Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.87 KB, 38 trang )

Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
1. Tỏ lòng
Triều đại nhà Trần (1226-1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và
giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên
– Mông, nhà Trần đã ghi vào pho sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương,
Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.
Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ngợi ca
là “Hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – thi sĩ dào
dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Thuật hoài”
( Tỏ lòng ) của Phạm Ngũ Lão, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu.v.v… là
những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.
Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ
toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và “Vãn
Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”.
Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của
người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự hoạ của danh
tướng Phạm Ngũ Lão.
Hoành sóc giang san kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng
mãnh. Câu thơ “Hoàng sóc giang sơn kháp kỷ thu” là một câu thơ có hình tượng kỳ vĩ,
tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang sơn) vừa mang kích thước thời gian chiều
dài lịch sử (kháp kỷ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” ra trận
hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu
hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc
suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi


thường, mạnh như hổ báo (tỳ hổ) quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội
quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn
Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu
trời. Hoặc có thể hiểu : ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng
tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: “Tam quân tì hổ khí thôn
Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc
đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát” đánh
đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi
liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:
-“Thuyền bè muôn đội;
Tinh kỳ phấp phới
Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…” (Bạch Đằng giang phú)
Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến
công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! “Phá
cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ
đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói
trong da ngựa, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ
những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu
thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến
tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh
hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ
Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:
“Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”
“công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên
bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ
“công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm. Không

chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”, mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện
cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà
nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân
Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: “Non sông
nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông).
“Thuật hoài” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ.
Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm,
mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời
Trần, sáng ngời “hào khí Đông-A”.
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Âm vang của thời đại Đông A với những chiến công lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại
xâm, ba lần đánh bại Nguyên - Mông đã in dấu trên nhiều trang viết của các nhà thơ
đương thời. Phạm Ngũ Lão - danh tướng nhà Trần "đánh đâu thắng đó" cũng ghi lại
những xúc cảm của mình qua Thuật Hoài - tác phẩm thể hiện rất đẹp hình ảnh và khí thế
của người trai thời đại, cũng là tư thế của dân tộc trong những ngày hào hùng ấy.
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu
Bài thơ chữ Hán , vẻn vẹn 28 chữ đã có một dung lượng thông điệp thẩm mỹ lớn, thể hiện
khí phách nhà thơ - dũng tướng. Thi ngôn chí là nội dung tư tưởng của đề tào Thuật hoài,
Vịnh hoài, cảm hoài Nhưng sẽ không thể có cái ung dung hào sảng nếu tách bài thơ ra
khỏi không khí thời đại bừng bừng "sát Thát". . Bài thơ không tách rời khỏi quỹ đạo tư
tưởng Nho giáo trong mẫu hình người anh hùng cá nhân phong kiến nhưng trước hết nó
là nỗi lòng của người "một thời tuy đã nên tướng giỏi - chí khí anh hùng vẫn khát khao".
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
Giấc mộng lập công dương danh luôn là điều ám ảnh những kẻ sĩ, đại trượng phu thời
phong kiến, đi liền với các tước phong công, hầu, khanh, tướng. Nhưng trong bài thơ này,
con người đã được phác bằng những câu thơ có sức khái quát cao độ tinh thần dân tộc tự

cường.
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu
Câu khai đề của bài thơ đã tạo một tư thế rất đẹp của con người. Bản dịch vung giáo, múa
giáo đều không ổn vì lập tức nó sẽ phá vỡ đi đối trọng con người - không gian. Một bên là
giang sơn - sông núi quê hương rộng lớn; một bên là con người hoành sóc - cầm ngang
ngọn giáo trấn giữ non sông. Thế "hoành" của ngọn giáo khiến tầm vóc con người như
vươn lên ngang tầm sông núi. Hình ảnh người lính vệ quốc toát lên vẻ bình thản hiên
ngang. Không những thế, trong mối tương quan con người - thời gian còn làm nổi bật ấn
tượng về sự bền bỉ , uy dũng của người trai thời đại. Bởi lẽ con người không chỉ đứng đó
trong thoáng chốc mà đã trải qua "mấy thu" rồi. Câu thơ xác lập một tư thế con người
lồng lộng giữa đất trời, ngang tầm vũ trụ. Không những thế, cả đoàn quân cùng chung tư
thế ấy :
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu
Câu trên là hình ảnh, câu dưới là thần thái con người. Người chiến sĩ cầm ngang ngọn
giáo kia với tam quân đã tạo thành một tường thành vững chắc, im phăng phắc mà khí thế
"xung thiên". Câu thơ còn gợi về một ý thơ của Quảng Nghiêm thiền sư : "Nam nhi tự
hữu xung thiên chí". Tư thế sẵn sàng xung trận đã hình thành tứ thơ thật đẹp "tỳ hổ khí
thôn ngưu". Tuy rằng cách diễn ý chưa thoát khỏi lối ước lệ tượng trưng quen thuộc của
thơ xưa nhưng để hiểu cặn kẽ cũng không phải là điều đơn giản. Theo cảm quan thẩm mỹ
cổ điển, câu thơ gợi lên khí phách đoàn quân quyết chiến làm át cả sao Ngưu - vì tinh tú
sáng chói trên trời. Nhưng cách hiểu "ba quân như hổ mạnh nuốt trôi trâu" đem đến cảm
nhận cụ thể hơn về sức mạnh của quân đội còn non trẻ đương đầu với đội quân Nguyên -
Mông hùng mạnh và thiện chiến, dường như có hàm ý ngợi ca tự hào mạnh mẽ hơn. Bởi
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
lẽ tỳ hổ là cách so sánh mang đậm chất võ của người thống lĩnh ba quân. Trong sự liên
tưởng ấy, hổ và trâu hoàn toàn không làm mất đi giá trị thẩm mỹ của câu thơ mà làm rõ
hơn cho dũng khí của quân đội nhà Trần.
Nhưng hai câu thơ đầu mới chỉ là nền để nhà thơ bộc bạch lòng mình :
Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
Đây mới là điều canh cánh bên lòng của người dũng tướng, gắn với bổn phận của kẻ làm
trai thời phong kiến . Bao đời nay, nợ công danh từng là niềm ám ảnh khôn nguôi với
những người làm trai trong thời phong kiến. Phải chăng, một người anh hùng như Phạm
Ngũ Lão cũng không thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn "công hầu kha nh tướng" ấy? Giả
sử có như vậy cũng là lẽ thường tình, nhất là trong thời đại giá trị con người được tạo nên
từ những chiến công - thời thế tạo anh hùng. Câu thơ bộc lộ niềm khao khát lớn, một điều
băn khoăn chưa trả với đời của người trai làng Phù Ủng năm nào. Tất cả nỗi niềm của
ông được thổ lộ trong sự đối sánh với tấm gương Vũ Hầu Gia Cát Lượng thuở xưa. Bậc
mưu thần, danh sĩ nổi tiếng thời Tam Quốc, người đã xả thân vì cơ nghiệp nhà Thục, vì
chúa Lưu Bị, nhắm mắt chưa yên công cuộc "ủng Lưu phản Tào". Tất cả đã rõ, tâm niệm
của Phạm Ngũ Lão nào khác nguời xưa khi ông mong muốn làm nên công nghiệp phò tá
cho vua, thực hiện lý tưởng trí quân trạch dân cao cả của bề tôi trung thành tận tuỵ. Nỗi
thẹn của người anh hùng toả sáng một nhân cách lớn. Băn khoăn ấy không dành riêng cho
bản thân mà toàn tâm toàn ý hướng về nghiệp lớn muôn đời, vì sự bình yên của sơn hà xã
tắc.
Bài thơ là sự phản chiếu một thời đại hào hùng, khi lý tưởng trung quân ái quốc hoà nhịp
trọn vẹn trong tình cảm, tâm hồn nhà thơ, thời đại "vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận,
cả nước ra sức".Tâm nguyện của Phạm tướng quân đã phản chiếu tâm tư của bao người
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
trai thời Trần : ý thức rõ giá trị bản thân, nhận rõ sự gắn bó cá nhân với cộng đồng - dân
tộc - đất nước. Xúc cảm hào hùng toả sáng trong hình tượng thơ, đem đến cho người đọc
cái nhìn trọn vẹn về con người thời đại Đông A
2. Cảnh ngày hè
Nguyễn Trãi là một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Ông để lại
cho đời sau nhiều tác phẩm có giá trị lớn.Nếu như “Bình Ngô đại cáo” của ông mang đầy
nhiệt huyết, lòng tự tôn dân tộc thì bài thơ “Cảnh ngày hè” là một bức tranh về vẻ đẹp
tâm hồn của Nguyễn Trãi.
Mở đầu bài thơ “Cảnh ngày hẻ” là sáu câu thơ miêu tả cảnh ngày hè:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng Ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Tác giả đã đón nhận cảnh ngày hè trong tư thế ung dung, thoải mái khi ở ẩn, lúc nhà vua
không còn trọng dụng tới nữa. Bức tranh cảnh ngày hè được tác giả vẽ lên thật rực rỡ và
tươi đẹp với nhiều màu sắc. Đó là màu xanh của cây hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng
của hoa sen, màu vàng lung linh của ánh nắng chiều. Tất cả hòa quyện lại với nhau. Tạo
nên cảnh vật đặc trưng của mùa hè. Không chỉ cảm nhận bằng thị giác, tác giả còn cảm
nhận cảnh vật bằng thính giác và khướu giác. Ông thấy mùi hương của ao sen, thấy âm
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
thanh “lao xao” của làng chài, “dắng dỏi” của tiếng ve. Bức tranh cảnh ngày hè đã trở nên
sinh động hơn, đặc sắc hơn với âm thanh và mùi vị. Mặc dù khung cảnh mà tác giả miêu
tả là cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng mọi vật vẫn tràn đầy sức sống với những từ ngữ
“đùn đùn”, “giương”, “phun”, “tiễn”, “ lao xao”, “dắng dỏi”. Những từ ngữ đó cũng góp
phần thể hiện những điều trong lòng tác giả - ước mong được cống hiến cho nhân dân,
cho đất nước. Nhiệt huyết đó như muốn phun ra, trào ra và lan tỏa đi khắp nơi. Trong sáu
câu thơ này, tác giả đã thay đổi, không đi theo tính quy phạm của văn học phong kiến
nữa. Ông miêu tả cảnh ngày hè với những sự vật vô cùng gần gũi với cuộc sống hằng
ngày.
Hai câu cuối của bài thơ đã được tác giả gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ :
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Tuy tác giả đón nhận cảnh ngày hè với tư thế ung dung trong một ngày nhàn rỗi nhưng
ông vẫn luôn suy nghĩ, lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Cảm nhận cảnh ngày hè
nhưng tác giả vẫn quan tâm tới cuộc sống của nhân dân. Thế nên ông nghe thấy âm thanh
tấp nập, lao xao của làng chài. Ông quan tâm tới nhân dân, lo cho dân cho nước. Chính vì

vậy, ông ước mong mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn. Với cây đàn đó, Nguyễn Trãi có
thể mang tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và đất nước.
Bài thơ “Cảnh ngày hè” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật có chen
hai câu thơ lục ngôn. Tuy vậy, nhà thơ lại không tuân theo bố cục : Đề - Thực - Luận -
Kết của thể thơ Đường luật. Chính vì thế, bài thơ mang nét đặc sắc riêng của một nhà thơ
kiết xuất của dân tộc Việt Nam. Không chỉ thế, bài thơ còn có hình ảnh hoa lựu khiến ta
liên tưởng tới hai câu thơ của Nguyễn Du:
“ Đầu tường hoa lựu lập lòe đơm bông”
Câu thơ của Nguyễn Du mang đậm chất tạo hình nhưng câu thơ của Nguyễn Trãi lại thể
hiện được cá tính về nhiệt huyết của mình. Điều đó cho thấy rõ hơn tài năng của Nguyễn
Trãi về thơ văn.
Bài thơ “Cảnh ngày hè” đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Qua đó, ta thấy được vẻ
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Ông là người yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước.
Nhưng trên hết, ông là một người vừa có tài, vừa có tâm bởi ông luôn lo lắng cho nhân
dân, cho đất nước. Ông muốn cống hiến nhiệt huyết của mình để nhân dân hạnh phúc, ấm
no, đất nước giàu mạnh. Tư tưởng của Nguyễn Trãi như một bài học gửi gắm cho thế hệ
trẻ về lòng yêu nước, ước mong cống hiến cho đất nước.
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Cảnh ngày hè (Bảo kính cảnh giới) là một trong những bài thơ đặc trưng nhất cho nội
dung và nghệ thuật của Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Bài thơ là một bức tranh ngày
hè với vẻ đẹp độc đáo, đặc sắc, là tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên,
yêu đời, yêu nhân dân, đất nước. Bài thơ bình dị, tự nhiên, câu thơ lục ngôn xen thất
ngôn, từ ngữ có sức miêu tả sinh động… Trong quá trình soạn giảng thi phẩm này từ khi
thực hiện chương trình chỉnh lí hợp nhất đến chương trình thí điểm phân ban, rồi đến
chương trình phân ban đại trà hiện hành, bản thân tôi có đôi điều trăn trở sau đây.
1. Về một chữ ở câu 4: “Hồng liên trì đã tịn mùi hương” hay “Hồng liên trì đã tiễn mùi
hương”?
Về chữ này, các nhà biên soạn sách giáo khoa Văn học 10 (chương trình chỉnh lí hợp

nhất) chọn đưa vào bản phiên là “tịn” (từ cổ, biến âm của “tận”, nghĩa là “hết”) và nhiều
tài liệu tham khảo dùng cho giáo viên và học sinh lâu nay cũng đều phân tích, giảng bình
bài thơ theo bản này. Đến chương trình thí điểm phân ban, các nhà biên soạn sách giáo
khoa Ngữ văn 10, bộ 1, đã quyết định chọn bản phiên chữ này là “tiễn” với chú thích như
sau:
“Tiễn: từ Hán Việt có nghĩa đầy, có thừa, trong câu này có thể hiểu là ngát hoặc nức. Hai
câu: “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ - Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”, ý nói trong khi
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
thạch lựu ở hiên còn đang tiếp tục phun thức đỏ, thì sen hồng trong ao đã ngát mùi
hương”.
Tóm lại, phiên chữ này ở câu 4 là tiễn và hiểu là “ngát” hoặc “nức” thì vừa có căn cứ,
lại hợp với văn cảnh bài thơ hơn”.
Các soạn giả còn chứng minh trong phần hướng dẫn Tiến trình tổ chức dạy học như sau:
“Cây trước lầu, ngoài ao đều ở trạng thái tràn đầy sức sống, đua nhau trổ dáng, khoe sắc,
toả hương. Cây hoè trước sân, lá lục đùn đùn, tán rợp giương ra. Cây lựu ở hiên trong khi
còn liên tục phun những bông hoa đỏ thắm, thì sen hồng ngoài ao đã kịp nức mùi hương.
Lưu ý: sen nở hoa vào mùa hè, đến mùa thu thì tàn (“Sen tàn, cúc lại nở hoa” - Truyện
Kiều). Thạch lựu cũng nở hoa vào mùa hè, mùa thu quả chín.
Các từ đùn đùn (= dồn dập tuôn ra), giương (= giương rộng ra), phun, tiễn (= ngát, nức)
gợi tả sức sống căng đầy chất chứa từ bên trong tạo vật, tạo nên những hình ảnh mới lạ,
gây ấn tượng”.
Theo như sách giáo viên ở trên thì cả “thạch lựu”, cả “sen” đều cùng “nở hoa vào mùa
hè”, cả hai đều đang cùng chung trạng thái “ngát, nức”, căng đầy sức sống trong bức
tranh “cảnh ngày hè” mà một bên thì “còn”, một bên thì “đã”? Bởi vì như chúng ta biết,
cặp phụ từ “còn” và “đã” thường được người ta dùng để diễn đạt hai trạng thái nghịch
chiều, so le kiểu như: Còn nhỏ mà đã yêu với đương. Khách còn ăn, chủ đã đứng dậy. Tôi
còn muốn nói chuyện mà bạn đã ngủ…chứ rất hiếm khi nghe người ta dùng để diễn đạt
hai trạng thái thuận chiều, ăn nhịp kiểu như: “trong khi thạch lựu ở hiên còn đang tiếp tục
phun màu đỏ, thì sen hồng trong ao đã ngát mùi hương”; “cây lựu ở hiên trong khi còn

liên tục phun những bông hoa đỏ thắm, thì sen hồng ngoài ao đã kịp nức mùi hương” ở
chú thích và gợi dẫn nói trên.
Đọc đến đây, nếu ai đó vẫn băn khoăn rằng hiểu câu 4 là sen hồng ở ao đã hết mùi hương
e không hợp lắm với văn cảnh bài thơ thì nên lưu ý rằng ở câu 6 của bài thơ còn nói đến
“lầu tịch dương” - mặt trời sắp lặn đó thôi. Phải chăng tính nhất quán, lôgic của văn cảnh
nằm ở chỗ: Cảnh vật đang ở vào khi cuối: cuối mùa, cuối ngày, nhưng sự sống thì không
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
dừng lại, cảnh vật vẫn cứ ứa căng, tràn đầy sức sống: cây hoè trước sân đùn đùn tán rợp
trương xanh mát một khoảng trời, thạch lựu hiên nhà phun thức đỏ rực rỡ, phiên chợ
chiều làng ngư phủ lao xao vui tai vui mắt, ve lầu tây dắng dỏi như bản đàn tấu lên rộn
rã… Một bức tranh toàn cảnh cuối hè nơi thôn dã được chủ thể cảm nhận không chỉ bằng
thị giác, khứu giác, thính giác mà còn bằng cả tâm hồn của mình. Bức tranh đó đi vào
trang thơ đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của thi nhân nhưng vẫn tươi nguyên
tính hiện thực, sinh động, cụ thể như nó vốn có.
2. Về việc lựa chọn cách hiểu với hai câu cuối: Ca ngợi cảnh “Dân giàu đủ khắp đòi
phương” đã có hay ước vọng cảnh “Dân giàu đủ khắp đòi phương” chưa có?
Tác giả cuốn Tư liệu Văn 10, phần Văn học Việt Nam, viết:
“Cảnh sống của nhân dân náo nhiệt tấp nập và giàu đủ nữa. Đó là cảnh làng cá bước vào
buổi chợ với những mẻ bội thu, cảnh mua bán thật tấp nập yên vui. Không có một dấu
hiệu gì của sự trì trệ, của sự mất an ninh, của sự thiếu đói. Đúng là cảnh đời thái bình
thịnh trị, rất đáng gảy lên khúc đàn vua Thuấn.
Tâm hồn Nguyễn Trãi thảnh thơi, sự thảnh thơi hiếm có giữa những trang thơ Nôm của
ông. Nhà thơ vui với cái vui của người dân lao động, vui chân thật bình đẳng (…) Nhà
thơ lạc quan với cuộc sống thiên nhiên đang lên, đang phát triển tràn ngập màu xanh và
đầy ắp đời thường no đủ”.
Cũng với cách hiểu, cách luận giải theo hướng này, tác giả cuốn Giảng văn Văn học Việt
Nam viết:
“Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên, nhưng trên hết vẫn là tấm lòng của ông tha thiết với con
người, với dân, với nước (…) Thật hiếm hoi khi thấy Nguyễn Trãi có được những phút

giây thanh thản. Ở đây ông có cả một “ngày trường” thưởng thức thiên nhiên với một tâm
trạng lâng lâng, sảng khoái. Ức Trai tự giành cho mình quyền “Rồi hóng mát thuở ngày
trường” bởi niềm mơ ước, nỗi trăn trở dày vò, mục đích lớn nhất của đời ông đã được
thực hiện: dân ấm no hạnh phúc.
Nhìn cảnh sống của dân, đặc biệt là người lao động - những dân chài lam lũ - được yên
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
vui, no đủ, Nguyễn Trãi ước có được chiếc đàn của vua Thuấn để gẩy khúc Nam phong
ca ngợi cảnh:
Dân giàu đủ khắp đòi phương”.
Chúng ta biết rằng, trong Quốc âm thi tập, bên cạnh phần thơ thiên nhiên và bao trùm lên
cả đề tài thiên nhiên là một chủ đề khác quan trọng hơn: sự giãi bày những tâm sự thiết
tha nhưng phải nén kín của nhà thơ. Đặc biệt xuyên suốt những nỗi niềm tâm sự ấy có
một nét nổi bật, làm thành cảm hứng chủ đạo trong thơ Ức Trai, đó là tấm lòng yêu
thương, gắn bó với con người, với cuộc đời không lúc nào nguội lạnh, ý muốn thiết tha
giúp nước và chủ nghĩa trung quân tích cực… Quốc âm thi tập mở ra cho người đọc thấy
một trái tim đau thương cao cả, một tâm hồn rất mực giàu có, một tình cảm biết nén nỗi
buồn để lúc nào cũng có thể lạc quan yêu đời.
Nguyễn Trãi suốt đời đau đáu một hoài bão lớn: làm gì để “yên dân”, người dân lầm than
khổ cực được yên vui, an lành, no ấm, hạnh phúc trong “nền thái bình muôn thuở”. Đáng
tiếc, quan lộ của Nguyễn Trãi không mấy yên ổn, nên ông không có đủ cơ hội đem tất cả
chí hướng và tài năng của mình cống hiến cho nước, cho dân. Khi đã không còn được
trọng dụng, đã lui về bầu bạn cùng thiên nhiên trong sạch và tràn đầy sức sống, lòng
Nguyễn Trãi vẫn không nguôi hướng về cuộc đời sôi động còn bao nỗi cay đắng, bất
công, vẫn thiết tha mong muốn lại được mang tài trí của mình ra giúp đời giúp nước:
Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng.
Diễn giải như thế để chúng ta có thể thấy cách hiểu của Nguyễn Thành Chương và Lã
Nhâm Thìn trong các phần trích dẫn trên đây, đặc biệt là ở những chỗ đã được người viết
bài này gạch chân, về hai câu cuối bài Cảnh ngày hè là không ổn. Các cách hiểu sau đây

Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
giàu sức thuyết phục hơn:
Cách hiểu của Đoàn Đức Phương trong Học văn lớp 10, NXB Giáo dục, 1995:
“Hai câu cuối kết đọng biết bao suy tư của nhà thơ. Ông vui với thiên nhiên, với con
người, nhưng hơn thế ông còn khao khát hành động để giúp đời giúp nước. Niềm khao
khát ấy thể hiện ở ước mơ có được cây đàn của vua Thuấn để ca ngợi cảnh thái bình, hay
nói đúng hơn, đó là ước mơ: làm sao có được một triều đại thái bình thịnh trị như đời
Nghiêu Thuấn để nhân dân muôn nơi được sống trong sung sướng, hạnh phúc, yên vui.
Ước mơ xuất phát từ những gì chưa có. Thời Nguyễn Trãi chưa có cảnh: “Dân giàu đủ
khắp đòi phương”. Do đó hai câu thơ nặng trĩu đau đời và sâu lắng một tinh thần trách
nhiệm cao cả”;
Và cách hiểu của các soạn giả Sách giáo viên Ngữ văn 10 của chương trình thí điểm phân
ban, bộ 1, cũng như của chương trình nâng cao, phân ban đại trà hiện hành:
“Ông (tức Nguyễn Trãi – HĐK chú thích) lẽ ra lúc này phải có cây đàn của vua Thuấn,
đàn một tiếng để nói lên niềm mong mỏi lớn nhất của mình là dân chúng khắp nơi đều
được giàu có, no đủ”
Tóm lại, về bài thơ Cảnh ngày hè (Bảo kính cảnh giới, bài số 43) của Nguyễn Trãi, các
nhà biên soạn nên chọn đưa vào chương trình bản phiên chữ thứ 5 của câu 4 là “tịn” (tận,
hết) để thể hiện được ý nghĩa của cặp phụ từ “còn” – “đã” trong câu này và câu 3 đứng
trước, thể hiện được bức tranh trong bài thơ là bức tranh ngày hè độ cuối mùa còn căng
tràn sức sống với tất cả tính chân thực, sinh động, cụ thể của nó. Người dạy, người học
nên chọn cách hiểu đối với hai câu cuối là ước vọng của Nguyễn Trãi về viễn cảnh “Dân
giàu đủ khắp đòi phương” để phù hợp hơn với cảm hứng chủ đạo trong Quốc âm thi tập,
với thực tế lịch sử -xã hội thời đại Nguyễn Trãi, với tấm lòng đau đáu khát vọng “yên
dân”, với những uẩn khúc của một nhà nho tinh thần trách nhiệm cao cả nhưng không còn
cơ hội thực hiện trọn vẹn lý tưởng đời mình, với cái tình thế nhàn cư mà chẳng nhàn tâm
trong những ngày dài “nhàn quan” của vĩ nhân Ức Trai Nguyễn Trãi.
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10

+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Nguyễn Trãi (1380 -1442) là đại thi hào dân tộc, người anh hùng cứu quốc thuở “Bình
Ngô”, danh nhân văn hoá Đại Việt. Thơ chữ Hán cũng như thơ chữ Nôm của Nguyễn
Trãi đẹp đẽ, sâu sắc, biểu tượng cao quý của nền văn hiến Việt Nam.
“Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi hiện còn 254 bài thơ, được chia nhiều loại, nhiều thể
tài khác nhau: Ngôn chí (21 bài), Thuật hứng (25 bài), Tự thán (41 bài), Báo kính cảnh
giới (61 bài) .v.v… Phần lớn các bài thơ trong “Quốc âm thi tập” không có nhan đề. Đây
là bài thơ số 43 trong “Bảo kính cảnh giới”. Các bài thơ trong “Bảo kinh cảnh giới hàm
chứa nội dung giáo huấn trực tiếp, nhưng bài thơ này rất đậm đà chất trữ tình, cho ta
nhiều thú vị.
Đề tài mùa hè, cảnh hè được nói nhiều trong thơ văn cổ dân tộc. “Quốc âm thi tập”,
“Hồng Đức quốc âm thi tâp”. Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến v.v… đều có thơ viết về
mùa hè rất hay. Bài thơ này là một thi phẩm khá tiêu biểu cho ngôn ngữ thi ca Ức Trai,
đậm đà dấu ấn thời đại, thời Lê, thế kỷ XV. Nó nói lên cảnh sắc mùa hè làng quê và nỗi
ước mong của nhà thơ.
Câu 1 (lục ngôn) nói lên một cảnh sống của thi nhân. Câu thơ bình dị như một lời nói vui
vẻ, thoải mái, hồn nhiên:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Đằng sau vần thơ là hình ảnh một cụ già, tay cầm quạt giấy “Hài cỏ dẹp chân đi đủng
đỉnh – Áo bô đen cật vận xềnh xoàng” đang đi dạo mát. Lúc bấy giờ, Ức Trai không bị
ràng buộc bởi “áng mận đào”, vòng “danh lợi” nữa, mà đã được vui thú nơi vườn ruộng,
làm bạn với cây cỏ, hoa lá nơi quê nhà. “Ngày trường” là ngày dài. “Rồi” là tiếng cổ,
nghĩa là rỗi rãi, thong thả, nhàn hạ, cả trong công việc lẫn tâm hồn. Câu thơ phản ánh một
nếp sinh hoạt nhàn nhã: trong buổi ngày dài rỗi rãi, lấy việc hóng mát làm niềm vui di
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
dưỡng tinh thần. Ta có thể phán đoán Ức Trai viết bài thơ này khi ông đã lui về Côn Sơn
ở ẩn.
Năm câu thơ tiếp theo tả cảnh hè làng quê Việt Nam xa xưa. Các câu 2, 3, 4 nói về cảnh
sắc, hai câu 5, 6 tả âm thanh chiều hè. Cảnh sắc hè trước hét là bóng hòe, màn hòe. Lá

hòe xanh thẫm, xanh lục. Cảnh hòe sum sê, um tùm, lá “đùn đùn” lên thành chùm, thành
đám xanh tươi, tràn đầy sức sống:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp trương”
Tán hòe tỏa bóng mát, che rợp sân, ngõ, vườn nhà, “trương” lên như chiếc ô, chiếc lọng
căng tròn. Mỗi từ ngữ là một nét vẽ màu sắc tạo hình gởi tả sức sống của cảnh vật đồng
quê trong những ngày hè: lục, đùn đùn, tán, rợp trương. Ngôn ngữ thơ bình dị, hàm súc
và hình tượng.
Cây hòe vốn được trồng nhiều ở làng quê: vừa làm cảnh, vừa cho bóng mát. Hòe nở hoa
vào mùa hè, màu vàng, làm dược liệu, làm chè giải nhiệt. Trong văn học, cây hòe thường
gắn liền với điển tích “giấc hòe” (giấc mộng đẹp), “sân hòe” (chỉ nơi cha mẹ ở ). Truyện
Kiều có câu: “Sân hòe đôi chút thơ ngây – Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình”. Trong thơ
Ức Trai, Lê Thánh Tông,… hình ảnh cây hòe xuất hiện nhiều lần được miêu tả bằng một
thứ ngôn ngữ trau chuót, đậm đà:
“lại có hòe chen bóng lục”.
(“Cảnh hè” - Ức Trai)
“Có thuở ngày hè trương tán lục,
Đùn đùn bóng rợp cửa tam công”.
(“Hòe” - Ức Trai_
“Đằng đẵng ngày chầy giương tán nắng
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
Đùn đùn bóng rợp phủ màn hòe”
(“Vịnh cảnh mùa hè” – “Hồng Đức quốc âm thi tập”)
“Rợp rợp màn hòe bóng mới xây,
Choi chói hoa vàng đưa gió
Đùn đùn tán lục gương mây”.
(“Màn hòe” – Lê Thánh Tông)
Câu 3 nói về khóm thạch lựu ở hien nhà trổ hoa rực rõ: “Thạch lựu hiên còn phun thức
đỏ”. Thức tiếng cổ chỉ màu vẻ, dáng vẻ. Trong cành lá xanh biếc, những đóa hoa lựu như
chiếc đèn lồng bé tí phóng ra, chiếu ra, “phun” ra những tia lửa đỏ chói, đỏ rực. Chữ

“phun” được dùng rất hình tượng và thần tình. Lê Thánh Tông viết về hoa lựu:
“Ngoài hiên lửa lựu luống thè be”.
(“Mùa hè”)
“Truyện Kiều” cũng có câu: “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” - Từ hoa lựu “phun
thức đỏ”, “lửa lựu luống thè be” đến hình ảnh “đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” là cả
một quá trình sáng tạo ngôn ngữ thi ca của các thế hệ thi sĩ dân tộc qua 5 thế kỷ từ “Quốc
âm thi tập”, Hồng Đức quốc âm thi tập, đến “Truyện Kiều”. Vẻ đẹp ngôn ngữ thi ca được
trau chuốt như ngọc quý sẽ ánh lên màu sắc huyền diệu là như thế đó!
Câu 4 nói về sen: “Hồng liên trì đã tịn mùi hương. “Tịn” là hết (tiếng cổ). Sen hồng vẫn
nở thắm ao làng, nhưng hương đã nhạt, đã phai tàn. Sen là biểu tượng cho cảnh sắc mùa
hè làng quê ta. Khi sen trong ao làng đã “Tịn mùi hương” tức là đã cuối hè.
Nguyễn Trãi đã chọn hòe, thạch lựu, sen hồng (hồng liên) để tả và đưa vào thơ. Cảnh sắc
ấy vô cùng xinh đẹp và bình dị. Nhà thơ đã gắn tâm hồn mình với cảnh vật mùa hè bằng
một tình quê đẹp. Thiên nhiên trong thơ Ức Trai rất hữu tình và thân thuộc. Cỏ cây gần
gũi, mến yêu:
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
“Tả lòng thanh vị núc nác,
Vun đất ải lảnh mồng tơi”
(Ngôn chí - số 9)
“Ao cạn vớt bèo cấy muống
Trì thanh phát cỏ ương sen”
(“Thuật hứng” - số 24)
Hè rất đẹp, rộn ràng trong khúc nhạc làng quê. Ngoài tiếng cuốc tiếng chim tu hú, tiếng
sao diều còn có tiếng ve, tiếng cười nói “lao xao” của đời thường:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Sau khi tả hòe màu “lục”, lựu “phun thức đỏ”, sen hồng đã “tịn mùi hương”, nhà thơ nói
đến âm thanh mùa hè, khúc nhạc đồng quê. Tiếng “lao xao” từ một chợ cá làng chài xa
vọng đến, đó là tín hiệu cuộc đời dân đã đầy muối mận và mồ hôi. Nhà thơ lắng nghe

nhịp sống đời thường ấy với bao niềm vui. “Lao xao” là từ láy tượng thanh gợi tả sự ồn
ào, nhộn nhịp. Hòa điệu với tiếng lao xao chợ cá là tiếng ve vang lên rộn rã, nhịp nhàng.
“Cầm ve”, hình ảnh ẩn dụ, tả âm thanh tiếng ve kêu như tiếng đàn cầm. “Dắng dỏi” nghĩa
là inh ỏi, âm sắc tiếng ve trầm bổng, ngân dài vang xa. Ngôi lầu buổi xế chiều trở nên náo
động rộn ràng. Nhà thơ lấy tiếng ve để đặc tả khung cảnh một chiều hè làng quê lúc
hoàng hôn buông dần xuống mái lầu(lầu tịch dương) là một nét vẽ tinh tế đầy chất thơ
làm nổi bật cái không khí êm ả một chiều hè nơi thôn dã:
“Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Và đây là tiếng chim cuốc, tiếng ve ngày hè nơi đồng quê được nói đến trong thơ “Hội
Tao Đàn” dưới triều vua Lê Thánh Tông:
“Tường nọ nhặt khoan vang tiếng cuốc
Cành kia dắng dỏi gảy cầm ve”
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
(Vịnh cảnh mùa hè)
Trở về “Côn sơn quê cũ” Ức Trai đã từng bồi hồi “trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn”,
giờ đây ông lại thả hồn mình trong khúc ca dân dã “cầm ve” buổi chiều tà cuối hè. Tiếng
ve lúc hoàng hôn thường gợi nhiều bâng khuâng, vì ngày tàn, màn đêm đang dần dần
buông xuống. Nhưng với Ức Trai, nó đã trở thành “cầm ve” nhặt khoan trầm bổng, dắng
dỏi vang xa, làm cho khung cảnh làng quê một buổi chiều tà bỗng rộn lên bao niềm vui
cuộc đời.
Hai câu kết diễn tả ước mong nhà thơ:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khẵp đòi phương”.
“Dè có” nghĩa là hãy để (cho ta) có; học giả Đào Duy Anh ghi chú là “Lẽ có” và giải
thích “Đáng lẽ có….”. Ngu cầm là cây đàn thần của Thuấn (Nghiêu, Thuấn là hai ông vua
thời cổ đại Trung Quốc - triều đại lý tưởng: nhân dân được sống trong hạnh phúc, thanh
bình). Câu kết cảm xúc trữ tình được diễn tả bằng một điển tích phản ánh khát vọng cao
đẹp của Nhà thơ. Ức Trai chân thành bày tỏ: Hãy để cho ta cây đàn thần của vua Thuấn,
ta sẽ gảy lên khúc “Nam phong”, cầu mong cho mọi nhà, mọi chốn, khắp các phương trời

(đòi phương) được ấm no, giàu có.
Hai câu kết toát lên một tình yêu lớn. Con người Ức Trai lúc nào cũng hướng về nhân
dân, mong ước cho nhân dân được ấm no và nguyện hy sinh phấn đấu cho hoà bình, hạnh
phúc của dân tộc:
Trong thơ Ức Trai, hai câu kết luôn luôn là sự hội tụ bừng sáng những tư tưởng tình cảm
cao cả, đẹp đẽ. Vì thế mà câu kết đã để lại trong tâm hồn người đọc những ấn tượng mạnh
mẽ:
“Cảnh thanh đường ấy chưng về nghỉ
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào”
(Mạn thuật - số 13)
“Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
Đêm ngày cuồn cuồn nước triều đông”
(Thuật hứng - số 5)
Bài thơ nôm ra đời gần 600 năm về trước miêu tả cảnh tình mùa hè nơi đồng quê, đã đem
đến cho chúng ta nhiều thú vị văn chương. Một giọng thơ thâm trầm, hồn hậu đáng yêu.
Nhiều tiếng cổ cấu trúc câu thơ thất ngôn xen lục ngôn. Phép đối ở phần thực và phần
luận khá chặt chẽ về ngôn từ, thanh điệu, hình ảnh và ý tưởng. Cảnh sắc và âm thanh mùa
hè quê ta xa xưa như sống dậy qua những vần thơ nhuần nhị đầy cá tính sáng tạo. Ức Trai
đã gửi gắm một tình yêu thiên nhiên nồng hậu, một tấm lòng thiết tha với cuộc sống, một
niềm ước mong tốt đẹp cho hạnh phúc của nhân dân. Vĩ đại thay Ức Trai. Bài học thương
yêu nhân dân mà ông nói đến lúc nào cũng mới mẻ và đậm đà.
CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ CẢNH NGÀY HÈ CỦA NGUYỄN TRÃI
"Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hoè lục đùn đùn tán rợp gương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương."
Bài thơ 8 câu 57 chữ gồm một bức tranh cảnh ngày hè - 6 câu đầu và một lời bình, suy
ngẫm từ bức tranh ấy - 2 câu cuối.
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
Trong bức tranh đậm màu, nền trời chiều ráng đỏ, một ngôi lầu vắng lặng, cây hoè cổ thụ
ngoài sân tán xanh thẫm, che rợp, bên hiên nhà cây thạch lựu sắc đỏ. Vài ba chú ve trên
các cành cây. Ao sen hồng và xa xa là làng chài đang họp chợ. Có một người ngồi trên
lầu trâm ngâm.
Xem tranh, trước hết ta thấy một tư thế của con nguời ngồi đó. Câu mở đầu “hóng mát” -
ngoạn cảnh nhàn nhã, thảnh thơi.
Nên nhớ, đây là bức tranh thơ của vị tướng cầm quân từng xông pha trận mạc một thời,
từng “đau lòng nhức óc” vì vận nước từng cùng Lê Lợi “dựng cầu trúc ngọn cờ phấp
phới”, và sau này sắm vai ẩn sĩ mà tấm lòng vì dân nước không lúc nào yên “Đêm ngày
cuồn cuộn nước triều dâng”. Đặt trong nỗi truân chuyên của cuộc đời Nguyễn Trãi, mới
thấy quí cái giây phút ngắn ngủi hiếm hoi này, mới thấy cái tư thế ung dung thưởng
ngoạn kia là sự hưởng thụ chân chính. Sau tư thế ấy, thấy cả cái không khí yên bình của
cả một làng quê, đất nước vừa qua cơn binh lửa.
Con người này có ánh mắt tinh tế, say mê. Người ngắm cảnh có đôi mắt rất sành : 3 loại
cây, 3 dáng vẻ, không trùng lặp. Tả cây, mà lộ ra khuôn mặt của mùa hè. Cây hoè : tán
xanh xum xuê, toả rộng - sức sống vươn cao. Thạch lựu : sắc đỏ - rực rỡ của tố chất khoẻ
mạnh. Sen hồng : đậm hương - tâm hồn nồng hậu, thanh cao. Ba loại cây, ba dáng vẻ, ba
màu sắc nữa (xanh, đỏ, hồng) đều có hồn. Ngôn ngữ của thơ thay cho chất liệu màu của
họa là lời nói sống động của đời thường. Chữ “đùn đùn” khiến ta cảm nhận được sự sống
đang nảy nở mạnh mẽ, trông thấy được bằng mắt thường. Chữ “phun” còn lạ hơn. Không
tả hoa đỏ, mà cảm nhận cây lựu đang phun, đang tuôn ra sắc đỏ. Sen hồng cố đậm hương.
Con ve kia cũng gắng hết sức trong những tiếng kêu cuối cùng. Chợ ở làng chài đang náo
nhiệt nên vọng xa lao xao Chỉ là Bức tranh phong cảnh ư ? Không phải ! Đấy là Bức
tranh đời. Ở đó tạo vật và con người đều dang sống hết sức mình, sống rất nhiệt tâm, băng

mình trong trường tranh đấu sống.
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
Ta bất ngờ nhận ra điều kì lạ. Con người hoạ sĩ trong thi nhân Nguyễn Trãi thế kỉ XV ở
Việt Nam có gì rất gần gũi đại danh hoạ Hà Lan thế kỉ XIX, Vanh-xăng-Van-gốc. Không
phải ở những sắc màu được sử dụng, mà ở cách diễn tả nó. Van-gốc vẽ đồng lúa ta cứ
ngỡ cánh đồng bốc cháy. Hàng cây bên đường cũng quằn quại vệt lửa. Van-gốc đốt cháy
mình trong tranh. Nguyễn Trãi đốt cháy mình trong thơ. Chữ “đùn đùn”, “phun”, "tiễn",
"lao xao", "dắng dỏi" là lửa sống rừng rực trong lòng Ức Trai mặc cho do thời thế ông
đang phải lui về quy ẩn "Rồi, hóng mát thuở ngày trường".
Trong bức tranh này, thính giác nhậy bén đã giúp Nguyễn Trãi “vẽ” cảnh bằng nhạc. Xa
xa, chợ cá không rõ hình, song âm thanh “lao sao” chở hồn đến cho người đọc cái rộn
ràng nhộn nhịp, náo nhiệt của cuộc sống thanh bình. Nếu “lao sao” là khúc hoà tấu của
đời sống dân sinh, thì “dắng dỏi cầm ve” tấu lên âm thanh của cây đàn độc huyền, ngân
lên thiết tha cuối chiều, vấn vương nét quí tộc, lầu cao đơn độc. Hai phong điệu dân dã và
quí tộc hoà hợp, bởi chất keo dính của đời thường, đậm đà hơi thở sống.
Cho nên vẽ bức tranh này đâu chỉ là chuyện của giác quan chuyên nghiệp họa sĩ hay thi sĩ
mà là năng lực, phẩm chất của tâm hồn - tâm hồn tinh tế, đằm thắm của một con người
hết mực yêu đời, say mê cuộc sống.
Bức tranh Cảnh ngày hè có một lời bình - một suy ngẫm đứng riêng, độc lập.
Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
Mạch thơ từ hướng ngoại sang hướng nội. Từ miêu tả sang biểu cảm, khách thể sang chủ
thể. Nguyễn Trãi đã trực tiếp bộc lộ nỗi lòng mình trong hai câu thơ kết. Ấy là một giấc
mơ, và cả một học thuyết nhân sinh ấp ủ bật ra thành lời.
Giấc mơ, đó là giấc mơ Nghiêu Thuấn. Giấc mơ ngàn đời của những con người Phương
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
Đông sống trong thời trung đại. Mong sao có một bậc vua hiền để được yên ổn ấm no
hạnh phúc. Trước hơn bốn trăm năm, thời Tiền Lê, Pháp Thuận đã phát biểu "Vận nước

như mây cuốn / Trời Nam mở thái bình / Vô vi trên điện các / Xứ xứ dứt đao binh". Vận
nước có rối ren thế nào cũng mong hai chữ thái bình, nhà vua đừng làm điều gì nhiễu
nhương thì khắp nơi đều hết nạn binh đao. Sau mấy mươi năm, vị vua hiền minh Lê
Thánh Tông cố sức mình cũng chỉ để thỏa lòng mong muốn :
Nhà nam nhà bắc đều có mặt
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình.
Bây giờ đây, ưu tư thế cuộc, nhìn đời - từ cỏ cây, vạn vật đến sinh linh vui sống như thế,
Nguyễn Trãi lại khắc khoải khát vọng muôn năm này. Mong trị quốc, bình thiên hạ sao
cho dân giàu nước mạnh là giấc mơ của một bậc đại nhân.
Nếu giấc mơ kia là của bậc đại nhân, thì cái lõi tư tưởng của giấc mơ là của bậc đại trí.
Đó là tư tưởng “thân dân” (dĩ dân vi bản) từng được vạch rõ trong Bình Ngô Đại Cáo -
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân".
Đó là tư tưởng lớn. Với Nguyễn Trãi, tư tưởng ấy từng sôi sục trong hành động, khắc
khoải trong tâm tưởng, rát bỏng trong thi ca. Cả bài thơ 8 chữ, đến tận dòng cuối cùng,
chữ “dân” mới bật ra, song chính là cái nền tư tưởng, tình cảm của tác giả, cái hồn của bài
thơ. Là sợi chỉ dỏ xâu chuỗi cả 8 câu thơ lại.
Cảnh ngày hè (Gương báu răn mình số 43) không định giáo huấn chung. Trước đời sống
đang dâng trào, yên lành thế, Nguyễn Trãi tự răn mình, phải làm sao cho cuộc sống này
trở thành mãi mãi và chỉ khắc khoải một nỗi "tiên ưu" ấy mà thôi.
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
ĐỘC TIỂU THANH KÍ
DÀN BÀI PHÂN TÍCH BÀI THƠ ĐỘC TIỂU THANH KÝ – NGUYỄN DU
Vấn đề cần làm rõ :
Sự đồng cảm, xót thương của Nguyễn Du với người con gái tài hoa mệnh bạc
Nghệ thuật thơ chữ Hán Đường luật thể hiện cô đúc tâm sự Nguyễn Du trước thời cuộc.
Tinh thần tiếp thu di sản tinh thần Nguyễn Du của xã hội mới
DÀN Ý :
I. ĐẶT VẤN ĐỀ :
1. Nguyễn Du – đại thi hào dân tộc, nhà thơ hiện thực và nhân đạo lớn nhất trong văn học

Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX – không chỉ nổi tiếng với “Truyện Kiều”
mà ông còn là nhà thơ sáng tác bằng chữ Hán điêu luyện.
2. “Thanh Hiên thi tập” là những sáng tác bằng chữ Hán thể hiện tình cảm sâu sắc của
Nguyễn Du với thân phận con người – nạn nhân của chế độ phong kiến.
3. Trong đó, Độc Tiểu Thanh ký là một trong những sáng tác đưọc nhiều người biết đến,
thể hiện sâu sắc tư tưởng Nguyễn Du và làm người đọc xúc động vì tình cảm nhân đạo
cao cả của nhà thơ.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ :
A/ Định hướng phân tích :
1. Độc Tiểu Thanh ký có nghĩa là “đọc tập Tiểu Thanh ký” của nàng Tiểu Thanh. Đó là
người con gái có thật, sống cách Nguyễn Du 300 năm trước ở đời Minh (Trung Hoa).
Nàng là người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng vì làm lẽ nên bị vợ cả ghen, đày ra sống ở
Cô Sơn cạnh Tây Hồ. Buồn rầu, nàng sinh bệnh chết và để lại tập thơ. Nhưng vợ cả vẫn
ghen nên đốt tập thơ, chĩ còn lại một số bài thơ tập hợp trong “phần dư”. Bản thân cuộc
đời Tiểu Thanh cũng đã để lại niềm thuơng cảm sâu sắc cho Nguyễn Du.
2. Cảm hứng xuyên suốt toàn bài được diễn tả trong khuôn khổ cô đúc của thể thơ Đường
luật thất ngôn bát cú. Nguyễn Du khóc người cũng để tự thương mình. Dù là cảm xúc về
một cuộc đời bất hạnh đã cách ba trăm năm, nhưng thực chất cũng là tâm sự của nhà thơ
trước thời cuộc.
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
B/ Chi tiết :
1. Hai câu đề : Hai câu mở đầu của bài thơ giúp người đọc hình dung ra hình ảnh của nhà
thơ trong giờ phút gặp gỡ với tiếng lòng của Tiểu Thanh :
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
(Tây hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)
a) Hai câu thơ dịch đã thoát ý nguyên tác nên làm giảm đi phần nào hàm ý súc tích của
câu thơ chữ Hán. Nguyễn Du không nhằm tả cảnh đẹp Tây Hồ mà chỉ mượn sự thay đổi

của không gian để nói lên một cảm nhận về biến đổi của cuộc sống. Cách diễn đạt vừa tả
thực vừa gợi ý nghĩa tưọng trưng. “Tây hồ hoa uyển” (vườn hoa Tây Hồ) gợi lại cuộc
sống lặng lẽ của nàng Tiểu Thanh ở vưòn hoa cạnh Tây Hồ – một cảnh đẹp nổi tiếng của
Trung Hoa. Nhưng hàm ý tượng trưng được xác lập trong mối quan hệ giữa “vườn hoa –
gò hoang”. Dường như trong cảm quan Nguyễn Du, những biến thiên của trời đất đều dễ
khiến ông xúc động. Đó là nỗi niềm “bãi bể nương dâu” ta đã từng biết ở Truyện Kiều.
Nhìn hiện tại để nhớ về quá khứ, câu thơ trào dâng một nỗi đau xót ngậm ngùi cho vẻ đẹp
chỉ còn trong dĩ vãng.
b) Trong không gian điêu tàn ấy, con người xuất hiện với dáng vẻ cô đơn, như thu mọi
cảm xúc trong hai từ “độc điếu”. Một mình nhà thơ ngậm ngùi đọc một tập sách (nhất chỉ
thư). Một mình đối diện với một tiếng lòng Tiểu Thanh 300 năm trước, câu thơ như thể
hiện rõ cảm xúc trang trọng thành kính với di cảo của Tiểu Thanh. Đồng thời cũng thể
hiện sự lắng sâu trầm tư trong dáng vẻ cô đơn. Cách đọc ấy cũng nói lên được sự đồng
cảm của nhà thơ với Tiểu Thanh, “điếu” là bày tỏ sự xót thương với người xưa. Không
phải là tiếng “thổn thức” như lời thơ dịch, mà nước mắt lặng lẽ thấm vào trong hồn nhà
thơ.
2. Hai câu thực :
Hai câu thực đã làm sáng tỏ cho cảm giác buồn thuơng ngậm ngùi trong hai câu đề :
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
(Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương)
a) Nhà thơ mượn hai hình ảnh “son phấn” và “văn chương” để diễn tả cho những đau đớn
dày vò về thể xác và tinh thần của Tiểu Thanh gửi gắm vào những dòng thơ. Theo quan
niệm xưa, “son phấn” – vật trang điểm của phụ nữ có tinh anh (thần) vì gắn với mục đích
làm đẹp cho phụ nữ. Cả hai câu thơ cùng nhằm nhắc lại bi kịch trong cuộc đời Tiểu
Thanh – một cuộc đời chỉ còn biết làm bạn với son phấn và văn chương để nguôi ngoai
bất hạnh.

b) Mượn vật thể để nói về người. Gắn với những vật vô tri vô giác là những từ ngữ chỉ
cho tính cách, số phận con người như “thần” và “mệnh”. Lối nhân cách hóa thể hiện rõ
cảm xúc xót xa của nhà thơ về những bất hạnh của kiếp người qua số phận của Tiểu
Thanh. Kết cục bi thảm của tiểu Thanh xuất phát từ sự ghen tuông, lòng đố kỵ tài năng
của người đời. Dù chỉ là những đồ vật vô tri vô giác thì chúng cũng phải chịu số phận
đáng thương như chủ nhân : son phấn bẽ bàng, văn chương đốt dở. Hai câu thơ đã gợi lên
sự tàn hẫn của bọn người vô nhân trước những con người tài hoa. Đồng thời, cũng thể
hiện nhận thức của Nguyễn Du vốn rất nhạy cảm trước cuộc đời của khách “hồng nhan
bạc phận”, gắn với quan niệm “tài mệnh tương đố” của Nho gia. Vật còn như thế, huống
chi ngưòi! Vượt lên trên những ảnh hưởng của thuyết thiên mệnh là cả tấm lòng giàu cảm
thương của Nguyễn Du.
3. Hai câu luận :
Từ số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã khái quát thành cái nhìn về con người trong
xã hội phong kiến :
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang)
a) Nỗi oan của Tiểu Thanh không phải chỉ của riêng nàng mà còn là kết cục chung của
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu
Tư liệu văn học: Cảm nhận về một số tác phẩm văn học lớp 10
những người có tài từ “cổ” chí “kim”. Nhà thơ gọi đó là “hận sự”, một mối hận suốt đời
nhắm mắt chưa yên. Trong suy nghĩ ấy, có lẽ Nguyễn Du còn liên tưởng đến bao cuộc đời
như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ – những người có tài mà ông hằng ngưỡng mộ – và bao
người tài hoa bạc mệnh khác nữa. Những oan khuất bế tắc của nghìn đời “khó hỏi trời”
(thiên nan vấn). Câu thơ đã giúp ta hình dung rõ cuộc sống của những nạn nhân chế độ
phong kiến, dồn nén thái độ bất bình uất ức ủa nhà thơ với thời cuộc, đồng thời cũng thể
hiện một sự bế tắc của Nguyễn Du.
b) Khóc người để thương mình, cảm xúc đồng điệu đã làm thành câu thơ bất hủ “phong
vận kỳ oan ngã tự cư” (Ta tự cho mình cũng ở trong số những kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì

nết phong nhã). Ở đó là tình cảm chân thành đồng điệu của Nguyễn Du, cũng thể hiện
tầm vóc lớn lao của chủ nghĩa nhân đạo rất đẹp và rất sâu của ông.
c) Không phải chỉ một lần nhà thơ nói lên điều này. Ông đã từng hóa thân vào nàng Kiều
để khóc thay nhân vật, ông đã từng khẳng định một cách đầy ý thức “thuở nhỏ, ta tự cho
là mình có tài”. Cách trông người mà ngẫm đến ta ấy, trong thi văn cổ điển Việt Nam
trước ông có lẽ hiếm ai thể hiện sâu sắc như vậy. Tự đặt mình “đồng hội đồng thuyền”
với Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã tự phơi bày lòng mình cùng nhân thế. Tâm sự chung của
những ngưòi mắc “kỳ oan” đã đưọc bộc bạch trực tiếp mạnh mẽ trong tiếng nói riêng tư
khiến người đọc cũng không khỏi ngậm ngùi. Tâm sự ấy không chỉ của riêng Nguyễn Du
mà còn là nỗi niềm của các nhà thơ thời bấy giờ.
4. Hai câu kết :
Khép lại bài thơ là những suy tư của Nguyễn Du về thời thế :
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hà hà nhân khấp Tố Như
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Ngưòi đời ai khóc Tố Như chăng)
a) Khóc cho nàng Tiểu Thanh ba trăm năm trước bằng giọt lệ chân thành của trái tim
đồng điệu, dòng suy tưởng đã đưa nhà thơ đến ba trăm năm sau cùng một mối hồ nghi
khó giải tỏa. Tiểu Thanh còn có tấm lòng tri kỷ của Nguyễn Du tìm đến để rửa những oan
Dương Minh Mẩn THPT Chuyên Nguyễn Đình Chiểu

×