Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

B2 sự PHÁT TRIỂN tâm lý lứa TUỔI (sửa)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.35 KB, 34 trang )

SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ LỨA TUỔI
GV. Trần Thị Tâm Nhàn
MỤC TIÊU
1. Phân biệt được thế nào là “Sự phát triển tâm lý” và “Sự phát triển tâm
lý theo lứa tuổi”.
2. Biết được các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển
3. Lượng giá chất lượng phát triển của chủ thể và phân biệt được sự bình
thường với bệnh lý
4. Hiểu bệnh nhân và tạo được mối quan hệ với bệnh nhân
5. Có thái độ đồng cảm, chia sẻ, yêu thương bệnh nhân trong quá trình
điều trị.
NỘI DUNG
A - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN
1. Khái niệm:
Sự phát triển tâm lý:
Là khái niệm chỉ tổng thể quá trình chuyển đổi về các lĩnh vực
nhận thức, ý thức, nhân cách, tình cảm... của con người và mang tính
quy luật.
Tất cả các lĩnh vực này có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển thể
chất và vận động. Tức là giữa tinh thần và thể chất có sự liên hệ chặt
chẽ và ảnh hưởng với nhau.
Sự phát triển tâm lý theo lứa tuổi:
Là sự phát triển về các lĩnh vực nhận thức, ý thức, nhân cách, tình
cảm… diễn ra trong từng giai đoạn lứa tuổi cụ thể.

1


2. Nhịp điệu của sự phát triển:
Tất cả trẻ em đều trải qua từng giai đoạn phát triển như nhau, tuy
nhiên nhịp điệu phát triển của từng trẻ là không giống nhau.


Ví dụ: các trẻ đều trải qua giai đoạn đi chập chững, đi vững, chạy...
Tuy nhiên, có trẻ biết đi vững lúc 9 tháng, có trẻ 12 tháng.
3. Thời kỳ nhạy cho việc học tập:
Những nghiên cứu chứng minh: có thời kỳ “quyết định” cho mỗi
thành tựu (điều đạt được), nghĩa là thời kỳ đặc biệt nhạy cho việc
học một điều gì đó. Ta biết rằng nếu trẻ không biết đi trong giai đoạn
bình thường (khoảng từ 9 – 20 tháng) thì trẻ khó khăn để đi học sau
này.
Là người lớn, mỗi ngày chúng ta cũng trải nghiệm những khó khăn
này. Ví dụ học một ngoại ngữ đòi hỏi chúng ta phải đầu tư rất nhiều
thời gian công sức trong khi đó một trẻ nhỏ học ngoại ngữ một cách
tự nhiên.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển:
4.1 Sự trưởng thành của hệ thần kinh:
Những điều trẻ đạt được trong quá trình phát triển (biết ngồi bô, đi,
nói…) nhờ vào sự trưởng thành của hệ thần kinh. Mỗi một thành
tựu cần có khả năng vận động và khả năng về trí não.
Ví dụ: trẻ không thể nói một câu với nhiều từ khi mới được 1 tuổi .
Do đó, cha mẹ và những nhà chuyên môn nên tôn trọng nhịp điệu
của trẻ.

2


4.2 Môi trường (giáo dục)
- Sự phát triển của trẻ không chỉ phụ thuộc vào yếu tố sinh lý mà
còn ảnh hưởng bởi môi trường trẻ sống; đó là cơ cấu gia đình, anh
em, bạn bè, trường học, tôn giáo…Người lớn dạy cho trẻ, trẻ tiếp
thu và làm theo.
Ví dụ: không ai nói chuyện với trẻ, trẻ sẽ không biết nói.

- Khoa học thần kinh đã chứng minh rằng việc học có vai trò quan
trọng trong hoạt động của vỏ não. Thật vậy, một trẻ càng phát triển
những thành tựu mới, càng tạo ra sợi liên bào mới và não trở nên
hiệu quả hơn.
4.3 Hoạt động bên trong của bản thân trẻ (tự giáo dục)
Trẻ tiếp thu kinh nghiệm lịch sử của loài người thông qua sự chỉ
dạy của người lớn.
Ví dụ: trẻ thích tham gia vào các hoạt động học tập sẽ tích lũy
được nhiều kinh nghiệm, kiến thức hơn trẻ ít tham gia.
5. Tính không liên tục và những rối loạn trong sự phát triển:
Yếu tố cơ thể và môi trường giúp trẻ tiến triển. Tuy nhiên, sự phát
triển này không phải luôn hài hòa và liên tục, nhiều yếu tố khác có
thể xen vào như:
- Trẻ chưa trưởng thành đủ (trẻ sinh non)
- Cấu tạo nền tảng không tốt (dị tật bẩm sinh)
- Bất thường nhiễm sắc thể (trẻ bị bệnh Down)
- Sang chấn hoặc nhiễm trùng cận sản
- ……

3


Tất cả những yếu tố này có thể làm ngưng hoặc chậm phát triển
ảnh hưởng đặc biệt lên lĩnh vực trí tuệ. Điều cần lưu ý là những rối
loạn này càng xuất hiện sớm nơi trẻ thì càng nghiêm trọng và
không thể phục hồi.

Mặc dù vậy, ở trẻ nhỏ, khi một vùng của não bị tổn thương chúng sẽ
được hỗ trợ bởi một vùng khác của não. Do đó, khả năng phục hồi
của trẻ sẽ rất lớn nếu được chẩn đoán và phát hiện sớm.

B - CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ LỨA TUỔI
I - GIAI ĐOẠN RA ĐỜI ĐẾN TUỔI VỊ THÀNH NIÊN
Đây là giai đoạn mãnh liệt nhất của sự phát triển. Trong suốt thời kỳ này,
nhân cách, trí tuệ, kỹ năng vận động, xã hội, mối quan hệ và tình cảm của trẻ
được hình thành.
Thời kỳ trong bụng mẹ: Con người là một sinh vật xã hội. Những nghiên
cứu chứng minh, khi còn trong bụng mẹ, bào thai phát triển những giác quan
có vai trò giao tiếp.
Ví dụ:- thính giác xuất hiện lúc bào thai 5 tháng, trẻ trong bụng mẹ có thể
nghe thấy những âm thanh và có phản ứng khi nghe giọng nói của mẹ.
- Bé nhận biết sự tiếp xúc qua thành bụng.
1. GIAI ĐOẠN 0 – 1 TUỔI
1.1 Đặc điểm sinh lý:
Cân nặng
10 – 14 ngày: phục hồi cân nặng lúc sinh
5 – 6 tháng: gấp đôi cân nặng lúc sinh
1 tuổi: gấp ba cân nặng lúc sinh

4


Chiều cao
6 tháng đầu: tăng khoảng 2,5 cm/tháng
6 tháng sau: tăng khoảng 1,25 cm/tháng
Hệ thần kinh (HTK):
Chưa hoàn thiện lúc mới sinh. HTK phát triển nhanh chóng khi
sinh, giảm dần từ năm thứ 2 đến năm thứ 4
Thời gian ngủ nhiều hơn giúp trẻ phát triển nhanh chóng.
1.2 Đặc điểm tâm lý:
• Sự sinh ra như là sự tách rời giữa mẹ và con.

- Đối với bà mẹ: phải chấp nhận trẻ không còn là một phần của
chính bản thân mình nữa. Sự hiện diện của trẻ vừa gần gũi vừa xa
lạ. Do đó, bà mẹ gặp khó khăn về cảm xúc đối với trẻ (hiện tượng
trầm cảm sau sinh). Chúng ta cần giúp đỡ bà mẹ vượt qua sự khó
khăn này.
- Đối với trẻ: lệ thuộc hoàn toàn vào môi trường xung quanh để tồn
tại. Trẻ phải thích nghi với cuộc sống mới khi chào đời (nhiệt độ,
môi trường, ánh sáng, âm thanh…)
Ở giai đoạn này trẻ có quan hệ xã hội với bố mẹ và những người
trong gia đình, đặc biệt là mẹ. Sự quan tâm chăm sóc của mẹ tạo
cho trẻ cảm giác an toàn, tin tưởng. Ngược lại, trẻ sẽ có cảm giác
lo lắng và sợ hãi.
• Trẻ sơ sinh tích cực trong giao tiếp:
- Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng trẻ em khi sinh ra có một số
phản xạ giúp thích nghi linh hoạt với môi trường tự nhiên và xã
hội.
Ví dụ: phản xạ tự vệ như ho, hắt hơi, mút, nuốt, quay đầu…
5


- Dần dần, trẻ xuất hiện các phản xạ có điều kiện, phản ứng vào
tình huống được gặp. Từ những tình huống đó, trẻ chủ động trong
mối quan hệ với người khác.
Ví dụ: quay mặt đi khi không chịu bú; mỉm cười khi gặp mẹ;
nhận ra và phản ứng với mùi của mẹ, vị sữa mẹ. Khóc khi không
gặp mẹ…
→ Mọi nổ lực giao tiếp của trẻ nhằm cho người chăm sóc biết trẻ
đang muốn gì
Ví dụ: Tiếng la dữ dội của bé khi nhu cầu không được đáp ứng làm
cho mẹ hiểu là bé chưa có khả năng chờ đợi. "Bé là tất cả, ngay

lập tức."
Ở tuổi này, điều quan trọng là trẻ nhận được những gì trẻ yêu cầu.
Ở đây vai trò của người mẹ rất quan trọng cho sức khỏe tâm thần
trong tương lai và cho cách cấu tạo tâm lý tốt của trẻ.
• Sự gắn bó mẹ con
Sự gắn bó mẹ con đặc trưng bởi sự gắn kết mạnh mẽ, cảm xúc
nồng ấm và sự giao lưu tình cảm sâu sắc của cả mẹ và con.
- xuất hiện khi người lớn thỏa mãn những nhu cầu của trẻ, ví dụ
như cho trẻ ăn, chăm sóc trẻ.
- sự gắn bó được duy trì và phát triển qua sự giao lưu cảm xúc giữa
mẹ với trẻ
- quan hệ gắn bó giữa cha mẹ và trẻ được hình thành trong hai năm
đầu đời sẽ tạo cơ sở cho sự phát triền về thể chất và tâm lý của trẻ
ở hiện tại và tương lai.
Ví dụ: Tiếng la dữ dội của bé khi nhu cầu không được đáp ứng làm
cho mẹ hiểu là bé chưa có khả năng chờ đợi. "Bé là tất cả, ngay

6


lập tức." . Ở tuổi này, điều quan trọng là trẻ nhận được những gì
trẻ yêu cầu. Ở đây vai trò của người mẹ rất quan trọng cho sức
khỏe tâm thần trong tương lai và cho cách cấu tạo tâm lý tốt của
trẻ.
Sự gắn bó được đánh dấu bởi tính hai mặt:
- Cơ bản vẫn còn: lo âu xa cách (tháng thứ 4), và lo âu người
lạ (tháng thứ 8) trong những năm đầu đời.
- Bước đầu trải nghiệm sự vui thích: vai trò của da (sờ) và
miệng (bữa ăn) và những ấm ức đầu tiên (ví dụ như cai sữa)
* Sự xa cách quá lâu giữa cha mẹ và trẻ có thể gây ra

những hậu quả bệnh lý : bé dần dần thu mình lại và rơi vào
trạng thái trầm cảm : đó là « hội chứng vắng mẹ »
• Sự phát triển nhận thức, vận động quan trọng:
- Khoảng tháng thứ 2, xuất hiện nụ cười đáp trả
- Khoảng tháng thứ 3, trẻ giữ được đầu
- Khoảng tháng thứ 5 – 6, trẻ tự lật
- Khoảng tháng thứ 8 – 9, trẻ tự ngồi
- Khoảng 12 tháng, trẻ biết đi
- Khoảng 12 tháng, chủ động hơn trong các mối quan hệ cảm
xúc với bố và mẹ. Vào thời kỳ này ở trẻ xuất hiện một loạt các
cảm xúc mới bao gồm tức giận, vui mừng và buồn bực gắn với
những tình huống đa dạng hơn trước đó
• Về ngôn ngữ:
- Khoảng tháng thứ 3, trẻ phát ra những âm thanh
- Khoảng 12 tháng, trẻ biết và nói được 3 từ.

7


Hoạt động giao lưu cảm xúc trực tiếp với người lớn là hoạt động chủ
đạo ở lứa tuổi này
Kết luận giai đoạn 0 – 1 tuổi:
Ta đã nhấn mạnh khía cạnh tình cảm trong quan hệ đầu đời của trẻ: quan hệ
mẹ - con.
Mối quan hệ người chăm sóc – trẻ cũng có khía cạnh tình cảm. Người chăm
sóc đóng vai trò như một người mẹ thay thế mà trẻ hằng mong đợi.
Từ kiến thức trên, chúng ta có thể làm việc với người lớn, trong tình huống
bệnh nhân rất lệ thuộc, rất cần được chăm sóc. Với thái độ yêu sách của
bệnh nhân như là đứa trẻ đòi hỏi được đáp ứng ngay tức thì, người chăm sóc
dễ có thái độ khó chịu và áp lực, người chăm sóc có thể làm tất cả như là

“thỏa mãn con” hoặc không làm gì.
Phân tích các hiện tượng quan hệ này gắn liền với bối cảnh sẽ giúp người
chăm sóc phản ứng một cách chuyên nghiệp và không xét đoán bệnh nhân.
2. GIAI ĐOẠN 1 – 3 TUỔI
Cuối năm thứ nhất, đứa trẻ đã trở nên độc lập hơn, có thể tự đi lại, tự làm
một số việc đơn giản, thích tự mình khám phá thế giới. Điều này dẫn đến
việc thể thống nhất “mẹ - con” bắt đầu bị phá vỡ. Trẻ bắt đầu tách rời khỏi
mẹ về mặt tâm lý và bước sang giai đoạn phát triển tiếp theo.
2.1 Đặc điểm sinh lý:
Trẻ 12 tháng tuổi, trọng lượng cơ thể thường lớn gấp 3 lần so với lúc
mới sinh và đến tuổi này trẻ bắt đầu ít tăng cân dần.

8


2.2 Đặc điểm tâm lý:
• Các mốc phát triển tâm lý - vận động quan trọng:
- 18 tháng, trẻ biết tự xúc ăn
- 24 – 36 tháng, trẻ biết tự leo lên cầu thang, chạy, đi xe đạp ba
bánh, nhảy nhót bằng hai chân, giữ thăng bằng bằng 1 chân, ném
bóng bằng hai tay, có thể mặc và cởi quần áo với sự giúp đỡ của
người lớn.
- Biết bắt chước hành động của những người xung quanh.
- 24 tháng, không tiêu tiểu trong quần
• Về nhận thức
- Tri giác: chiếm ưu thế nhất trong quá trình phát triển. Mọi hành vi
của trẻ đều gắn liền với những gì trẻ trực tiếp tri giác trong hiện tại.
- Trẻ nhớ dựa trên những gì trẻ thấy được.
- Tưởng tượng:
• 6 đến 12 tháng tuổi bắt đầu tưởng tượng, bắt đầu hình dung

ra các sự vật, hiện tượng.
• 12 tháng, có thể tưởng tượng ra là mình đang ăn, đang
uống hoặc đang ngủ
• 15 đến 18 tháng tuổi đã cho búp bê ăn bằng bát đĩa, thìa đồ
chơi.
• 20 đến 26 tháng tuổi đã có thể tưởng tượng được một vật là
một vật gì đó khác, ví dụ: cái chổi có thể biến thành con
ngựa, sàn nhà trở thành bể bơi.
- Hành động và tư duy:
• tư duy trực quan hành động cụ thể. Nghĩa là những biểu
hiện tư duy của trẻ đang gắn rất chặt với hành động trong
những tình huống cụ thể.
9


• hành động với đồ vật luôn giữ vai trò chủ đạo.
- Sự phát triển cảm xúc:
• trẻ có những phản ứng xúc cảm đối với những gì trẻ trực
tiếp tri giác hay nhận thức được
• các động cơ, mong muốn của trẻ chưa có thứ bậc ưu tiên
• 2 tuổi, trẻ có những biểu hiện “đồng cảm” với người khác.
• Về ngôn ngữ
24 tháng, trẻ biết ít nhất 100 từ, trẻ có thể nói một câu 2 từ
36 tháng, trẻ biết >1000 từ, có thể nói một câu 7 – 8 từ
• Tự ý thức
- Khoảng sau 2 tuổi, trẻ đã bắt đầu nhận biết mình trong gương.
Đây là hình thức tự ý thức sơ đẳng đầu tiên của trẻ.
Khủng hoảng 3 tuổi: Ở cuối giai đoạn này, trẻ thường bùng lên
những phản ứng cảm xúc mạnh của trẻ đối với những khó khăn trẻ
gặp phải khi làm việc gì đó một mình không được, hoặc những cơn

hờn dỗi khóc lóc khi trẻ đòi hỏi gì đó mà không được người lớn đáp
ứng
Hoạt động với đồ vật (đồ chơi) là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi này

Kết luận về giai đoạn 1 – 3 tuổi:
Trẻ hướng về sự tự chủ về các kinh nghiệm thông qua trò chơi với người
khác, qua học tập (vệ sinh, ăn uống, mặc quần áo), tự chủ về ngôn ngữ khá
hơn. “Cái tôi” bắt đầu hình thành.
3. GIAI ĐOẠN 3 – 6 TUỔI
3.1 Đặc điểm sinh lý:
10


- Tỉ lệ cơ thể: đầu phát triển gấp 2 lần lúc mới sinh, nặng thêm khoảng
2kg và cao thêm khoảng 7cm
- Sự phát triển của xương: phát triển mạnh mẽ, cứng hơn.
3.2 Đặc điểm tâm lý:
• Về nhận thức:
- Từ 4 – 5 tuổi, bắt đầu hình thành trí nhớ có chủ định. Trong tình
huống trò chơi, trẻ nhớ có chủ định tốt hơn
- Nhờ có trí nhớ phát triển, trẻ có sự liên hệ giữa sự vật trẻ nhìn
thấy với sự vật mà trẻ đã gặp và quen trong quá khứ. (vd: nhìn
đường biết là đường đến trường hay đến nhà bà nội)
- Biết quan sát và tìm tòi
- Tư duy trực quan hình ảnh.
- Nhận biết được giới tính của mình là trai hay gái
• Về ngôn ngữ:
- Gần như nắm được một cách thành thục tiếng mẹ đẻ.
- Vốn từ phát triển nhanh
• Tự ý thức

- Trẻ biết đánh giá hành động của những trẻ khác cũng như đánh
giá bản thân thông qua những đánh giá của người lớn xung quanh,
nhất là của cha mẹ và những người trong gia đình.
- Sử dụng “ngôi thứ nhất” để nói về bản thân
- Trẻ biết tự trọng
• cảm xúc:
- Tương đối ổn định, yên ả, chứ không còn những cơn hờn dỗi dữ
dội như tuổi nhà trẻ.

11


- Lường trước được thái độ hài lòng, không hài lòng của những
người xung quanh đối với việc mình làm.
- Sự lường trước này giúp kìm hãm hay khuyến khích trẻ hành
động.
- Không còn hành động bộc phát. Tuy nhiên chưa có khả năng thực
hiện những công việc mà bản thân trẻ không thấy thú vị.
Hoạt động vui chơi, trò chơi phân vai là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi
này.

Kết luận giai đoạn 3 – 6 tuổi:
Trẻ ý thức về giới tính. Trẻ có nhiều mối quan hệ mới (đi học mẫu giáo), dẫn
đến sự xuất hiện các động cơ mới gắn với tự đánh giá và lòng tự trọng. Đây
là thời kỳ tương đối êm ả trong sự phát triển tâm lý.
→ Giai đoạn này đánh dấu sự chuyển biến các mối quan hệ giữa trẻ với cha
mẹ
→ Sự nằm viện có thể đẩy một số bệnh nhân phát triển mối quan hệ khác
giới với người chăm sóc
→ Người chăm sóc là người điều chỉnh vị trí của bệnh nhân, giúp bệnh nhân

ở đúng vị trí và luôn tôn trọng họ như là một chủ thể (như cha mẹ làm cho
con)
4. GIAI ĐOẠN 6 - -12 TUỔI (Thời niên thiếu)
Trẻ bắt đầu đi học, tham gia vào hoạt động xã hội mới là hoạt động học tập,
hoạt động này được tất cả mọi người (cha mẹ, thầy cô, ông bà) quan tâm và
đánh giá cao.
4.1 Đặc điểm sinh lý:
12


- Hoàn thiện các khả năng vận động của mình và trở nên độc lập hơn
Ví dụ : trẻ có thể đi xe đạp, nhảy dây, bơi, nhảy múa, viết và chơi
nhạc
- Khung xương của trẻ em phát triển mạnh theo cả chiều dọc và chiều
ngang
- Bắt đầu từ 6 hay 7 tuổi, bắt đầu rụng răng sữa và mọc những răng
khôn đầu tiên.
- Đến 9 tuổi con gái nhẹ và thấp hơn đôi chút so với con trai, tuy
nhiên sau đó tốc độ phát triển của chúng tăng lên đáng kể nhờ có
những thay đổi hormone bắt đầu ở con gái sớm hơn so với con trai.
- Trong suốt thời niên thiếu thể lực của con trai và con gái là như
nhau.
4.2 Đặc điểm tâm lý:
• Về nhận thức
- tư duy ngôn ngữ lôgic dần phát triển (lý sự). Bắt đầu xuất hiện
khả năng lý giải lôgic. Trẻ chưa có khả năng lập luận trên phương
diện giả thuyết trừu tượng
- Có thể nắm bắt được các mối quan hệ giữa các thành phần của
vật được tri giác nhờ tư duy phát triển
- Trí nhớ có chủ định phát triển dần. Tuy nhiên ở tuổi này trẻ cũng

có thể nhớ máy móc cho nên rất nhiều trẻ có thể đọc thuộc một bài
thơ, một đoạn văn mà không hiểu nội dung của nó (học vẹt)
- Chú ý tốt hơn khi bài học hấp dẫn, sinh động, dễ hiểu.
• Sự phát triển nhân cách
- Tự đánh giá

13


• đánh giá của người lớn có ảnh hưởng trực tiếp tới tình cảm,
động cơ, tự đánh giá của trẻ. Ví dụ: qua đánh giá của thầy cô trẻ
tự xếp mình và các bạn vào nhóm giỏi, khá hay trung bình.
• sự hình thành “tự tin” của trẻ ảnh hưởng bởi lời khen hoặc lời
phê bình của những người xung quanh.
- Giao tiếp:
Mở rộng lĩnh vực xã hội (cho đến bây giờ, trẻ giới hạn trong gia
đình) ra phía bên ngoài, tách ra khỏi gia đình một phần và tạo ra
những mối quan hệ mới với bạn bè.
Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi này.

Kết luận thời kỳ 6 – 12 tuổi: là giai đoạn tiềm ẩn. Trẻ tập trung chủ yếu
vào học tập, trẻ sẽ mở rộng mối quan hệ xã hội ra ngoài: khám phá bạn bè.
Giai đoạn này kết thúc, trẻ bước tuổi vị thành niên, tức tuổi dậy thì.

5. GIAI ĐOẠN 12 – 18 TUỔI
Sau thời kỳ tiềm ẩn, trẻ đến tuổi dậy thì. Theo Freud, đặc điểm của giai
đoạn này là các xung năng tính dục thức tỉnh với sự hưng phấn tình dục
bình thường ở trẻ vị thành niên. Hưng phấn, đôi khi là nguồn khoái cảm
và đôi khi là sự khó chịu.
Tuổi thiếu niên thường được coi như lứa tuổi chuyển tiếp từ trẻ em sang

người lớn, chứa đựng nhiều diễn biến mang tính khủng hoảng. Ta sẽ triển
khai thời kỳ này ở phần sau

14


Kết luận về các giai đoạn:
Sự phát triển của con người diễn ra theo từng giai đoạn
- Trong những giai đoạn này, môt số tiến trình tâm lý được hình thành
- Các giai đoạn này có thể nói là “quyết định”. Đó là những giai đoạn
thay đổi, vì thế dễ bị tổn thương.
- Là người chăm sóc, chúng ta sẽ phải đối diện với những bệnh nhân có
hành vi như trẻ nhỏ. Những bệnh nhân này muốn chúng ta quan tâm tới
họ, chăm sóc, cho ăn thậm chí tắm rửa. Hiện tượng này có thể kỳ lạ
nhưng thực tế nó vẫn thường xảy ra. Nó giúp bệnh nhân tự bảo vệ khỏi
bệnh tật bằng cách tìm sự thoải mái ở môi trường xung quanh như khi họ
còn nhỏ.
Vì thế, chúng ta có thể sử dụng sự thoái lùi này một cách tích cực vì trạng
thái lệ thuộc như trẻ con của bệnh nhân giúp cho bệnh nhân chấp nhận
một cuộc phẫu thuật, một sự điều trị bằng thuốc, những sự chăm sóc đặc
biệt hoặc một sự nghỉ ngơi hoàn toàn. Tuy nhiên, phải lưu ý đừng để
hành vi này kéo dài quá lâu, và phải cho bệnh nhân tái thích nghi với kiểu
hoạt động của người lớn.

II – TUỔI VỊ THÀNH NIÊN (12 – 18 tuổi )
Tuổi thiếu niên thường được coi như lứa tuổi chuyển tiếp từ trẻ em sang
người lớn, chứa đựng nhiều diễn biến mang tính khủng hoảng.
Trong các thời đại lịch sử trước đây, giai đoạn lứa tuổi thiếu niên là tương
đối ngắn. Nó hầu như không có ở các bầy người nguyên thủy, và chỉ chiếm
15



khoảng thời gian rất ngắn ở các xã hội bộ tộc vì sau khi chín muồi về mặt
tính dục là con người đã bước ngay vào cuộc sống của người trưởng thành,
sinh con đẻ cái (tục tảo hôn). Ngày nay, xã hội phát triển, tuổi thiếu niên dài
hơn so với trước kia. Do đó, diễn biến và độ dài của tuổi thiếu niên rất khác
nhau ở các xã hội có trình độ phát triển khác nhau.
L.X. Vygosky đã phân biệt 3 điểm chín muồi của con người xã hội: Chín
muồi về cơ thể, chín muồi về mặt giới tính và chín muồi về mặt tâm lý
xã hội, nhưng các mốc chín muồi trên có xu hướng tách rời nhau. Đây là cơ
sở sở để hình thành giai đoạn lứa tuổi vị thành niên. Là thời kỳ mấu chốt
trong sự phát triển nhân cách.
1. Đặc điểm sinh lý:
- Là thời kỳ thay đổi sinh học cực kỳ nhanh chóng, ngang hàng với
thời kỳ phát triển phôi thai và trẻ sơ sinh. Cơ thể thay đổi do yếu tố
hormone.
- Sự thay đổi về cơ thể là vấn đề trọng tâm ở lứa tuổi này.
2. Đặc điểm tâm lý:
• Về cơ thể
- Lo lắng theo dõi sự phát triển của bản thân
- so sánh bản thân với những hình mẫu chuẩn.
- Nhạy cảm với bộ dạng bên ngoài của mình (làn da, mụn và
trứng cá…)
Sự thay đổi cơ thể nhanh chóng khiến các em không kịp thích
nghi, ảnh hưởng đến phản ứng và hành vi do không làm chủ
được cơ thể mình. Điều đó tạo ở các em cảm giác phản bội:

16



+ Chủ thể không làm chủ được cơ thể mình
+ Cơ thể phản bội những cảm xúc và ước muốn sâu kín (đỏ
mặt, đổ mồ hôi...)
+ Cơ thể trở thành nhân chứng của dòng dõi (giống cha mẹ)
Vậy, có một khoảng cách giữa tinh thần và tâm lý với cơ thể của trẻ
vị thành niên. Các em phải học cách tái hợp với cơ thể của mình. Vì
thế, các em sẽ sử dụng chiến lược ít nhiều cực đoan (ví dụ: qua cách
ăn mặc, cắt tóc, xâm mình…)
• Về nhận thức
- Từ tuổi này, tư duy của các em có khả năng lý luận lôgic hoàn
toàn trên phương diện ngôn ngữ (chính thức suy nghĩ), tách rời
các vật liệu trực quan, cụ thể.
- Tuổi vị thành niên sẽ có thể bước vào những suy nghĩ hiện

sinh (triết học, sự trầm tư). Ví dụ: Tại sao tôi phải sống? Sống
để làm gì? Cuộc sống có ý nghĩa gì đối với tôi?
- Suy nghĩ trở thành một nguồn vui thích.
• Sự phát triển tự ý thức
- Ở thiếu niên lần lượt xuất hiện hai cấu trúc tâm lý đặc biệt của
tự ý thức: đó là “cảm giác mình là người lớn” và “cái tôi”.
• Cảm giác mình là người lớn: muốn làm người lớn, khẳng
định bản thân nhưng chưa đủ điều kiện: sự phát triển về thể
chất + ý thức xã hội
• Đánh giá người khác (hình thành tư duy phê phán)

17


• Tự đánh giá: khả năng tự đánh giá thường thấp và không
ổn định. Chỉ mới nhìn giá trị con người ở bề ngoài (cách ăn

mặc, đầu tóc…)
• Cái Tôi: Nhân cách của thiếu niên còn chưa ổn định, dẫn
đến “hình ảnh về bản thân” cũng không ổn định. Lập trường
chưa rõ ràng.
- Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình hình thành và
phát triển tự ý thức của trẻ em.
• Cảm xúc
- Xuất hiện xu hướng tách xa mọi người để đi sâu vào việc phân
tích bản thân. (thường xuất hiện cảm giác cô đơn, những nỗi
buồn không hiểu nổi).
- Xuất hiện hiện tượng này là huyền thoại về bản thân: cho rằng
cảm xúc của mình rất mạnh mẽ và khác mọi người. Mất đi ở lứa
tuổi khoảng 15-16.
- Sự tưởng tượng của đứa con nuôi. Các em đau khổ một mình
vì không ai hiểu mình, không ai yêu mình. Chắc chắn mình chỉ
là con nuôi trong gia đình mà thôi.
Tuy vậy, cũng rất may, suy nghĩ này cũng dần qua đi. Nhất là khi trẻ
vị thành niên hiểu được cha mẹ luôn yêu thương và thực sự quan tâm.
• Giao tiếp
- Giao tiếp với bạn cùng tuổi là một dạng hoạt động quan trọng
cùng với hoạt động học tập (ảnh hưởng bạn bè về sở thích, ăn
mắc, giải trí)
• hình thành tình bạn, bạn thân

18


• hình thành nhóm bạn cùng lớp, cùng sở thích (môn học,
thể thao, âm nhạc, cùng hoàn cảnh gia đình,… )
- Giao tiếp với cha mẹ quan trọng dù đã thu hẹp hơn so với lứa

tuổi trước (ảnh hưởng của cha mẹ về chuẩn mực đạo đức, quan
điểm xã hội).
3. Sự chưa ổn định về nhân cách và những vấn đề của tuổi thiếu niên:
Trong cấu trúc nhân cách của thiếu niên mỏng giòn, chưa ổn định.
+ Chưa ổn định về mặt nhận thức các chuẩn mực đạo đức
+ Chưa ổn định về mặt tự đánh giá
+ Có sự mâu thuẫn trong tính cách ...
Tuổi vị thành niên là chuyển động kép:
+ Sự khác biệt đối với gia đình / nhu cầu độc lập đối với uy
quyền
+ Nhu cầu thuộc về một nhóm, để cảm thấy được kết nối với bè
bạn.
Và điều này nằm trong quá trình giải phóng, tìm kiếm sự tự do
và tính xác thực.
 Điều này giải thích một số rối loạn tâm thần có thể xuất hiện ở lứa
tuổi này (chán ăn, trầm cảm, hystery, tâm thần phân liệt…).
Tóm lại, tuổi thiếu niên là giai đoạn lứa tuổi chín muồi tính dục và trưởng
thành dần về tâm lý.
Đến cuối tuổi thiếu niên, những biểu tượng khác nhau về bản thân có xu
hướng tích hợp vào một cấu trúc thống nhất, ổn định hơn: Đó chính là
“cái Tôi”, một cấu trúc tâm lý mới hình thành trong quá trình phát triển
nhân cách giai đoạn cuối tuổi vị thành niên, đầu tuổi trưởng thành.

19


Giao lưu với bạn bè, học tập hướng nghiệp là hoạt động chủ đạo ở lứa
tuổi này.
Tuổi vị thành niên = Thay đổi mối quan hệ với cơ thể, những người
khác, với bản thân

→ Tham gia trong việc khẳng định nhân thân của mình.
→ Định vị và cơ cấu lại bản thân qua các vấn đề quan trọng.
• Triển vọng nghề nghiệp
• Mối quan hệ với người khác
• Quan hệ với người khác phái
• Giá trị và tính ngưỡng…
Tuổi thiếu niên là thời kỳ khủng hoảng và tế nhị trong sự phát triển, là
thời kỳ chuyển tiếp từ trẻ em thành người lớn. Khi khủng hoảng qua đi,
các em hoàn thiện hơn về nhân cách.

III- THANH NIÊN VÀ TRƯỞNG THÀNH (18, 20 – 40 tuổi)
Đây là giai đoạn trưởng thành về mặt Tâm lý xã hội, con người bước vào đời
sống với sự hiểu biết của mình. Ở giai đoạn này con người chú trọng vào
việc tạo dựng sự nghiệp, xây dựng và chăm sóc gia đình.
1. Đặc điểm sinh lý :
- Thể chất ở người trưởng thành trẻ tuổi (20 – 25 tuổi) đạt đến đỉnh điểm,
sinh lực tràn đầy, cơ bắp phát triển.
- Sau 25 tuổi, sự phát triển về thể chất dường như không tăng, đến khoảng
40 tuổi thể lực bắt đầu xuống dốc.
20


Mức giảm này có thể điều chỉnh tùy vào việc tập luyện đều đặn và lối sống
lành mạnh.
2. Đặc điểm tâm lý :
- Tư duy ở người trưởng thành có sự thay đổi về chất so với trẻ em xuất phát
từ trách nhiệm xã hội và những nhiệm vụ mà họ phải giải quyết trong đời
sống thực tiễn của mình.
- Trí tuệ tiếp tục phát triển khá dài (từ 19 – 30 tuổi). Một số chức năng trí tuệ
đạt đỉnh điểm ở tuổi 40 như trí tuệ xúc cảm, một số khác giảm sút sau 30

tuổi như trí tuệ vận động.
- Do ngôn ngữ luôn đi song song với sự phát triển tư duy, nên ngôn ngữ
ngày càng phát triển ở người trưởng thành.
- Tình cảm : tình bạn là mối quan hệ thân tình dựa trên sự tin tưởng, lòng
trung thành, cởi mở và chân thành. Tình bạn giữa những người khác giới dần
phát triển thành tình yêu sâu sắc. Ngoài tình yêu đôi lứa, còn có tình yêu quê
hương, gia đình…
- Sự phát triển tâm lý xã hội ở người trưởng thành (Okun,1984) trong mối
liên hệ giữa :
+ Sự phát triển cái Tôi cá nhân của con người
+ Sự phát triển cái Tôi là thành viên của gia đình
+ Sự phát triển cái Tôi là chủ thể lao động.
3. Mục tiêu cuộc sống của người ở giai đoạn này:
- Theo Ericson: xác định rõ bản sắc riêng của mình và thiết lập các mối quan
hệ thân tình.
- Theo Levinson : Xác định khát vọng ; Xây dựng công danh, sự nghiệp ;
Lập gia đình và chăm sóc con cái ; Thiết lập các mối quan hệ thân tình.

21


- Đây là giai đoạn con người thực hiện các mục tiêu cuộc đời với những
trách nhiệm và bổn phận về gia đình, về nghiệp
- Dễ dẫn đến stress, khủng hoảng tinh thần…nếu gặp khó khăn trong cuộc
sống
IV- TRUNG NIÊN VÀ TRƯỚC GIÀ (40 – <60 tuổi)
1. Đặc điểm sinh lý :
- Diện mạo thay đổi : hiện tượng hói đầu, xuất hiện các nếp nhăn, tăng cân,
vòng bụng to ra
- Giảm dung tích phổi, sức bơm máu của tim và các chức năng khác. Da và

cơ bắp bắt đầu mất đi tính đàn hồi.
- Khung xương không còn linh hoạt và bị co ép khiến chiều cao thấp đi chút
ít.
- Các giác quan có chiều hướng suy giảm.
2. Đặc điểm tâm lý :
- Những thay đổi về thể chất và sức khỏe đòi hỏi con người phải có sự nhìn
nhận lại cái tôi của mình.
- Cảm giác : thị lực, thính lực, khứu giác và vị giác thay đổi theo hướng
giảm đi ; cảm giác thay đổi nhiệt độ và cảm giác đau trở nên rất nhạy bén.
- Vận động: kỹ năng vận động giảm nhưng trình độ thực hiện các chức năng
lao động vẫn như cũ là nhờ có kinh nghiệm thực tiễn.
- Quan niệm về tình dục thay đổi ở giai đoạn này : cảm nhận tình dục có ý
nghĩa lớn hơn bản thân việc quan hệ tình dục.
- Nhận thức : xu hướng phát triển trí năng mang tính liên tục và củng cố.
Những thay đổi thuộc phạm vi trí tuệ diễn ra trong thời kỳ trung niên liên
quan chủ yếu đến các phương pháp sử dụng trí tuệ chứ không phải giảm sút

22


trí tuệ. Trí tuệ kết tinh có được nhờ tích lũy kiến thức kinh nghiệm và sự vận
dụng khéo léo để giải quyết vấn đề.
- Khủng hoảng :
Ở giai đoạn này, thành tựu nhân thân ổn định và chủ thể phải duy trì sự
thăng bằng đạt được. Tuy nhiên vai trò xã hội thì không bao giờ chấm dứt .
Đó là một tiến trình năng động đi theo suốt cuộc đời và vì thế sự thăng
bằng có thể bị đảo lộn vào những thời điểm đặc biệt.
Thật vậy, sự thay đổi những yếu tố bên trong hoặc bên ngoài có thể tạo ra sự
mất quân bình cho mỗi người và trước tình trạng đó mỗi cá nhân phải đối
diện và có những chiến lược để thích nghi.

Những giai đoạn khủng hoảng:
- Giai đoạn chuyển qua tuổi 40 (trung niên)
- Mãn kinh
- Con cái lập gia đình
- Nghỉ hưu
Đây là những thời kỳ mà ai cũng phải trải qua trong cuộc đời của mình. Nếu
được chuẩn bị tốt, sẽ thích ứng được và vượt qua nhẹ nhàng, tức chủ thể
chấp nhận sự mất mát không thể tránh được. Ngược lại, sự chấp nhận
khiêng cưỡng có thể đi kèm theo những rối loạn cơ thể, trầm cảm hoặc thoái
lùi (không thể tự chăm sóc, như một đứa trẻ cần sự giúp đỡ của cha mẹ).
Điểm chung của những giai đoạn khủng hoảng này là đối diện với tuổi già
đang tiến tới, khả năng và ham muốn của chủ thể bị hạn chế

23


Khi đối diện với những bệnh nhân trải qua những khủng hoảng này, chúng ta
có thể tạo cho họ một môi trường an toàn, bảo vệ họ bằng cách thấu hiểu,
đồng cảm với họ. Bên cạnh đó, rèn luyện cho họ những kỹ năng về quan hệ
xã hội, giới thiệu cho họ những lợi ích, thú vui, hoạt động mới để họ vượt
qua khó khăn về tâm lý.

V- TUỔI GIÀ
Tuổi già là một giai đoạn quan trọng của đời sống con người. Đó là giai đoạn
cuộc đời sau 60 tuổi. Giai đoạn này ở nhiều người kéo dài từ 20, 30 cho đến
40 năm.
1 Đặc điểm sinh lý:
- Lão hóa cơ thể (theo quy luật, stress, tai nạn, bệnh tật...)
- Thay đổi dáng vẻ bên ngoài (da nhăn, khô, thô, đồi mồi...)
- Giảm hiệu năng của các giác quan (thị giác thính giác...)

2. Đặc điểm tâm lý:
Thời gian trôi qua, chủ thể không chỉ đối diện với sự mất mát của người
thân mà còn đối diện với tuổi già ập đến trên chính cơ thể của mình.
Sự thay đổi của cơ thể và mối quan hệ của nó tác động lên tâm trí của chủ
thể.
Ví dụ ở người phụ nữ sự giảm chức năng của cơ thể bắt đầu từ tuổi mãn
kinh và được trải nghiệm như một sự mất mát nhân thân nữ giới hoặc
ngược lại là một sự an ủi.

24


2.1Mất những khả năng
- Mặt khác, tuổi già kèm theo nhiều biến đổi:
- Về hình dáng bên ngoài;
- Về khả năng cơ thể ;
- Về hiệu năng của các giác quan (thị giác, thính giác, …) ;
- Về khả năng trí tuệ (trí nhớ).
- Việc ý thức sự giảm sút này đối với chủ thể quả là khó khăn và đau
đớn. Chủ thể phải chấp nhận thấy mình bị giảm giá trị và phải để tang
(chấp nhận sự mất mát) những khả năng của mình đã có lúc trước.
Việc ý thức này được thực hiện từng bước và thường là chậm trễ.
- Mối quan hệ với môi trường xung quanh rất thay đổi. Mối tương tác
và cảm nhận giữa cá nhân và môi trường xung quanh của chủ thể rất
tiêu cực. Điều đó gây ra sự thu mình ở người lớn tuổi, thu hẹp lại môi
trường và vùng hoạt động của họ.
2.2 Phản ứng trước sự mất mát
Trước những thay đổi này, nhiều phản ứng có thể xảy ra :
- Không chấp nhận, thậm chí chối bỏ: chủ thể từ chối nhìn nhận
những gì đang xảy ra cho chính mình, không chấp nhận. Thái độ

này giúp chủ thể tự bảo vệ và giữ lại hình ảnh đẹp của chính bản
thân
- Nhốt mình lại trong sự thoái lùi: sẽ không tốt nếu tình trạng này
kéo dài
- Sự thoái lùi đi kèm theo sự tổ chức lại
Từ những mất mát đó (như mất người thân, sự trẻ trung năng động,
sự tự lập, thay đổi cơ thể... ) chủ thể sẽ phải điều chỉnh và hội nhập.

25


×