình, các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm về
lạm phát. Karl Marx cho rằng: Lạm phát là sự phát hành tiền mặt quá mức cần thiết.
Vào thập niên 1960, Milton Friedman khẳng định lại rằng: Lạm phát bao giờ và ở đâu



cũng là một hiện tượng tiền tệ. Theo thuyết trọng tiền (monetarism) - một trường phái
lớn về khoa kinh tế vĩ mô cho rằng, cần phải chú ý đến tổng mức chi tiêu của xã hội
và việc cung ứng tiền cho chi tiêu đó. Thuyết trọng tiền cho tiền tệ là trung tâm của
nền kinh tế, và việc cung tiền là nhân tố quyết định những sự vận động của tổng sản
phẩm quốc dân danh nghĩa trong ngắn hạn và nó là nhân tố quyết định đến giá cả
trong dài hạn. Thực ra, không nhất thiết bắt nguồn từ nguyên nhân là tiền tệ, tức là
tăng lượng tiền cung ứng quá mức đối với nền kinh tế. Nhiều cuộc lạm phát diễn ra
lại bắt nguồn từ giá hoặc xuất phát từ sự suy giảm trong tổng cung của chính nền kinh
tế đó. R.Dornbusch và Fischer cho rằng: Lạm phát là tình trạng mức giá chung của
nền kinh tế tăng lên trong một thời gian nhất định.
Ở Việt Nam, Bùi Huy Khoát chia sẻ quan điểm của luận thuyết lạm phát cầu
kéo: lạm phát nảy sinh do sự mất cân đối giữa cung và cầu, khi cầu có khả năng
thanh toán tăng vượt quá khả năng cung của nền kinh tế làm cho giá cả hàng hóa
tăng lên. Xét đến cùng thì lạm phát là sự tăng lên tự động của giá cả để lấy lại thế
cân bằng đã bị phá vỡ giữa cung và cầu, biểu hiện ở vàng và tiền. Nguyễn Văn Kỷ
lại thêm luận thuyết lạm phát lưu thông tiền tệ, khẳng định lạm phát là hiện tượng
tiền quá dư thừa trong lưu thông so với lượng hàng hóa ít ỏi. Trong khi đó, Vũ
Ngọc Nhung thì chỉ ra đặc trưng của lạm phát là hiện tượng giá cả tăng lên phổ
biến do tiền giấy mất giá so với vàng, và so với mọi giá cả hàng hóa.
Nhìn chung, có hai cách tiếp cận: Một là, từ nguyên nhân; hai là, từ những
ảnh hưởng của nó.
Theo cách tiếp cận thứ nhất, lạm phát là quá nhiều tiền đi săn quá ít hàng
hoặc lạm phát là khi tiền lương danh nghĩa tăng nhanh hơn năng suất lao động. Các
định nghĩa này thực chất chỉ là đưa ra các cách giải thích khác nhau về nguyên
nhân của lạm phát mà không phải là định nghĩa về lạm phát theo đúng nghĩa của
nó.
Theo cách tiếp cận thứ hai, lạm phát là mức giá cả chung tăng lên. Tuy
nhiên, sự tăng giá mới chỉ phản ánh hình thức biểu hiện của lạm phát, còn bản chất



của nó được thể hiện ở tính chất của sự tăng giá là giá tăng cao kéo dài hay chỉ tạm
thời. Như vậy, tất cả các luận thuyết, các quan niệm về lạm phát đã nêu trên và đã
có cho đến nay mặc dù, hoặc chỉ dựa vào hiện tượng biểu hiện bề ngoài của lạm
phát, hoặc tiếp cận lạm phát từ một hay vài nguyên nhân nào đó của lạm phát,
nhưng đều phải thừa nhận lên đặc tính cơ bản chung về lạm phát là hiện tượng giá
cả chung tăng lên và giá trị của đồng tiền giảm xuống,
Tóm lại, từ những lý luận trên tác giả rút ra kết luận về lạm phát như sau:
lạm phát là sự gia tăng phổ biến và với thời gian dài tổng mức giá cả được đo bằng
chỉ số giá của nhóm hàng hóa và dịch vụ cơ bản (rổ hàng hóa). Sự gia tăng liên tục
của giá cả làm suy yếu sức mua của đồng tiền và các tài sản tài chính khác có giá
trị cố định, gây ra những méo mó nghiêm trọng và tạo ra tình trạng không chắc
chắn trong môi trường kinh tế vĩ mô và vi mô.
1.2.1.2.

Phân loại lạm phát

Có nhiều cách phân loại lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau:
Căn cứ vào tốc độ lạm phát được chia làm ba loại:
Một là, lạm phát vừa phải: là loại lạm phát xảy ra với tốc độ gia tăng giá cả
chậm, chỉ ở mức một con số hay dưới 10%/năm. Đây là loại lạm phát phổ biến
nhất và tồn tại gần như thường xuyên, một căn bệnh kinh niên, cố hữu và đặc trưng
ở hầu hết các nền kinh tế thị trường trên thế giới.
Hai là, lạm phát phi mã: được nhận dạng khi mức tăng giá cả đạt tới ngưỡng
thường là từ 2 đến 3 con số một năm.
Ba là, siêu lạm phát: là hiện tượng rất hiếm chỉ xảy ra vào thời chiến tranh
hay chuyển đổi cơ chế kinh tế, khi có tốc độ tăng giá vượt xa mức lạm phát phi mã
và vô cùng không ổn định. Đã từng có những siêu lạm phát mà tốc độ mất giá của
đồng tiền cũng như tăng giá hàng năm tới 8 – 10 chữ số không trong một năm. Ví
dụ như ở Đức thời kỳ 1922 – 1923, ở Trung Quốc và Hungari thời kỳ sau chiến

tranh thế giới thứ hai.
Căn cứ vào nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát có:


Lạm phát cầu dư thừa tổng quát, lạm phát chi phí đẩy, lạm phát cơ cấu, lạm
phát nhập khẩu.
Căn cứ vào tính chất chủ động – bị động từ phía chính phủ đối phó với lạm
phát có:
Lạm phát cân bằng và có thể dự đoán trước tức là lạm phát mà toàn bộ giá
cả các hàng hóa, dịch vụ đều tăng với chỉ số ổn định trong sự chờ đợi có tính mặc
nhiên, có thể dự báo được và mọi tính toán, thu nhập cũng tăng theo tương ứng.
Trong thực tế, hiếm có loại lạm phát này, vì lạm phát là kết quả tổng hợp của nhiều
yếu tố chi phối rất khó dự báo hết trước được. Nhưng gần đây, nhiều quốc gia có
bộ máy nhà nước đủ mạnh và các thiết chế thị trường phát triển hoàn hảo, đã và
đang có loại lạm phát với tốc độ vừa phải từ 3% - 6% /năm và được điều tiết chủ
động từ phía nhà nước. Ở các nước này, mức lạm phát đó được xem là một chỉ số
cộng thêm vào mức tăng lương thực tế, vào mức lãi suất thực tế và vào mức tổng
sản phẩm xã hội thực tế. Tuy nhiên, về dài hạn việc chỉ số hóa lạm phát và các
hành vi tương ứng sẽ không giúp cách ly nền kinh tế khỏi lạm phát, mà chỉ càng
làm cho lạm phát có tính không ổn định. Điều đó là do tác động tích lũy ngày càng
lớn của việc cộng dồn chỉ số lạm phát qua các thời kỳ, khiến giá cả tăng liên tục,
mặc dù đều đặn. Đến khi vòng xoáy ốc chi phí – giá cả kết thúc thì giá cả tăng lên
nhiều lần và có xu hướng ngày càng tách rời giá trị, làm phóng đại những chấn
động bên ngoài giá cả. Cơ chế này càng mạnh nếu chỉ số hóa lạm phát càng cao.
Lạm phát không cân bằng và không dự đoán trước, là loại lạm phát mà giá
cả các hàng hóa, dịch vụ tăng lên không đều nhau và nhà nước không dự báo cũng
như không chủ động điều tiết được. Đây là hiện tượng phổ biến nhất ở các nước
đang phát triển.
Căn cứ vào quá trình bộc lộ, hiện hình lạm phát có:
Lạm phát ngầm: là lạm phát còn đang ở giai đoạn ẩn náu, tiềm ẩn và bị kiềm

chế về


Phân loại theo định lượng: Dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ phần trăm lạm phát
tính theo năm, trong đó có: Lạm phát một con số hay gọi là lạm phát vừa phải.
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng chậm và tỷ lệ lạm phát dưới 10%/ 1 năm
và nền kinh tế chấp nhận được với mức lạm phát này. Lạm phát hai con số thể hiện
khi tỷ lệ tăng giá đã tăng đến hai con số mỗi năm. Nếu ở mức thấp của loại lạm
phát này (> 10% mỗi năm), tác động tiêu cực của nó đến nền kinh tế không lớn.
Nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở mức hai con số cao lạm phát này gây tác hại nghiêm
trọng trong nền kinh tế. Lạm phát phi mã và siêu lạm phát là loại lạm phát ba con
số trở lên với tốc độ nhanh. Tác động tiêu cực đến đời sống và tính ổn định của nền
kinh tế.
Phân loại theo định tính: Lạm phát cân bằng và không cân bằng (cân bằng ở
đây là cân bằng với thu nhập), trên thực tế, lạm phát không cân bằng hay xảy ra.
Lạm phát thuần túy là trường hợp đặc biệt khi giá cả hàng hóa tiêu dùng và hàng
hóa sản xuất đều tăng lên gần như cùng một tỷ lệ trong cùng một đơn vị thời gian,
lúc này nhu cầu cần tiền thực tế tăng cùng chiều và khá tương đương với cung ứng
tiền thực tế. Lạm phát bất thường xảy ra có tính đột biến, loại lạm phát này gây ra
những cú sốc nền kinh tế và sự thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền.
Lạm phát dự đoán trước là việc người ta nhìn thấy trước về lạm phát và tin rằng nó
sẽ xảy ra bởi các nguyên nhân của nó đã lộ diện.
Ngoài ra, căn cứ vào mức độ biểu hiện giá cả trên thị trường có lạm phát
ngầm, lạm phát công khai; căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng về mặt không gian: có
lạm phát quốc gia và thế giới; căn cứ vào tính lịch sử, có lạm phát cổ điển gắn với
xung đột chiến tranh và lạm phát hiện đại gắn liền với hòa bình.
1.2.1.3.

Đo lường lạm phát


Thông thường, lạm phát được nhắc đến và tính toán gắn liền với tốc độ thay
đổi của mức giá cả một “rổ” hàng hóa và dịch vụ được lựa chọn nào đó, tùy thuộc
đặc điểm và cách thức riêng của mỗi nước cụ thể. Chẳng hạn, ở Mỹ hiện nay, mức


lạm phát thể hiện qua chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của 265 nhóm hàng hóa chính
trong 85 thành phố của nước Mỹ. Công thức tính của nó là :
CPIt =

x 100 X (phần của bánh mì) +

x 100 X(phần của ô tô)

+ những thay đổi của giá cả đã được tính đối với những mặt hàng khác.
Trong đó : CPIt = giá trị của chỉ số giá tiêu dùng CPI trong năm t.
Pt bánh mì = giá bánh mì trong năm t.
P0 bánh mì = giá bánh mì trong năm gốc.
X phần của bánh mì = phần của tổng số chỉ tiêu cho tiêu dùng
dành cho bánh mì trong năm t.
Như vậy, cách tính CPI của Mỹ là cân nhắc từng mặt hàng theo tầm quan
trọng kinh tế của nó, chứ không phải là cộng đơn giản các giá cả lại và chia cho
một số mặt hàng hoặc khối hàng.
Theo Alan Greenspan, Thống đốc quỹ dự trữ liên bang Mỹ ( Fred), thì việc
ước tính lạm phát ngày càng trở nên khó khăn, vì có những thay đổi nhanh chóng
trong chất lượng hàng hóa và dịch vụ. Nghĩa là, cùng một mức giá cũ, có thể chất
lượng dịch vụ hay hàng hóa đã tăng hoặc giảm, không còn ở mức cũ. Về thực chất,
như vậy đã có sự biến động giá cả, tức nhân tố của lạm phát ( ở Mỹ, thực tế lạm
phát thường là 1-2.5 %). Vì vậy, W.D. Nordhaus trong cuốn “Kinh tế học ” viết
cùng P.A. Samuelson cho rằng, chỉ số giảm lạm phát GDP bằng tỷ lệ GDP danh
nghĩa và GDP thực tế ( tức chỉ số giảm lạm phát GDP = GDP danh nghĩa / GDP

thực tế) là toàn diện hơn chỉ số giá tiêu dùng CPI vì bao quát được tất cả giá các
loại hàng hóa và dịch vụ trong GDP.
Ở Việt Nam, bắt đầu từ tháng 1 năm 1998, Tổng cục Thống kê chính thức
công bố chỉ số giá tiêu dùng CPI của toàn quốc tính theo phương pháp cải tiến:
Chỉ số giá tiêu dùng chung của toàn quốc được tính trên cơ sở chỉ số giá tiêu
dùng của các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Chỉ số giá tiêu dùng của các tỉnh, thành phố được tính theo công thức
LASPARYE với quyền số cố định là cơ cấu chi tiêu hộ gia đình đa mục tiêu do


Tổng cục thống kê tiến hành năm 1995. Danh mục mặt hàng đại diện thu nhập giá
gồm 296 mặt hàng, được phân chia theo 10 nhóm tiêu dùng cấp I, 34 nhóm cấp II
và 86 nhóm cấp III, trong mỗi nhóm đều bao gồm cả hàng hóa và dịch vụ. Giá tiêu
dùng bình quân của năm 1995 được dùng làm giá kỳ gốc cố định.
Hàng tháng, chỉ số giá tiêu dùng được công bố với 4 gốc so sánh:
+ Kỳ gốc ( so với giá tiêu dùng bình quân năm 1995);
+ Tháng trước (hàng tháng);
+ Cùng tháng năm trước ( sau 12 tháng);
+ Tháng 12 năm trước ( sau 1,2,..., 11 tháng).
Chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ cũng được công bố hàng tháng với 4
gốc so sánh như trên, nhưng tính riêng, không nằm trong những chỉ số giá tiêu
dùng.
1.2.1.4.

Những tác động của lạm phát

Lạm phát tác động trực tiếp đến nền kinh tế, làm thay đổi mức độ và hình
thức sản lượng, đồng thời tạo ra sự phân phối lại thu nhập và của cải xã hội. Hơn
nữa, lạm phát tác động đến nền kinh tế theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực.
Các tác động tiêu cực của lạm phát:

Tác hại của lạm phát tỷ lệ thuận với tốc đọ lạm phát, với mức độ các tiến
triển không thể dự báo trước và vượt ra khỏi khả năng điều tiết, kiềm chế của chính
phủ. Lạm phát phi mã và siêu lạm phát là những tai họa khủng khiếp cho đời sống
kinh tế - xã hội của một nước.
Nhìn chung, lạm phát ( chủ yếu là lạm phát từ hai chữ số trở lên) có thể gây
ra các tác động tiêu cực sau:
Vì làm rối loạn chức năng thước đo giá trị của tiền tệ, nên lạm phát xuyên
tạc, bóp méo, làm biến dạng các yếu tố và tín hiệu thị trường, làm cho toàn bộ các
hoạt động kinh tế - xã hội, đặc biệt là các hoạt động sản xuất – kinh doanh không
thể tiến hành bình thường được. Bản thân vai trò điều tiết nền kinh tế của chính


phủ thông qua tiền tệ và thuế cũng bị suy giảm, thậm chí bị vô hiệu hóa, do mức
thuế trở nên vô nghĩa trước tốc độ tăng lạm phát thời kỳ phi mã hoặc siêu lạm phát.
Lạm phát làm biến dạng hành vi kinh doanh, đặc biệt là hành vi đầu tư, do
làm mất khả năng tính toán hợp lý về lợi nhuận. Lạm phát kiềm hãm các đầu tư dài
hạn, nhất là trong lĩnh vực sản xuất, kích thích đầu tư ngắn hạn thường là vào các
tài sản mang lại lãi vốn, có tính đầu cơ ( các bất động sản, kim loại quý...), gây ra
tình trạng khan hiếm hàng hóa không bình thường và lãng phí. Các nhà kinh doanh
tiêu phí nhiều nỗ lực vào hoạt động dự báo và đầu cơ theo tỷ lệ lạm phát hay ngăn
ngừa những bất ổn kèm theo. Làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn và tín
dụng. Sự bất ổn định giá cả trong tương lai làm suy giảm lòng tin, động cơ và gây
khó khăn cho sự lựa chọn các quyết định của cả người gửi tiền lẫn người của các
thể chế tài chính – tín dụng; lạm phát có thể gây tác động xấu đến các ngân hàng
tiết kiệm, cộng đồng những người để dành, thị trường trái phiếu, các quỹ an sinh xã
hội, hưu trí, bảo hiểm và các công cụ nợ của chính phủ. Lạm phát thường tạo ra
tình huống lãi suất thực tế âm, khiến tiết kiệm giảm sút và chuyển hướng ra khỏi
đầu tư sản xuất. Bởi vậy, lạm phát thường đi kèm suy thoái kinh tế.
Việc phân phối thu nhập thường kém đồng đều trong các thời kỳ lạm phát.
Một số người nắm giữ các hàng hóa có giá cả tăng đột biến trở nên giàu có nhanh

chóng, và ngược lại, những người có các hàng hóa, tài sản mà giá cả không tăng
hoặc tăng chậm bị nghèo đi, mức lương thực tế cũng sụt giảm làm tổn hại đến mức
sống thực tế của người có thu nhập thấp và cố định. Phúc lợi xã hội dành cho tầng
lớp nghèo trong xã hội cũng bị suy giảm rõ rệt, thậm chí đổ vỡ, mất tác dụng. Hơn
nữa, việc phân phối lại của chính phủ từ những người tiêu dùng nhiều đến người
tiết kiệm nhiều thông qua tài trợ lạm phát chỉ có thể có hiệu quả trong những giai
đoạn đầu của lạm phát; còn sau đó sẽ mất tác dụng do cơ chế tự vệ và thích nghi
của các đối tượng tiêu dùng này ( chẳng hạn, họ sẽ đòi tăng lương, tăng trợ cấp
hoặc tự động điều chỉnh các chi phí sinh hoạt theo kịp với lạm phát). Việc chính
phủ kiểm soát mức tăng giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng bằng cách quy định giá


trần sẽ kéo theo việc lạm sia lệch sự phân bố các nguồn lực và thường dẫn đến sự
thiếu hụt, chợ đen, tham nhũng...
Lạm phát làm tăng nguy cơ phá sản do vỡ nợ và làm tăng chi phí dịch vụ nợ
nước ngoài tính bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp lẫn chính phủ, do lạm phát
thường kéo theo việc điều chỉnh nâng tỷ giá và lãi suất đồng bản tệ với tư cách là
giải pháp nhằm thích nghi và kiềm chế lạm phát ( đồng thời, có trường hợp chính
sự điều chỉnh phá giá bản tệ là nguồn gốc trực tiếp làm gia tăng lạm phát do áp lực
chi phí đẩy đổi với hàng hóa, vật tư nhập ngoại và tăng cầu đối với sản phẩm nội
địa; và sự tương tác qua lại giữa chúng nếu vượt quá khả năng kiểm soát của chính
phủ, sẽ tạo ra vòng xoáy bất tận: phá giá – lạm phát – phá giá ... tàn phá nền kinh tế
và đời sống kinh tế - xã hội của quốc gia).
Sự mất ổn định của giá cả và tiền tệ còn làm môi trường kinh doanh trong
nước xấu đi, khiến dòng đầu tư nước ngoài đổ vào bị chậm, chững lại, thậm chí
suy giảm, đi đôi với sự ra đi của những dòng vốn trong nước. Lạm phát kéo theo
giá cả hàng nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn, hạn chế việc nhập những hàng hóa, vật
tư cần thiết. Lạm phát cao ( thường trên 40%) luôn gắn với thâm hụt tài chính lớn
và làm thâm hụt đó trở nên nặng nề hơn, nhất là thâm hụt ngân sách.
Một nghiên cứu mới đây của Ngân hàng Thế giới (WB) về quan hệ giữa lạm

phát và tăng trưởng ở 127 nước trong thời kỳ 1960 – 1992 cho thấy mối quan hệ
chặt chẽ giữa tăng lạm phát và giảm tăng trưởng : nếu lạm phát vừa phải hoặc tăng
dần đến dưới 25% /năm, thì tốc độ tăng GDP bình quân vẫn duy trì tích cực ( nhất
là thời kỳ 1960 – 1972 khi có sức ép đầu tư mở rộng của thời kỳ khôi phục sau
Chiến tranh thế giới thứ hai) hoặc chỉ giảm nhẹ; tốc độ tăng GDP bình quân giảm
mạnh khi lạm phát trên 25%/năm; tốc độ lạm phát càng cao càng gây ra suy thoái
kinh tế mạnh. Lạm phát thực sự nguy hiểm ở mức 40% / năm và cao hơn, đồng
thời kéo dài nhiều năm. Nhìn chung, lạm phát cao là nguyên nhân dẫn đến tăng
trưởng thấp, còn điều ngược lại không phải là chắc chắn. Thực tiễn, các nước đang
phát triển những năm 80 cho thấy rõ điều đó.


Cùng một hướng kết luận này, chương trình nghiên cứu của Ngân hàng
Canada đối với 62 nước trong vòng 25 năm gần đây khẳng định, việc giảm lạm
phát ở các nước đi 1% sẽ làm tỷ lệ tăng trưởng hàng năm tăng lên 0.1%. Tổ chức
hợp tác và Phát triển kinh tế ( QECD) cũng đưa ra kết quả nghiên cứu của mình:
nếu một nước giảm được lạm phát từ 5% xuống xấp xỉ 0%, thì trong vòng hai
mươi năm tổng sản lượng sẽ tăng thêm 10% so với trường hợp không có giảm lạm
phát. Tuy vậy, điều này chỉ thích hợp với các nước đang phát triển, còn không rõ
ràng đối với các nước chậm phát triển.
Lợi ích của lạm phát:
Song không phải bao giờ lạm phát cũng gây ra những tác hại to lớn nêu trên.
Với tốc độ lạm phát vừa phải ( thường là từ 2% đến dưới 5%/năm ở những nước
phát triển và dưới 10%/năm ở những nước kém phát triển), và với việc “chỉ số hóa
” lạm phát cùng các kỹ thuật thích ứng khác, người ta nhận thấy lạm phát có thể
đem lại một số lợi ích sau:
Lạm phát tựa như dầu mỡ giúp “bôi trơn” nền kinh tế. Trong điều kiện nào
đó, có thể thông qua lạm phát từ 2-4%/năm để bỏ ngỏ khả năng có những lãi suất
thực âm, có tác dụng kích thích tiêu dùng , vay nợ và đầu tư, do đó giảm bớt thất
nghiệp xã hội, kích thích tăng trưởng kinh tế. Lạm phát, phá sản và thất nghiệp

dường như là những căn bệnh đặc trưng vốn có của mọi nền kinh tế thị trường và
giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Năm 1960, A.W. Phillips, nhà kinh tế
học Mỹ, đã đưa ra biểu đồ thể hiện mối tương quan tỷ lệ nghịch giữa tăng giá –
tăng tiền lương và thất nghiệp như sau:

Cụ thể của tương quan này là :
+ Lạm phát tỷ lệ nghịch với thất nghiệp.
+ Lạm phát tỷ lệ thuận với tăng lương.


(Trong đó tỷ lệ tiền lương trên trục thẳng đứng bên phải cao hơn tỷ lệ lạm
phát trên cột thẳng đứng bên trái 2% là tỷ lệ tăng giả định của năng suất lao động
trung bình).
Athur Okun (1924-1979), nhà kinh tế nổi tiếng hàng đầu của Mỹ, từng là cố
vấn cho Tổng thống Kennedy ( 1964) và Tổng thổng Johnson (1968) đã đưa ra
công thức: Khi GNP giảm 2% so với GNP tiềm năng, thì mức thất nghiệp tăng 1%,
với cách tính đó, để giảm tỷ lệ lạm phát đi 1%/năm thì GNP của nước Mỹ phải
giảm đi tới 4%.
Cho phép chính phủ có thêm khả năng lựa chọn các công cụ kích thích đầu
tư vào những lĩnh vực kém ưu tiên thông qua mở rộng tín dụng và tài trợ lạm phát.
Giúp phân phối lại thu nhập và các nguồn lực xã hội theo định hướng mục tiêu và
trong khoảng thời gian nhất định có chọn lọc. Điều này sẽ càng cần thiết khi có sự
suy thoái chung và lạm phát đang ở mức thấp như tình hình kinh tế thế giới thời
gian 1997-1998. Chính vì vậy, sáng kiến lớn nhất của Mỹ trong chống khủng
hoảng tài chính – tiền tệ ở châu Á mới được Tỏng thống Bill Clinton đưa ra tháng
9 – 1998 là kêu gọi các nước lớn không nên sợ lạm phát ( vì hiện đang có xu
hướng giảm phát toàn cầu) để kích thích tăng trưởng kinh tế chung. Tuy nhiên, cần
khẳng định, đây là một công việc khó, đầy mạo hiểm, nếu không đủ thực lực và
bản lĩnh làm chủ được “công nghệ điều tiết ” lạm phát sẽ gây ra hậu quả nghiêm
trọng, thậm chí trái ngược với mục tiêu đề ra. Theo Palu Krugman, nhà kinh tế Mỹ,

thì các ngân hàng trung ương cần duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4% để có lợi cho
phát triển kinh tế và giảm thất nghiệp ( ở Mỹ, EU và Nhật Bản, mức lạm phát hiện
chỉ dao động trên dưới 1%).
Như vậy, là căn bệnh mãn tính của nền kinh tế thị trường, lạm phát có cả tác
hại lẫn ích lợi. Nếu một nước nào đó có thể duy trì, kiềm chế, điều tiết được mức
lạm phát vừa phải phù hợp và có lợi cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của mình, thì
ở đó lạm phát không còn là căn bệnh nguy hiểm đối với nền kinh tế nữa. Khi đó,
lạm phát trở thành công cụ điều tiết kinh tế khả đắc dụng. Ngược lại, lạm phát phi


×