Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN giáo viên chủ nhiệm giỏi - nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp để thúc đẩy chất lượng dạy và học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.87 KB, 26 trang )

Phân 1: Những vấn đề chung
1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm nghiên cứu
- Lý do về mặt lí luận
Công tác giáo dục là một việc làm rất quan trọng đối với toàn Đảng, toàn dân
và toàn nhân loại. Vì vậy với bất kỳ quốc gia nào, một dân tộc nào và vào bất kỳ
thời điểm nào cũng vậy, công tác giáo dục luôn được ưu tiên hàng đầu.
Giáo dục phát triển là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của một đất nước.
Khi giáo dục phát triển thì việc đào tạo ra những con người ưu tú để đứng lên giúp
đất nước phát triển thì không phải là một việc khó khăn. Vậy thì để một đất nước
có những con người kiệt xuất, phi thường thì không còn con đường nào khác là
phải đầu tư cho sự phát triển giáo dục. Giáo dục là con đường nhanh nhất, kinh tế
nhất tái sản xuất sức lao động, là nhân tố quyết định sự tăng trưởng kinh tế và xã
hội. Đúng như câu nói của người đi trước ”Đầu tư cho giáo dục là đầu tư có lợi
nhất”. Vâng đúng vậy, đầu tư cho giáo dục thì luôn có lợi và luôn là con đường
đúng đắn để tiến tới một xã hội văn minh, Xã hội Chủ nghĩa.
Đứng trước tình thế đó, nhận thấy được vai trò to lớn của giáo dục, Đảng và
nhà nước ta đang ra sức tiến hành cải cách giáo dục, cải cách chương trình giáo
dục để ngày càng được hoàn thiện về cả nội dung lẫn hình thức. Giúp cho nội dung
thêm phong phú, đa dạng, đầy đủ hơn có thể theo kịp các quốc gia khác nhưng vẫn
giữ được nét riêng phù hợp với khả năng, tư duy và tiềm năng hiện có của con
người Việt Nam. Từ đó sẽ nuôi trồng những mần non, trở thành những chủ nhân
tương lai của đất nước, để nước ta có thể sánh vai với các cường quốc năm châu
trên thế giới, đúng với ước nguyện của Bác Hồ kính yêu.
Thế kỉ XXI là thế kỉ của khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin, do vậy, để
bước vào thế kỉ XXI một cách vững chắc thì ngay từ bây giờ phải trang bị cho các
em các kiến thức về khoa học nói chung và kĩ năng của một người chủ nhân tương
lai của đất nước. Để có được những kĩ năng đó thì vai trò của người giáo viên chủ
nhiệm lớp là rất quan trọng. Giáo viên chủ nhiệm ở Tiểu học có một vị trí vô cùng
quan trọng trong việc hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát



triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng sống
cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở.
Ngoài việc tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập của học sinh, giáo viên
chủ nhiệm lớp còn phải thường xuyên theo dõi các hoạt động trong giờ chơi, trong
các buổi sinh hoạt, giao lưu tập thể,…và cả hoạt động học tập ở nhà của học sinh.
Vì vậy công việc của một giáo viên chủ nhiệm lớp ở tiểu học là rất nặng nề, rất vất
vả và vô cùng phức tạp.
- Lý do về mặt thực tiễn
Trong xu thế chuẩn hoá và hiện đại hoá của nền giáo dục thì nhà giáo là nhân
tố được quan tâm đặc biệt vì nhà giáo có vị trí quan trọng và là người quyết định
chất lượng giáo dục, theo quy luật đó nhà nước ta đã có chủ trương, chính sách về
đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giáo viên. Chủ trương này được cụ thể hoá và
được quy định rõ trong luật giáo dục “Nhà nước với chính sách bồi dưỡng nhà giáo
về chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao trình độ và chuyên môn nhà giáo. Nhà giáo
được cử đi học để nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, được
hưởng lương và phụ cấp theo quy định của chính phủ’’. Mục tiêu của Bộ giáo dục
là đào tạo ra một đội ngũ cán bộ giáo viên xuất sắc có trình độ chuyên môn cao, có
nghiệp vụ sư phạm tốt để có thể đào tạo ra những lớp người có ích cho xã hội,
những con người mà xã hội đang mong đợi, để đúng là con người của thời đại Xã
hội Chủ nghĩa.
Ở đầu mỗi năm học, ở cùng một trường học, cùng một khối lớp, chất lượng
học tập của học sinh cũng tương đương nhau. Nhưng tại sao đến cuối năm, chất
lượng học tập và hạnh kiểm của học sinh lớp này lại vượt trội hẳn so với các lớp
khác? Tất cả những điểm khác biệt đó đều do giáo viên chủ nhiệm lớp tạo ra. Giáo
viên chủ nhiệm nào có tinh thần trách nhiệm cao, tận tâm với học sinh của mình thì
chắc chắn sẽ tìm ra được các biện pháp để thu hút học sinh đến lớp, làm cho học
sinh trở nên chăm ngoan, thích đi học và luôn cảm thấy “mỗi ngày đến trường là
một ngày vui”.
Mặt khác, tuy giáo viên chủ nhiệm lớp ở tiểu học dạy được tất cả các lớp (từ
lớp 1 đến lớp 5) nhưng trong thực tế, không phải giáo viên nào cũng theo học sinh



của mình từ lớp này lên lớp khác. Vì vậy, mỗi năm lên lớp, các em lại được học
với một thầy (cô) khác nhau. Nếu giáo viên lớp dưới làm tốt công tác chủ nhiệm,
xây dựng tốt nề nếp lớp học, rèn luyện cho học sinh phương pháp tự học và nhiều
kĩ năng sống cơ bản khác; nhưng lên lớp trên, giáo viên chủ nhiệm lớp không duy
trì, không phát huy thì rồi nề nếp lớp học và chất lượng học tập của học sinh sẽ ra
sao? Do vậy, công tác chủ nhiệm lớp phải được thực hiện đồng bộ từ lớp Một đến
lớp Năm. Nề nếp lớp học, phương pháp học tập, đạo đức, nhân cách và các kĩ năng
sống của học sinh phải được giáo viên chủ nhiệm chú ý xây dựng, rèn rũa ngay từ
lớp 1 và phải được duy trì, phát huy xuyên suốt ở các lớp trên.
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, người giáo viên chủ nhiệm lớp ở tiểu
học phải trải qua biết bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu vất vả. Vì vậy, tôi khẳng định
rằng công tác của giáo viên chủ nhiệm lớp ở tiểu học là cực kì quan trọng, là nhân
tố số một quyết định chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.
Đó là lí do tôi chọn để viết sáng kiến kinh nghiệm trong năm học này: “Các
cách thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp để thúc đẩy
chất lượng dạy và học tại lớp 5D trường Tiểu học Kiên Thành”.
2. Mục đích nghiên cứu
Tôi viết sáng kiến kinh nghiệm này với mong muốn :
- Ghi lại những biện pháp mình đã làm để suy ngẫm, để chọn lọc và đúc kết
thành kinh nghiệm của bản thân.
- Nhận được những lời góp ý, nhận xét từ cán bộ quản lí nhà trường, và từ các
bạn đồng nghiệp, để tôi phát huy những mặt mạnh, điều chỉnh, khắc phục những
thiếu sót cho hoàn thiện hơn.
- Rèn luyện tinh thần năng động; giữ lửa lòng say mê, sáng tạo; cố gắng học
tập, tự cải tạo mình để theo kịp sự tiến bộ của thời đại.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Ở sáng kiến kinh nghiệm này tôi nghiên cứu thực trạng chất lượng dạy và học
ở lớp 5D trường Tiểu học Kiên Thành. Khách thể là điều kiện cơ sở vật chất, trang

thiết bị, đồ dùng dạy học trong trường.


4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay bên cạnh những em có ý thức học và đã đạt được kết quả học tập
khá cao thì vẫn còn tồn tại nhiều em chưa có ý thức học tập, do vậy kết quả học tập
của các em vẫn chưa cao và chưa đáp ứng được so với nhu cầu mà Bộ giáo dục Đào tạo đã đề ra.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm này tôi chủ yếu tập trung vào giải quyết
3 nhiệm vụ cơ bản sau của công tác chủ nhiệm lớp:
1. Tìm hiểu cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2. Tìm hiểu thực trạng học tập và công tác chủ nhiệm của lớp 5D trường Tiểu
học Kiên Thành.
3. Các cách thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp để thúc
đẩy chất lượng dạy và học tại lớp 5D trường Tiểu học Kiên Thành”.
6. Phạm vi nghiên cứu
Lớp 5D trường Tiểu học Kiên Thành năm học 2016-2017.
7. Các phương pháp nghiên cứu
7.1 Phương pháp điều tra:
Đây là phương pháp chủ yếu tôi sử dụng trong sáng kiến kinh nghiệm. Tôi đã
lập các phiếu điều tra bằng hệ thống các câu hỏi theo mục đích của bài tập cho đối
tượng là học sinh lớp 5D để thu thập được những ý kiến trả lời đầy đủ.
7.2. Phương pháp quan sát
Mục đích của phương pháp này là giúp tôi kiểm nghiệm giữa các câu trả lời
trên phiếu điều tra và những hành động thực tế của em.
7.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm của học sinh
Tôi nghiên cứu thông qua sổ theo dõi chất lượng giáo dục, sổ liên lạc, qua
việc tự làm đồ dùng học tập của các em, thậm chí qua vở ghi lí thuyết, vở làm bài
tập ở nhà của các em.
7.4. Phương pháp đọc sách và tài liệu tham khảo



Tôi không ngừng tìm tòi sách báo, tài liệu có liên quan các nguồn thông tin
cần thiết nhằm tìm hiểu cơ sở lí luận và những vấn đề trong nước, trên thế giới
đang diễn ra mà có liên quan đến sáng kiến kinh nghiệm này.
8. Cấu trúc sáng kiến kinh nghiệm
Gồm 3 phần:
Phần 1: Những vấn đề chung
Phần 2: Nội dung
Phần 3: Kết luận và kiến nghị


Phần 2: Nội dung
Chương 1: Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm nghiên cứu
Như chúng ta đã biết, hầu hết các giáo viên tiểu học đều làm công tác chủ
nhiệm lớp, từ trước đến nay chưa sách vở tài liệu nào định nghĩa rõ thế nào là công
tác chủ nhiệm và qua quá trình làm công tác này chúng ta tạm quy định với nhau:
Công tác chủ nhiệm lớp là hệ thống những kế hoạch, những biện pháp mà người
giáo viên đã đưa ra nhằm tổ chức hướng dẫn học sinh thực hiện tốt những nhiệm
vụ của mình do nhà trường đưa ra. Trong những năm gần đây, ngành giáo dục đang
tập trung đổi mới phương pháp giáo dục nên công tác chủ nhiệm lớp càng được
quan tâm hơn và có những đòi hỏi cao hơn. Quan nhận thức về công tác chủ
nhiệm, qua trao đổi thảo luận cùng đồng nghiệp, được sự chỉ đạo sâu sát của nhà
trường, bản thân mỗi giáo viên càng ý thức sâu sắc hơn tầm quan trọng của công
tác chủ nhiệm và nhiệm vụ cao cả của giáo viên chủ nhiệm. Phong trào thi đua trở
thành giáo viên chủ nhiệm giỏi đã được hầu hết các giáo viên tham gia tích cực.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn tồn tại một số giáo viên có thể là thiếu
kinh nghiệm hoặc sử dụng phương pháp giáo dục thiếu linh hoạt, hoặc quá trình
thực hiện thiếu liên tục và thiếu sự nhiệt tình nên chất lượng giáo dục ở từng lớp có
sự chênh lệch rõ rệt, đâu đó vẫn còn một số tập thể học sinh chất lượng văn hoá và

đạo đức chưa cao và không chú ý đến các phong trào thi đua của nhà trường đề ra.
Tôi nghĩ rằng sáng kiến kinh nghiệm này không mới bởi vì nó thường lặp đi lặp lại
nhưng điều cần thiết đối với những giáo viên chúng tôi là được tham gia bàn bạc
kỹ về công tác này để tìm ra phương pháp tối ưu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
trong tình hình hiện nay.
Công tác chủ nhiệm quyết định không nhỏ đến chất lượng dạy và học. Làm tốt
công tác chủ nhiệm tức là người giáo viên đã hoàn thành tốt việc giảng dạy các bộ
môn và tổ chức giáo dục, rèn luyện đạo đức cho học sinh. Đặc biệt trong nhà
trường, vai trò của người giáo viên chủ nhiệm hết sức quan trọng. Giáo viên chủ
nhiệm thay mặt nhà trường quản lý điều hành lớp, trực tiếp giáo dục tư tưởng đạo
đức, hình thành nhân cách cho học sinh, là cầu nối giữa ba môi trường giáo dục gia
đình, nhà trường và xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, công tác chủ nhiệm lớp ngày


càng đòi hỏi sự dày công của người giáo viên bởi yêu cầu ngày càng cao của xã hội
đang phát triển, bởi tình hình cuộc sống vẫn đang tồn tại những tác động xấu đến
học sinh, bởi sự mưu sinh của gia đình nên không ít phụ huynh đã giao phó việc
giáo dục con cái cho nhà trường.
Để trở thành giáo viên chủ nhiệm tốt đòi hỏi giáo viên phải có phẩm chất đạo
đức tốt, tâm huyết với nghề, yêu thương tận tụy với học sinh. Giáo viên chủ nhiệm
phải hoàn thành tốt các nhiệm vụ tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi
mặt, cộng tác chặt chẽ với gia đình học sinh và phối hợp với giáo viên bộ môn, tổ
chức Đội TNTP Hồ Chí Minh để giáo dục học sinh trong lớp mình chủ nhiệm.
Công tác giáo dục học sinh, nhất là học sinh cá biệt và giúp đỡ học sinh khó khăn
đạt hiệu quả cao và đặt biệt là đưa phong trào của lớp đạt kết quả. Giáo viên chủ
nhiệm phải tích cực nghiên cứu và ứng dụng khoa học tâm lý-giáo dục để hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ giáo viên chủ nhiệm lớp và các nhiệm vụ khác. Đặc biệt
phải có phẩm chất tâm lý của người làm cha, làm mẹ, là người bạn lớn của học
sinh, góp phần hình thành và phát triển nhân cách của các em một cách có hiệu
quả…



Chương 2. Thực trạng tình hình học tập của học sinh lớp 5D trường Tiểu
học Kiên Thành
1. Vài nét về đặc điểm địa phương, nhà trường và học sinh trường Tiểu
học Kiên Thành
Kiên Thành là một xã vùng thấp của huyện Lục Ngạn có tổng diện tích tự
nhiên là 727,71 ha. Có hơn 1000 hộ và gần 5000 nhân khẩu, trong đó dân tộc ít
người chiếm hơn 60% tổng số dân toàn xã. Có các dân tộc con em cùng sinh sống
là: Kinh, Tày, Nùng, Hoa, Cao Lan… Xã có 4 thôn, dân cư sống tập trung, đường
giao thông thuận lợi. Kinh tế đã có những bước tăng trưởng khá, đời sống nhân dân
ngày một nâng cao. Nhận thức của nhân dân về giáo dục ngày một tiến bộ.
Tổng số cán bộ, giáo viên, nhân viên: 36 đồng chí, trong đó cán bộ quản lí: 3
đồng chí, nhân viên: 6 đồng chí, giáo viên: 27 đồng chí. Trình độ đào tạo: Đại học
19 đồng chí, Cao đẳng 11 đồng chí, trung cấp 6 đồng chí. Đội ngũ giáo viên nhà
trường có phẩm chất chính trị vững vàng, có tinh thần trách nhiệm, có ý thức phấn
đấu vươn lên trong công tác, đoàn kết nhất trí giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Tất cả
cán bộ, giáo viên luôn giữ gìn danh dự, có lòng nhân ái, chan hòa với đồng
nghiệp, trách nhiệm và lương tâm với công việc, với học sinh, tận tụy, tận tâm với
nghề, đối xử đánh giá công bằng khách quan kết quả học tập, hoạt động của học
sinh. 27/27 giáo viên cam kết thực hiện đúng điều 75 của luật giáo dục về các hành
vi nhà giáo không được làm. Nhà trường có cơ sở vật chất tốt, các đồ dùng phục vụ
giảng dạy được bổ sung đầy đủ đảm bảo cho việc dạy và học.
Kết quả năm học 2013-2016 toàn trường có 423/423 học sinh xếp loại từ
trung bình trở lên, xếp loại từ khá giỏi 341/423 đạt 80,6% trong đó giỏi 171/423
đạt 40,4%, khá 170/423 đạt 40,1%.
Trong thời gian tới nhà trường sẽ luôn cố gắng để đạt thành tích cao hơn, nâng
cao chất lượng, trình độ, năng lực, ý thức, trách nhiệm cho giáo viên và học sinh.



2. Thực trạng tình hình học tập của học sinh lớp 5D trường Tiểu học
Kiên Thành
Năm học 2016-2017 tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 5D
trường Tiểu học Kiên Thành. Với thời gian chỉ có 13 tuần nên tôi chưa nghiên cứu
được tất cả các lớp trong trường mà chỉ tập trung tìm hiểu trong phạm vi lớp 5D.
Cụ thể: tôi đã điều tra trực tiếp trên 23 học sinh của lớp, trong đó có 8 học
sinh nữ và 15 học sinh nam. Các em đều ở độ tuổi 10.
Phần lớn các em đều là con của gia đình nông dân, bố mẹ các em đều là người
thuần nông, chủ yếu sống bằng trồng trọt. Các em phải thường xuyên giúp đỡ gia
đình nên chưa có nhiều thời gian học tập. Đến lớp các em chưa chú ý nghe giảng
nên kết quả học tập chưa cao.
Việc quan tâm của gia đình đối với việc học tập của các em cũng chưa sát sao
lắm. Một số gia đình mải mê đến việc làm ăn mà đã quá sao nhãng đến các em,
chưa quan tâm các em đến nơi đến chốn. Vì vậy mà việc giáo dục cần phải có biện
pháp với từng đối tượng.
Học sinh lớp 5 là lớp cuối cấp ở Tiểu học. Ở lứa tuổi này, các em đã có nhiều
thay đổi về nhận thức, về tâm sinh lí, tình cảm và cả các mối quan hệ xã hội. Nhiều
em đang ở ngưỡng cửa của tuổi dậy thì. Các em rất dễ bị lôi kéo, dụ dỗ, bị xâm
hại,…Nhưng các em vẫn chưa có đủ khả năng để từ chối, để tự bảo vệ mình. Vì
vậy, các em rất cần được giáo dục và rèn luyện nhiều kĩ năng sống để tự tin trong
học tập, trong cuộc sống.
Đã nhiều năm làm giáo viên chủ nhiệm lớp, phần nào đã có chút ít kinh
nghiệm nhưng tôi vẫn thấy công việc của một giáo viên chủ nhiệm lớp ở tiểu học
là rất nặng nhọc, rất vất vả. Mỗi giáo viên muốn làm tốt công tác chủ nhiệm thì
phải vừa là một giáo viên giỏi về chuyên môn, vừa phải là một nhà tâm lí giỏi để
hiểu học sinh, để xử lí các tình huống rắc rối sao cho khéo léo, tế nhị và đạt hiệu
quả giáo dục cao. Nếu giáo viên không tâm huyết với nghề, không có tinh thần
trách nhiệm cao thì khó mà hoàn thành nhiệm vụ. Chất lượng học tập của học sinh,
nhân cách, đạo đức, lối sống… của học sinh rồi sẽ ra sao? Chính vì hiểu rõ điều đó
nên trong những năm học qua, song song với việc giảng dạy tốt các môn học theo



qui định, tôi luôn cố gắng phấn đấu làm tốt vai trò, nhiệm vụ của một giáo viên chủ
nhiệm lớp.
Chương 3. Các cách thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm
lớp để thúc đẩy chất lượng dạy và học tại lớp 5D trường Tiểu học Kiên Thành
Công việc của giáo viên chủ nhiệm lớp rất bận rộn và vất vả, không thể thống
kê hết được. Trong sáng kiến kinh nghiệm này, tôi chỉ đi sâu vào 3 nội dung chính
sau đây:
1. Xây dựng nề nếp lớp học.
2. Xây dựng “lớp học thân thiện, học sinh tích cực”.
3. Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà.
Sau đây là các biện pháp tôi đã tiến hành:
1. Xây dựng nề nếp lớp học:
a. Nắm thông tin về học sinh
Mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, muốn
đề ra các biện pháp giáo dục học sinh phù hợp, đạt hiệu quả thì trước hết giáo viên
phải hiểu học sinh, phải nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết về từng học sinh.
Do vậy, ngay từ ngày đầu nhận lớp (đầu tháng 8/2016), tôi thực hiện ngay công tác
điều tra thông tin về học sinh
b. Khảo sát đối tượng học sinh để đưa ra những phương pháp giáo dục phù
hợp
- Khảo sát đối tượng thông qua hồ sơ học bạ, qua giáo viên chủ nhiệm các
năm học trước, qua học sinh trong lớp và qua phụ huynh.
- Tiến hành phân loại đối tượng để đưa vào sổ kế hoạch công tác chủ nhiệm,
* Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn (lớp tôi không có
học sinh có hoàn cảnh khó khăn).
* Đối với học sinh cá biệt về đạo đức:
- Tìm hiểu nguyên nhân qua gia đình: Gia đình có sự mâu thuẫn giữa bố và
mẹ, gia đình thiếu quan tâm hoặc có thể bị bạn bè, kẻ xấu lôi kéo….Hoặc trẻ có

những tính xấu mà bản thân gia đình chưa giáo dục được…


- Dùng phương pháp tác động tình cảm, nghiêm khắc đối với học sinh nhưng
không cứng nhắc. Tuyệt đối không sử dụng phương pháp trách phạt, chú ý gần gũi
các em và thường xuyên nhắc nhở động viên khen chê kịp thời. Giao cho các em
đó một chức vụ trong lớp nhằm gắn với các em trách nhiệm để từng bước điều
chỉnh mình.
* Đối với học sinh khuyết tật:
Bản thân tôi xác định nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể từng tuần, tháng, cả năm học
phù hợp với học sinh đó. Đồng thời tôi vận dụng khéo léo các hình thức, biện pháp
như: an ủi, động viên các em, coi các em là những học sinh lành lặn, khoẻ mạnh,
để các em yên tâm học tập, hoà nhập cộng đồng, xoá đi những mặc cảm của bản
thân, động viên cả lớp có tinh thần yêu thương gần gũi giúp đỡ các em trong mọi
lĩnh vực, vật chất cũng như tinh thần. Từ đó các em có xu hướng phấn đấu vươn
lên, hoà nhập cộng đồng.

* Đối với học sinh học chưa đạt chuẩn:
- Tìm hiểu nguyên nhân vì sao em đó chưa đạt chuẩn, chưa đạt chuẩn ở những
môn nào. Có thể là ở gia đình các em đó không có thời gian học tập vì phải làm
nhiều việc hoặc em đó có lỗ hỏng về kiến thức nên cảm thấy chán nản.
- Giáo viên lập kế hoạch giúp đỡ đối tượng bằng những việc cụ thể như sau:
+ Giảng lại bài mà các em chưa hiểu hay còn hiểu mù mờ vào những thời gian
ngoài giờ lên lớp .
+ Đưa ra những câu hỏi từ dễ đến khó để học sinh có thể trả lời được nhằm
tạo hứng thú và củng cố niềm tin ở các em.
+ Thường xuyên kiểm tra các đối tượng đó trong qua trình lên lớp.
+ Tổ chức cho học sinh học theo nhóm để học sinh đạt mức độ trên chuẩn
giúp đỡ học sinh chưa đạt chuẩn tiến bộ.
+ Gặp gỡ phụ huynh học sinh trao đổi về tình hình học tập, cũng như sự tiến

bộ của con em để phụ huynh giúp đỡ thêm việc học ở nhà cho các em.


+ Chú ý tránh thái độ miệt thị, phân biệt đối xử làm cho các em nhụt chí, xấu
hổ trước bạn bè.
Tóm lại dù với đối tượng nào bản thân giáo viên phải lưu ý dùng phương pháp
tác động tình cảm, động viên khích lệ kịp thời, phối hợp với phụ huynh để giáo dục
và đặc biệt xác định vấn đề giáo dục đạo đức là then chốt.
c. Tổ chức bầu Hội đồng tự quản của lớp:
Việc bầu chọn và xây dựng Hội đồng tự quản của lớp là một công việc rất
quan trọng mà người giáo viên chủ nhiệm nào cũng cần phải làm ngay sau khi
nhận lớp mới. Tôi đã tạo dựng và rèn luyện cho các em thể hiện tinh thần dân chủ
và ý thức trách nhiệm đối với tập thể, nên tôi tổ chức cho các em ứng cử và bầu cử
để chọn lựa Hội đồng tự quản của lớp. Tiến trình bầu chọn Hội đồng tự quản của
lớp được diễn ra như sau:
- Trước hết, tôi tuyên truyền phân tích để các em hiểu rõ về vai trò và trách
nhiệm của người Chủ tịch hội đồng tự quản, phó chủ tịch hội đồng tự quản và các
thành viên trong Hội đồng tự quản cho phụ huynh học sinh, học sinh trong lớp tôi
nắm rõ.
- Khuyến khích các em xung phong ứng cử, đề cử. Sau đó tiến hành lễ bầu cử
sẽ bầu vào vị trí Chủ tịch hội đồng tự quản, Phó chủ tịch hội đồng tự quản và quyết
định thành lập các Ban chuyên trách.
Các em được bỏ phiếu, được thể hiện quyền “dân chủ’ của mình, tôi thấy các
em rất vui, rất hào hứng.
2. Xây dựng “lớp học thân thiện, học sinh tích cực”
Muốn phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” ở mỗi
trường đạt hiệu quả thì mỗi giáo viên chủ nhiệm phải tích cực “xây dựng lớp học
thân thiện, học sinh tích cực”. Có nhiều “lớp học thân thiện, học sinh tích cực” thì
mới có “trường học thân thiện, học sinh tích cực”
“Xây dựng lớp học thân thiện” là tạo ra môi trường học tập thân thiện, an

toàn, gần gũi với học sinh, làm cho học sinh cảm thấy “mỗi ngày đến trường là một
niềm vui”. Xây dựng được “lớp học thân thiện” thì sẽ có “học sinh tích cực”. Xây


dựng được lớp học thân thiện, học sinh tích cực thì sẽ hạn chế được tỉ lệ học sinh
lưu ban, bỏ học, sẽ nâng cao được chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.
Công việc “xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực” được tôi tiến hành
từng bước như sau:
a. Trang trí lớp học xanh- sạch- đẹp
Lớp học thân thiện phải có cây xanh, phải luôn sạch sẽ, ngăn nắp và được
trang trí đẹp, đảm bảo tính thẩm mĩ và tính giáo dục cao. Do vậy, tôi hướng dẫn và
cùng với học sinh thực hiện các công việc trang trí lớp học. Trang trí lớp với các
góc đẹp, hài hòa đảm bảo tính thẩm mĩ và tính giáo dục cao. Đặc biệt các sản phẩm
ở các góc là sản phẩm của chính các em học sinh trong lớp và được chính các em
trưng bày, trang trí.
Ngoài ra, tôi cùng với học sinh đề ra 10 yêu cầu cơ bản đối với học sinh của
một lớp học thân thiện, học sinh tích cực.
10 YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA MỘT “LỚP HỌC THÂN THIỆN,
HỌC SINH TÍCH CỰC”
1. Không có học sinh chán học, bỏ học và nghỉ học không có lí do.
2. Lớp học phải được trang trí đẹp, phù hợp, có tính thẩm mĩ và tính giáo dục
cao.
3. Phải sử dụng có hiệu quả và bảo quản tốt các thiết bị, đồ dùng dạy học; sử
dụng tiết kiệm điện, nước.
4. Lớp học phải sạch sẽ trong suốt buổi học, bàn ghế phải ngay ngắn, không
có học sinh xả rác bừa bãi.
5. Xây dựng tập thể thân thiện: không nói tục, chửi thề; phải luôn hòa nhã với
bạn bè và giúp đỡ nhau trong học tập.
6. Lớp học phải an toàn, không có nguy hiểm, không có tai nạn xảy ra.
7. Học sinh phải tích cực tham gia các hoạt động tập thể, rèn luyện kĩ năng

sống, giữ gìn vệ sinh môi trường, cam kết không vi phạm luật giao thông.
8. Học sinh học đủ các môn học theo qui định, chất lượng học tập ngày càng
được nâng cao và vượt trội so với năm học trước.


9. Học sinh tích cực tham gia các hoạt động từ thiện như: thăm hỏi bạn khi
đau ốm, động viên chia sẻ với những bạn có hoàn cảnh khó khăn, tặng sách cũ cho
thư viện trường,…
10. Lớp học là môi trường bình đẳng nam nữ, không phân biệt giàu nghèo,
không có hiện tượng học sinh bị phạt, bị kiểm điểm phê bình trước toàn trường.
Hằng ngày, tôi nhắc nhở các em thực hiện theo 5 nhiệm vụ của người học sinh
và 10 yêu cầu của “lớp học thân thiện, học sinh tích cực”. Khi có học sinh chưa
hoàn thành nhiệm vụ, tôi yêu cầu em đó đọc lại 5 nhiệm vụ của người học sinh và
nêu rõ nhiệm vụ nào mình chưa làm được để sửa chữa, khắc phục. Nhờ vậy, các
em mới tự giác thực hiện, số lượng học sinh vi phạm nội qui của nhà trường, của
lớp ngày càng giảm dần.
b. Xây dựng mối quan hệ thầy- trò và bạn bè trong lớp
* Xây dựng mối quan hệ thầy- trò:
Trước đây, quan hệ thầy, trò là quan hệ chịu ơn- ban ơn; bề trên- kẻ dưới;
giảng giải- ghi nhớ. Ngày nay, quan hệ này được thay bằng quan hệ phân cônghợp tác. Thầy thiết kế- trò thi công. Thầy làm mẫu, giao việc- trò làm theo mẫu của
thầy. Mỗi lời thầy nói ra phải là một “lệnh” (một lời giao việc). Do vậy, mọi yêu
cầu tôi đưa ra, học trò phải thi hành thật nghiêm. Ngay từ đầu, tôi yêu cầu học trò
phải cố gắng làm cho đúng. Nếu chưa đúng thì phải làm lại cho đúng mới thôi.
Đúng là đúng từ việc làm, nghiêm là nghiêm trong việc làm chứ không phải ở thái
độ khắt khe, gay gắt. Quan hệ cơ bản nhất của tôi và học trò là quan hệ hợp tác làm
việc: tôi giao việc- học trò làm; tôi hướng dẫn- học trò thực hiện.
- Hành vi của giáo viên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lí cũng như sự hình
thành tính cách của trẻ. Vì vậy, khi lên lớp, tôi luôn chú y đến cả cách đi đứng, nói
năng, cách ăn mặc, cách cầm sách, chữ viết, thái độ,...để học trò noi theo. Không vì
bất cứ lí do gì mà tôi cho phép mình cẩu thả hoặc xuề xòa, qua loa trước mặt học

sinh.
- Khi học sinh nào làm bài chưa đúng, tôi yêu cầu học sinh đó phải làm lại và
đưa ra biện pháp khắc phục. Tôi giúp đỡ, hướng dẫn học sinh làm lại ngay tại lớp.
Bởi tôi quan niệm rằng đối với học sinh tiểu học nhận xét, đánh giá không phải để


bắt lỗi, để la mắng học sinh mà nhận xét, đánh giá để nhằm phát hiện những chỗ
chưa đúng của học sinh, giúp các em làm lại cho đúng, cho hoàn thiện hơn. Với
cách nói đúng, làm đúng trong học tập, các em trở thành những con người tự tin,
trung thực, không gian dối.
- Khi có học sinh mắc sai lầm, thiếu sót, tôi luôn cố gắng kiềm chế và tôn
trọng học sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu đáo nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ các
em sửa chữa.
Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi biết rằng có những em học
chưa chắc hoặc có hôm không học bài, làm bài nhưng lỗi không phải hoàn toàn là
do các em. Có em ham chơi nên quên học bài, có em do bị mất căn bản từ các lớp
dưới. Nhưng cũng có em chưa chăm học, hoặc không học bài làm bài là do những
điều kiện khách quan. Đâu phải em nào cũng may mắn dược bố mẹ, ông bà động
viên trong mỗi bước học tập. Và có biết bao nhiêu bố mẹ phải lo làm thuê, làm
mướn kiếm sống nên không ngó ngàng gì đến việc học của con cái. Những sóng
gió đó đã tác động đến tâm lí trẻ thơ, cản trở việc học tập của các em. Nếu như
giáo viên không biết được những nguyên nhân đó thì rất dễ nổi giận. Điều đó rất
bất lợi cho quan hệ thầy-trò sau này. Vì vậy, đứng trước một học sinh quậy phá,
hay lơ đãng không học bài, làm bài, tôi không nặng lời ngay mà bình tĩnh chờ đến
hết buổi học gặp riêng các em để hỏi cho rõ nguyên nhân. Lần đầu các em vi
phạm, tôi nhẹ nhàng nhắc nhở. Nếu lần thứ hai, các em vẫn tái phạm, tôi phải đến
nhà tìm hiểu nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ, giáo dục các em.
- Hàng ngày, tôi luôn khích lệ và biểu dương các em kịp thời, ca ngợi những
ưu điểm của các em nhiều hơn là phê bình khuyết điểm. Tôi cố tìm ra ngững ưu
điểm nhỏ nhất để khen ngợi động viên các em. Nhưng trong khi khen, tôi cũng

không quên chỉ ra những thiếu sót để các em khắc phục và ngày càng hoàn thiện
hơn.
- Khi nói chuyện, khi giảng, cũng như khi nghiêm khắc phê bình lỗi lầm của
học sinh, tôi luôn thể hiện cho các em thấy tình cảm yêu thương của một người
thầy đối với học trò. Theo qui luật phản hồi của tâm lí, tình cảm của thầy trước sau
cũng sẽ được đáp lại bằng tình cảm của học trò. Lòng nhân ái, bao dung, đức vị tha


của người thầy luôn có sức mạnh to lớn để giáo dục và cảm hóa học sinh. “Lớp học
thân thiện” chỉ có được khi người thầy có tấm lòng nhân hậu, bao dung, hết lòng vì
học sinh thân yêu của mình. Có một người thầy như vậy thì chắc chắn học sinh sẽ
chăm ngoan, tích cực và ham học, thích đi học.
* Xây dựng mối quan hệ bạn bè:
Trong cuộc sống của mỗi con người, ngoài những người thân trong gia đình
ra, ai cũng cần có bạn bè để chia sẻ. Học sinh tiểu học cũng vậy. Nếu các em có
nhiều bạn bè thân thiết trong lớp thì các em sẽ hợp tác vui vẻ với nhau và sẽ giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ. Em biết sẽ giúp những em chưa biết; ngược lại, em chưa biết
cũng dễ dàng nhờ bạn giúp đỡ mình học tập mà không phải e ngại, xấu hổ (Học
thầy không tày học bạn). Là một giáo viên chủ nhiệm, tôi luôn quan tâm đến vấn
đề này. Xây dựng được mối quan hệ bạn bè đoàn kết, gắn bó thì tôi sẽ xây dựng
được nề nếp lớp học, tiến tới xây dựng môi trường học tập thân thiện. Từ môi
trường học tập thân thiện đó, chất lượng học tập của lớp chắc chắn sẽ được nâng
cao.
Để xây dựng mối quan hệ bạn bè thân thiết, đoàn kết, gắn bó, sẵn sàng giúp
đỡ nhau trong học tập, tôi luôn tạo ra các hoạt động, các vấn đề đòi hỏi sự hợp tác
của nhiều học sinh. Cách làm cụ thể như sau:
- Tôi khuyến khích học sinh tự viết ra những điều em chưa đồng ý về việc
làm, cách cư xử của chủ tịch, phó chủ tịch hoặc của một bạn nào đó trong lớp chứ
không nói xấu, không xa lánh bạn. Căn cứ vào những điều các em viết ra, nếu là
những điều tốt thì tôi đọc cho cả lớp nghe rồi tuyên dương ngay trước lớp. Còn

những điều các em phê bình thì tôi phải điều tra nẵm rõ đúng hay sai. Sau đó mới
góp ý riêng với những học sinh bị bạn phê bình, yêu cầu các em phải xin lỗi bạn và
phải sửa chữa.
- Khi có chuyện xích mích giữa em này với em kia, tôi kịp thời can thiệp
không để mâu thuẫn kéo dài gây ảnh hưởng xấu đến tình bạn. Tôi gặp gỡ trao đổi
riêng với từng học sinh hoặc nhóm học sinh để biết rõ đầu đuôi. Sau đó phân tích
rõ ai đúng, ai sai. Ai sai thì phải nhận lỗi và xin lỗi bạn. Sau đó giảng hòa và bắt
tay nhau vui vẻ trở lại.


- Để tạo dựng cho các em một tình bạn bền đẹp với những kỉ niệm sâu sắc của
tuổi học trò, tôi tổ chức sinh nhật cho học sinh ngay tại lớp học trong giờ sinh hoạt.
Hình thức tổ chức chủ yếu chỉ là múa hát, là những lời chúc mừng và những món
quà nhỏ do tự tay các bạn làm. Xã Kiên Thành là xã thuần nông, gia đình học sinh
chủ yếu làm nghề nông. Nhưng có nhiều gia đình, cha mẹ các em chủ yếu đi làm
thuê. Có rất nhiều em không nhớ ngày sinh của mình. Bởi các em chưa bao giờ
được cha mẹ tổ chức sinh nhật, chưa bao giờ được nhận một món quà mang ý
nghĩa sâu sắc. Vì vậy, khi được cả lớp tổ chức sinh nhật, nhiều em rất xúc động.
c) Tổ chức các hoạt động tập thể và các trò chơi vui tươi lành mạnh
Thích sinh hoạt tập thể và tham gia các trò chơi bổ ích là nhu cầu, là sở thích
của hầu hết các học sinh tiểu học. Vì vậy, khi tổ chức cho các em sinh hoạt tập thể
và tham gia các trò chơi là giáo viên đã giúp các em “học mà chơi, chơi mà học”,
kiến thức và kĩ năng ở mỗi em sẽ được hình thành và rèn luyện một cách nhẹ
nhàng, tự nhiên, không gây căng thẳng, gò bó đối với các em. Ngoài ra, tổ chức
sinh hoạt tập thể và vui chơi còn giúp các em phát triển và hoàn thiện nhân cách,
bồi dưỡng năng khiếu và tài năng sáng tạo. Ngoài ra, việc tổ chức các hoạt động
tập thể còn là sợi dây gắn bó, kết nối, đoàn kết các em lại với nhau.
Các hoạt động sinh hoạt tập thể và một số trò chơi đơn giản, gọn nhẹ, tôi có
thể tổ chức ngay trong mỗi buổi học chính khóa và cả các buổi sinh hoạt ngoài giờ
lên lớp.

* Tổ chức sinh hoạt tập thể và vui chơi trong buổi học chính khóa
Trong các tiết Khoa học, Đạo đức, tôi tổ chức cho các em chơi các trò chơi
như: làm phóng viên; sắm vai xử lí các tình huống phòng tránh bị xâm hại, từ chối
các chất gây nghiện, bày tỏ thái độ đối với người bị nhiễm HIV/AIDS,... và đóng
vai xử lí các tình huống trong môn Đạo đức. Thông qua các hoạt động này, các em
còn được hình thành và rèn luyện nhiều kĩ năng sống cần thiết.
Căn cứ vào phiếu điều tra đầu năm, tôi nắm được khả năng của từng em nên
tôi phân công vai diễn, múa hát hoặc giao việc phù hợp với từng em, khuyến khích
động viên các em tự tin bộc lộ năng khiếu của mình. Nhờ vậy, các tiết học chính
khóa trở nên sôi nổi, các em rất hào hứng tham gia. Thông qua các hoạt động vui


chơi, các em được “làm”, “được trải nghiệm” như trong cuộc sống thực, điều đó sẽ
giúp các em lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống một cách nhẹ nhàng,
nhưng lại hiệu quả.
* Tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể và vui chơi thông qua hoạt động
ngoài giờ lên lớp
- Tổ chức cho học sinh ôn luyện kiến thức bằng các trò chơi như: Rung
chuông vàng, Hái hoa dân chủ, Thi tìm hiểu về An toàn giao thông,.. Nội dung thi
được tôi soạn bằng chương trình powerPoint nên gây được sự thích thú, hào hứng
cho học sinh mỗi lần tham gia.
- Tổ chức các buổi họp lớp, làm đồ dùng học tập và làm báo tường, vẽ tranh
chào mừng các ngày lễ lớn.
- Hướng dẫn các em làm bình hoa, cắt gấp hoa để trang trí góc sáng tạo và làm
một số đồ chơi đơn giản để trưng bày hoặc để tặng người thân bạn bè. Dựa trên
hướng dẫn ở sách báo, tôi tập chung cả lớp lại và hướng dẫn các em làm việc theo
nhóm. Các em cùng làm, cùng góp, giúp đỡ nhau làm việc.
Nhờ thường xuyên tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể và các trò chơi cho
cả lớp nên các em trở nên rất tự tin, rất năng động sáng tạo. Và điều quan trọng là
tôi đã thực sự xây dựng được một môi trường học tập thân thiện, học sinh tích cực.

Sĩ số của lớp tôi luôn đảm bảo, chất lượng học tập của học sinh ngày càng nâng
cao.
3. Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà
Một học sinh muốn có kết quả học tập tốt ngoài việc tiếp thu những kiến thức
ở trên lớp thôi chưa đủ mà việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới tại nhà cũng vô cùng
quan trọng. Trong khi đó, tôi thấy điều kiện gia đình, không gian sống của học sinh
cũng như nhận thức của cả phụ huynh lẫn học sinh chỉ dừng lại ở nhận thức học tại
lớp là đủ. Và điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của các em.
Muốn học sinh tự học ở nhà có kết quả thì các em phải có góc học tập và mỗi em
phải có phương pháp tự học ở nhà. Về phương pháp học tập, tôi có thể hướng dẫn
cho từng em. Nhưng còn góc học tập thì gia đình phải làm cho con em của mình.


Để biết được số học sinh có góc học tập hay không, tôi tiến hành điều tra qua
học sinh, qua phụ huynh, qua bạn bè gần nhà của học sinh. Nhưng để biết chính
xác , tôi phải đến từng nhà học sinh để tìm hiểu. Qua tìm hiểu, tôi biết được lớp tôi
có 15 em có góc học tập phù hợp, 5 em có góc học tập nhưng chưa đạt yêu cầu
( chỗ đặt chưa phù hợp; độ rộng, chiều cao của bàn ghế chưa phù hợp với tầm vóc
của các em) ; 3 em không có góc học tập, khi học các em phải nằm sấp trên giường
hoặc trên sàn nhà, còn sách vở thì các em để lên giường hoặc trên nóc tủ ti vi.
Đối với những em có góc học tập nhưng chỗ đặt chưa phù hợp, tôi trao đổi với
phụ huynh sắp xếp lại vị trí sao cho sáng sủa và thoáng mát về ban ngày, đầy đủ
ánh sáng về ban đêm. Tôi hướng dẫn học sinh cách sắp xếp tập vở, đồ dùng học tập
ngăn nắp, tiện lợi và trang trí góc học tập bằng cách cắt gấp những bông hoa, lọ
hoa bằng giấy để trưng bày và những cái hộp xinh xinh để đựng đồ dùng.
Đối với những em chưa có góc học tập, tôi giải thích, động viên để gia đình
hiểu rằng góc học tập là nơi để các em học bài, nghiên cứu bài và làm bài tập ở
nhà. Có góc học tập sẽ giúp các em hứng thú và có ý thức cao hơn trong việc học ở
nhà. Ngoài ra, góc học tập còn là nơi để các em rèn luyện tính cẩn thận, ngăn nắp
và phát triển óc thẩm mĩ của bản thân.

Sau một khoảng thời gian nhất định, tôi lên kế hoạch kiểm tra cụ thể để nắm
chính xác tình hình. Chỉ trong 1 buổi tôi đã đi hết tất cả các gia đình những em
chưa có góc học tập hoặc có góc học tập nhưng chưa đáp ứng yêu cầu. Lúc đầu, có
phụ huynh còn e ngại, thậm chí còn bảo tôi bày vẽ. Nhưng thấy tôi quan tâm và hết
lòng vì học sinh nên dần dần phụ huynh cũng hiểu ra và nhiệt tình hưởng ứng.
Hoàn cảnh của một số gia đình học sinh còn rất nghèo nhưng phụ huynh cũng đã
cố gắng tạo cho con em mình một góc học tập ở nhà. Tuy chưa đáp ứng được đầy
đủ các yêu cầu song quan trọng là các em đã có chỗ để học, không phải nằm sấp
trên sàn, trên giường nữa. Và phụ huynh cũng thấy được tầm quan trọng của việc
tự học ở nhà của con em mình, phối hợp với tôi trong việc dạy dỗ và giáo dục các
em nên người.


Khi các em đã có góc học tập, tôi hướng dẫn mỗi em phải lập thời gian biểu
thật cụ thể, phù hợp với tình hình của gia đình. Thông qua thời gian biểu, tôi biết
được chính xác thời gian học bài ở nhà của từng em.
Căn cứ và thời gian học bài ở nhà của từng em, tôi đi kiểm tra, hướng dẫn các
em tự học ở nhà. Việc kiểm tra các em học bài ở nhà được tôi thực hiện đều đặn và
duy trì thường xuyên.


Phần 3: Kết luận và kiến nghị
1. Kết luận
Giáo dục Tiểu học là vấn đề chính trị-xã hội quan trọng, có giá trị cơ bản và
lâu dài, có tính quyết định đối với cuộc đời cá nhân mỗi người. Vì vậy, người giáo
viên chủ nhiệm lớp ở tiểu học có một vị trí đặc biệt quan trọng. Lao động của một
giáo viên chủ nhiệm lớp ở tiểu học là lao động sáng tạo không ngừng, sự sáng tạo
đó đòi hỏi phải toàn diện: sáng tạo trong soạn giảng, trong tổ chức các hoạt động
học tập, vui chơi, trong sinh hoạt tập thể và đặc biệt là trong các biện pháp giáo
dục đạo đức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Vì vậy chỉ có những giáo viên

thực sự tâm huyết với nghề, thực sự thương yêu học sinh của mình thì mới có thể
hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Với thời gian chỉ có 13 tuần, đây là khoảng thời gian rất ngắn, hơn nữa bản
thân hiện đang là một giáo viên trẻ nên chưa có kinh nghiệm do vậy cũng mới chỉ
nắm bắt được hầu hết thực trạng học tập của học sinh lớp 5D trường Tiểu học Kiên
Thành. Nhưng trong phạm vi sáng kiến kinh nghiệm nghiên cứu này của tôi, tôi
cũng đã nêu lên được khái quát cơ sở lý luận và thực trạng học tập của lớp 5D
trường Tiểu học Kiên Thành.
Những công việc tôi làm đều bắt nguồn từ tinh thần trách nhiệm của một giáo
viên chủ nhiệm lớp, từ tình yêu đối với học trò của mình. Nhưng bên cạnh đó, tôi
cũng luôn nhận được sự động viên khích lệ của cán bộ quản lí nhà trường, sự chia
sẻ đóng góp từ các giáo viên trong tổ chuyên môn. Nhưng kết quả đạt được lại rất
khả quan. Rõ ràng qua cách làm này, tôi thấy kết quả học tập của học sinh ngày
càng tiến bộ rõ rệt. Các em ngày càng chăm ngoan. Điều đó làm tôi rất vui mừng
và vơi đi những vất vả, mệt nhọc. Tình cảm thầy- trò, bạn bè ngày càng gắn bó và
thân thiện. Nhưng mọi sản phẩm làm ra cho dù tốt đến mấy, chất lượng cao đến
mấy cũng không thể hoàn hảo tuyệt đối. Sáng kiến kinh nghiệm của tôi cũng vậy.
Tuy tôi đã rất cố gắng nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế.
Bằng phương pháp điều tra thực tế lớp 5D trường Tiểu học Kiên Thành, tôi
nhận thấy tình hình học tập của các em khá chăm chỉ và đạt kết quả. Trên lý thuyết


các em có ý thức được vai trò của việc học và đã có niềm say mê và rút ra được
phương pháp học cho mình nhưng trên thực tế các em vẫn chưa làm được như vậy.
Vậy nên các thầy cô cần có biện pháp giúp các em biến ý thức thành hành
động cụ thể để tạo nên hứng thú học tập thực sự trong mỗi con người các em.
Chúng ta cần phải hết mình góp phần tích cực vào việc hình thành con người mới,
con người Chủ nghĩa Xã hội để thực hiện mong muốn, lời dạy của Bác “Nước Việt
Nam có sánh vai được với cường quốc năm châu được hay không chính là nhờ vào
một phần lớn công học tập của các cháu”. Lời dạy đó vẫn còn vang vọng đến ngàn

đời.
2. Kiến nghị
2.1. Đối với Giáo viên
Theo tôi, muốn trở thành một nhà sư phạm, một giáo viên chủ nhiệm lớp giỏi,
khéo léo, tinh tế trong ứng xử và thành công trong việc giáo dục học sinh thì mỗi
người giáo viên chủ nhiệm cần phải:
- Tìm hiểu để biết được một cách toàn diện, sâu sắc về từng học sinh. Hiểu rõ
hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tâm lí, tính cách, sở thích, thói quen,...của từng học
sinh để có biện pháp giáo dục phù hợp.
- Chú trọng xây dựng và bồi dưỡng Hội đồng tự quản, huấn luyện để các em
trở thành những “người lãnh đạo nhỏ” tài ba.
- Giáo viên cần xây dựng tốt mối quan hệ: Giáo viên-Học sinh, Học sinhGiáo viên, Học sinh-Học sinh, Học sinh-bài học. Giáo viên nên thường xuyên quan
tâm, khuyến khích, đánh giá đúng, công bằng,...đối với mọi học sinh, tạo nên môi
trường học tập thân thiện, cùng chia sẻ, kích thích nhau tích cực học tập.
- Luôn giữ được sự bình tĩnh trước lỗi lầm của học sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu
đáo nguyên nhân của mỗi tình huống xảy ra để có cách xử lí đúng đắn, hợp tình,
hợp lí; tránh trách nhầm, trách oan học sinh làm các em hoang mang, thiếu niềm
tin vào người thầy.
- Luôn biết khích lệ biểu dương các em kịp thời. Hãy khen ngợi những ưu
điểm sở trường của các em để các em thấy giá trị của mình được nâng cao, có niềm
tin và hứng thú học tập hơn.


- Luôn thể hiện cho học sinh thấy tình cảm yêu thương của một người thầy đối
với học sinh. Hãy nhớ rằng lòng nhân ái, bao dung, đức vị tha của người thầy luôn
có một sức mạnh to lớn để giáo dục và cảm hóa học sinh.
- Duy trì và sáng tạo trong công tác xây dựng “lớp học thân thiện học sinh
tích cực”, làm sao để tất cả các em luôn cảm thấy “mỗi ngày đến trường là một
niểm vui.
- Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh; kiên trì vận động phụ huynh tích

cực tham gia vào công tác giáo dục học sinh.
2.2. Đối với Cha mẹ học sinh
- Không nên dùng mệnh lệnh ép buộc học sinh mà tạo điều kiện và động viên,
giúp đỡ các em trong quá trình học tập
- Đối với học sinh tiểu học việc kiểm tra, động viên, sự quan tâm, chăm sóc
tạo điều kiện và thương yêu của gia đình là cơ sở để hình thành, nâng cao hứng thú
học tập cho học sinh.
- Phối hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm lớp trong công tác giáo dục.
2.3. Với các cấp quản lý
Để tạo điều kiện cho giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm đề nghị các cấp cần
có những hình thức để khuyến khích giáo viên như sau:
- Các cấp lãnh đạo thường xuyên tổ chức các đợt tập huấn về công tác chủ
nhiệm để giáo viên học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
- Tổ chức Hội thi giáo viên chủ nhiệm giỏi các cấp và có hình thức khen
thưởng các giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm nhằm động viên khuyến khích họ.
Kiên Thành, ngày 18 tháng 11 năm 2016
NGƯỜI THỰC HIỆN

Bùi Minh Tuyết


ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA HĐ KHOA HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC KIÊN THÀNH

.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA HĐ KHOA HỌC PHÒNG GD&ĐT LỤC NGẠN

.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................


ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC SỞ GD&ĐT BẮC GIANG

.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................


×