Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN lý xã hội của NHÀ nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.93 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Định hướng xã hội chủ nghĩa là định hướng phát triển của xã hội trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là định hướng giá trị xã hội chủ nghĩa do
chủ thể cách mạng xác lập, phù hợp với xu hướng khách quan, nhằm mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thông qua những biện pháp đấu tranh
toàn diện, sâu sắc để hiện thực hoá những giá trị đó tiến tới mục tiêu xã hội
chủ nghĩa trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong thời kỳ xây dựng chủ
nghĩa xã hội nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội cũng chủ yếu bằng nhà nước và thông qua nhà nước. Nhà
nước xã hội chủ nghĩa là một bộ phận cốt yếu của hệ thống chính trị xã hội
chủ nghĩa, thể hiện tập trung nhất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thực
trạng đời sống xã hội đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
nói chung và công cuộc đổi mới nói riêng đã có những biểu hiện chệch hướng
xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực với các mức độ khác nhau. Chệch hướng xã
hội chủ nghĩa là một nguy cơ, thách thức đang biểu hiện. Một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên, nhân dân có sự suy thoái về chính trị - tư tưởng, đạo
đức, lối sống, suy giảm niềm tin với chủ nghĩa xã hội, tiêm nhiễm quan điểm
tư sản, giá trị phương Tây, có sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, xa rời mục
tiêu, lý tưởng, giá trị chủ nghĩa xã hội. Đất nước phát triển đúng định hướng
xã hội chủ nghĩa hay chệch hướng xã hội chủ nghĩa ở mức độ nào đó thì sau
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hoạt động quản lý của Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ý nghĩa quyết định trực tiếp. Do đó,
đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động quản lý của nhà nước
ta là nhân tố cơ bản, có ý nghĩa quyết định trực tiếp để đảm bảo cho đất nước
ta phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa
trong hoạt động quản lý của nhà nước đòi hỏi phải nắm bắt được những vấn
đề sống động của đất nước về: chính trị, kinh, tế, xã hội, văn hoá… đồng thời
còn phải tiếp tục có những nhận thức mới, đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội,
về định hướng xã hội chủ nghĩa trong trong những năm đầu thế kỷ XXI.



2
NỘI DUNG
Quản lý xã hội theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ hoạt động của bộ máy
nhà nước bao gồm: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo nghĩa hẹp, quản lý
nhà nước là hoạt động quản lý của bộ máy hành pháp. Dù ở phạm vi nào thì
hoạt động quản lý nhà nước cũng mang tính chất chính trị và gắn với quyền
lực nhà nước trên cả ba phương diện: lập pháp, hành pháp và tư pháp; đồng
thời nó cũng có tính chất nghiệp vụ - kỹ thuật tổ chức và quản lý hành chính.
Song, dù có rất nhiều nguyên tắc quản lý khoa học đã và đang được áp dụng
vào các hoạt động quản lý của nhà nước, nhất là trong quản lý hành chính
hàng ngày của các cơ quan nhà nước trong 30 năm đổi mới vừa qua, thì bộ
máy nhà nước nói chung và bộ máy hành pháp nói riêng, bao giờ cũng phải
tuân theo nguyên tắc hoạt động mang tính chất đặc thù của quyền lực chính trị
ở Việt Nam, mà hạt nhân là quyền lực của giai cấp công nhân liên minh với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Hiện nay, trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước và hội nhập quốc tế, để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, hoạt
động quản lý của nhà nước cần đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau đây:
1. Tiếp tục khẳng định và đảm bảo quyền làm chủ trên thực tế của
nhân dân và sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội
Với tư cách là cơ quan quyền lực trụ cột trong hệ thống chính trị, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước có vai trò sau:
Nhà nước duy trì sự tồn tại và hoạt động năng động tích cực có hiệu
quả hệ thống chính trị bằng một hệ thống đặc biệt bao gồm sức mạnh chính
trị, kinh tế và pháp lý được thể chế hóa theo nghành và vùng lãnh thổ.
Nhà nước quản lý xã hội bằng một hệ thống pháp luật có tính bắt buộc
chung cho toàn bộ lãnh thổ của đất nước.
Nhà nước duy trì và sử dụng những phương pháp nhất định phù hợp
với đối tượng, với mục đích và tình trạng cụ thể của quản lý, trong đó phương
pháp cưỡng chế mang tính đặc trưng riêng của nhà nước trong hệ thống chính



3
tri. Phương pháp cưỡng chế đơn phương từ phía nhà nước được thực hiện trên
cơ sở hệ thống luật pháp, bộ máy công chức, kể cả bộ máy công an, quân đội.
Nhà nước quản lý xã hội bằng hệ thống thuế nhằm vào tất các hoạt
động có tính chất kinh doanh trong xã hội và bằng nguồn lực do nhà nước sở
hữu. Với nguồn lực to lớn và chủ yếu đó, nhà nước có thể hỗ trợ đầu tư vào
những lĩnh vực trọng điểm, những khu vực ưu tiên để đảm bảo kết hợp tăng
trưởng kinh tế với thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội vốn là một phương
hướng hoạt động trọng tâm của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nhưng như thế không có nghĩa là nhà nước là một thể chế chính trị tối
cao của xã hội. Một đặc điểm nổi bật và cơ bản của quá trình phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là làm cho nhà nước vốn là thể chế chính trị tối
cao của xã hội thành một thể chế hoàn toàn phụ thuộc vào xã hội. Cơ chế
Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là thể chế xã hội then
chốt để nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Sự thống nhất ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp theo nguyên tắc tập chung dân chủ
trong hoạt động tổ chức của nhà nước và cơ bản là chế độ sở hữu công cộng
tư liệu sản xuất chủ yếu bảo đảm để Đảng có thể lãnh đạo một cách thống
nhất hệ thống quyền lực nhà nước, từ việc hoạch định đường lối, chính sách,
xây dựng luật pháp cho đến điều phối và kiểm tra, giám sát việc thực hiện các
mục tiêu chính trị, kinh tế, xã hội trong lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Cũng
trên cơ sở đó, nhân dân mà chủ yếu là công nhân, nông dân và trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng có thể tham gia vào các công việc nhà nước bằng các hình
thức dân chủ, đại diện hay trực tiếp, bằng các hình thức quản lý hành chính
nhà nước hay các hình thức quản lý xã hội thông thường. Nhân dân thực hiện
quyền làm chủ bằng những hoạt động kiểm tra, giám sát và nhân dân cũng hỗ
trợ cho hoạt động quản lý của nhà nước.
Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do

dân và vì dân thông qua sự đổi mới sự lãnh đạo của Đảng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân ngày nay không tách rời mà hướng vào việc xây dựng


4
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong nhà nước pháp quyền không
chỉ nhân dân mà cảc bộ máy nhà nước, bộ máy Đảng, các tổ chức xã hội cũng
đều phải tuân thủ hiến pháp, pháp luật, nếu ngược lại, thì quyền dân chủ của
nhân dân bị vi phạm, Đảng khó có thể thực hiện được sự lãnh đạo của mình
và nhà nước cũng khó có thể thực hiện được chức năng quản lý của mình.
Không ai, không tổ chức nào đứng ngoài pháp luật, hoặc đứng trên pháp luật.
Đó là một mặt của vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác phải thấy rằng, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tuy
hoạt động bằng pháp luật nhưng ngoài nội dung pháp luật thì việc tuân thủ,
thực hiện nghiêm túc pháp luật trong xã hội còn tùy thuộc vào nhiều nội dung
khác nữa, như vị trí của các công dân trong nhà nước, việc đảm bảo thực hiện
quyền dân chủ, và lợi ích hợp pháp của các công dân và các tổ chức xã hội, vị
thế quốc gia trong công pháp quốc tế,… Muốn có nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa thì phải xây dựng được pháp chế và trật tự pháp luật. Bởi lẽ,
pháp luật dù có hoàn thiện đến đâu cũng mới là khả năng, là tiền đề cần thiết,
là cơ sở pháp lý cho đời sống xã hội. Có pháp luật chưa chắc đã có pháp chế.
Chỉ khi nào có sự tuân thủ, thực hiện đúng đắn nghiêm chỉnh pháp luật của
các cá nhân và tổ chức thì xã hội mới có pháp chế và trật tự pháp luật; tức là
pháp luật không thể đồng nhất với pháp chế. Pháp chế thể hiện mối tương
quan giữa hoạt động của các chủ thể pháp luật. Nó phụ thuộc nhiều vào ý thức
pháp luật, cách thức thực hiện và bảo vệ pháp luật của các chủ thể pháp luật
(các cơ quan nhà nước, các tổ chức đảng, các tổ chức chính trị, kinh tế - xã
hội và các công dân,...).
Pháp chế vì thế có quan hệ chặt chẽ với dân chủ, với sự lãnh đạo của
Đảng. Dân chủ là nền tảng củng cố pháp chế. Ngược lại, pháp chế là điều kiện

để bảo vệ, củng cố và phát triển dân chủ, tức là phát huy quyền làm chủ của
nhân dân. Càng mở rộng dân chủ, thì càng phải tăng cường pháp chế để đảm
bảo trật tự, kỷ cương và công bằng xã hội. Công tác tăng cường xây dựng
pháp chế tuỳ thuộc cơ bản vào sự lãnh đạo của Đảng, nhất là các cấp uỷ Đảng


5
từ trung ương đến địa phương, trong việc tuyên truyền giáo dục pháp luật,
tăng cường cán bộ có phẩm chất và năng lực cho lĩnh vực pháp chế, kiểm tra
chặt chẽ các hoạt động thực hiện và bảo vệ pháp luật của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội các công dân, nhất là cán bộ đảng viên. Để xây dựng
được pháp chế thì ngay từ khâu xây dựng luật cũng đòi hỏi sự lãnh đạo của
Đảng sao cho nội dung pháp luật thể hiện đúng ý chí của nhân dân lao động,
có khả năng đảm bảo và bảo vệ chế độ chính trị - xã hội cũng như các quyền
công dân của người lao động và các quyền hợp pháp của các tổ chức xã hội.
Hiến pháp năm 2013 đã quy định, phải tăng cường pháp chế để xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Điều này đòi hỏi phải xây dựng
và hoàn chỉnh cả ba mặt: nội dung hình thức và cơ cấu của hệ thống pháp
luật. Đồng thời phải tổ chức thực hiện đúng đắn, nghiêm chỉnh các quy phạm
pháp luật của các tổ chức và công dân trong toàn xã hội. Toàn bộ quá trình
xây dựng pháp luật và pháp chế không đi chệch ý chí của nhân dân lao động,
trong đó cơ bản là ý chí của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp
trí thức. Ý chí đó thể hiện tập trung và sáng rõ nhất trong cương lĩnh, đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hiến pháp năm 2013 khẳng định trong Điều 2: “1. Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức. 3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm

soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”1.
Như vậy, quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân do dân và vì dân phải chịu chế ước về chính trị, cụ thể là dân chủ
chính trị của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, của tất
cả những người lao động và sự lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản Việt
1

Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam (năm 2013), Nxb CTQG, Hà Nội, 2013, tr.3


6
Nam. Quyền làm chủ của nhân dân lao động và sự lãnh đạo của Đảng tất
nhiên gắn liền với nghĩa vụ tuân thủ và thực hiện hiến pháp, pháp luật. Dân
chủ chính trị và sự lãnh đạo chính trị của Đảng đảm bảo môi trường và định
hướng trị cho nhà nước pháp quyền, nhất là trong giai đoạn khởi đầu xây
dựng nền pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nội dung chính trị của định hướng xã hội chủ nghĩa chính là thực hiện
và bảo đảo quyền lực chính trị, trong đó cơ bản là quyền lực nhà nước, quyền
lực này là sự thể hiện tập trung và cơ bản quyền lãnh đạo của Đảng và quyền
làm chủ của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Sự chế ước về
mặt chính trị của định hướng xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động quản lý của
nhà nước là nhằm khẳng định và đảm bảo quyền lược chính trị của Đảng, của
giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động.
2. Xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa
Cương lĩnh năm 2011 khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh

phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế
giới”2. Do đó, nội dung đầu tiên của định hướng xã hội chủ nghĩa là quyền lực
Nhà nước nói riêng và quyền lực chính trị nói chung phải thuộc về nhân dân
lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng đó chỉ là một
nội dung chính trị và nó chỉ có ý nghĩa nếu trên cơ sở đó thực hiện các nội
dung kinh tế, xã hội và văn hoá của định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm từng
bước hình thành được xã hội xã hội chủ nghĩa mà ở mức độ nhận thức hiện
nay của chúng ta đó là: dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.70


7
minh. Việc sử dụng phát huy quyền lực chính trị để xây dựng xã hội xã hội
chủ nghĩa đòi hỏi phải nắm vững và xử lý thành công nội dung và yêu cầu của
chính trị. Theo V.I.Lênin đó là: Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là
kinh tế cô đọng lại. Chính trị là quan hệ xã hội giữa các giai cấp thể hiện tập
chung ở Nhà nước. Chính trị là tham gia các công việc Nhà nước cả về mặt
đối nội và đối ngoại. Chính trị vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Nghĩa là
không thể và không được phép coi chính trị thô thiển là âm mưu và thủ đoạn,
mà phải coi trọng quá trình xây dựng văn hoá chính trị tương ứng với yêu cầu
xây dựng một xã hội tốt đep, một xã hội văn hoá xã hội xã hội chủ nghĩa.
Quản lý nhà nước đối với quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa
trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế có sự tác động của toàn
cầu hóa và cách mạng khoa học công nghệ theo tinh thần của Lênin do đó sẽ
phải quyết những vấn đề sau:

* Về kinh tế
Tại một nước còn ở tình trạng kém phát triển như Việt Nam đòi hỏi
phải phát triển mạnh mẽ lượng lượng sản xuất đồng thời phải từng bước xây
dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Phải nói rằng, trong điều kiện
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế có sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu
hoá và cách mạng khoa học công nghệ có nhiều điều kiện để phát triển mạnh
mẽ lực lượng sản xuất; đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp
cho quá trình xây dựng quan hệ sản xuât mới xã hội chủ nghĩa. Hiện nay và
trong thời gian rất dài nữa, quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa phải dược
xây dựng cả ba mối quan hệ chủ yếu sau: Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất,
quan hệ về tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ về phân
phối sản phẩm.
Tính chất xã hội chủ nghĩa trong quan hệ sản xuất mới phải được thể
hiện ở vai trò chủ đạo của sở hữu công cộng hay sở hữu xã hội, trong đó cơ
bản là sở hữu nhà nước; ở tổ chức quản lý vĩ mô của nền kinh tế bởi nhà nước
xã hội chủ nghĩa và sự tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp của đa số người lao


8
động vào quá trình tổ chức, quản lý sản xuất kinh tế, nhất là ở cơ sở; ở quan
hệ phân phối theo lao động và phúc lợi xã hội, đóng vai trò chủ đạo trong xã
hội, nhân dân lao động ngày càng được làm chủ nhiều hơn về kinh tế.
Hiện nay, khu vực kinh tế tư nhân, tư bản nước ngoài đã và đang đóng
vai trò lớn trong tương quan các thành phần kinh tế. Giá trị đóng góp vào
GDP của các khu vực này sẽ lớn hơn và cùng với việc thu hút được việc làm
trong xã hội, chúng sẽ gây áp lực lớn vào đời sống chính trị, xã hội… của đất
nước. Do đó, quá trình xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa sẽ
ngày càng khó khăn hơn, phức tạp hơn.
Trong tình hình như vậy, yêu cầu chính trị đối với quản lý nhà nước là
ngay từ đầu và trong suốt giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá cùng với

việc tăng cường đầu tư của khu vực tư nhân, khu vực kinh tế nước ngoài, nhà
nước phải phát triển mạnh mẽ kinh tế cổ phần ở ngay trong khu vực này đồng
thời thúc đẩy sự phát triển của kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác và kinh tế tư
bản nhà nước. Quản lý nhà nước đối với các hình thức khác nhau của quan hệ
sở hữu, đối với các hình thức đa dạng của tổ chức, quản lý và phân phối, rõ
ràng là không đơn giản. Hơn thế nữa, cần phải giữ vững định hướng chính trị,
đẩy mạnh các hình thức kinh tế cổ phần và chuyển hoá chúng sang con đường
xã hội chủ nghĩa trên cả ba phương diện: sở hữu, quản lý, phân phối. Yêu cầu
này không chỉ dừng lại ở việc khẳng định quyền lực chính trị, mà chủ yếu ở
việc xác lập các tính chất và nội dung xã hội chủ nghĩa trong quan hệ sản xuất
cũng như lực lượng sản xuất của xã hội,...
* Về quan hệ giữa các giai tầng xã hội
Trong điều kiện phân hóa, phân tầng xã hội do tác động của kinh tế thị
trường, quản lý nhà nước đối với các giai tầng xã hội không chỉ còn ở phạm
vi giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, mà đối với tiểu
chủ và các nhà doanh nghiệp, chủ trang trại. Riêng số lượng các nhà doanh
nghiệp, chủ trang trại hiện không phải là nhỏ. Từ khi có luật doanh nghiệp, đã
có hàng vạn công ty trách nhiệm hữu hạn đăng ký kinh doanh. Số doanh


9
nghiệp dân doanh hạch toán kinh tế độc lập hiện nay có khoảng 200 nghìn
doanh nghiệp. Ngoài ra, còn khoảng vài chục nghìn chủ trang trại.
Trong nội bộ mỗi giai tầng xã hội cũng có sự phân hóa, phân tầng xã
hội. Trong giai cấp công nhân có: công nhân có trình độ cao, công nhân lao
động phổ thông, công nhân cổ phần, công nhân biên chế nhà nước, công nhân
hợp đồng theo thời gian, theo công việc tại tất cả các thành phần kinh tế…
Ngoài ra, còn những người làm thuê ở nông thôn, đô thị không thuộc giai cấp
công nhân. Tình hình cũng diễn ra gần như vậy trong giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức. Thông thường thì phân hóa giai tầng trong xã hội trong điều kiện

kinh tế thị trường sẽ dẫn đến phân hóa giai cấp. Nếu để xu hướng này trở
thành hiện thực thì cũng đồng nghĩa với việc làm phương hại đến nền tảng xã
hội - giai cấp của con đường phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực tế hiện nay đang nổi lên vấn đề tác động đến quan hệ giữa các
giai tầng trong xã hội và trong nội bộ mỗi giai tầng xã hội như: Nạn tham
nhũng, buôn lậu, lãng phí của công, các hiện tượng tiêu cực trong quá trình
công tác của một số cán bộ trong bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể xã hội và
doanh nghiệp nhà nước, nhất là trên các lĩnh vực như, nhà đất, xây dựng cơ
bản, hợp tác đầu tư, thuế, các hoạt động thi hành pháp luật, huy động sự đóng
góp của dân… Vấn đề việc làm, thu nhập, phân hóa giàu nghèo, đời sống của
đồng bào các dân tộc ít người, khu căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ còn
rất nhiều khó khăn. Vấn đề an sinh xã hội như: học tập, chữa bệnh… của
người nghèo. Tình trạng ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường sinh thái, sự
hủy hoại tài nguyên thiên nhiên ngày càng gia tăng. Sự suy thoái về chính trị ,
tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Sự thâm nhập
của các sách báo, văn hoá phẩm phi xã hội chủ nghĩa, đầu độc đến tinh thần
và tình cảm của con người Việt Nam ta. Những hoạt động lợi dụng tự do tín
ngưỡng - tôn giáo của một số phần tử phản động. Tệ nạn xã hội và tội phạm
xã hội gia tăng nhiều như ma tuý, mại dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em…


10
Do nhiều nguyên nhân, ở một số tỉnh thành phố đã phát sinh “điểm
nóng” và nhiều vụ kiếu kiện đông người. Những vấn đề trên, phản ánh mức
độ phức tạp của các quan hệ xã hội giữa các giai tầng xã hội cùng với quá
trình phát triển của kinh tế thị trường. Hiện nay, quá trình cổ phần hoá, phát
triển của kinh tế trang trại và phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở mức độ
khác nhau đã và đang dẫn đến quá trình tập trung và tích tụ tư liệu sản xuất.
Về mặt kinh tế, đó là quá trình tập trung và tích tụ sản xuất đồng thời qua đó
thúc đẩy phân công và hợp tác lao động. Song, về mặt xã hội không tránh

khỏi tình trạng tăng số lượng người làm công, làm thuê ở đô thị và nông thôn.
Xu hướng tích tụ, tập trung ruộng đất vào những hộ làm ăn giỏi, đồng
thời số hộ không có đất hoặc ít đất chuyển sang hoạt động phi nông nghiệp
hoặc làm công, làm thuê, kể cả làm thuê trong nông nghiệp đang là một thực
tế tại nhiều địa phương trong nước. Trong những năm gần đây xuất hiện nhiều
các “đại gia”, các doanh nhân… có chăng ở nước ta đã và đang hình thành
một giai cấp mới – giai cấp tư sản.
Do đó, trong quá trình điều hòa quan hệ xã hội giữa các giai tầng xã
hội, công tác quản lý nhà nước cần phải thực hiện được nhiệm vụ chính trị xã hội rất quan trọng là: củng cố khối liên minh công - nông - trí thức, trên cơ
sở đó củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân, để đảm bảo nền tảng
xã hội - giai cấp vững chắc của sự phát triển đất nước đúng định hướng xã hội
chủ nghĩa.
* Về sự tham gia của nhân dân vào các công việc của nhà nước
Trong quá trình đổi mới, nhân dân có nhiều điều kiện tham gia vào các
công việc nhà nước bằng các hình thức dân chủ đại diện trong bầu cử, ứng cử.
Hoạt động của các cơ quan dân cử và các tổ chức chính trị - xã hội đã lôi cuốn
sự tích cực của đông đảo của nhân dân. Bước đầu nhân dân thực hiện quyền
dân chủ trực tiếp ở cơ sở như trực tiếp bầu trưởng thôn, trực tiếp tham gia giải
quyết các công việc kinh tế - xã hội ở làng xóm, cụm dân cư… Nhân dân
cũng có khả năng trực tiếp tham gia vào xây dựng đường lối, chính sách và


11
luật pháp. Chẳng hạn như đợt tham gia ý kiến đóng góp vào Dự thảo Hiến
pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi 2013) và các văn
kiện của Đại hội XII của Đảng vừa qua là một ví dụ. Cương lĩnh 2011 khẳng
định: “Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện
đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân
và chịu sự giám sát của nhân dân”3
Đổi mới các hoạt động quản lý nhà nước đã được tiến hành trong quá

trình từng bước đổi mới hệ thống chính trị trên cơ sở xử lý đúng đắn mối quan
hệ khăng khít giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đã từng bước hình
thành được các quan điểm, nguyên tắc cơ bản xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; đồng thời xác định đúng đắn mối
quan hệ giữa dân chủ với kỷ luật, kỷ cương; quyền lợi với nghĩa vụ và trách
nhiện công dân; dân chủ có sự lãnh đạo của Đảng.
Những tiến bộ bước đầu được trình bầy trên đây đã tạo được nền tảng
cho đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh. Bản
chất giai cấp công nhân, tính dân tộc, tính nhân dân của nhà nước được giữ
vững và củng cố. Đây là cơ sở thuận lợi để nhân dân lao động tham gia vào
các công việc nhà nước. Nhưng hiện nay trong quá trình tham gia vào các
công việc nhà nước của nhân dân lao động đang nổi lên một số vấn đề đó là:
Bộ máy nhà nước chưa thật vững mạnh; tình trạng tham nhũng, lãng
phí quan liêu, còn nghiêm trọng nhưng chưa được ngăn chặn triệt để; hiệu lực
quản lý, diều hành của nhà nước chưa cao, kỷ cương xã hội chưa nghiêm, làm
giảm sút niềm tin của nhân dân lao động.
Tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh về quy mô, về tổ chức biên
chế; sự phân công, phối hợp giữa ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp
còn có những điểm chưa rõ về chức năng, nhiệm vụ; mối quan hệ phân cấp
Trung ương - địa phương còn một số mặt chưa cụ thể; tình trạng tập trung
quan liêu cũng như tình trạng phân tán, cục bộ chưa được khắc phục.
3

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.86


12
Sự lãnh đạo của Đảng có mặt chưa đáp ứng được với yêu cầu của quá
trình đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà nước cũng như yêu cầu phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động.

Để nhân dân lao động, trước hết là giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức tham gia ngày càng tích cực hơn vào việc bảo vệ, giữ
vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng nhà nước thực sự của
dân, do dân và vì dân đòi hỏi quản lý nhà nước phải đảm bảo và phát huy
được quyền làm chủ trên thực tế của nhân dân.
3. Đổi mới quản lý nhà nước
Nghị quyết Trung ương 8 (khoá VII) năm 1995 xác định ba yêu cầu đối
với quản lý nhà nước là: “Phục vụ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; Phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bài trừ
quan liêu, tham nhũng; nâng cao chất lượng năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản
lý của nhà nước”4.
Nội dung của định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ đặt ra yêu cầu
chính trị, mà cả các yêu cầu kinh tế, pháp quyền… đối với quản lý nhà nước
Nhưng dù mức độ thế nào thì bản chất của quản lý nhà nước trước sau vẫn là
phục vụ chính trị; bảo đảm định hướng chính trị của quá trình phát triển theo
con đường xã hội chủ nghĩa. Nếu làm sai lệch sẽ làm lu mơ bản chất đó, sẽ
tạo ra nguy cơ “chệch hướng” trong quản lý nhà nước, ở đây đòi hỏi sự lãnh
đạo của Đảng, sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội và xây
dựng một nhà nước pháp quyền vững mạnh của dân, do dân và vì dân. Quản
lý nhà nước còn có sự đòi hỏi phải nắm vững nghệ thuật chính trị và khoa học
chính trị; đó là phải xây dựng được văn hoá chính trị tương ứng với yêu cầu
ngày càng cao của quá trình xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Những yêu cầu mới của quản lý nhà nước, xuất hiện từ yêu cầu của
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế; từ những yếu
kém, thiếu sót trong công tác quản lý nhà nước đồng thời chúng cũng nảy sinh
trong bối cảnh mới của tình hình trong nước và quốc tế. Trong mỗi tiến của
4

.Văn kiện hội nghị lần thứ tám BCHTW (khóa VII), Nxb CTQG, Hà Nội, 1995.



13
cách mạng lại xuất hiện những điều kiện mới, yêu cầu mới, nội dung mới của
định hướng xã hội chủ nghĩa. Cũng từ những bối cảnh mới đó của con đường
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa công tác quản lý nhà nước nếu
không đáp ứng được những yêu cầu mới sẽ không thể hiện đúng vai trò trụ
cột của hệ thống chính trị là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân. Bài học lịch sử đã chỉ ra về sự không tương dung giữa quản lý nhà
nước với bước ngoặt chuyển biến từ điều kiện chiến tranh sang điều kiện hoà
bình vào nửa sau thập kỷ 70 của thế kỷ XX không cho phép lặp lại trong bước
chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và toàn cầu
hóa như hiện nay.
Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo
định hướng xã hội chủ nghĩa cần quán triệt các vấn đề sau, trong quá trình
kiện toàn công tác quản lý nhà nước, nhằm đảm bảo giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa:
Một là, xây dựng nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, đại
biểu cho lợi ích của dân tộc và toàn thể nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Đây là quan điểm nêu rõ bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong mối quan hệ thống nhất với tính
dân tộc, tính nhân dân và được thể hiện trên những quan điểm cơ bản sau:
Từ pháp luật, cơ chế, chính sách đến tổ chức và hoạt động nhà nước
đều quán triệt hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, tức là chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chính sách của đảng, của
giai cấp công nhân, nhằm xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa và
bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc trong quá trình hội nhập với thế giới dưới
tác động của toàn cầu hóa.
Nhà nước được xây dựng trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.



14
Do lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là thống
nhất nên bản chất giai cấp công nhân của nhà nước đồng thời cũng thể hiện ở
sự gắn bó chặt chẽ với tính nhân dân, tính dân tộc. Tính nhân dân của nhà
nước ta thể hiện ở chỗ: chính quyền nhà nước và quyền lực nói chung đều
thuộc về nhân lao động, nhà nước phải đại biểu cho lợi ích, cho ý chí của
nhân dân lao động. Nhà nước chịu sự kiểm soát của nhân dân, hoạt động công
khai và nhân dân dễ dàng gần gũi với các hoạt động của nhà nước.
Tính dân tộc của nhà nước ta thể hiện ở chỗ: trong tổ chức và hoạt
động, nhà nước kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc tốt
đẹp của dân tộc và con người Việt Nam. Nhà nước có chính sách dân tộc đúng
đắn, chăm lo lợi ích mọi mặt cho sự phát triển của các dân tộc trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, giữ vững quan
điểm của Đảng về độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường trong quan hệ đối ngoại,
thực hiện chiến lược là bạn với nhân dân tất cả các nước mà hạt nhân là thực
hiện chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Hai là, xây dựng nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa, “bao nhiêu lợi
ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây
dựng là trách nhiệm của dân… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở
nơi dân” 5
“Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”6.
Chủ thể của nhà nước là nhân dân lao động. Nhà nước được xây dựng
bởi đại đa số thành viên xã hội và hoạt động trên cơ sở thống nhất các quyền:
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nghĩa là “…bản thân các cơ quan nhà nước
không tự có quyền…”7. Nhân dân thể hiện quyền lực của mình bằng nhà


5

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.698
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.85
7
Văn kiện Hội nghị lần thứ ba BCHTW (Khoá VIII), Nxb CTQG, Hà Nội, 1997, tr.12
6


15
nước, đồng thể hiện quyền lực của mình cả trong xã hội, qua hai hình thức
dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Quyền và nghĩa vụ thực hiện dân chủ của nhân dân trên mọi mặt đời
sống xã hội được xác định bằng hiến pháp, pháp luật, chính sách và cơ chế,
điều kiện thực hiện; được kiện toàn và nâng cao trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội, phát triển con người về trí tuệ, đạo đức và năng lực hoạt
động.
Nguyên tắc tổ chức và thể chế hoạt động của nhà nước đảm bảo cho
nhân dân dân lao động thật sự tham gia quản lý nhà nước, tham gia xây dựng
pháp luật và những chính sách lớn của nhà nước, tham gia giải quyết những
công việc trọng đại của đất nước, bảo đảm cho nhân dân có quyền và có điều
kiện bầu cử, ứng cử tự do, dân chủ có chất lượng; kiểm tra, giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước, bãi miễn đại biểu không xứng đáng trong các
cơ quan dân cử và do cơ quan dân cử bầu ra.
Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; quyền lực gắn với trách nhiệm và
nghĩa vụ; quyền dân chủ không được phép vượt quá giới hạn của pháp luật;
dân chủ phải có sự lãnh đạo của Đảng.
Quyền con người được nhà nước tôn trọng, bảo đảm và được thực hiện
thống nhất với quyền công dân. Các quyền và lợi ích cá nhân, tự do cá nhân
được nhà nước tôn trọng và bảo vệ trong chừng mực không xâm phạm đến lợi

ích, tự do của người khác và của cộng đồng trong khuôn khổ pháp luật.
Điều 14: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền
con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”8.
Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa thì các quan hệ dân chủ không
chỉ có trong chế độ nhà nước, mà còn có trong đời sống xã hội của con người,
trong các quan hệ xã hội, trong gia đình, trong các tổ chức và đoàn thể xã hội.
Dân chủ là phương thức tồn tại và vận hành của xã hội hiện đại, trong đó dân
chủ chính trị - tức chế độ nhà nước theo C.Mác: “…chỉ là nội dung đặc thù
8

Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam (năm 2013), Nxb CTQG, Hà Nội, 2013, tr.9


16
của nhân dân, chỉ là hình thức tồn tại đặc biệt của nhân dân thôi”.9 Bản chất
dân chủ của xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, phải được thấm sâu trong
tất cả các lĩnh vực quan hệ giữa người với người, để từng bước hướng tới một
xã hội, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả các thành viên xã hội. Dân chủ là phương thức tồn tại tốt
nhất để giải quyết các vấn đề xã hội theo nguyên tắc: thiểu số phục tùng đa số,
đồng thời vẫn thừa nhận quyền của thiểu số.
Ba là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước pháp quyền không phải là sản phẩm riêng của nền dân chủ tư
sản. Dưới chủ nghĩa xã hội quyền lực tối cao thuộc về nhân dân. do đó, để
đảm bảo hoạt động của nhà nước không vượt khỏi thẩm quyền nhân dân giao
phó cần phải xây dựng bộ máy nhà nước hoạt động trong khuôn khổ pháp
luật. Ngay quyền lực của nhân dân cũng không chỉ dừng ở những quan điểm,
ý chí và lợi ích chung mà phải được thể chế hoá bằng pháp luật trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội (nhưn: chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc

phòng…), để đảm bảo quyền đi đôi với nghĩa vụ, ý thức dân chủ và phong
trào tự do - dân chủ diễn ra phù hợp với khung pháp chế chung của xã hội.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để đảm bảo pháp chế
hóa sự thống nhất quyền lực, đồng thời bảo đảm đảm sự phân công, phối hợp
theo chức năng giữa cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền có ảnh hưởng trực tiếp đến xây
dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, cụ thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự
xác lập mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
Xây dựng nhà nước pháp quyền để thể chế hóa quyền lãnh đạo của
Đảng, hoạt động quản lý của nhà nước và thể chế hoá quyền làm chủ của
nhân dân. Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ảnh hưởng trực tiếp
đến những vấn đề căn bản: quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách
là đảng cầm quyền, có chức năng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối trong đó có
nhà nước; nhà nước với chức năng xây dựng pháp luật, tổ chức quản lý hành
9

C. Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.351


17
chính công, bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân; và các tổ chức chính trị - xã
hội với chức năng tập hợp, đoàn kết quần chúng, đóng góp vào đường lối, luật
pháp, chính sách của Đảng và nhà nước. Do đó, xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân đang và sẽ là trọng tâm của
đổi mới chính trị trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Bốn là, tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.
Một mặt, nhà nước là trung tâm quyền lực trong hệ thống chính trị, do
đó là trung tâm thực thi trực tiếp quyền lực của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Với ý nghĩa này nhà nước trước tiên và cơ bản mang bản chất
giai cấp công nhân. nhưng mặt khắc, nhà nước cũng nhân danh toàn xã hội để

quản lý xã hội, vì vậy nền hành chính nhà nước có tính độc lập tương đối về
nghiệp vụ và kỹ thuật hành chính, nhằm phục vụ lợi ích chung của toàn thể
các dân tộc Việt Nam.
Điều 4, Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm
2013) tiếp tục khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”10.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là để đảm bảo nhà nước giữ vững
được bản chất giai cấp, bản chất dân chủ, đồng thời bảo đảm và thực hiện
được lợi ích của toàn thể nhân dân các dân tộc Việt Nam. Tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa để bảo đảm xây dựng được nền pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân và vì dân và cũng để các cơ quan của Đảng thể chế hoá quyền lãnh
đạo trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Công tác lãnh đạo của Đảng, từ
xây dựng cương lĩnh, đường lối, chính sách cho đến lãnh đạo việc thực thi
pháp luật, bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân…cần được thể chế hoá để
lãnh đạo nhà nước pháp quyền có hiệu lực và hiệu quả.
10

Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam (năm 2013), Nxb CTQG, Hà Nội, 2013, tr.12


18
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước thì bản thân Đảng
phải tăng cường đổi mới, chỉnh đốn Đảng để Đảng trong sạch vững mạnh,
ngang tầm yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới. Đảng phải
vững thì mới xây dựng được nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân và vì dân; và nhân dân mới được đảm bảo các quyền dân chủ cũng như

phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm củng cố khối đại đoàn kết toàn dân
trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Năm là, tiếp tục đổi mới và nâng cao phương thức hoạt động của bộ
máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Kiện toàn cơ cấu, tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng gọn nhẹ, khoa
học. Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Đổi mới tổ
chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm cho Quốc hội thực sự là cơ quan
đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Nâng
cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội
chuyên trách; có cơ chế để đại biểu Quốc hội gắn bó chặt chẽ và có trách
nhiệm với cử tri. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo
hướng xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững
mạnh, tổ chức tinh gọn, hợp lý; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
trách nhiệm, tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ.
Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước có đủ đức, tài; thực sự là
công bộc của nhân dân. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có
năng lực đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Phân định rõ chức năng, nhiệm
vụ, trách nhiệm và quyền hạn của mỗi cán bộ, công chức; tăng cường tính
công khai, minh bạch, trách nhiệm của hoạt động công vụ. Nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức,
năng lực công tác; có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ,
công chức hoàn thành nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người
không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân.


19
Tiếp tục đổi mới, cải cách thủ tục hành chính. Hoàn thiện thể chế pháp
luật, nâng cao năng lực trong hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế, xã
hội. Nâng cao năng lực dự báo, chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện thể
chế, các chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản quốc gia, hệ thống kết cấu hạ tầng,
bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội của chính quyền các cấp.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, bãi bỏ các thủ tục hành chính gây
phiền hà cho tổ chức và công dân...
Đẩy mạnh các hoạt động chống tham nhũng, đưa ra khỏi cơ quan nhà
nước những cán bộ thoái hóa, biến chất; làm trong sạch bộ máy nhà nước.
Điều 8: “1. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và
pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ. 2. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức
phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân
dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa
quyền”11.

KẾT LUẬN
Để đảm bảo giữ đúng định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động
quản lý xã hội của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần phải đáp ứng được các yêu
cầu có tính nguyên tắc cơ bản trên đây. Quân đội nhân dân Việt Nam là công
cụ bạo lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, để hoàn thành tốt chức
năng nhiệm vụ của mình, quân đội cũng phải tự làm tốt công tác quản lý xã
hội của mình, mặt khác, chấp hành tốt sự quản lý của nhà nước. Chỉ có như
vậy quân đội mới giữ được bản chất giai cấp công nhân, và hoàn thành tốt
mọi nhiệm vụ được giao. Trên cơ sở quán triệt đầy đủ những yêu cầu đó mỗi
11

Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam (năm 2013), Nxb CTQG, Hà Nội, 2013, tr.16


20

quân nhân cũng phải tích cực tham gia vào công tác quản lý xã hội trên các
mặt, nhất là trên mặt trận quốc phòng - an ninh. Tích cực vận động nhân dân
tham gia vào công việc quản lý xã hội cùng với các cơ quan nhà nước. Vận
động nhân dân nơi đóng quân chấp hành tốt Hiến pháp và pháp luật của nhà
nước góp phần cùng với nhà nước quản lý tốt xã hội trên các lĩnh vực.



×