Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Ôn tập các tác phẩm văn học lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (650.69 KB, 39 trang )

ĐỒNG CHÍ
(Chính Hữu)
Phải chăng chất lính đã thấm dần vào chất thi ca, tạo nên dư vị tuyệt vời cho tình Đồng chí. Nói
đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc và sự chân thành. Không có cảm xúc, thơ sẽ không thể có
sức lay động hồn người, không có sự chân thành chút hồn của thơ cũng chìm vào quên lãng.
Một chút chân thành, một chút lảng mạn, một chút âm vang mà Chính Hữu đã gieo vào lòng
người những cảm xúc khó quên. Bài thơ Đồng chí với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp tươi
vui; với ngôn ngữ bình dị dường như đã trở thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự hi vọng,
lòng cảm thông sâu sắc của một nhà thơ cách mạng. Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào chất
thơ, sự mộc mạc đã hòa dần vào cái thi vị của thơ ca tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng và đầy
cảm xúc?
Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên, hình ảnh
những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm
tin yêu và hi vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ Đồng chí, Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu
vào cả xuất thân của những người lính:
Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những người nông dân mặc
áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa. Đất nước bị kẻ thù
xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một tròng áp bức. Anh và tôi, hai người bạn mới
quen, đều xuất thân từ những vùng quê nghèo khó. hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song
hành, thể hiện tình cảm của những người lính. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họ tạm biệt
người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu,
họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tố quốc. Những khó khăn ấy dường như
không thể làm cho những người lính chùn bước:
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Họ đến với cách mạng cũng vì lí tưởng muốn dâng hiến cho đời. Sổng là cho đâu chỉ nhận riêng
mình. Chung một khát vọng, chung một lí tưởng, chung một niềm tin và khi chiến đấu, họ lại


kề vai sát cánh chung một chiến hào... Dường như tình đồng đội cũng xuất phát từ những cái
chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn, câu thơ cũng trở nên gần gũi
hơn:
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kí
Đồng chí!...


Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ không chỉ đưa bài thơ lên tận
cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và cái âm vang lạ lùng cũng làm
cho tình đồng chí đẹp hơn, cao quý hơn. Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo
nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lòng người đọc. Trong muôn vàn nốt nhạc của
tình cảm con người phải chăng tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất, nhịp
thở của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thơ của bài thơ cũng như mảnh mai hơn. Dường như
Chính Hữu đã thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một âm vang bất
diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu. Hồi ức của những
người lính, những kỉ niệm riêng tư quả là bất tận:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Cái chất nông dân thuần phác của những anh lính mới đáng quý làm sao! Đối với những người
nông dân, ruộng nương, nhà cửa những thứ quý giá nhất. Họ sống nhờ vào đồng ruộng, họ lớn
lên theo câu hát ầu ơ của bà của mẹ. Họ lớn lên trong những gian nhà không mặc kệ gió lung
lay. Tuy thế, họ vẫn yêu, yêu lắm chứ những mảnh đất thân quen, những mái nhà thân thuộc....
Nhưng... họ đã vượt qua chân trời của cái tôi bé nhỏ để đến với chân trời của tất cả. Đi theo con
đường ấy là đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước. Bỏ lại sau
lưng tất cả những bóng hình của quê hương vẫn trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của mỗi người
lính. Dầu rằng mặc kệ nhưng trong lòng họ vị trí của quê hương vẫn bao trùm như muốn ôm ấp
tất cả mọi kỉ niệm. Không liệt kê, cũng chẳng phải lối đảo ngữ thường thấy trong thơ văn,
nhưng hai câu thơ cũng đủ sức lay động hồn thơ, hồn người:
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có sức sống
mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa giếng nước gốc đa cũng có nỗi nhớ khôn nguôi với những
người lính. Nhưng không kể những vật vô tri, tác giả còn sử dụng nghệ thuật hoán dụ để nói lên
nỗi nhớ củu những người ở nhà, nỗi ngóng trông của người mẹ đối với con, những người vợ đối
với chồng và những đôi trai gái yêu nhau... Bỏ lại nỗi nhớ, niềm thương, rời xa quê hương
những người lính chiến đấu trong gian khổ:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đầm mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phải chăng sự khó khăn vất vả thiếu thốn của
những người lính đã làm cho nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng hơn. Đất nước ta còn nghèo, những
người lính còn thiếu thốn quân trang, quân dụng, phải đối mặt với sốt rét rừng, cái lạnh giá của
màn đêm... Chỉ đôi mảnh quần vá, cái áo rách vai, người lính vẫn vững lòng theo kháng chiến,
mặc dù nụ cười ấy là nụ cười giá buốt, lặng câm. Tình đồng đội quả thật càng trong gian khổ lại


càng tỏa sáng, nó gần gũi mà chân thực, không giả dối, cao xa... Tình cảm ấy lan tỏa trong lòng
của tất cá những người lính. Tình đồng chí:
Là hớp nước uống chung, nắm cơm bẻ nửa,
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa,
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà,
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết
(Nhớ - Hồng Nguyên)
Một nụ cười lạc quan, một niềm tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được Chính Hữu cô
lại chỉ với nụ cười - biểu tượng của người lính khi chiến đấu, trong hòa bình cũng như khi xây
dựng Tố quốc, một nụ cười ngạo nghễ yêu thương, một nụ cười lạc quan chiến thắng...

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Nhịp thơ đều đều 2/2/2 - 2/2/3 cô đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đó cũng chính là vẻ
đẹp ngời sáng trong gian khổ của người lính. Vượt lên trên tất cả, tình đồng đội, đồng chí như
được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết, vẫn đứng canh giữ cho bầu trời
Việt Nam dù đêm đầy khuya, sương đã xuống, màn đêm cũng chìm vào quên lãng. Hình ảnh
người lính bỗng trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn. Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Xem
vào cái chân thực của cả bài thơ, câu thơ cuối cùng vẫn trở nên rất nên thơ:
Đầu súng trăng treo
Ánh trăng gần như gắn liền với người lính:
Chiến tranh ở rừng Trăng thành tri kí
(Ánh trăng - Nguyễn Duy)
Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự quyện hòa
giữa không gian, thời gian, ánh trăng và người lính. Cái thực đan xen vào cái mộng, cái dũng
khí chiến đấu đan xen vào tình yêu làm cho biểu tượng người lính không những chân thực mà
còn rực rỡ đến lạ kì. Chất lính hòa vào chất thơ, chất trữ tình hòa vào chất Cách mạng, chất thép
hòa vào chất thi ca. Độ rung động và xao xuyến của cả bài thơ có lẽ chỉ nhờ vào hình ảnh ánh
trăng này. Tình đồng chí cũng thế, lan tỏa trong không gian, xoa dịu nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá
lạnh của màn đêm. Nụ cười chiến sĩ như cất cao tiếng hát ngợi ca tình đồng chí. Thiêng liêng
biết nhường nào, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ sát cạnh vai nhau kề vai
sát cánh cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập.
Quả thật, một bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn, trong cái lớn lao
nhất của đời người. Gặp nhau trên cùng một con đường Cách mạng, tình đồng chí như được thắt
chặt hơn bằng một sợi dây yêu thương vô hình. Bài thơ Đồng chí với ngôn ngữ chân thực, hình
ảnh lãng mạn, nụ cười ngạo nghễ của các chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con người. Tình


đồng chí ấy có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai hay
mãi mãi về sau.
**************************************


BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
(Phạm Tiến Duật)
Những năm tháng chống Mỹ hào hùng của dân tộc đã để lại biết bao hồi ức và những dấu ấn
khó phai mờ. Hình ảnh những những cô gái thanh niên xung phong, anh bộ đội cụ Hồ là một
trong những hình ảnh đẹp nhất, lãng mạn và anh hùng nhất trong kháng chiến. “Bài thơ về tiểu
đội xe không kính” chính là một trong những minh chứng tiêu biểu cho nét tinh nghịch cũng
như tinh thần bất khuất, hiên ngang hào hùng của người chiến sĩ.
Với phong cách thơ tự do phóng khoáng, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ đặc
sắc, tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật. Đây cũng là bài thơ nằm trong chùm thơ
được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969-1970, Mở đầu bài thơ là một hình ảnh hết
sức cụ thể, chân thực và độc đáo:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Chỉ với hai câu thơ như hai nét chấm phá đã khiến cho người đọc hình dung được bức tranh ác
liệt, tàn khốc của chiến tranh. Những chiếc xe vốn có kính, đã có kính nhưng vì “bom giật bom
rung” cho nên “kính vỡ đi rồi”. Chiến tranh với những mưa bom bão đạn đã tàn phá những
chiếc xe, làm cho chúng biến dạng, méo mó khiến cho chúng trở nên khác thường. Kì dị và độc
đáo chính là những tính từ miêu tả chính xác cho những chiếc xe như vậy. Và có thể thấy rằng,
lời giải thích rất thật thà, đơn giản nhưng lại chứa đựng một hiện thực sâu sắc.
Không có kính, tưởng chừng như thiếu thốn, tưởng chừng như vất vả nhưng ở đây những chiến
sĩ lái xe lại không hề bi quan. Họ biến hình ảnh chiếc xe không kính không bình thường thành
cái bình thường và biến cái thiếu thốn, khó khăn thành điều thú vị. Chính vì thế mà người đọc
bắt gặp ở đây những nét tinh nghịch và lạc quan của người lính:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời nhìn thẳng
Hai từ “ung dung” đảo lên đầu câu cho thấy tư thế hiên ngang, có thể làm chủ được tay lái, làm
chủ được con đường phía trước của người lính lái xe. Không những thế, đại từ “ta” vừa là chỉ
người lái xe, vừa là đại diện cho nhiều người, cho một đất nước trong tư thế sẵn sàng chiến đấu
để giành lại độc lập, tự do và hòa bình. Với tâm thế này, thì phía trước là trời đất bao la, rộng

lớn hay phía trước là những khó khăn vất vả thì người chiến sĩ vẫn tự tin tiến về phía trước,
quân dân ta vẫn hùng mạnh bước tới.
Nhìn đất nhìn trời, người lính lái xe còn:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái


Thật là điều vô lý nhưng lại rất hợp lý, bởi lẽ, xe không có kính, mọi cảnh vật rất tự nhiên và
chân thực. Ngay cả gió cũng có thể “nhìn thấy”, Còn sao trời, cánh chim thì “như sa, như ùa
vào buồng lại”. Từ “nhìn” cũng không chỉ đơn thuần là thị giác nữa mà đó còn cảm nhận, tình
cảm. “Thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Có lẽ trong lòng người chiến sỹ đang có một ý chí
quyết tâm cao độ nên mới cảm nhận được sự tinh tế cũng như nhận ra những hiểm nguy phía
trước, vẫn cố gắng kiên cường để vượt qua. Một không gian bao la, rộng lớn như bao trùm lên
phía trước.
Nếu đoạn thơ trên nói đến những hình ảnh đẹp thì đoạn thơ tiếp theo sau lại nói về những vất
vả, thiếu thốn của người lính lái xe. Song, dù ở bất kì hoàn cảnh nào thì các anh vẫn luôn nở nụ
cười lạc quan, hóm hỉnh đầy chất lính:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi
Gió bụi của hiện thực và cũng là những gian khổ, thử thách mà các chiến sĩ lái xe phải vượt qua
trên suốt chặng đường ra mặt trận. Qua chặng đường đầy gió bụi, mái tóc xanh của các chàng
trai có sự thay đổi đáng sợ: “Bụi phun tóc tắng như người già”. Thế nhưng các anh vẫn rất lạc

quan, yêu đời và hóm hỉnh: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.
Trời nắng thì bụi. Trời mưa thì ướt sũng “như ngoài trời”. “Mưa tuôn mưa xối” thẳng vào người
vì buồng lái đâu có kính che chắn gì nữa. Vậy là trên suốt chặng đường dài, người lính đã phải
nếm trải đủ mùi gian khổ: gió bụi, mưa rừng. Mặc dù vượt hết khó khăn này lại tới khó khăn kia
nhưng người lính vẫn ngang tàng, phơi phới lạc quan: “Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa/Mưa
ngừng gió lùa khô mau thôi”. Điệp từ “chưa cần” đã cho thấy cái “ngông”, cái bất cần đời của
anh lính bộ đội cụ Hồ. Những gió, những bụi chỉ là những cái khó khăn vụn vặt, cho nên các
anh chẳng hề quan tâm. Thiên nhiên có khắc nghiệt, chiến tranh có tàn khốc thì cũng không làm
chùn bước, ý chí của người lính cách mạng.
Và trong cuộc chiến tranh đầy gian lao, thử thách ấy, tình cảm đồng chí, đồng đội lại càng trở
nên gắn bó và gần gũi với nhau hơn:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua của kính vỡ rồi
Qua bao bom đạn, từ khắp các ngả đường, những chiếc xe đã cùng về một nơi tụ hội, để kể cho
nhau nghe những chặng đường mà mình đã đi qua. Hình ảnh “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”
đã cho thấy tinh thần đoàn kết, gắn bó với nhau của các chiến sĩ lái xe. Đó cũng chính là tinh
thần của toàn dân ta, cùng nhau vượt qua những khốn khó gian lao để tiến bước đi đến thành
công.
Những tình cảm ấy đã làm thành sức mạnh, giúp cho những người lính trở nên mạnh mẽ và lạc
quan hơn. Chiến tranh vì thế cũng bớt thảm khốc, bớt ảm đạm hơn.


Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Một lần, sự tàn khốc của chiến tranh lại được Phạm Tiến Duật nhắc đến thông qua những chi
tiết như xe “không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước”. Nhưng dù chiến tranh có

tàn khốc đến máy thì ý chí và sự nỗ lực vì miền Nam vẫn không ngừng nghỉ. Hình ảnh “trái
tim” chính là một hình ảnh đẹp. Nó tượng trưng cho lý tưởng chiến thắng, thống nhất nước nhà.
Những chiếc xe ngày đêm băng qua mọi nẻo đường, tất cả chỉ nhằm giúp sức cho miền Nam
toàn thắng.
Với hình ảnh người chiến sĩ vận tải kiên cường, hùng dũng và đầy lạc quan, hóm hỉnh, “Bài thơ
về tiểu đội xe không kính” đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Và cái kết
tinh đẹp nhất trong bài thơ ấy chính là tình đồng chí gắn bó và tình yêu Tổ quốc thiêng liêng.
**************************************

ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
(Huy Cận)
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đã giấy lên một phong trào “ mỗi
người làm việc bằng hai” vừa xây dựng miền Bắc, vừa chi viện cho chiến trường tiền tuyến
miền nam. Khắp nơi mọi người ra sức lao động không quản ngày đêm, khổ cực. Với tinh thần
đó, các nhà văn, nhà thơ đã đi sát với cuộc sống của những người lao động để phản ánh và ca
ngợi họ. Trong đó, tác phẩm để lại được nhiều ấn tượng nhất, có lẽ là “ Đoàn thuyền đánh cá”
của Huy Cận.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh đoàn thuyền ra khơi :
“ Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Bằng giọng thơ gân guốc, với cặp mắt quan sát tinh tế, tác giả đã chọn một thời điểm hết sức
đặc biệt đó là lúc hoàng hôn. Mặt trời từ từ lặn sâu xuống lòng biển được tác giả ví như “ hòn
lửa”. Với cách so sánh này, làm hiện ra trước mặt người đọc một không gian huy hoàng và tráng
lệ làm ngây ngất lòng người. Nhưng không gian đẹp đẽ ấy cũng chỉ diễn ra trong chốc lát rồi
nhường chỗ cho màn đêm lan tỏa. Với nghệ thuật nhân hóa “ sóng cài then, đêm sập cửa” đã thể
hiện sự dứt khoát về chuyển giao không gian. Sau một ngày làm việc vất vả, vũ trụ đã đi vào
nghỉ ngơi, thư giãn. Trong hoàn cảnh đó, con người lại bắt tay vào lao động. Sự đối lập giữa
thiên nhiên và con người cùng với các biện pháp nghệ thuật độc đáo đã tạo nên một không gian

lộng lẫy, gợi bao cảm xúc cho người đọc. “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”, thể hiện rõ nét đây
không phải là lần đầu đi biển mà công việc đó được lặp đi lặp lại một cách đều đặn, thường
xuyên. Phải nói rằng, đi đánh cá trên biển đã trở thành nền nếp, không phải của con thuyền mà


của cả đoàn thuyền. Họ ra đi với tinh thần đoàn kết, phấn khởi, lạc quan, khí thế khẩn trương
trong lao động. Tinh thần đó được thể hiện qua câu hát khỏe khoắn, lời hát của họ như hòa vào
trong gió, thổi căng buồm đẩy con thuyền thẳng tiến ra khơi.
Ở khổ thơ tiếp theo, tác giả miêu tả nổi bật về nét đẹp của người dân làng chài :
“ Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”
Câu hát của những người đi biển, nó không những thể hiện được tâm hồn lạc quan và khí thế
khẩn trương mà còn nói lên niềm mong ước của con người. Đi đánh cá từ ngàn đời này may rủi
là chuyện thường tình. Vì vậy, trong câu hát ta đọc được những ước mong của họ. Đó là ước
mong về trời yên biển lặng, gặp được luồng cá để đánh bắt được nhiều. Giọng điệu lời thơ như
ngân lên ngọt ngào, ngân dài và xa mãi. Các hình ảnh của cá được so sánh, ẩn dụ là những nét
snags tạo độc đáo đem đến cho người đọc một cảm nhận thứ vị về con người lao động trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Ở khổ thơ thứ ba là hình ảnh con thuyền với cảnh đánh bắt cá trên biển :
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa may cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Có thể nói rằng, toàn bộ khổ thơi là một bức tranh sơn mà lộng lẫy. Tất cả các hình ảnh : mây,
nước, sao, trời được vẽ nên bằng ngôn ngữ lung linh, huyền ảo. Đặc biệt là hình ảnh con thuyền
vừa có tính hiện thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. “ Lái gió” “ buồm trăng” – đọc câu thơ, ta
có cảm nhận thiên nhiên cũng góp phần vào công cuộc đánh bắt. Trăng sao như soi rõ hơn cho
con người phát hiện ra luồng cá. Giữa biển trơi mênh mông, trời và biển như hòa vào một. Còn

đối với người dân chai, tác giả miêu tả họ với tinh thần làm chủ biển khơi. Họ chủ động, sáng
tạo trong lao động, bố trí đánh bắt cá như một trận đánh. Với tinh thần lao động hang hái, lạc
quan như thế, thì chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn.
Ở khổ thơ thứu tư, tác giả dành riêng để miêu tả sự giàu có của biển cả :
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuộc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long
Nếu như cả bài thơ là một bức tranh sáng tạo về không khí lao động của những người đi biển,
thì chi tiết về đàn cá là một sáng tạo đặc sắc. Các biện pháp nghệ thuật ở đây được sử dụng một
cách linh hoạt, làm người đọc cảm thấy được sự giàu có của biển cả. Hình ảnh cá được miêu tả


mơ mộng làm sao : “ cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”. Trong cái giàu có đó, ta nghe được
nhịp thở của biển khơi : “ Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”. Có thật sự yêu mến biển, yêu con
người lao động thì nhà thơ mới có được những hình ảnh đẹp, những cau thơ hay đến như vậy.
Ở khổ thơ tiếp theo, là hình ảnh bao dung của biển:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào
Nếu như mở đầu bài thơ là tiếng hát căng buồm khi ra khơi thì ở đây lại là khúc ca gọi cá. Tiếng
hát được vang lên trong những giờ lao động, xua đinh những khó nhọc và làm khô đi những
giọt mồ hôi. Trong hương vị mặn mòi của biển, lời hát như khích lệ, giúp cho thành quả lao
động được cao hơn. Biển trong khổ thơ này được miêu tả hết sức bao dung và nhân hậu “ cho ta
cá như lòng mẹ”. Người dân chai gắn liền cuộc đời mình với biển cả, vì thế biển đối với họ thật
gần gũi, thân thiết biết bao.
Sau một đêm lao động vất vả khẩn trương, họ đã gặt hái được những thành quả lao động xứng
đáng :
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chum cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng
Thời gian trôi nhanh, sau một đêm dài miệt mài trong lao động, thế nhưng tình thần của những
người đi biển vẫn không hề giảm sút. Họ hang hái thu hoạch những mẻ cá đầy khoang. Vì sao
vậy ? Phải chăng sau một đêm vất vả, họ đã thu được thắng lợi lơn “ chùm cá nặng”. Hình ảnh
những con cá trên khoang thuyền được miêu tả sao mà đẹp thế “ vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng
đông”. Phải chăng đây chính là tương lai của những người đi biển, tương lai do chính bàn tay
họ tạo nên.
Phần cuối bài thơ là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về :
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Một điều người đọc dễ nhận thấy nhất đó là câu hát được cất lên từ lúc ra đi cho đến lúc trở về.
Những câu hát khi trở về thể hiện rõ một niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh rạng đông và mặt trời
từ từ đổi biển nhô lên thật tuyệt diệu. Và, tuyệt diệu hơn cả đó là đoàn thuyền trở về với cá đầy
khoang. Hình ảnh con thuyền trở về được miêu tả khẩn trương như lúc ra đi : “ đoàn thuyền
chạy đua cùng mặt trời”. Phải chăng ở đây, những người đi biển đang chạy đua với thời gian để


chuẩn bị cho đợt ra biển tiếp theo. Những người lao động không thỏa mãn với những kết quả
đạt được. Vì vậy, họ phải chạy đua với thời gian để làm ra được nhiều của cải hơn cho đất nước.
Cảnh bình minh thật huy hoàng nhưng người lao động không kịp ngắm nó, hầu như mọi tâm trí
của họ chỉ tập trung vào công việc lao động. Đây chính là tinh thần lao động của nhân dân ta
trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Với giọng thơ khỏe mạnh, kết hợp với
cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật nhân hóa, hoán dụ tài tình, nàh thơ đã vẽ lên được một
bức tranh tuyệt đẹp về cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lúc bình mình.
Công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc đã đi qua. Nhưng mỗi lần đọc lại bài “ đoàn thuyền
đánh cá” ta như thấy hiện ra trước mắt tinh thần lao động khẩn trương của những con người

không quản ngày đếm để làm ra được thêm nhiều của cải cho đất nước. Cả bài thơ là một bức
tranh tuyệt đẹp, đẹp về cảnh thiên nhiên, đẹp về tinh thần lao động. Đó là thành công nhất của
nhà thơ Huy Cận trong tác phẩm này.
**************************************

BẾP LỬA
(Bằng Việt)
Tình cảm gia đình là một nguồn cảm hứng bất tận đối với các thi sĩ, đã có rất nhiều tác phẩm
làm xúc động lòng người khi viết về đề tài thiêng liêng này. Bài thơ “Bếp lửa” của tác giả Bằng
Việt cũng viết về đề tài này, thắp sáng tình cảm gia đình bằng hơi ấm thấm đượm tình bà cháu
nồng nàn. Bằng những vầng thơ theo dòng hồi tưởng, gợi nhớ về tuổi thơ của đứa cháu xa nhà,
bài thơ “Bếp lửa” đã ca ngợi đức hi sinh, sự tần tảo và tình thương bao la của bà, đồng thời thể
hiện sự kính yêu và lòng biết tha thiết của cháu đối với bà.
Ra đời vào năm 1963, bài thơ “Bếp lửa” đã tái hiện chân thật một khoảng kí ức tuổi thơ của
người cháu bên bà của mình. Tuổi thơ của người cháu gắn liền với hình ảnh người bà thân
thương và bếp lửa ấp iu nồng đượm khiến người cháu mỗi khi nhớ về lại có những cảm xúc vô
cùng yêu thương xen lẫn cảm phục người bà của mình. Bài thơ không chỉ nói lên tình cảm của
người cháu giành cho bà mình mà còn khẳng định rằng bếp lửa không chỉ làm ấm tình cảm bà
cháu mà còn sưởi ấm một đời người.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa khơi gợi cho người cháu nhớ về bà mình:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Hình ảnh “bếp lửa” trong màn sương sớm đã được khắc họa giản dị nhưng rõ nét và sống động
qua ba câu thơ. “Bếp lửa” có lúc sáng mãnh liệt, có lúc yếu, không định hình đã trở thành một
đồ dùng, một hình ảnh gần gũi và quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày của người dân Việt
Nam. Đó không chỉ là nơi để đun nấu mà còn là nơi sum họp, ghi dấu những niềm vui, nỗi buồn
của mọi gia đình. Điệp ngữ “một bếp lửa” cùng với các từ láy “chờn vờn”, “ấp iu” đã gợi nên
sự ấm áp, đầy tình thương yêu như tấm lòng bà. Từ “ấp iu” gợi lên sự khéo léo của bàn tay bà
khi bà nhóm bếp lửa, tấm lòng yêu thương, chi chút của bà đến con cháu. Trong hồi tưởng của

cháu, hình ảnh người bà luôn hiện diện cùng bếp lửa qua bao năm tháng. Hình ảnh của bà hiện
lên một cách nhẹ nhàng nhưng vô cùng đẹp đẽ trong trái tim người cháu, bà vẫn luôn nhóm bếp
lửa mỗi sáng mỗi chiều suốt cả cuộc đời. Hình ảnh “bếp lửa” là biểu hiện cụ thể và sinh động về


sự tần tảo, chăm sóc và yêu thương của người bà đối với con cháu trong mọi hoàn cảnh khó
khăn, gian khổ. Trước sự hy sinh của bà, người cháu luôn “thương bà biết mấy nắng mưa”. Từ
đó làm bật lên tình cảm sâu nặng của người cháu một cách thật tự nhiên, không thể tà xiết vì
những “nắng mưa”, khó nhọc vất vả của cuộc đời bà. Từ “thương” diễn đạt rất chân thật mà
giản dị không chút hoa mỹ tấm lòng yêu mến bà của cháu.
Từ tình yêu thương và nỗi nhớ da diết, người cháu nhớ về kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Những vần thơ nhẹ nhàng như lời kể lại những năm tháng thơ ấu đầy gian khổ của cháu với
bóng đêm của nạn đói năm 1945. Khi nhớ về những ngày thơ ấu gian khổ bên bà, người cháu
nhớ về năm đói kém mà cháu sống trong sự cưu mang, tình yêu thương sâu đậm của bà khi bố
phải đi “đánh xe”, để cháu lại quê nhà cho bà chăm bẵm. Các cụm từ ““đói mòn đói mỏi” đã
diễn tả chân thật những cực khổ của hai bà cháu trong thời kì đó. Hình ảnh “bố đi đánh xe khô
rạc ngựa gầy” đã cho thấy cái đáng sợ của giặc đói, tỉnh cảnh cực khổ của nhân dân ta dưới thời
kì đó:
Con đói lả ôm lưng mẹ khóc
Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi
Kiếp người cơm vãi cơm rơi
Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi!
Kí ức tuổi thơ và tình cảm đậm sâu của bà trong cháu vẫn cứ vẹn nguyên:
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
Người cháu vẫn như cảm nhận được mùi khói chất chứa đầy nỗi vất vả cực nhọc của hai bà
cháu vẫn còn cay nồng nơi sống mũi, mùi khói “hun nhèm” cả kí ức tuổi thơ, chân thực và

mang đầy nghĩa tình sâu nặng. Nơi sống mũi của người cháu cay nồng, lan tỏa trong tâm hồn
người cháu không chỉ vì khói cay của rơm rạ, củi.. bị ướt sương mà còn là khói bom đạn, là khó
khăn thiếu thốn trong chiến tranh và tình yêu thương con cháu da diết của bà. “Nghĩ lại đến giờ
sống mũi còn cay” đã thể hiện rất chân thực và xúc động niềm thổn thức của người cháu khi
nhớ về những năm tháng tuổi nhỏ bên người bà kính yêu. Với những chi tiết và ngôn từ giản dị,
chân thực, đoạn thơ đã thấm đượm bao tình cảm sâu nặng của người cháu với bà của mình.
Trong màn sương khói mờ mịt của thời thơ ấu, tác giả tiếp tục đắm mình trong những hồi tưởng
về tuổi thơ ở cạnh bà:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Đoạn thơ như đang kể về một câu chuyện cổ tích nhưng lại làm hiện rõ những năm tháng khó
nhọc đứa cháu lớn lên trong sự yêu thương, đùm bọc của người bà. “Tám năm ròng” kháng


chiến đầy vất vả gian lao nhưng đối với tác giả đó là một khoảng thời gian thật đẹp, thật sâu sắc,
vui buồn cùng bà bên bếp lửa của người cháu. Từ bếp lửa nhỏ bé thân thương, tuổi cháu trải dài
trên “những cánh đồng xa” với tiếng chim tu hú vang vọng, gợi lại trong tâm hòn người cháu
bao kỉ niệm khó quên về người bà, về bếp lửa. Từ đó gợi lên khoảng thời gian cháu đã bắt đầu
tự lập, nhóm lên ngọn lửa tình cảm thắm nồng dành cho trong tim cháu. Tiếng chim tu hú lúc
vang vọng lúc mơ hồ, lúc lại gần gũi, xót xa như giục giã, như khắc khoải gợi về miền thương
nhớ, gợi về quê hương nơi có người bà giàu tình yêu thương với con cháu. Từ đó cho thấy tình
cảnh vắng vẻ, cô quạnh và nỗi mong nhớ cha mẹ người cháu của cả hai bà cháu. Nhà thơ đang
kể, bất chợt quay sang tâm sự “bà còn nhớ không bà?” để nhớ về những câu chuyện bà hay kể,
nhớ những việc làm tận tụy đầy yêu thương của bà dành cho cháu. Âm thanh đồng quê gần gũi
và bình dị của tiếng tu hú “tha thiết” như lời nói từ tấm lòng của cháu, tiếng quen thuộc đọng lại
qua những lần bà “kể chuyện những ngày ở Huế”. Bằng nét thơ sáng tạo, người cháu đã thể
hiện tình cảm của mình dành cho bà khi tâm sự chân thành với với những tiếng chim tu hú bình

dị trên những cánh đồng xa. Tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho không gian kỷ niệm có
chiều sâu khiến cho nỗii nhớ của cháu về bà bỗng trở nên thăm thẳm và vời vợi.
Trong kí ức của mình, tác giả chẳng thể nào quên được dù bao nhiêu mùa tu hú đi qua thì bà
vẫn luôn tảo tần, chăm sóc cháu:
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Những lời thơ bình dị đã thể hiện chân thật sự tận tình chăm sóc cháu của bà khi “mẹ cùnng cha
công tác bận không về”. Tình thương của bà đối với cháu to lớn như biển trời bao la, bà đảm
nhận vai trò của một người cha, một người mẹ và một người thầy. Bà chăm chút cho cháu từ cái
ăn, cái mặc đến cả việc học hành. Bà dạy cho cháu những bài học làm người, chăm chút cho
cháu dẫu bà phải vất vả lo toan bao điều. Từ "bà" được lặp lại nhiều lần cùng với cấu trúc "bàcháu" sóng đôi gợi lên tình cảm gắn bó, ấm áp của tình bà cháu. Hình ảnh “nhóm bếp lửa nghĩ
thương bà khó nhọc” mang đầy màu sắc trẻ thơ vô cùng đẹp đẽ, giản dị mà hàm súc. Hình ảnh
ấy cho thấy cháu đã hiểu được những khó khăn của bà và yêu bà mình, ngày ngày giúp bà
“nhóm bếp lửa” đỡ đần phần nào công việc của bà.
Tâm hồn cháu lúc này chỉ còn ngập tràn niềm yêu thương với bà, cháu trách những chú chim tu
hú:
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Bằng lời thơ tha thiết và trầm buồn, cháu như đang trách cứ những chú tu hú bay ngoài đồng xa
không đến ở cùng bà để bà đỡ cô quạnh, buồn tủi hay tác giả đang trách chính bản thân mình vô
tâm. Cách nói này đã bộc lộ kín đáo, ý nhị tình cảm thương yêu, xót xa của tác giả trước nỗi cô
đơn và sự vất vả của bà.
Kỉ niệm cũ như những thước phim quay chậm về bà cháu trong chiến tranh:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh



Chiến tranh, một danh từ bình thường nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây
ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân
của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi… Trong hoàn cảnh ấy, người bà
hiện lên thật đẹp với tấm lòng hy sinh cao cả. Từ “lầm lụi” thể hiện hình ảnh người bà củng như
bao người hàng xóm lặng lẽ sớm hôm muốn chia sẻ gánh vác cùng con cháu những vất vả lo
toan. Gian khổ là thế nhưng có được sự giúp đõ của hàng xóm, tình cảm của những người cùng
cảnh ngộ, hai bà cháu đã dựng lại được “túp lều tranh”.
Bà vẫn chịu thương chịu khó cặm cụi vì không muốn con mình lo lắng:
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Chiến tranh gian khổ nhưng bà luôn “vững lòng”, chính phẩm chất cao đẹp ấy đã làm cho luôn
tự hào khi cháu nhớ về bà.Lời dặn của bà chân thật và cảm động, chan chứa bao ý nghĩa từ tấm
lòng bà văng vẳng bên tai cháu. Qua đó không chỉ thể hiện tình cảm yêu thươg con cháu của bà
mà còn đề cao phẩm chất cao quý, đức hi sinh nhẫn nại của những người phụ nữ Việt Nam để
yên lòng người nơi chiến tuyến. Trong ý thơ còn hàm chứa cả lòng khâm phục và kính trọng mà
cháu dành cho bà, như tình cảm hướng về tổ quốc, về những người thân yêu.
Từ bếp lửa thân thương, cháu nghĩ đến ngọn lửa thắp sáng của người bà kính yêu:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẳn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Ba câu thơ như một nốt nhấn, một điệp khúc khó quên trong bản tình ca về bà cháu đầy thiêng
liêng và cao quý. Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ có sức truyền cảm mạnh mẽ. Giữa
những mất mát đau thương bà vẫn ngày ngày nhóm bếp lửa, chất chứa bao nét đẹp ý nghĩa, sự
tinh tế, bình dị đơn sơ và tình yêu thương của cháu với bà. “Rồi sớm rồi chiều” bà vẫn nhen lên
ngọn lửa như nhen nhóm lên trong lòng người cháu một tình cảm rộng lớn, ấp ủ bằng tình
thương bao la dạt dào suốt cuộc đời bà luôn dành cho cháu. “Bếp lửa” của tình yêu gia đình,
quê hương giờ đây đã trở thành một “ngọn lửa” mang đậm giá trị biểu tượng, bếp lửa ấy được
bà nhem lên từ ngọn lửa trong lòng bà. Ngọn lửa ấy là ngọn lủa của tình yên thương, ngọn lửa

của niềm tin vào kháng chiến, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng soi sáng
cho con đường cháu đi. Qua đó hình ảnh người bà hiện lên tuy mộc mạc nhưng rất rực rỡ, bà
luôn cần cù chắt chiu, giàu nghị lực và đức hi sinh cao cả như bao người phụ nữ Việt Nam trong
cuộc kháng chiến.
Đi qua những hồi ức, tác giả chợt suy ngẫm về cuộc đời bà với triết lí sâu xa:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Với cảm xúc “biết mấy nắng mưa” được lặp lại từ khổ 1 như một điểm nhấn nói về rất nhiều
“lận đận”, nhiều “nắng mưa” của cuộc đời bà. Thế nhưng bà vẫn luôn âm thầm chịu đựng, cần
mẫn và chu đáo chăm lo cho con cháu của mình. Dù đã “mấy chục năm” đi qua gian khổ nhọc


nhằn nhưng bà vẫn giữ “thói quen dậy sớm”, bà vẫn gian nan, vất vả tưởng như không bao giờ
dứt. Cháu vẫn thương mãi thói quen của bà, thương bà nhóm bếp lửa yêu thương suốt cả cuộc
đời cháu. Bả đã nhóm lửa bằng cả lòng đôn hậu để những vần thơ của cháu thấm đẫm tình cảm
sâu nặng và lòng biết ơn sâu sắc.
Chiến tranh đã đi qua, nhưng bà ngày ngày vẫn nhóm bếp:
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng-bếp lửa!
Điệp từ nhóm được nhắc lại bốn lần mang bốn nghĩa khác nhau, vang lên theo từng cung bậc
tình cảm lớn dân, tỏa sáng dần nét "kỳ lạ", thiêng liêng và nhất là tình nghĩa của bà. Đó như là
một lời khẳng định bà chính là người nhóm lên trong lòng cháu ngọn lửa bằng đức hi sinh cao
cả, thể hiện niêm xúc động thiết tha, kết lại trong miền kí ức của người cháu. Bà “nhóm tình yêu
thương khoai sắn ngọt bùi” dạy cho cháu tình yêu xóm làng, yêu mảnh đất quê hương nghèo
khổ, bà “nhóm nồi xôi gạo mới xẻ chung vui” dạy cho cháu biết yêu thương, san sẻ với mọi
người. Cuối cùng, người bà kỳ diệu ấy "nhóm dậy", thức tỉnh và bồi đắp cho đứa cháu về tâm

hồn và cách sống, bà còn là người truyền lửa và giữ cho ngọn lửa ấm lòng cháy sáng trong lòng
mọi người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu tứ trái tim,
ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh:
“Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.”
Âm điệu thơ này dạt dào như sóng, lan tỏa như lửa ấm như đó chính là cảm xúc đang dâng trào,
đang tỏa ấm trong trái tim nhà thơ.Mỗi câu, mỗi chữ cứ hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm
nhớ thương về bà. Câu thơ “Ôi kì lạ và thiêng liêng-bếp lửa” bộc lộ rõ nhất thái độ kính trọng
và cảm xúc đang dâng trào ào ạt trong tâm hồn người cháu. Câu thơ chỉ có 8 chữ mà có sức
khái quát cả suy nghĩ lẫn tình cảm của tác giả đối với bếp lửa gắn liền hình ảnh người bà, với
cách ngắt nhịp là một dấu lặng đầy nghệ thuật chứa đựng bao cảm xúc và suy nghĩ không thể
diễn tả hết bằng ngôn từ.
Chính tấm lòng của bà đã khiến cho cháu có thể quên đi dù cháu đã trường thành:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...
Đoạn thơ đã đúc kết thật đằm thắm lòng thương nhớ, kính yêu và biết ơn bà sâu sắc. Bao năm
dài đằng đẵng, đứa cháu giờ đã khôn lớn sống trong một khung cảnh mới, một cuộc đời mới
đầy đủ và ấm no nhưng chẳng thể nào nguôi nhớ về bà. Đặc biệt câu hỏi tu từ “sớm mai này bà
đã nhóm bếp lên chưa?” đã người cháu chẳng thể quên được bếp lửa thân thương. Câu hỏi khép
lại bài thơ đã để lại sức ám ảnh day dứt như nhắc nhở người cháu phải nhớ về bà, phải nhớ về


bếp lửa quê hương.
Bằng những lời thơ trong sáng, bình dị và giàu chất trữ tình, âm điệu thơ trữ tình sâu lắng và
hình tượng “bếp lửa” mang đầy ý nghĩa và những hình ảnh ẩn dụ sâu sắc, bài thơ mang triết lí
sâu xa, thầm kín. Những gì là thân thiết của tuổi thơ mỗi ngưởi có sức tỏa sáng, nâng đỡ con

người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà là biểu hiện cụ
thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương và đó cũng là sự khởi đầu của tình
yêu con người, tình yêu đất nước.
Qua những hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thảnh, bài thơ Bếp lửa đã gợi lại
những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân
trọng và biết ơn của người cháu đối với gia đình, quê hương, đất nước. Kết hợp nhuần nhuyễn
giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự, bình luận và sự sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bếp lửa
gắn liền với người bà “Bếp lửa” là một ài học đạo lí thao thiết. Bài thơ nhắc nhở ta về lối sống
thủy chung ân nghĩa, có lòng biết ơn, đối xử ân nghĩa với gia đình, láng giềng và quê hương, cội
nguồn dân tộc.
**************************************

ÁNH TRĂNG
(Nguyễn Duy)
Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài thường
xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” cũa
Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của
Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết
của Bác thì đến với bài thớ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng
mang ý nghĩa triết lí sâu sắc.Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấn đẫm cái hồn của ca dao, dân ca Việt Nam
. Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa tình muôn đời của
người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như vậy.Trăng đối với nhà thơ có ý nghĩa đặïc biệt: đó là
vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi chuông cảnh
tỉnh cho mỗi con người có lối sống quên đi quá khứ.
Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức thuổi thơ của nhà thơ và trong chiến
tranh:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng

vầng trăng thành tri kỉ”
Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong sáng của
thuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như đã diễn tả một cách khái quát về
sự vận động cả cuộc sống con người. Mỗi con người sinh ra và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó
và liên kết. Cánh đồng, sông và bể là nhưng nơi chốn cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấâu thơ
mà khó có thể quên được. Cũng chính nới đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng. Với cách gieo vần
lưng “đồng”, “sông” và điệp từ “ với” đã diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều và được
hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp của bãi bồi thiên nhiên cũa tác giả.Tuổi thơ như thế


không phải ai cũng có được ! Khi lớn lên, vầng trăng đã tho tác giả vào chiến trường để “chờ
giặc tới’.Trăng luôn sát cách bên người lính, cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua những
đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng con
đường, ngủ dưới ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đù, tâm sự của những người lính lại mở
ra để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trởø thành “tri kỉ” của người lính
trong nhưng năm tháng máu lửa.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời người lính gắn
bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đù, người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ
không bao giờ quên được:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho âm điệu câu
thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc cũa tác giả vẫng đang tràn đầy. Chính cái hình
ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đâm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn nhiên của người lính trong nhữnh
năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê,
của đồng, của sông. của bể và của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm
hồn - vầng trăng ấy sẽ phài làm quen với môt hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:
“Từ hồi về thành phố

quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở lại trong tâm
hồn mỗi con người như một ánh dương chói loà. Thế nhưng con người không thể kháng cự lại
sự thay đổi đó.Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh điện,
cửa gương”. Và rồi trong chính sự xa hoa đó, người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình,
người bạn mà tưởng chừng chẳng thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng
mình lại xem như không quen không biết. Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái
gì đó làm rung động lòng người đoc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con người. Cũng chính
phép nhân hoá đó làm cho người đọc cảm thương cho một “người bạn” bị chính người bạn thân
một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những công việc mưu sinh và những
nhu cầu vật chất thường nhật khác đã lôi kéo con gười ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một
phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với
quá khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị
tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản củacuộc sống, đó chình là tình cảm con người. Nhưng rồi
một tình huống bất ngờ xảy ra buộc người lính phải đối mặt:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn -đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật chất, người
lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính
vôi bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người


bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay sao? Con người ấy không hề biết được rằng cái người bạn
tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta. “Người
bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người, không bao giờ oán giận hay trách móc con người vì họ
đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm

lòng của một con người biết sám hối, biết vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc đời mỗi con người
không ai có thể đóan biết trước được. Không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà
không có khó khăn, thử thách. Cũng như một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với những
qunh co, uốn khúc . Và chính trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người mới thật
sự hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của
cuộc đới. Dường như người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó!
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đó khiến cho người lính áy náy dù cho không bị quở
trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt trăng và mặt người đang cùng
nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường
như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình .
Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về
tuổi thơ của mình ngày nào, nới có “sông” và có “bể” .Chính những thước phim quay chậm ấy
làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và ngững giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút
gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn,
làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh
được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp
mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó
sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn
ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.
Vầng trăng trong khổ thớ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kề chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Khổ thơ cuối cùnh mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng
tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy suyển dù cho

trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ
nhìn, nhưng cái nhìn đó đủù khiến cho con người giật mình. Ánh trăng như một tấm gương để
cho con người soi mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có
thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nũa thì những
giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chở cho con người.
“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu
ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìmlại những
giá trị đó. còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của
mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn. Bài thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà cón có


những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu
dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất
nhanh, giọng điệu tâm tình dã gấy ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.
**************************************

LÀNG
(Kim Lân)




LẶNG LẼ SA PA
(Nguyễn Thành Long)
Nguyễn Thành Long là một nhà văn mà tên tuổi đã trở thành quen thuộc với bạn độc yêu thích
truyện ngắn Việt Nam hiện đại. Các tác phẩm của ông là sự chắt lọc hiện thực của cuộc sông sôi
dộng đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ trên đất nước thân yêu.
Suốt cuộc đời cầm bút, nhà văn đã sáng tác hơn chục tập truyện và kí, trong đó có những truyện
ngắn gây được ấn tượng lâu đài và sâu đậm. Lặng lè Sa Pa được viết sau chuyên nhà văn đi
thực tế ở Sa Pa, một vùng núi cao đẹp nổi tiếng của Hoàng Liên Sơn. Truyện in trong tập Giữa

trong xanh, xuất bản năm 1972.
Qua hình ảnh người thanh niên một mình làm việc ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn và một
số nhân vật khác, tác giả ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của những con người lao động mới đang
ngày đêm âm thầm công hiến cho nhân dân, cho Tổ quốc. Bên cạnh đó, tác giả cũng kín đáo gửi
gắm vào truyện lời khuyên mọi người hãy thương yêu nhau hơn và sống tốt đẹp hơn.
Nội dung truyện có thể tóm tắt như sau : Một họa sĩ già trước khi nghỉ hưu đã đi thực tế vùng
cao. Tình cờ, ông ngồi cùng hàng ghế với cô kĩ sư trẻ người Hà Nội lên nhận công tác tại Lai
Châu. Qua hai ngày, họ đã làm quen với nhau. Khi đến Sa Pa, bác tài cho xe nghỉ để lấy nước,


nhân tiện giới thiệu với hoạ sĩ và cô gái nhân vật đặc biệt trên đoạn đường này, để họa sĩ vẽ
chân dung.
Đó là anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao hai
nghìn sáu trăm mét. Bốn người gặp nhau trong một thời gian ngắn ngủi, giữa khung cảnh núi
non hùng vĩ và tĩnh lặng của Sa Pa. Chỉ tiếp xúc trong ba mươi phút nhưng bước đầu họ đã hiểu
nhau và hai người khách đã nhận biết được từ anh thanh niên bao điều bổ ích.
Qua các trang viết của Nguyễn Thành Long, tính cách của từng nhân vật đã được thế hiện rồ nét
và khắc sâu trong tâm trí người đọc.
Nhân vật chính là anh thanh niên trông coi trạm khí tượng được giới thiệu qua lời kể của bác lái
xe. Bác lái xe gọi anh là người cô độc nhất thế gian vì anh sống một mình trên đỉnh núi, bốn bề
chỉ cỏ cây cỏ và mây mù lạnh lẽo. Bạn bè của anh toàn là những vật vô tri: máy đo gió, đo
nắng,đo mây, đo nhiệt độ… Tuy sống trong điều kiện thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần nhưng
người thanh niên ấy vần yêu đời, vẫn làm việc với tinh thần trách nhiệm cao nhất. Anh biết làm
chủ, biết sắp xếp, lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định. Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách.
Thỉnh thoảng, anh xuống đường, tìm gặp bác lái xe cùng hành khách để trò chuyện và giúp đỡ
họ cho nguôi bớt nỗi cô đơn.
Thái độ nồng nhiệt, hiếu khách của anh đã gây được thiện cảm đối với mọi người ngay từ lúc
đầu. Anh biếu bác lái xe gói củ tam thất để mang về cho người vợ mới ốm dậy. Anh mừng rỡ
đón quyển sách bác mua hộ. Niềm vui được gặp gờ dào dạt trong lòng anh, bộc lộ qua nét mặt
và từng cử chỉ.

Bác lái xe giới thiệu với anh những người khách mới: Đây, tôi giới thiệu với anh một họa sĩ lão
thành nhé. Và cô đây là kĩ sư nông nghiệp. Anh vui vẻ mời hai người lên nhà anh chơi. Anh
chạy ra vườn cắt một bó hoa, rất tự nhiên trao cho cô gái mới quen. Trò chuyện với khách, anh
đã nói lên những suy nghĩ chân thành của mình.
Người thanh niên ấy không những đáng yêu ở cách sống mà còn đáng yêu vì những điều anh
suy nghĩ và cảm nhận. Ban đầu, lúc mới lên nhận việc, sống một mình tít trên đỉnh núi, bốn bề
chỉ có cỏ và mây mù lạnh lẽo, chưa quen, thèm người quá, anh đã nghĩ ra kế lăn khúc cây ra
chặn đường xe đi để được gặp người, được nói chuyện trong giây lát.
Nhưng đến bây giờ, khi bày tỏ quan niệm thế nào là người cô độc, anh lập luận thật sắc sảo.
Anh nói với họa sĩ: Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống
chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian
khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất. Anh tâm sự với cô kĩ sư trẻ: Lúc nào tôi
cũng có người trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà.
Anh giải thích về nỗi nhớ người của mình bằng những lời nói mộc mạc, chân thành: Còn người
thì ai mà chả “thèm” hở bác? Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc ?… Bác
lái xe đi, về Lai Châu cứ đến đấy dừng lại một lát. Không phải giờ “ốp” là cháu chạy xuống
chơi, lâu thành lệ. Cháu bỗng dưng tự hỏi: Cái nhớ xe, nhớ người ấy thật ra là cái gì vậy? Nếu
là nỗi nhớ phồn hoa đồ thị thì xoàng. Cháu ở liền trong trạm hàng tháng. Bác lái xe bao lần


dừng, bóp còi toe toe, mặc, cháu gan lì nhất định không xuống. Ấy thế là một hôm, bác lái phải
thân hành lên trạm cháu. Cháu nói: “Đấy, bác chẳng “thèm” người là gì.
Thực ra, anh thanh niên không phải là loại người đặc biệt, không biêt nhớ người, nhớ nhà, mà là
anh cố nén nỗi nhớ da diết ấy để hoàn thành nhiệm vụ, đóng góp một phần sức lực nhỏ bé với
quê hương, đất nước và để xứng đáng với người cha đang đối đầu với giặc Mĩ xâm lược trong
chiến trường miền Nam.
Tuy công việc của anh khó khăn, vất vả và rất quan trọng nhưng anh vẫn cảm thấy nó nhỏ bé,
bình thường so với công việc của người khác. Chúng ta hãy lắng nghe anh kể về công việc âm
thầm của mình: Công việc nói chung dễ, chỉ cần chính xác… Xách đèn ra vườn, giỏ tuyết vù
lặng im ở bên ngoài như chỉ chực đợi mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ:

nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì như những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném
vứt lung tung…
Anh kể về lần nhờ phát hiện ra một đám mây khô mà anh đã góp phần cùng không quân ta hạ
được máy bay phản lực của Mĩ. Anh sung sướng nói với ông hoạ sĩ rằng: Từ hôm ấy cháu sống
thật hạnh phúc.
Người thanh niên hiếu khách và sôi nổi ấy cũng rất khiêm tốn. Anh ngượng ngùng khi thấy ông
hoạ sĩ già phác thảo chân dung của mình vào cuốn sổ tay. Anh giới thiệu cho ông những người
đáng để vẽ hơn mình: Ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa vượt qua bao khó khăn vất vả để tao ra
những củ su hào to hơn, ngon hơn cho nhân dân toàn miền Bắc. Anh cán bộ khí tượng dưới
trung tâm suốt mười một năm chuyên tâm nghiên cứu và thiết lập một bản đồ sét: Nửa đêm mưa
gió rét buốt, mặc, cứ nghe sét là đồng chí choáng choàng chạy ra. Như thế mười một năm… Có
cái bản đồ ấy thì lắm của lắm bác ạ. Của chìm nông, của chìm sâu trong lòng đất đều có thể
biết, quý giá lắm.
Sở dĩ anh có cách suy nghĩ và hành động như thế là vì anh yêu mùa, tự hào về mảnh đất quê
hương: Trong cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe
tên, người ta đã nghĩ tới chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho
đất nước.
Yêu con người, yêu cuộc sống, quê hương, đam mê công việc… tình cảm ấy đã trở thành sức
mạnh, thành điểm tựa để anh thanh niên trông coi trạm khí tượng hăng say làm việc và học tập.
Tuy là nhân vật phụ nhưng bác lái xe, ông hoạ sĩ và cô kĩ sư trẻ cũng được tác giả gửi gắm
nhiều ý tưởng.
Bác lái xe gắn bó suốt ba mươi năm với con đường khủc khuỷu, gập ghềnh, lắm đèo, nhiều dốc.
Ở bác, dường như nụ cười lúc nào cũng nở trên môi. Với hành khách, bác hiểu ý họ và tạo mọi
thuận lợi cho khách trong suốt mấy ngày đường vất vả. Người đọc cảm động trước chi tiết: đã
thành lệ, chiếc xe của bác chuyến nào cũng dừng lại nửa giờ trên đỉnh núi cao. Những giây phút
quý giá ấy vừa để thỏa nguyện vọng gặp người của chàng trai khí tượng trẻ, vừa là dịp để bác


gặp gỡ và tỏ lòng yêu mến một tâm hồn trong sáng. Khi biết người khách ngồi cạnh mình là hoạ
sĩ, bác muốn giới thiệu với ông về người bạn trẻ của mình để ông vẽ chân dung. Đúng như hoạ

sĩ nhận xét, bác là một tay lái có máu nghệ thuật.
Bác lái xe là hình ảnh của một người lao động bình thường nhưng tấm lòng của bác thật là đáng
quý: chan chứa tình yêu thương con người và có tinh thần trách nhiệm cao.
Hoạ sĩ già là nhân vật phụ của câu chuyện nhưng nếu chúng ta đọc kĩ tác phẩm thì sẽ nhận thấy
nhân vật này chính là hoá thân của nhà văn. Hoạ sĩ vừa là nhân vật tham gia câu chuyện, vừa là
người thay mặt tác giả gửi đến bạn đọc những điều tâm đắc về con người và cuộc sông.
Cũng như các nhân vật khác trong truyện, ông là một hoạ sĩ vô danh. Nhà văn không giới thiệu
tên tuổi, chỉ nhắc sơ qua là hoạ sĩ suốt đời theo đuổi nghệ thuật hội hoạ. Trước lúc về hưu, ông
còn xin đi thực tế một lần cuối ở Tây Bắc để vẽ, với ước mơ phải vẽ được cái gì suốt đời mình
thích.
Hoạ sĩ già có một khả năng cảm nhận nhạy bén và tinh tế. Trong những giây phút trái tim xao
động, ông có thể nhận biết được những âm thanh rất nhỏ của cuộc đời để rồi âm thanh ấy vang
vọng mãi trong tâm hồn ông.
Tình cờ, ông ngồi chung xe với cô kĩ sư trẻ người Hà Nội lên Lai Châu công tác. Hai ngày ngồi
gần và trò chuyện với cô gái, ông hiếu được nỗi băn khoăn, trăn trở của cô trước lúc lên đường.
Cô cũng đã có lần yêu nhưng rồi thôi ngay khi biết mình lầm. Hoạ sĩ an ủi cô bằng những lời
chân tình : Đối với một người khát khao trời rộng, sự dứt bỏ tình yêu nhiều khi Lại nhẹ lòng.
Lời nói đó làm cho cô gái xúc động. Từ phút đó trở đi, hai người hiểu nhau thêm.
Những lời giới thiệu về chàng trai khí tượng của bác lái xe làm cho hoạ sĩ có cảm tình với anh.
Lúc gặp mặt, hoạ sĩ già xức động mạnh khi nhìn thấy người con trai tầm vóc bé nhỏ, nét mặt
rạng rỡ từ trên sườn núi trước mặt chạy lại chỗ xe đỗ.
Ông cùng cô kĩ sư lên thăm nơi anh ở và làm việc. Câu chuyện anh kể làm ông xúc động thực
sự. Ông cảm thấy đã bắt gặp một điều thực ra ông vẫn ao ước được biết, ôi, một nét thôi đủ
khẳng định cho tăm hồn, khơi gợi một ý sáng tác, một nét mới đủ là giá trị một chuyến đi dài.
Trước chàng trai trẻ tuổi đáng yêu, ông đã tìm được đề tài và cảm hứng nghệ thuật thúc giục
ông phải sáng tạo, phải vẽ.
Hoạ sĩ già vừa nói chuyện với chàng trai, vừa hí hoáy vào cuốn sổ tì trên đầu gối. Ông cảm
nhận ngòi bút của ông bất lực khi khắc hoạ tính cách người con trai ấy trên trang giấy, nhưng
ông lại cảm thấy trong lồng ngực ông dường như có một quả tim nữa, hay chính là quả tim cũ
được “để cao” lên, do đó mà ồng khao khát, mà ông yêu thcni cuộc sống.

Dường như câu chuyện của người thanh niên đã bắt ông suy nghĩ về những cái đã làm và chưa
làm được, cái ông dám nghĩ và không dám làm. Ông cho rằng: Những điều suy nghĩ đúng đắn
bao giờ cũng có những vang âm, khơi gợi bao điều, suy nghĩ khác trong óc người khác, có sẵn


mà chưa rõ hay chưa được đúng. Ví dụ quan niệm về cái đất Sa Pa mà ông quyết định sẽ chỉ
đến để nghỉ ngơi trong giai đoạn cuối đời, mà ông yêu nhưng vẫn còn tránh. Đó cũng chính là
niềm vui, niềm hạnh phúc mà hoạ sĩ già cảm nhân được từ người thanh niên đầy nhiệt huyết.
Cô kĩ sư trẻ từ Hà Nội lên tận Lai Châu, miền núi cao Tây Bắc của Tổ quốc để nhận công tác.
Lần đầu tiên ra khỏi Hà Nội, qua cuộc đời học trò chật hẹp, bước vào cuộc sống bát ngát mới
tinh, cái gì cũng làm cô háo hức. Cô bước vào đời với thái độ thanh thản, tuy trong trái tim còn
vương vấn mối tình đầu dang dở, ông hoạ sĩ và cô gái cùng lên thăm chỗ làm việc của chàng
trai. Một thoáng gặp nhau, chàng trai rất tự nhiên tặng hoa và cô gái cũng rất tự nhiên nhận hoa.
Từ lúc lên xe, ngồi cùng ông họa sĩ, được ông tận tình giúp đỡ, cho đến khi gặp gỡ và nghe
những điều chàng trai nói, cô hiểu thêm về cuộc sống âm thầm nhưng tuyệt đẹp của người thanh
niên, của những con người như anh qua lời anh kể. Cô suy nghĩ về con đường cô đang đi tới, về
công việc mà cô lựa chọn. Những điều đó làm cho cô bâng khuâng, xúc động.
Qua hai nhân vật ông hoạ sĩ già và cô kĩ sư trẻ, tác giả muốn nói với bạn đọc rằng tuy thuộc hai
thế hệ khác nhau nhưng họ đều ý thức được vị trí, trách nhiệm của mình trong công cuộc xây
dựng đất nước. Họ là những con người nhạy cảm trước cái đúng, cái sai, luôn hướng thiện,
mong muôn làm được những điều tốt đẹp cho cuộc đời.
Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Sa Pa được tái hiện qua;truyện bằng ngôn ngữ nghệ thuật
tạo hình, giàu chất thơ và qua sự rung cảm tinh tế của một tâm hồn nghệ sĩ.
Sa Pa hiện dần lên, mỗi cảnh là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp: … Xe trèo lên núi. Mây
hất từng chiếc quạt trắng lên từ các thung lũng. Xe tới đỉnh núi: Nắng bây giờ bát đầu len tới
đốt cháy rừng cây, Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bàng
bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên
màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục , lăn trẽn các vòm lá ướt sương, rơi
xuống, đường cái, luôn cả vào gầm xe.
Cảnh chia tay giừa chàng trai và cô gái trên đỉnh núi vào buổi chiều thật đẹp: Lúc bấy giờ, nắng

đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn. Nắng chiều Làm cho
bó hoa thèm rực rở và làm cho cô gái thấy mình rực rỡ theo.
Dường như trong mỗi bức tranh tả cảnh, tả người, nhà văn đều gửi gắm tình cảm yêu mến của
mình vào đó. Qua Lặng lẽ Sa Pa, Nguyễn Thành Long không những lôi cuốn người đọc bằng
tình tiết, sự kiện, bằng phẩm chất của từng nhân vật mà còn làm cho cảm xúc thẩm mĩ của
người đọc dược mở rộng, nâng cao. Những bức tranh phong cảnh được vẽ bằng ngôn ngữ văn
học trong sáng thể hiện sự rung cảm tinh nhạy và tài năng của nhà văn.
Cái hay của truyện Lặng lẽ Sa Pa không phải ở cốt truyện li kì, hấp dẫn, không phải ở những
nhân vật phi thường mà nó ấn chứa trong ngôn ngữ tự nhiên, sinh động, trong những hình ảnh


tuyệt đẹp của thiên nhiên và con người, tác động mạnh đến cảm xúc người đọc. Thông qua tác
phẩm, nhà văn muốn nói với chúng ta: Hãy yêu thương con người và hặy sống tốt đẹp hơn!
**************************************

CHIẾC LƯỢC NGÀ
(Nguyễn Quang Sáng)
Văn học Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ đã dành nhiều trang viết hay và cảm động ca
ngợi tình thân của con người trong bom đạn chiến tranh. Đó là tình yêu thủy chung đôi lứa, tình
anh em, tình mẫu tử… Và như thổi một luồng gió mới làm phong phú thêm cho văn chương,
Nguyễn Quang Sáng đã sáng tạo ra tác phẩm Chiếc lược ngà– một câu chuyện éo le nhưng đầy
cao đẹp về tình phụ tử giữa những tháng năm” bão tố” của đất nước.
Nguyễn Quang Sáng viết truyện Chiếc lược ngà năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ trong thời
kí chống Mĩ. Là một nhà văn quê ở miền Tây Nam Bộ, hầu như ông chỉ viết, về cuộc sống và
con người của quê hương trong chiến tranh và sau hoà bình. Truyện ngắn này ra đời trong hoàn
cảnh đạn bom ác liệt nhưng lại tập trung nói về tình người, cụ thể là tình cha con của, người
chiến sĩ cách mạng.
Anh Sáu xa nhà đi kháng chiến lúc đứa con gái đẩu lòng mới một tuổi. Mãi đến khi nó lên tám
tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà. Con bé không nhận anh Sáu là cha vì vết sẹo trên mặt khiến
anh không giống trong bức ảnh chụp cùng với vợ mà bé Thu đã được má cho xem. Đến lúc bé

Thu nhận ra cha thì cũng là lúc anh Sáu phải ra đi. Tình cha con thiêng liêng trỗi dậy mãnh liệt
trong em khiến cho mọi người xúc động. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý,
nhớ thương vào việc làm một chiếc lược bằng ngà để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận
càn của giặc, anh Sáu bị thương nặng. Trước lúc nhắm mắt, anh còn kịp trao cây lược ngà cho
người bạn, với ý nhờ mang về quê trao tận tay con gái của mình.Tình Cha con sâu sắc được tác
giả thể hiện qua hai tình huống đặc biệt : Tình huống thứ nhất là cuộc gặp gỡ của hai cha con
sau tám năm xa cách. Bé Thu đối xử với cha như đối với người xa lạ. Đến lúc em nhận ra và ôm
riết lấy cha, thể hiện tính cảm mãnh liệt thì anh Sáu lại phải ra đi làm nhiệm vụ.
Tình huống thứ hai là ở khu căn cứ, anh Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ con vào
việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng anh đã hi sinh, không kịp trao món quà ấy cho con
gái. Tình huống này thể hiện tình cảm sâu nặng của người cha đối với con.
Sau nhiều năm xa cách, anh Sáu chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ luôn mang bên người. Đến lúc
được về thăm nhà, bao nỗi nhớ thương chất chứa từ lâu nên anh Sáu không kìm được niềm vui
khi nhìn thấy bé Thu: Cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh. Xuồng vào bến, thấy một
đứa bé độ tám tuổi tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng
cày xoài trước sân nhà, đoán biết là con, không thể chờ xuồng cặp lại bến, anh nhún chân nhảy
thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, khiến tôi bị chới với. Anh bước vội vàng với những bước dài, rồi
dứng lại kêu to: Thu Ị Con!.Nhưng thật trớ trêu, đáp lại tình cảm nồng nàn của người cha, bé
Thu lại tỏ ra sợ hãi và ngờ vực. Anh Sáu càng muốn gẩn con để vỗ về yêu thương thì đứa con
lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa lánh.
Diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu trong lần gặp cha đầu tiên được tác giả miêu tả ở hai
thời điểm trước và sau khi nhận ra cha. Tâm lí và thái độ của bé Thu được tác giả thuật lại rất


×