Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

KĨ THUẬT VÀO BÀI MÔN ĐỊA LÍ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 91 trang )

1

Mục lục

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nghiệm lại trong cuộc sống chúng ta nhận thấy rằng bất cứ một sự vật, hiện
tượng hay là một công việc nào đó đi chăng nữa, tất cả đều có một quá trình của nó,
đều có khởi đầu và kết thúc.
Khởi đầu là giai đoạn mở đầu cho cả một quá trình, nó mang một ý nghĩa rất
quan trọng. Một thuyết gia đã nói: “Nếu có một khởi đầu tốt đẹp thì cũng có nghĩa
là chúng ta có quyền mong đợi một kết thúc tốt đẹp”, hay trong kho tàng thành ngữ
Việt Nam cũng có câu “đầu xuôi đuôi lọt”, điều này góp phần khẳng định tầm quan
trọng của việc mở đầu. Và dạy học cũng là một quá trình vì vậy nó cũng tuân theo
quy luật chung, nghĩa là có khởi đầu và có kết thúc. Khởi đầu của dạy học chính là
việc tổ chức hoạt động vào bài mới của giáo viên. Giáo viên tạo được ấn tượng đầu
tiên tốt sẽ làm cho học sinh hứng thú với môn học, phá vỡ sự lo lắng, e ngại ban
đầu. Giáo viên vào bài thú vị, hấp dẫn sẽ thu hút được học sinh chủ động học tập,
tích cực, sáng tạo, sẵn sàng hợp tác với giáo viên những hoạt động tiếp theo của một
tiết học, tạo được môi trường dạy - học tin cậy. Vì chỉ khi học sinh có tư thế sẵn
sàng để học thì hoạt động học mới đạt hiệu quả. Ngược lại, nếu giáo viên vào bài
không thu hút được sự chú ý của học sinh với bài học thì hiệu quả của một tiết học
phần nào bị giảm xuống bởi sự phân tán tư tưởng của học sinh làm cho HS, chán
nản, mệt mỏi, buồn ngủ.
Như vậy, vài phút mở đầu cho một bài học tuy chỉ chiếm một thời gian ngắn
nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng, tinh thần làm việc của thầy và trò.
Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho



2
Tuy nhiên “vạn sự khởi đầu nan” để có một phần mở đầu thu hút được sự chú ý,
kích thích sự ham muốn học tập của học sinh thì không hề dễ dàng chút nào mà đòi
hỏi người giáo viên phải có sự đầu tư, có óc sáng tạo, yêu nghề, luôn muốn đổi mới
tiết học cho phù hợp với từng đối tượng, từng hoàn cảnh cụ thể.
Là một giáo viên giảng dạy Địa lí trong tương lai, tôi không muốn những ngày
đến trường học sinh luôn gặp những bài học, những tiết học nhàm chán, tôi muốn
có một không khí lớp vui vẻ, thoải mái, học sinh tích cực tham gia vào các hoạt
động trong giờ học, các em cảm thấy hứng thú khi đến với tiết học Địa lí. Có lẽ đây
không phải là mong muốn của cá nhân tôi mà đây cũng là nỗi trăn trở của những ai
theo nghề giáo và yêu nghề thật sự. Chính vì thế tôi chọn đề tài “Thiết kế một số kĩ
thuật vào bài trong dạy học Địa lí 11” để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả
của việc dạy học Địa lí ở trường phổ thông.

2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu một số kĩ thuật vào bài trong dạy học Địa lí lớp 11 nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả của việc dạy học địa lí ở trường THPT.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Nghiên cứu về cơ sở lí luận của việc vào bài.
Thiết kế một số kĩ thuật vào bài trong dạy học.
Vận dụng một số kĩ thuật vào bài trong dạy học Địa lí 11.
Khảo sát đánh giá việc vận dụng kĩ thuật vào bài trong dạy học Địa lí 11.

4. Giới hạn đề tài
Do hạn chế về thời gian và khả năng cho nên đề tài chỉ nghiên cứu, thiết kế một
số hoạt động vào bài cho chương trình Địa lí lớp 11 ban cơ bản.
Đề tài không tiến hành thực nghiệm sư phạm, chỉ tiến hành đánh giá những kĩ

thuật được đề xuất.

5. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Trên thực tế phần mở đầu được rất nhiều nhà thuyết giảng đặc biệt quan tâm và
được đề cập rất nhiều trong các sách dạy về diễn thuyết:
Sách “Nghệ thuật diễn thuyết” do Tuyết Mai biên dịch có nguyên một chương đề
cập đến việc cần có một mở đầu tốt đẹp vì những nhà diễn thuyết có kinh nghiệm
nhận thấy rằng điều đầu tiên, quan trọng nhất là phải mở đầu hay. Vài câu mở đầu
hay, tự tin sẽ quyết định thu hút người nghe cho nên bất kì nhà diễn thuyết nào, khi
Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho


3
chuẩn bị diễn thuyết đều chọn lọc những điều hay, suy đi nghĩ lại để phần mở đầu
thu hút được khán giả.
Tài liệu “Mở đầu một bài học” của Gobinda R. Poudel và TS. John Collumn biên
soạn chỉ khoảng hơn một trang A4 nhưng lại tóm tắt khá đầy đủ về vai trò, chức
năng, các hình thức tổ chức hoạt động vào bài cũng như các kĩ thuật góp phần cho
một mở đầu hay và hấp dẫn. Tài liệu này cũng nhận định ấn tượng đầu tiên rất quan
trọng, mỗi bài học đều cần có phần mở đầu thuyết phục bởi vì 3 phút mở đầu dẫn
dắt cả buổi học. Phần mở bài phải có hiệu quả nhằm thu hút sự chú ý, kích thích sự
háo hức học bài mới của học viên. Chỉ khi đã sẵn sàng học, học sinh mới có thể học
được đồng thời cũng xác định “Không tồn tại một kĩ thuật mở bài tốt nhất bí quyết
mở bài giỏi nằm trong sự đa dạng và sáng tạo của GV”.
Một số bài viết đăng trên Internet cũng đề cập tới tầm quan trọng của phần vào
bài cũng như một số kĩ thuật tiến hành khâu này nhưng không phải cho một bài
giảng trên lớp của GV mà là một bài thuyết trình với “6 bí quyết có phần mở đầu
một bài thuyết trình hoàn hảo”, bên cạnh đó còn có “10 cách mở đầu một bài trình

bày”, “Mở đầu một khóa học”.
Ngoài những tài liệu trên, theo sự hiểu biết của tôi thì chưa có một đề tài nào
nghiên cứu sâu và cụ thể về hoạt động vào bài trong dạy học Địa lí cụ thể ở trường
phổ thông. Chính vì vậy, thực hiện nghiên cứu đề tài này đối với tôi còn rất nhiều
mới mẻ, đồng thời cũng khó khăn cho việc tìm kiếm tài liệu tham khảo.

6. Phương pháp nghiên cứu đề tài
-

Phương pháp phân loại
Phương pháp này được sử dụng để tiến hành phân loại các kĩ thuật vào bài.

-

Phương pháp tổng hợp
Dùng để phân tích, tổng hợp các tài liệu tham khảo được để áp dụng cho đề
tài của mình đang nghiên cứu.

-

Phương pháp toán học
Được sử dụng trong quá trình tính toán số liệu khảo sát thực tế ở trường phổ
thông và quá trình lượng giá về tổ chức hoạt động vào bài.

-

Phương pháp điều tra
Dùng để tiến hành khảo sát tình hình thực tế và tính thực tiễn của đề tài.

Khóa luận tốt nghiệp


Vũ Thị Nho


4

7. Cấu trúc khóa luận
Khóa luận này gồm 2 chương chính, không kể phần mở đầu và kết luận:
• Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề vào bài trong dạy học.
Chương này giới thiệu các kĩ thuật vào bài, các đặc điểm tâm lí của học sinh
lớp 11 đồng thời tìm hiểu thực trạng vào bài trong dạy học ở trường phổ
thông hiện nay.
• Chương 2: Thiết kế một số kĩ thuật vào bài trong dạy học địa lí 11. Chương
này trình bày nội dung, đặc điểm của chương trình Địa lí lớp 11 ban cơ bản
đồng thời thiết kế một số kĩ thuật vào bài, đánh giá việc vận dụng kĩ thuật
vào bài trong dạy học Địa lí lớp 11.

Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho


5

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1.

CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ VÀO BÀI
TRONG DẠY HỌC


1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ VÀO BÀI TRONG DẠY HỌC
1.1.1. Khái niệm
“Mở đầu bài giảng là khâu chuẩn bị cho HS tiếp nhận tri thức mới, đồng thời ôn
tập, cũng cố lại kiến thức cũ ở bài học trước.”
(N.M. Iacôplep, Phương pháp và kĩ thuật lên lớp trong trường phổ thông – tập 1,
trang 81)
Vào bài là hoạt động đầu tiên giữa giáo viên và học sinh trong một tiết học hay
một bài học nhằm thu hút sự chú ý, tạo hứng thú học tập cho học sinh, giới thiệu
đến học sinh nội dung khái quát, mục đích, mục tiêu mà giáo viên muốn đề cập đến
một cách ngắn gọn và súc tích trong vài phút đầu tiên.
1.1.2. Vai trò của việc vào bài trong dạy học
-

Hoạt động vào bài là một trong những yếu tố quyết định tính toàn vẹn của
bài học, có tác dụng phát huy tính tích cực, sáng tạo cho học sinh, tạo không

-

khí hứng khởi cho học sinh khi bắt đầu một bài học mới.
Tạo không khí thân thiện, tôn trọng lẫn nhau giữa thầy và trò giúp cho bài

-

học được tiến hành một cách nhẹ nhàng, thoải mái.
Chuẩn bị cho học sinh tiếp thu tri thức mới, gây sự chú ý, kích thích tính tò

-

mò ham hiểu biết, mong chờ được tiếp nhận tri thức.
Củng cố lại kiến thức cũ cho học sinh.


Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho


6
1.1.3. Các kĩ thuật vào bài
Trong cuốn “Nghệ thuật diễn thuyết” do Tuyết Mai biên dịch có đưa ra các kĩ
thuật vào bài sau:
-

Dẫn các câu chuyện
Lấy những câu chuyện làm ví dụ
Trực quan sinh động
Nêu vấn đề
Dẫn danh ngôn danh nhân
Kể những chuyện khán giả thích nghe
Bắt đầu với ngôn ngữ kinh ngạc
Diễn thuyết ngoài sức tưởng tượng của mọi người

Trong “Tài liệu mở đầu một bài học” của Gobinda R. Poudel và TS. John
Collumn cũng có đưa ra một số kĩ thuật vào bài như sau:
-

Cho xem những vật thật, những bức tranh biếm họa, những mô hình, giáo cụ

-

trực quan gây ấn tượng mạnh

Kể truyện cười, truyện ngắn, đọc thơ, kể chuyện bản thân, kể những tin tức

-

có liên quan đến chủ đề bài học
Ra những câu hỏi thách đố
Làm cho học viên ngạc nhiên hay sửng sốt bởi một câu tuyên bố hoặc một

-

hành động bất ngờ
Áp dụng phương pháp sắm vai và sau đó đặt câu hỏi
Phát cho học viên một tài liệu thú vị
Cho học viên xem một sản phẩm
Tổng kết hoặc khái quát là liên hệ giữa cái cũ và cái mới, khái quát lại bài
học lần trước và trình bày kĩ năng hoặc khái niệm sắp học được xây dựng
như thế nào trên cơ sở những điều đã học

Tài liệu “10 cách mở đầu cho một bài trình bày” chỉ ra một số kĩ thuật mở bài
dưới đây:
-

Nói rõ những gì bạn sắp trình bày và tại sao
Nói cho khán giả biết một số dữ liệu liên quan đến bài trình bày
Cung cấp vài con số thống kê thú vị
Tạo điều kiện cho khán giả tưởng tượng
Hỏi một câu hỏi
Kể một câu chuyện về chính bạn
Nói về một sự kiện nào đó mang tính nghịch lí hay phản logic
Yêu cầu khán giả làm một điều gì đó


Bài viết “6 bí quyết để có một phần mở đầu hoàn hảo” cũng giới thiệu một số kĩ
thuật vào bài cụ thể:

Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho


7
-

Mở bài bằng một tình huống gây sốc
Những con số thống kê
Một câu chuyện hay một tình huống hài hước
Những câu hỏi bất ngờ

Tóm lại từ các tài liệu, ta thấy có rất nhiều kĩ thuật vào bài, trong đó có những kĩ
thuật tương đồng nhưng cũng có những kĩ thuật mới, từ việc tổng hợp các kĩ thuật
vào bài của các tài liệu trên, đề tài lựa chọn một số kĩ thuật để áp dụng vào dạy học
địa lí như sau:
1.1.1.1. Vào bài trực
tiếp
Vào bài trực tiếp là vào thẳng ngay vấn đề tức là giáo viên giới thiệu rõ ràng tên
bài học, nói rõ mục dích và những nội dung chính của bài học (hay tiết học).
1.1.1.2. Vào bài bằng cách kể chuyện (kể tin tức, sự kiện, truyện cười,
truyện ngắn, kể chuyện bản thân).
Mọi người, mọi lứa tuổi đều thích đọc tiểu thuyết, đều thích nghe kể chuyện vì
đây là tâm lí chung. Giáo viên hãy lợi dụng điều này để làm cho giờ học thêm sinh
động, để giúp học sinh tập trung sự chú ý sau đó dẫn dắt học sinh vào giờ học một

cách nhẹ nhàng. Tuy nhiên cần phải lựa chọn những câu chuyện sao cho phù hợp
với đề bài, với nội dung bài học, không nên kể những câu chuyện phiếm không liên
quan đến bài học.
Riêng những tin tức nóng hổi sẽ làm cho lớp học trở nên sôi nổi hơn, đặc biệt
với môn Địa lí thì điều này càng dễ dàng thực hiện bởi Địa lí có liên quan đến tự
nhiên, kinh tế - xã hội với nhiều vấn đề trong cuộc sống. Hiện nay với trình độ phát
triển công nghệ thông tin như vũ bão thì tin tức trên thế giới và trong nước nhanh
chóng được cập nhật, nhờ vậy giáo viên Địa lí cũng thuận lợi hơn rất nhiều trong
việc thu thập thông tin, chọn lọc để dẫn vào bài học sao cho phù hợp với nội dung
của bài.
Khi kể chuyện hãy chú ý đến những động thái của mình, hãy kể làm sao để thu hút
được tính hiếu kì của học sinh, như vậy mở bài đã thành công.
1.1.1.3.

Vào bài bằng cách đặt câu

hỏi

Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho


8
Trước khi vào bài học giáo viên hãy nêu lên những câu hỏi có vấn đề khiến HS
phải suy nghĩ. Để người nghe tập trung chỉ cần vấn đề nêu ra khiến học sinh quan
tâm chú ý, buộc học sinh phải suy nghĩ để đưa ra câu trả lời và cảm thấy khó khăn.
Phương pháp này như chiếc chìa khóa vậy, cởi mở người nghe, dễ tiếp thu, gây ấn
tượng.
1.1.1.4. Vào bài bằng tranh ảnh, vật

thật
Việc sử dụng tranh ảnh trong khâu mở đầu cũng là một cách hay. Giáo viên có
thể phác họa cho học sinh một cách tổng thể về đất nước đó thông qua một vài hình
ảnh đặc trưng và từ hình ảnh đó giáo viên có thể đặt một số câu hỏi cho học sinh
nhằm giúp các em khai thác tri thức liên quan đến bài học từ đó giúp học sinh lĩnh
hội tri thức mới tốt hơn.
Cho HS xem vật thật: tục ngữ có câu “trăm nghe không bằng một thấy”, đôi khi
giáo viên cần phải cầm vật thật để học sinh nhìn thấy vì vật thật sẽ dễ dàng thu hút
sự chú ý và các ánh mắt sẽ đổ dồn vào tâm điểm. Qua đó, học sinh sẽ không còn bị
phân tán tư tưởng bởi các vấn đề khác mà tập trung vào một cái duy nhất đang ở
trước mắt. Sau đó, giáo viên hãy giới thiệu và nhanh chóng lôi cuốn sự chú ý của
học sinh.
Cho xem vật thật, tranh ảnh sẽ hiệu quả hơn rất nhiều so với việc bạn dùng ngôn
ngữ để miêu tả, để diễn giải vì nó tạo ra hứng thú học tập, kích thích sự ghi nhớ của
học sinh. Khoa học cũng chứng minh rằng thông thường người học chỉ nhớ: 10%
những gì họ đọc, 20% những gì họ nghe, 30% những gì họ thấy, 50% những gì họ
nghe và thấy... bởi vậy sử dụng vật thật, tranh ảnh là điều mà giáo viên nên áp dụng
vào bài.
Một điều cần lưu ý là khi cho học sinh xem vật thật, tranh ảnh thì hãy đứng giữa
lớp học và đứng gần học sinh hơn nhằm làm cho học viên dễ dàng quan sát, bao
quát lớp học, tạo được sự gần gũi, thân mật với học sinh.
1.1.1.5. Vào bài bằng phim,
Clip
Hiện nay phim, clip đã được sử dụng khá phổ biến trong các trường học ở nước
ta vì thế sử dụng phim, clip để vào bài cũng là một cách. Vì phim, clip truyền đạt

Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho



9
được một lượng thông tin đáng kể trong một thời gian ngắn, HS có thể lĩnh hội
được nhiều tri thức mới và cụ thể. Phim, clip để vào bài phải được lựa chọn phù hợp
với nội dung bài học, đảm bảo tính khoa học, sư phạm, thẩm mĩ.

1.1.1.6. Vào bài bằng cách liên hệ bài học
cũ.
Trước khi bắt đầu bài học mới GV khái quát lại bài học lần trước sau đó nêu lên
mối liên quan giữa bài học cũ và bài học mới, từ đó dẫn dắt HS tiếp thu bài học mới
một cách dễ dàng dựa trên cơ sở những gì đã học.
1.1.1.7. Vào bài bằng cách trích
dẫn
Đây là một cách thuyết phục HS bởi những câu nói, những nhận định hay một
danh ngôn thường xuất phát từ những người nổi tiếng trên một lĩnh vực nào đó,
những câu nói, nhận định, danh ngôn của họ dựa trên một cơ sở nhất định, đáng tin
cậy.
1.1.1.8. Vào bài bằng bản
đồ
Bản đồ là phương tiện dạy học quan trọng nhất đối với môn Địa lí. Bản đồ vừa
có chức năng minh họa, vừa có chức năng là nguồn tri thức. Bởi thế, mở bài bằng
bản đồ cũng là một cách thức mà giáo viên có thể sử dụng cho hoạt động vào bài
của mình.
1.1.1.9. Vào bài bằng những ví dụ thực
tế
Thông thường học sinh phải nghe những vấn đề trừu tượng sẽ cảm thấy khó hiểu
nhưng khi giáo viên so sánh với thực tế thì học sinh cảm thấy dễ tiếp thu hơn. Mở
đầu bằng những ví dụ thực tế sau đó giáo viên dẫn dắt học sinh đi vào vấn đề chính
như vậy học sinh sẽ dễ tiếp nhận hơn. Mở đầu bằng cách này thì tự nhiên, chân
thực, cụ thể học sinh sẽ cảm thấy rất dễ hiểu, muốn nghe tiếp, rất vui vẻ, không

miễn cưỡng chấp nhận vấn đề.

Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho


10
1.1.1.10.

Vào bài bằng những con số thống


Một trong những cách để thuyết phục học sinh là đưa ra những số liệu thống kê mới
nhất vì nó có tác dụng mở rộng thêm kiến thức, cập nhật thêm thông tin kịp thời cho
học sinh.
1.1.1.11.

Vào bài bằng phương pháp đóng

vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành “làm thử” một số cách
ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là một phương pháp dạy học
nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề. Vì vậy sử dụng phương pháp
đóng vai cho việc tổ chức hoạt động vào bài cũng là một cách hay thu hút được sự
tham gia của học sinh. Tuy nhiên tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề bài
học, với lứa tuổi, trình độ, điều kiện và hoàn cảnh lớp học, đồng thời chiếm một
khoảng thời gian ngắn từ 4 đến 6 phút.
1.1.1.12.


Vào bài bằng những trò

chơi
Học sinh là lứa tuổi thích hoạt động, không chịu ngồi yên một chỗ nếu cả một tiết
học học sinh chỉ ngồi nghe hoặc giáo viên đặt câu hỏi, học sinh trả lời sẽ gây nhàm
chán và chưa chắc lượng kiến thức giáo viên cung cấp đã in sâu vào trí nhớ các em.
Nếu giáo viên biết cách tạo cho học sinh một niềm phấn khởi trong khi học tập thì
có lẽ kết quả sẽ cao hơn rất nhiều, một trong những cách đó là tổ chức trò chơi liên
quan đến bài học. Phương pháp sử dụng “trò chơi sư phạm” có thể hiểu đó là một
phương thức, cách thức truyền tải một thông điệp, một nội dung cụ thể nào đó đến
người nghe thông qua hình thức trò chơi (chơi mà học). Từ đó nội dung bài học
được truyền tải đến học sinh một cách nhẹ nhàng nhưng đầy sâu sắc và dễ hiểu. Hay
nói cách khác trò chơi sư phạm là chiếc cầu nối hữu hiệu, tự nhiên nhất giữa người
dạy và người học.
Giáo viên sử dụng trò chơi sư phạm để mở đầu một bài giảng cũng là một cách
rất tốt thu hút sự chú ý của học sinh tuy nhiên cần phải ghi nhớ trò chơi cần phù hợp
với mục tiêu giảng dạy, các điều kiện về thời gian, cách bố trí phòng, các phương
tiện giảng dạy. Khi bắt đầu bằng trò chơi giáo viên phải bảo đảm rằng mình kiểm

Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho


11
soát được tình hình, tránh trường hợp quá hứng thú với trò chơi. Giáo viên phải
luôn nhớ dẫn dắt mối quan hệ giữa trò chơi với nội dung bài giảng.
1.1.1.13.

Vào bài bằng thơ hoặc


nhạc
Thực hiện cách vào bài bằng thơ ca hoặc nhạc cũng rất thu hút học sinh. Một
chút thơ ca sẽ làm cho giờ học trở nên bớt khô khan, đặc biệt với các môn học như
môn Địa lí. Cách này làm cho đầu óc học sinh thoải mái, dễ dàng tiếp thu kiến thức
hơn. Người giáo viên mang một chút nghệ sĩ như thế sẽ làm cho học sinh cảm thấy
hài lòng và học sinh dễ dàng bị giáo viên thu hút vào giờ học.

1.2. ĐẶC ĐIỂM TÂM SINH LÍ CỦA HỌC SINH LỚP 11
Học sinh lớp 11, các em có độ tuổi khoảng 15 – 18 tuổi có những đặc điểm tâm
sinh lí như sau:
1.2.1. Đặc điểm sinh lý
Đặc điểm cơ bản của tuổi thanh niên học sinh về sinh lý là cơ thể của các em đã
qua thời kì phát triển nhiều biến động, căng thẳng, mất cân đối mà bước vào thời kì
phát triển bình thường, cân đối, hài hòa.
-

Trọng lượng và chiều cao cơ thể tiếp tục phát triển đều đặn.
Hệ xương cơ bản đã cốt hóa xong.
Hệ cơ phát triển ở mức cao.
Hệ tuần hoàn đi vào hoạt động bình thường.
Giới tính biểu hiện rõ rệt.
1.2.2. Đặc điểm tâm lý
Những đặc điểm tâm lí chủ yếu của học sinh lớp 11:

-

Về nhận thức, cảm giác, tri giác đạt tới mức độ khá cao có thể có cảm giác

-


tinh tế, quan sát nhạy bén.
Hoạt động ghi nhớ có ý nghĩa và có chủ định chiếm ưu thế. Trí tưởng tượng

-

phong phú, mạnh mẽ và phù hợp với hiện thực hơn.
Khả năng tư duy, nhất là khả năng trừu tượng ở mức cao, có thể giải quyết
vấn đề một cách sâu sắc, đúng đắn… Có thể nói rằng tuổi thanh niên học
sinh có trí tuệ linh hoạt, có óc nhạy bén, có khả năng lập luận logic, có ngôn
ngữ khá mạch lạc, rõ ràng, đủ sức diễn đạt một cách chính xác ý tưởng hay
tư tưởng của mình.

Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho


12
-

Về tình cảm các em có tình cảm phong phú, sâu sắc, bền vững. Tình cảm ấy
nảy sinh trên cơ sở nhận thức sâu sắc, gắn liền với thế giới quan lí tưởng, xu
hướng đường đời và xu hướng nghề nghiệp.
1.2.3. Đặc điểm học tập

-

Nội dung học tập rất phức tạp và phong phú, tính trừu tượng và hệ thống cao
hơn ở thiếu niên nhiều. Nội dung này không chỉ trang bị tri thức khoa học mà


-

còn tác dụng hình thành thế giới quan, nhân sinh quan cho các em.
Nhiệm vụ học tập nặng nề, căng thẳng, phương pháp giảng dạy, hình thức
giảng dạy của các thầy cô đa dạng hơn, đòi hỏi các em phải tích cực hơn, vận
dụng trí lực nhiều hơn, sáng tạo nhiều hơn.

Nhìn chung HS lớp 11 các em có tinh thần kỉ luật, tự giác cao, biết tuân theo
những quy tắc, những yêu cầu của xã hội, có lòng tự trọng, ý thức vinh dự cao, có
khả năng tiếp thu nhanh, sáng tạo, linh hoạt. Các em cũng thường thích những hình
thức hoạt động sôi nổi, mới lạ…
Chính vì thế, giáo viên cấp III, đặc biệt là GV dạy lớp 11 cần có những phương
pháp dạy học nhằm thu hút sự chú ý của học sinh, phát huy tối ưu khả năng tư duy
của các em.

1.3.THỰC TRẠNG VÀO BÀI TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG
HIỆN NAY
Để nắm được thực trạng vào bài trong dạy học địa lí ở trường phổ thông đề tài đã
tiến hành khảo sát.
1.3.1. Mục đích khảo sát
-

Tìm hiểu mức độ quan tâm của giáo viên và học sinh đối với hoạt động vào

-

bài của môn địa lí.
Tìm hiểu mức độ sử dụng các hình thức để tổ chức hoạt động vào bài.
Tìm hiểu một số hình thức tổ chức hoạt động vào bài có hiệu quả ở trường


-

THPT hiện nay.
Tìm hiểu một số khó khăn khi vận dụng các hình thức tổ chức hoạt động vào
bài trong dạy học Địa lí.

Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho


13
1.3.2. Phương pháp khảo sát
1.1.1.14.

Phiếu thăm dò ý

kiến:
a. Đối tượng điều tra
+ Giáo viên (20 GV)
Trường
Ngày phát phiếu
Ngày thu phiếu
THPT Bùi Thị Xuân
15/2/2012
15/2/2012
THPT Lý Thường Kiệt
16/2/2012
16/2/2012

THPT Trần Hưng Đạo
22/3/2012
22/3/2012
TH Thực Hành
24/4/2012
24/4/2012
THPT Nguyễn Thị Diệu
7/4/2012
16/2/2012
THPT Trần Khai Nguyên 29/4/2012
29/4/2012
Bảng 1.1 Thời gian và địa điểm phát phiếu thăm dò GV
+ Học sinh: (104 HS)
Trường
Ngày phát phiếu
Ngày thu phiếu
THPT Bùi Thị Xuân
20/2/2012
20/2/2012
THPT Nguyễn Thị Diệu
7/4/2012
7/4/2012
Bảng 1.2 Thời gian và địa điểm phát phiếu thăm dò HS
b. Cách tính kết quả khảo sát
Công thức tính giá trị % đối tượng đồng ý chọn cùng đáp án tính như sau:
Giá trị % = ni : Ʃni
Trong đó:
ni: số lượng đối tượng đồng ý chọn i
Ʃni: tổng số lượng đối tượng điều tra i
1.1.1.15.


Kết quả khảo

sát
+ Học sinh
Mức độ
Tỉ lệ (%)
Quan trọng
73
Bình thường
27
Không quan trọng
0
Bảng 1.3 Đánh giá mức độ quan trọng của hoạt động vào bài
Khảo sát cho thấy 73% học sinh cho rằng tổ chức hoạt động vào bài đóng vai trò
quan trọng, không có học sinh nào cho rằng hoạt động vào bài không quan trọng.

Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho


14
Như vậy khâu tổ chức hoạt động vào bài là khâu mà GV không nên bỏ qua khi lên
lớp, nên chú ý hơn để thu hút được học sinh, làm cho lớp học trở nên sinh động và
tiết học đạt được hiệu quả cao hơn.
Khi khảo sát về tình hình tổ chức hoạt động vào bài thì thu được kết quả như
sau:
-


86,5% học sinh cho rằng các em đã từng học một số tiết học có tổ chức hoạt

-

động vào bài
9,6% thì cho rằng các em chưa từng học một tiết học có tổ chức hoạt động
vào bài.

Khi hỏi về mức độ tổ chức hoạt động vào bài của giáo viên, học sinh đánh giá
như sau:
Mức độ
Tỉ lệ (%)
Thường xuyên
53
Thỉnh thoảng
41
Không bao giờ
6
Bảng 1.4 Mức độ tổ chức hoạt động vào bài của GV
Kết quả thu được qua phiếu khảo sát từ phía học sinh về tình hình tổ chức hoạt
động vào bài và mức độ tổ chức hoạt động vào bài cho chúng ta thấy: GV ở trường
THPT đa số là có tổ chức hoạt động vào bài, chứng tỏ khâu này cũng khá được chú
ý khi lên lớp của GV. Đồng thời học sinh cũng đã được làm quen với hoạt động này,
đây có thể là một điều kiện thuận lợi cho GV chúng ta khi giao nhiệm vụ tổ chức
hoạt động vào bài cho học sinh khi thấy cần thiết, cũng như là khi muốn có sự phối
hợp giữa GV và HS để làm phong phú, sinh động ở khâu này.
Khảo sát học sinh về mức độ sử dụng các kĩ thuật để tổ chức hoạt động vào bài
của giáo viên:
Các hình thức tổ chức hoạt động vào bài
Tỉ lệ (%)

Kể chuyện
52.8
Đặt câu hỏi
76.9
Cho xem hình ảnh
28.8
Cho xem một đoạn phim
17.3
Cho nghe một bài hát hoặc một bài thơ
7.7
Chơi trò chơi
13.5
Hình thức khác
4.8
Bảng 1.5 Mức độ sử dụng các kĩ thuật để tổ chức hoạt động vào bài.

Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho


15
Qua kết quả thu được từ bảng khảo sát trên cho thấy hình thức chủ yếu mà GV
sử dụng cho khâu vào bài là đặt câu hỏi (76.9%), kể chuyện (52.8%) và cho xem
hình ảnh (28.8%), còn các hình thức khác dường như ít được sử dụng. Kết quả trên
cho ta thấy các hình thức tổ chức hoạt động vào bài còn khá đơn điệu, như vậy, nên
chăng chúng ta cần phải đưa ra nhiều hình thức tổ chức hoạt động vào bài phong
phú, đa dạng, mới lạ để có thể thu hút sự chú ý của học sinh nhiều hơn và không
làm cho các em có cảm giác nhàm chán.
Khảo sát học sinh về tác dụng của việc vào bài:

Tác dụng
Tỉ lệ (%)
Thu hút sự chú ý của các em
47.1
Làm cho các em hứng thú với bài học
75.3
Tạo ấn tượng về bài học
36.5
Định hướng cho các em về nội dung học
42.3
Ý kiến khác
3.8
Bảng 1.6 Học sinh đánh giá vai trò của hoạt động vào bài.
Kết quả thu được qua phiếu khảo sát từ phía học sinh về tác dụng của việc tổ
chức hoạt động vào bài sinh động, hấp dẫn thì:
- 75.3% HS cho rằng điều đó sẽ làm cho các em hứng thú với bài học.
- 47.1% HScho rằng sẽ thu hút được sự chú ý.
- 42.3% cho rằng khâu vào bài giúp các em định hướng được nội dung của bài
học.
- 36.5% là tạo được ấn tượng sâu sắc với các em về bài học đó.
Như vậy hoạt động vào bài có tác động khá lớn đối với học sinh, khâu này phần
nào giúp các em cảm thấy thoải mái khi học, tiếp thu kiến thức dễ dàng hơn, nhớ
bài lâu hơn cũng như làm giảm bớt sự phân tán của học sinh đối với những việc xảy
ra xung quanh. Nếu có một hoạt động vào bài sinh động, hấp dẫn kết hợp với các
khâu khác trong quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh chắc chắn sẽ mang lại hiệu
quả cao cho tiết học.
Khảo sát nhu cầu của học sinh đối với việc tổ chức hoạt động vào bài:
Nhu cầu
Tỉ lệ (%)
Muốn

78
Bình thường
20
Không muốn
2
Bảng 1.7 Nhu cầu của học sinh về tổ chức hoạt động vào bài.

Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho


16
Kết quả khảo sát được cho thấy hầu hết các học sinh mong muốn GV tổ chức
hoạt động vào bài. Vì thế chúng ta cần phải thật sự quan tâm hơn đến việc thiết kế
và tổ chức hoạt động vào bài nhằm đáp ứng nhu cầu của các em để nâng cao chất
lượng dạy và học ở trường THPT ở tất cả các môn học, trong đó có môn Địa lí.
+ Giáo viên
* Đánh giá mức độ quan tâm của giáo viên tới việc tạo không khí lớp học vui vẻ,
sinh động:
Mức độ
Tỉ lệ (%)
Rất quan tâm
100
Quan tâm
0
Ít quan tâm
0
Không quan tâm
0

Bảng 1.8 Mức độ quan tâm của GV tới việc tạo không khí lớp học vui vẻ, sinh
động.
* Đánh giá mức độ quan trọng đối với hoạt động vào bài đối của giáo viên ở:
Mức độ
Tỉ lệ (%)
Rất quan trọng
50
Quan trọng
50
Bình thường
0
Không quan trọng
0
Bảng 1.9 Đánh giá mức độ quan trọng đối với hoạt động vào bài.
Qua kết quả thu được từ việc khảo sát rút ra được kết quả: 50% GV cho rằng
hoạt động vào bài rất quan trọng, 50% GV đánh giá là hoạt động vào bài là một hoạt
động quan trọng. Điều này khẳng định tầm quan trọng của hoạt động vào bài.
* Mức độ quan tâm của GV đến việc thiết kế hoạt động vào bài hay và hấp dẫn
khi soạn giáo án:
Mức độ
Tỉ lệ (%)
Rất quan tâm
40
Quan tâm
60
Thỉnh thoảng
0
Không bao giờ
0
Bảng 1.10 Mức độ quan tâm của GV tới việc thiết kế hoạt động vào bài

Qua kết quả thu được từ việc khảo sát rút ra được kết luận chung: tất cả GV đều
rất quan tâm và quan tâm đến việc tạo bầu không khí lớp học cũng như là thiết kế
hoạt động vào bài hay, hấp dẫn.

Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho


17
* Mức độ sử dụng các kĩ thuật vào bài của giáo viên (%):
Rất thường

Thường

Thỉnh

Kể chuyện

xuyên
5

xuyên
40

thoảng
55

Đặt câu hỏi


55

35

5

Vật thật, tranh ảnh

10

50

30

Cách thức vào bài

Ít khi
5

Không
bao giờ.
-

5

-

Clip
30
75

5
Liên hệ bài học cũ
60
30
5
Gây chấn động
10
25
30
Trò chơi
10
15
60
15
Đóng kịch
45
30
Bảng 1.11 Mức độ sử dụng các kĩ thuật vào bài của GV

40
20

Dựa vào bảng kết quả khảo sát trên ta thấy 2 hình thức rất thường xuyên được
giáo viên sử dụng để vào bài là đặt câu hỏi và liên hệ bài học cũ, kế đến là sử dụng
vật thật, tranh ảnh, kể chuyện. Các hình thức vào bài khác thường ít được sử dụng,
điều đó làm cho hình thức tổ chức hoạt động vào bài trở nên đơn điệu, đôi khi sẽ
dẫn đến nhàm chán. Vì vậy, nên chăng chúng ta cần làm mới hoạt động vào bài
bằng nhiều hình thức sáng tạo khác nhau để thu hút được học sinh hứng thú với tiết
học.
* Tiêu chí của giáo viên khi thiết kế hoạt động vào bài:

Các tiêu chí
Tỉ lệ (%)
Thu hút sự chú ý của học sinh
95
Thiết lập mối quan hệ giữa bài học cũ và bài học mới
80
Giới thiệu mục đích của bài học
75
Ý kiến khác
0
Bảng 1.12 Tiêu chí của GV khi thiết kế hoạt động vào bài.
Qua bảng kết quả trên ta thấy rằng tiêu chí hàng đầu cho hoạt động vào bài là thu
hút sự chú ý của học sinh, sau đó đến thiết lập mối quan hệ giữa bài học cũ và bài
học mới, cuối cùng là giới thiệu mục đích của bài học.
* Một số khó khăn khi tổ chức hoạt động vào bài của giáo viên:
Những khó khăn
Ít tài liệu
Ít thời gian chuẩn bị
Sợ mất thời gian của tiết học
Khóa luận tốt nghiệp

Tỉ lệ (%)
5
50
90
Vũ Thị Nho


18
Khó khăn khác

5
Bảng 1.13 Bảng nhận xét mức độ khó khăn khi tổ chức hoạt động vào bài của GV
Qua kết quả khảo sát cho biết được một số nguyên nhân gây khó khăn khi vào
bài:
Có đến 90% GV cho rằng sợ mất thời gian của tiết học là nguyên nhân cơ bản, 50%
GV cho rằng ít thời gian để chuẩn bị, 5% cho là mình thiếu tài liệu để có thể thiết kế
một mở bài cho hay, 5% thì lại cho rằng không có gì là khó khi tổ chức hoạt động
này. Dựa vào khảo sát thực tế ta có thể rút ra kết luận 2 khó khăn lớn khi thiết kế
hoạt động vào bài GV gặp phải là sợ mất thời gian của tiết học và ít thời gian chuẩn
bị. Vì thế, để khắc phục tình trạng trên thì việc rèn luyện cách phân phối thời gian
hợp lí là một yêu cầu cần thiết cho mọi GV để có thể thực hiện tất cả các khâu của
bài giảng cũng như có thời gian tổ chức hoạt động vào bài nhằm làm cho tiết học
trở nên vui vẻ, hấp dẫn và thu hút học sinh hơn.
Tóm lại tổ chức hoạt động mở đầu hay, hấp dẫn, lôi cuốn học sinh là điều mà bất
kì người GV nào cũng muốn. Thế nhưng, thực tế có nhiều yếu tố ảnh hưởng từ việc
đầu tư soạn các nội dung và cách thức thể hiện đến các yếu tố chủ quan của người
GV: chưa phân phối được thời gian thích hợp cho một tiết học, ít thời gian để đầu tư
soạn giáo án, thiếu tài liệu, vốn sống, thiếu sáng tạo … làm cho việc tổ chức hoạt
động vào bài chưa đặc sắc, phong phú, đa dạng. Do đó việc học tập kinh nghiệm,
phân phối thời gian hợp lí, đọc nhiều sách báo, tài liệu… nhằm nâng cao tri thức,
năng lực sư phạm sẽ góp phần cho GV thiết kế và tổ chức hoạt động vào bài tốt
hơn. Đây cũng cính là mục đích mà đề tài này muốn hướng đến.

Chương 2.

THIẾT KẾ MỘT SỐ KĨ THUẬT VÀO
BÀI TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11

2.1. NỘI DUNG, ĐẶC ĐIỂM CHƯƠNG TRÌNH ĐỊA LÍ 11 BAN CƠ
BẢN

2.1.1. Nội dung chương trình địa lí lớp 11
Chương trình địa lí lớp 11 THPT ban cơ bản gồm 2 phần lớn, có quan hệ hữu cơ
và bổ sung cho nhau tạo thành một hệ thống kiến thức cơ bản về Địa lí kinh tế - xã
hội thế giới.
Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho


19
1.1.1.16.

Phần một: Khái quát chung về nền kinh tế xã hội thế

giới
Phần này cung cấp cho học sinh một bức tranh toàn cảnh về nền kinh tế thế giới,
những kiến thức nền tảng làm cơ sở lí luận để lí giải đặc điểm kinh tế xã hội của
từng quốc gia trên thế giới trong thời kì hiện đại mà học sinh sẽ học ở phần hai. Nội
dung phần một đề cập đến bức tranh tương phản giữa hai nhóm nước phát triển và
đang phát triển, những vấn đề có tính chất toàn cầu đã tác động đến tình hình kinh
tế xã hội trên thế giới: xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa, một số vấn đề mang
tính toàn cầu (dân số, môi trường, một số vấn đề khác). Đồng thời trong phần này
học sinh được tìm hiểu đặc điểm kinh tế xã hội của các nước đang phát triển ở Châu
Á, Châu Phi và Mĩ Latinh như là bức tranh tương phản với nền kinh tế xã hội của
các nước phát triển.
1.1.1.17.

Phần hai: Địa lí khu vực và quốc

gia

Nghiên cứu về Địa lí kinh tế - xã hội của một số nước tiêu biểu, đại diện cho 3
nhóm nước gồm tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa và các nước đang phát triển.
Trong nhóm nước tư bản chủ nghĩa ba nước Hoa Kì, Nhật Bản, Đức được chọn
trong chương trình vì ba nước này tiêu biểu cho ba trung tâm kinh tế tư bản lớn nhất
thế giới hiện nay là khu vực Bắc Mĩ, khu vực Tây Âu và khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương, bên cạnh đó còn đề cập đến Liên Bang Nga, đồng thời các nước này
cũng có những đặc trưng riêng về quá trình phát triển kinh tế cũng như những đặc
điểm kinh tế - xã hội độc đáo của riêng mình. Trong nhóm các nước xã hội chủ
nghĩa Trung Quốc là nước tiêu biểu, có nhiều bài học kinh nghiệm cho các nước
đang tiến hành phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
như nước ta. Chương trình SGK lớp 11 còn đề cập đến những vùng kinh tế năng
động, đang tạo ra bộ mặt mới của nền kinh tế thế giới là Liên minh Châu Âu và các
nước Đông Nam Á.
2.1.2. Đặc điểm chương trình địa lí lớp 11
Địa lí kinh tế thế giới lớp 11 có nhiệm vụ giúp học sinh nhận biết được bức tranh
chung của nền kinh tế xã hội thế giới đương đại và địa lí một số khu vực, quốc gia
đại diện cho các trình độ phát triển kinh tế xã hội khác nhau trên thế giới, góp phần
Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho


20
chuẩn bị cho học sinh bước vào cuộc sống trong thời đại bùng nổ thông tin và mở
rộng giao lưu, hợp tác giữa các nước trong khu vực và trên phạm vi toàn cầu.

2.2.THIẾT KẾ MỘT SỐ KĨ THUẬT VÀO BÀI TRONG CHƯƠNG
TRÌNH ĐỊA LÍ 11
2.2.1. Những yêu cầu khi thiết kế và thực hiện các kĩ thuật vào bài
Một phần mở đầu tốt phải đạt được một trong các yêu cầu sau đây:

-

Thu hút sự chú ý và khơi dậy niềm hứng thú của học sinh với bài học mới
Thiết lập mối liên hệ giữa bài cũ và bài mới
Giới thiệu mục đích của bài học và những mục tiêu cần đạt được
Giới thiệu những điều sẽ diễn ra trong giờ học
Một số lưu ý khi thiết kế các kĩ thuật vào bài:

-

Nên thiết kế phần mở bài cuối cùng, thậm chí hãy thiết kế tất cả các hoạt

-

động khác của giờ học trước khi nghĩ đến phần mở bài
Nên chuẩn bị phần mở bài một cách chi tiết, viết sẵn những câu nói mà

-

chúng ta định nói hoặc có thể sẽ bị hỏi
Nên nghĩ đến yêu cầu và quan tâm của học sinh
Hãy tập trước phần mở bài
Hãy giữ cho phần mở bài tương đối ngắn gọn (thông thường 1 - 3 phút )
Những lưu ý khi vận dụng các kĩ thuật vào bài trên lớp:

Sau khi thiết kế hoạt động vào bài xong, để hoạt động vào bài đạt được kết quả
tốt thì GV cần lưu ý một số điểm sau:
-

Hãy lôi cuốn học sinh tham gia tích cực vào phần mở bài

Ngoại hình: học sinh có tính hiếu kì đặc biệt là học sinh cấp III, các em
thường rất chú ý đến hình dáng bên ngoài của những người xung quanh, giáo
viên cũng không ngoại lệ. Chính vì thế hãy chú ý đặc biệt đến cách ăn mặc
sao cho chỉnh tề, phù hợp với môi trường sư phạm, tránh những trang phục
có thể gây sự phân tán chú ý của học sinh, không nên sử dụng một số mĩ

-

phẩm có mùi quá nồng nặc.
Nhiệt tình: nếu GV tỏ ra buồn chán thì chẳng bao lâu học sinh cũng thấy
chán theo. Do đó, muốn thành công trong giảng dạy giáo viên cũng phải
nhiệt tình và chân thành - tức là giáo viên biết mình đang làm gì, muốn
truyền đạt đến học sinh điều gì, điều giáo viên muốn truyền đến học sinh
phải giống như ngọn lửa đang sôi sục trong tim. Chỉ có từ trái tim đến trái

Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho


21
tim chứ không phải từ trí nhớ chuyển sang trí nhớ, chính điều đó mới có thể
làm xúc động và thuyết phục được học sinh. Các phản ứng tâm lí của giáo
viên ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lí tiếp thu bài học của học sinh. Giả sử,
giáo viên phiền muộn thì học sinh cũng chán nản, giáo viên giảng không
trọng tâm, không đi vào vấn đề học sinh cũng sẽ không để tâm. Nhưng giả sử
giáo viên giảng hết tâm hết tình thì chính học sinh sẽ cảm nhận được điều đó.
Đúng như vậy, những gì xuất phát từ trong tâm thì người nghe nhất định sẽ
-


cảm được.
Tự tin: Karis – một thuyết gia đã từng nói: “Nếu một thuyết trình viên đi nói
chuyện với sự tin tưởng vững chắc và thành khẩn thì không thể thất bại
được, cho dù nội dung nói là chính trị, kinh tế hoặc du lịch chỉ cần trong
lòng thực sự cảm thấy nhất định phải nói thì diễn thuyết sẽ thu hút người
nghe”. GV cũng thế phong cách đứng lớp tự tin sẽ làm cho HS cảm thấy tin
tưởng, loại bỏ cảm giác nghi ngờ và tập trung chú ý hơn tới hoạt động đang

-

diễn ra.
Luôn nở nụ cười: nụ cười của GV có thể làm cho học sinh cảm thấy thân

-

thiện, gần gũi hơn, không gây áp lực tâm lí cho học sinh trong giờ học.
Hài hước: tính hài hước giúp giảm căng thẳng, xoa dịu mệt nhọc, bực dọc
của người khác. Tính hài hước sẽ tạo ra nụ cười cho nhiều người mà nụ cười
có tác dụng rất lớn: “ nụ cười bồi dưỡng kẻ mệt nhọc, nó là hình ảnh bình
minh cho kẻ ngã lòng, là nắng xuân cho kẻ buồn sầu, là thuốc mầu nhiệm
nhất của tạo hóa để chữa lo âu ”...chính vì thế mà tính hài hước của người
giáo viên sẽ lôi cuốn được những học sinh đến với mình, giúp học sinh cảm
thấy vui vẻ, phấn khích và tiếp sinh lực cho bộ óc của họ tiếp tục làm việc.
Tiếng cười làm cho giờ học bớt căng thẳng mà trở nên nhẹ nàng hơn thời
gian sẽ trôi qua nhanh hơn và học sinh mong muốn có những giờ học như
thế.

Tuy nhiên hài hước không phải ai cũng có thể làm được, nó là năng khiếu bẩm
sinh. Giáo viên đừng nhầm tưởng hễ câu chuyện buồn cười thì khi kể lại học sinh sẽ
phải cười đâu, chính cách kể mới mang lại nụ cười cho người nghe.

Nếu người giáo viên nào được trời ban riêng cho cái tài khôi hài thì hãy dùng nó
vào giờ học của mình và giờ học nào cũng có thể trở nên vui vẻ. Còn nếu không có

Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho


22
năng khiếu gây cười cho người khác thì hãy tránh xa cách thức này và thay bằng
một cách thức khác phù hợp với mình hơn bởi đi đến thành công đâu phải chỉ có
một con đường duy nhất.
-

Nắm bắt được trình độ của học sinh

Tùy vào mỗi lớp học mà giáo viên nên có cách thức tổ chức hoạt động vào bài
sao cho phù hợp với các em.
-

Tránh tình trạng vào bài trong lúc học sinh chưa tập trung sự chú ý vì như thế

-

sẽ làm giảm hiệu quả của hoạt động vào bài.
Không nên kết thúc phần mở bài một cách thình lình, bạn nên có phần

-

chuyển tiếp mềm mại để dẫn dắt đến phần đầu của bài học thực sự.

Hãy thu thập thông tin phản hồi về phần mở bài thông qua việc quan sát hành
vi của học viên.
2.2.2. Thiết kế một số kĩ thuật vào bài trong dạy học Địa lí 11
1.1.1.18.

Vào bài bằng cách kể chuyện (kể một câu chuyện cười hay

một câu chuyện ngắn, kể tin tức, sự kiện, kể chuyện bản thân)
Ví dụ 1: BÀI 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ MANG TÍNH TOÀN CẦU
Con người cần không gian sinh hoạt, cần không khí để thở, cần nước để uống,
cần thực phẩm để ăn… thế nhưng chúng ta đang làm gì với chính môi trường sống
của mình được phản ánh qua bài viết sau đây:
CON NGƯỜI ĐANG PHÁ HỦY MÔI TRƯỜNG SỐNG
CỦA CHÍNH MÌNH!
Để phát triển kinh tế, để thỏa mãn lòng tham vô đáy của mình, con người
đang chặt cây phá rừng, đào khoáng sản dưới lòng đất, chặn dòng nước để làm
thủy điện, xả khí thải vào môi trường …
Trong thiên nhiên liệu có con vật nào “láo toét” với thiên nhiên hơn con
người? Con hổ, con báo sống ẩn mình dưới những lùm cây, trong hang đá để
sống và kiếm mồi. Chắc chỉ có con người vẫn vỗ ngực tự hào là văn minh – là
phá hủy chính môi trường nó đang sống.
Thiên nhiên vẫn đang âm thầm chứng kiến những hành động phá hoại của
con người và thiên nhiên vẫn đang âm thầm vận hành theo quy luật cân bằng
của nó. Phải chăng những sự biến đổi khí hậu, những thiên tai, dịch bệnh…
chính là những hành động qua đó thiên nhiên lập lại cân bằng và để đáp lại
những hành động phá hoại của con người?
Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho
Trích: Khát Vọng



23

GV: Con người đang phá hủy chính môi trường sống của mình, trái đất của chúng ta
đang phải chịu một sức ép rất lớn về nhiều mặt. Vậy, trước khi trả lời câu hỏi chúng
ta phải làm gì thì ta cùng nhìn lại những vấn đề nào toàn nhân loại phải chung tay
giải quyết, vì sao? Bài học ngày hôm nay sẽ giúp ta có câu trả lời cho câu hỏi trên.
Ví dụ 2: TIẾT 1 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỦA CHÂU PHI
Chuyện lạ Châu Phi
Các em có biết cựu tổng thư kí liên hợp quốc Cofi Anan người nước nào không?
(Người Gana). Hôm nay cô/ thầy sẽ kể cho các em nghe một câu chuyện về quê
hương của ông. Một câu chuyện có thật 100% do một nhân vật có tên tuổi kể lại,
được ghi chép trong sách vở đàng hoàng. Câu chuyện bắt đầu như sau:
Beckơli đến Châu Phi và kể lại rằng ông trông thấy những người nông dân Gana
trông rất kì cục: đàn ông không để râu, đàn bà không để tóc, da người nào cũng đen
bóng. Ông thấy dưới sông từng tốp hai ba người đãi vàng. Béckơli hỏi ra mới biết
rằng đãi vàng vụn là công việc của dân thường, còn khai thác mỏ vàng ở trong núi
là thuộc quyền của nhà vua. Thỏi vàng lớn nhất to như tảng đá.
Béckơli thốt lên (đố các em ông thốt lên điều gì?): Ôi quả thật là sung sướng!
Béckơli ra chợ - chuyện mua bán ở đây cũng thật lí thú, hàng hóa phân theo từng
loại bày ra trên mặt đất, sau đó mọi người ra khỏi chợ và gõ trống Đê – ba. Những
người da đen nghe tiếng trống tùng… tùng… tùng liền đổ ra để mua hàng. Họ đặt
một số tiền vàng cạnh món hàng muốn mua rồi bỏ đi, người bán hàng bước tới, thấy
số vàng để đó có thể chấp nhận được thì cầm lên, nếu thấy chưa tương xứng với
hàng hóa thì để nguyên chỗ cũ. Khi thấy chủ hàng cầm vàng đi, những người da đen
lại bước vào chợ lấy hàng, còn nếu thấy chủ hàng chưa cầm tiền thì họ lại đặt thêm
vào đó một số vàng nữa. Chờ đến khi người chủ hàng nhận tiền cầm đi, họ mới vào
lấy hàng, người Gana gọi là “mua bán câm”. Chính vì mang hàng hóa đến Gana có
thể đổi lại rất nhiều vàng nên nhiều lái buôn Ả Rập bỏ mấy tháng trời xuyên qua sa

mạc (đố các em sa mạc gì?) Sahara nguy hiểm và nóng bỏng để buôn bán với người
Gana.

Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho


24
(Biên soạn lại từ sách: Thế giới 5000 năm, trang 195 – 198)
Không chỉ Gana mà nhiều quốc gia khác ở Châu Phi cũng rất giàu có về tài
nguyên khoáng sản. Đó là điều mà Béckơli tận mắt chứng kiến khoảng thế kỉ thứ
XI. Thế nhưng hiện nay tình hình tài nguyên khoáng sản ở Châu Phi như thế nào và
dân cư ở đây phát triển ra sao? Hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu bài “Một số vấn đề
của Châu Phi”.
Chú ý: Giọng điệu hài hước, lên giọng, xuống giọng, nhấn mạnh sẽ thu hút được
sự chú ý của học sinh.
Cách 2: Truyện cười
“Hiện đại hơn”
Trong rừng rậm nhiệt đới châu Phi, ông khách du lịch thấy trên khoảng rừng
thưa có một người dân địa phương đánh trống liên tục.
-

Ông khách hỏi: Anh làm gì vậy?
Anh trả lời: Đã mấy tuần lễ rồi ở chỗ chúng tôi không có mưa.
Ông khách: À, tôi hiểu (ông khách du lịch mỉm cười tỏ vẻ hiểu biết) – Anh

-

đánh trống cầu mưa chứ gì?

Anh trả lời: Thật vớ vẩn! Tôi gọi thợ sửa ống nước đấy chứ.
Đỗ Hoàng (st)

Như vậy, qua câu chuyện vui nho nhỏ chúng ta thấy ở một châu lục xa xôi có
phương tiện thông tin liên lạc cực kì “hiện đại” đồng thời cũng cho ta biết đây là
một châu lục khô hạn (vì ở Châu Phi thiếu mưa là chuyện bình thường không chỉ
mấy tuần như trong câu chuyện đôi khi là cả mấy tháng). Chúng ta sẽ tìm hiểu châu
lục này để biết được cuộc sống hàng ngày của người dân nơi đây, giải thích được vì
sao nơi đây thiếu nước, thiếu thông tin liên lạc hiện đại qua bài: “Một số vấn đề của
Châu Phi”.
Ví dụ 3: Bài 2: TIẾT 2 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỦA MĨ LA TINH
Cách 1:
Chuyện lạ Châu Mỹ
Nói đến Châu Mỹ người ta thường nói đây là “đại lục mới”.Vì đối với người
Châu Âu, trước khi Christopher Columbus vượt biển tới Châu Mỹ năm 1492, chẳng
ai biết tới thế giới có miền đất này. Thực ra thời đó Châu Mỹ đã có tới 2 -3 triệu cư
dân và ngay từ trước công nguyên đã sáng tạo ra nền văn minh rực rỡ, có văn tự, có

Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho


25
lịch pháp, các tác phẩm nghệ thuật và rất nhiều đất
nước cổ xưa văn minh.
Trong nền văn minh cổ đại Châu Mỹ, khiến
người ta hứng thú nhất phải kể đến văn hóa của
người Maya, chủ yếu phát triển trên bán đảo
Yucatan phía đông Mehico sát biển Caribe. Kiến

trúc của người Maya hùng vĩ, đồ sộ. Người Maya
có chữ tượng hình của mình, giấy làm bằng vỏ cây,
bút làm bằng lông tóc, những văn bản tìm thấy đều
có nội dung liên quan đến tôn giáo, thần thoại, lịch sử, thiên văn. Lịch pháp của
người Maya là lịch mặt trời, họ lấy 5 ngày làm một tuần, bốn tuần làm một tháng
cho nên một năm có 18 tháng…đó là một nền văn minh rực rỡ đã xuất hiện ở Châu
Mỹ.
(Biên soạn lại từ sách: Thế giới 5000 năm, trang 192 – 195)
Ngày nay Châu Mỹ chia thành 2: Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Bắc Mỹ hay còn gọi là
Châu Mỹ Ănglôxíchxông, Nam Mỹ hay còn được gọi là Châu Mỹ La Tinh. Hôm
nay chúng ta cùng tìm hiểu một phần châu lục kì thú này: Châu Mỹ La Tinh.
Cách 2:
Đây là hình của ai? (khi học sinh không có câu trả lời GV hãy gợi ý: đây là người
đã tìm ra lục địa mới)
HS:...
GV: Đúng rồi, chính là ông Christopher Columbus
Hành trình ông đã tìm ra lục địa mới như thế nào nhỉ?
Cô sẽ kể cho các em nghe về hành trình tìm ra châu Mĩ của ông nha!
Sáng ngày 3 tháng 8 năm 1492, Columbus cùng đoàn thủy thủ bước lên tầu
Santa Maria và hai con tầu khác với mục đích là đến Trung Quốc và Ấn Độ. Sau 3
ngày ra đi đoàn tầu dừng lại tại quần đảo Canaries để sửa chữa và lấy lương thực
mới. Sau đó, ba con tàu lại ra khơi, trong khi đoàn tàu tiếp tục di chuyển,
Christopher Columbus đã ghi lại cuộc hành trình (để làm gì các em biết không?...)
để công bố cho các thủy thủ, nhưng cố ý ước lượng khoảng cách ngắn đi vì bằng
cách này, Columbus hy vọng sẽ tránh cho các thủy thủ không bị sợ hãi vì đã đi quá

Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Nho



×