Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ kết hợp TĂNG TRƯỞNG KINH tế với THỰC HIỆN TIẾN bộ và CÔNG BẰNG xã hội ở nước TA HIỆN NAY là vấn đề CHIẾN lược

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.19 KB, 26 trang )

1

MỞ ĐẦU
Giải quyết quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội
luôn là yêu cầu đặt ra trong suốt quá trình phát triển kinh tế xã hội ở các nước.
Giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội có mối quan hệ biện chứng,
tác động qua lại, làm tiền đề cho nhau cùng phát triển. Tăng trưởng kinh tế là điều
kiện tiền đề để thực hiện công bằng xã hội, không thể có công bằng, tiến bộ xã hội
nếu không dựa trên nền tảng tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội là động lực, điều kiện quan trọng có tác dụng thúc đẩy, bảo đảm tăng
trưởng kinh tế cao, bền vững. Mỗi bước tiến của tăng trưởng kinh tế gắn với việc
từng bước thực hiện mục tiêu tiến bộ, công bằng xã hội ở từng giai đoạn phát triển
của đất nước. Tại Nghị quyết Đại hội X, Đại hội XI, đảng ta đã chỉ ra một số kinh
nghiệm, trong đó khẳng định: “Phải coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng
kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; gắn phát triển kinh tế với phát
triển văn hoá, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực
hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1. Báo cáo chính trị
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng cũng khẳng định: “Thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã
hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển”2.

1 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr. 21-22
2 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr. 227


2

NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KẾT HỢP TĂNG


TRƯỞNG KINH TẾ VỚI THỰC HIỆN TIẾN BỘ, CÔNG BẰNG XÃ HỘI
1.1. Một số vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
a. Tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc
tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân
trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định. Sự tăng trưởng kinh tế là quá
trình ổn định mà theo đó năng lực có hiệu quả của nền kinh tế nâng dần theo thời
gian dẫn đến mức tăng của sản lượng và thu nhập quốc dân. Tăng trưởng kinh tế
thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Tuy vậy ở một số quốc gia, mức độ
bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên mặc dù thu nhập bình quân đầu người cao
nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ.
Qui mô của một nền kinh tế thể hiện bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
hoặc tổng sản phẩm quốc gia (GNP), hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người
hoặc thu nhập bình quân đầu người (PCI).
Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản
phẩm trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng
được sản xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian nhất định
(thường là một năm tài chính).
Tổng sản phẩm quốc gia (Gross National Products, GNP) là giá trị tính bằng
tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một nước
trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc dân bằng
tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập ròng.
Tổng sản phẩm bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc nội chia cho dân
số. Tổng thu nhập bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc dân chia cho dân số.
Phát triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Nó bao gồm
tăng trưởng kinh tế cùng với những thay đổi về chất của nền kinh tế (như phúc lợi


3


xã hội, tuổi thọ, v.v.) và những thay đổi về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ trọng của khu
vực sơ khai, tăng tỷ trọng của khu vực chế tạo và dịch vụ). Phát triển kinh tế là một
quá trình hoàn thiện về mọi mặt của nền kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi
trường, thể chế trong một thời gian nhất định nhằm đảm bảo rằng GDP cao hơn
đồng nghĩa với mức độ hạnh phúc hơn. Như vậy, có thể nói phát triển kinh tế bền
vững bao hàm cả việc đảm bảo tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn liền với tiến bộ
và công bằng xã hội.
Tiến bộ xã hội là một khái niệm phản ánh sự vận động của xã hội từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, là sự vận động của xã hội loài người từ hình thái
kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn, hoàn thiện hơn, cả
về cơ sở hạ tầng kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng về pháp lý, chính trị và các hình
thái ý thức xã hội. Lịch sử loài người nói chung bao giờ cũng vận động theo hướng
tiến bộ, mà mỗi hình thái kinh tế - xã hội là một nấc thang của tiến bộ xã hội.
Công bằng xã hội:
Có thể nói, mỗi xã hội đều có chuẩn mực riêng của mình về công bằng xã
hội, chuẩn mực đó do hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của xã hội đó quy định
Theo quan điểm của các nhà kinh điển Mác-Lênin, dưới chủ nghĩa xã hội,
công bằng xã hội là sự ngang bằng nhau giữa người và người trong xã hội chủ yếu
về phương diện phân phối sản phẩm xã hội theo nguyên tắc: cống hiến lao động
ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau. Khi đề cập đến nguyên tắc phân phối dưới
chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là công
bằng, hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không hưởng.
Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom. Như vậy,
vào thời của mình, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng như Chủ tịch
Hồ Chí Minh chủ yếu nói về công bằng xã hội thể hiện tập trung ở chế độ phân
phối theo lao động dưới chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên hiện nay, khái niêm về công
bằng xã hội đã được mở rộng ra rất nhiều phương diện: giáo dục và đào tạo, y tế,
chính trị, pháp quyền, đạo đức, …



4

Thực hiện công bằng xã hội trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo là tạo điều
kiện để ai cũng được học hành; người nghèo được Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ
có cơ hội học tập; phát triển các trường phổ thông nội trú dành cho con em đồng
bào dân tộc thiểu số; có chính sách hỗ trợ đặc biệt đối với những học sinh có năng
khiếu nhưng hoàn cảnh sống khó khăn được theo học ở bậc cao.
Thực hiện công bằng xã hội trong lĩnh vực y tế là bảo đảm cho sức khoẻ mọi
người dân được chăm sóc và bảo vệ, quan tâm chăm sóc sức khoẻ những người có
công với nước; những người nghèo, đồng bào các dân tộc thiểu số. Công bằng xã
hội không có nghĩa là “cào bằng”, thực hiện chủ nghĩa bình quân, chia đều cho mọi
người các nguồn lực và của cải do xã hội làm ra, bất chấp chất lượng, hiệu quả của
sản xuất kinh doanh và sự đóng góp của mỗi người cho sự phát triển chung của
cộng đồng.
Nội dung cơ bản nhất của công bằng xã hội là xử lý hợp lý nhất quan hệ
giữa quyền lợi và nghĩa vụ trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Để phản ánh được
nội dung cơ bản này, các nhà kinh tế thường sử dụng hai khái niệm về công bằng:
Công bằng theo chiều ngang: Đối xử như nhau với người đóng góp như nhau.
Công bằng theo chiều dọc: Đối xử khác nhau với người có khác biệt bẩm sinh
hoặc có điều kiện xã hội khác nhau (do khả năng và kĩ năng lao động khác nhau,
cường độ làm việc khác nhau, sự khác nhau về nghề nghiệp, sự khác nhau về giáo
dục đào tạo, thừa kế và chiếm hữu tài sản khác nhau, gánh chịu rủi ro khác nhau).
b. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội
Tăng trưởng là điều kiện của phát triển, của tiến bộ, đó là tiền đề về vật chất
- kinh tế để thực hiện công bằng. Một xã hội có nền kinh tế phồn vinh, giàu có phải
là một xã hội đạt được và duy trì được sức tăng trưởng kinh tế, cũng như vậy,
những dấu hiệu trì trệ và suy thoái, thậm chí khủng hoảng (gắn với lạm phát) phải
nhận biết từ mức tăng trưởng chậm lại, giảm sút tăng trưởng. Không có một nền
kinh tế tăng trưởng thì không thể có tiềm lực vật chất để tiếp tục đầu tư cho hoạt

động sản xuất - kinh doanh, không có vốn và các nguồn lực nói chung để có thể tái


5

sản xuất mở rộng, càng không thể có điều kiện vật chất để cải thiện, nâng cao mức
sống, chất lượng cuộc sống của dân cư.
Trong quan hệ với tiến bộ và phát triển, nếu tăng trưởng kinh tế là điều kiện
và tiền đề thì tiến bộ và phát triển là kết quả và công bằng xã hội là động lực và
mục tiêu của quá trình tăng trưởng, tiến bộ và phát triển. Nói một cách khác, công
bằng xã hội đóng vai trò là động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, là
nhân tố bảo đảm ổn định và lành mạnh xã hội, kể cả xác lập ổn định tích cực của
chính trị, là động lực đồng thời là mục tiêu của đổi mới để phát triển đi đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Công bằng xã hội, trên thực tế, vừa là điều kiện quan trọng để tạo ra ổn định
xã hội, vừa là một động lực để tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy, cần phải dựa vào
công bằng xã hội để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời phải kết hợp tốt tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội. Có như thế mới vừa đảm bảo được mục tiêu tăng
trưởng kinh tế, vừa thực hiện được định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển
kinh tế thị trường ở Việt Nam. Để thấy rõ mối tương quan ấy, chúng ta cần nghiên
cứu, xem xét những biến đổi trong cấu trúc xã hội và phân tầng xã hội. Chuyển
sang kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá - đó là những tác
nhân quan trọng thúc đẩy những biến đổi trong cấu trúc xã hội được thể hiện một
cách điển hình trong hiện tượng phân tầng xã hội theo mức sống của các nhóm dân
cư. Hơn nữa, trong hiện trạng này còn chứa đựng và phản ánh rất nhiều biến đổi xã
hội khác.
Tăng trưởng là điều kiện cần nhưng chưa đủ để cải thiện mức sống: Từ
những năm 70 trở lại đây. Hầu hết các nước đang phát triển đều ưu tiên hàng đầu
từ tăng trưởng nhanh kinh tế sang các vấn đề khác rộng hơn là xóa đói giảm nghèo,
giảm bất bình đẳng. Tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng nhưng mức sống người

dân không được cải thiện, phần lợi ích tăng lên chủ yếu rơi vào tay người giàu, dẫn
đến bất bình đẳng ngày càng tăng. Nguyên nhân xuất phát từ việc phân phối thu
nhập. Hình thức phân phối thu nhập được sử dụng hầu hết các nước đang phát triển
là phân phối theo chức năng yếu tố đóng góp (sở hữu nhiều tư bản sẽ có thu nhập


6

càng lớn). Phân phối thu nhập bất bình đẳng thì tổng cầu trong nền kinh tế bị người
giàu có thu nhập chi phối, xã hội có xu hướng tập trung sản xuất hàng hóa xa xỉ
phục vụ người giàu mà bỏ qua hàng hóa khác. Ngược lại phân phối thu nhập phân
phối, xã hội sẽ hướng sản xuất các hàng hóa thiết yếu nhiều hơn phục vụ nhu cầu
đại bộ phận dân chúng.
Do đó tăng trưởng chỉ tạo điều kiện vật chất để giảm nghèo về tài sản, trí
tuệ, bệnh tật... chứ chưa đủ để cải thiện mức sống người dân. Muốn cải thiện thì
tăng trưởng phải đi đôi với vấn đề công bằng được thực hiện thông qua phân phối
lại dưới hình thức thuế và trợ cấp xã hội…
1.2. Quan điểm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
Nhìn lại thời kỳ trước đổi mới, do nhiều nguyên nhân, mà chủ yếu là do
những chủ trương, chính sách mang nặng tính chủ quan, duy ý chí của Đảng và
Nhà nước trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội theo một
mô hình cũ đã lỗi thời, cho nên nước ta - chỉ mấy năm sau khi đạt đến đỉnh cao
vinh quang của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc - đã dần dần lâm
vào trì trệ, suy thoái rồi khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.
Để đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt
Nam (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có chủ trương mang
tính đột phá là: Chuyển nền kinh tế từ mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương

này được Đảng ta tiếp tục khẳng định lại trong các kỳ Đại hội tiếp theo. Đại hội XI
của Đảng khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là một hình thái
kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên
cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã


7

hội”3. Theo mô hình này, chúng ta sử dụng cơ chế thị trường với tư cách là thành
quả của nền văn minh nhân loại làm phương tiện để năng động hóa và đẩy nhanh
nhịp độ tăng trưởng kinh tế, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân. Chúng ta
không rập khuôn theo mô hình kinh tế thị trường tự do - dù là dựa vào lý thuyết
của chủ nghĩa tự do cổ điển hay lý thuyết của chủ nghĩa tự do mới. Bởi thực tế đã
cho thấy, bản thân nền kinh tế thị trường tự do không tự động dẫn đến tiến bộ và
công bằng xã hội, trái lại có khi nó còn cản trở việc thực hiện các mục tiêu trên,
làm nẩy sinh nhiều vấn đề kinh tế, xã hội nan giải. Chúng ta chú ý tham khảo và
tiếp thu có lựa chọn những kinh nghiệm hay của mô hình kinh tế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước phúc lợi xã hội, nhưng cũng không sao chép mô hình này.
Vì tình hình kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa của mỗi nước đều có đặc thù
riêng, cho nên không thể áp dụng máy móc một mô hình nào đó từ bên ngoài.
Xuất phát từ đặc điểm của đất nước sau nhiều thập kỷ tiến hành cách mạng
dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta chủ trương sử dụng
đúng đắn các công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh
thần của nhân dân, hướng tới mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
Cùng với việc xác định mô hình kinh tế tổng quát và mục tiêu chung của

công cuộc phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội kể từ sau Đại hội VI đến nay còn
tiếp tục đạt được những thành tựu rất quan trọng, thể hiện ở sự hình thành một hệ
thống các chủ trương và quan điểm lớn có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn nổi bật sau
đây:

3 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr. 204-205


8

Một là: Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Đây chính là chủ trương và
quan điểm có ý nghĩa bao trùm.
Hai là: Tôn trọng lợi ích chính đáng của người lao động và các chủ thể thuộc
mọi thành phần kinh tế; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động
và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực
khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
Ba là: Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con
người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng
và yêu cầu chính đáng của nhân dân.
Bốn là: Khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa
đói giảm nghèo. Coi một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển.
Đồng thời có chính sách hướng dẫn, hỗ trợ người nghèo vươn lên làm đủ sống và
phấn đấu trở thành khá giả.
Năm là: Xem giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo

điều kiện để ai cũng được học hành.
Sáu là: Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ cũng là quốc
sách hàng đầu, là động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từng
bước phát triển kinh tế tri thức.
Bảy là: Thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân
dân, phấn đấu giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển
giống nòi. Thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe đối với các tầng
lớp dân cư, có chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo.
Tám là: Mục tiêu của chiến lược kinh tế - xã hội là đặt con người với tư cách
là mỗi cá nhân và cả cộng đồng vào vị trí trung tâm, tạo điều kiện cho mọi người
đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình.


9

II. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM GẮN
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI THỰC HIỆN TIẾN BỘ, CÔNG BẰNG XÃ
HỘI TRONG THỜI GIAN TỚI
2.1. Thực tiễn kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng
xã hội ở nước ta qua 30 năm đổi mới
a. Thành tựu
* Về tăng trưởng kinh tế
Nền kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng khá cao trong nhiều năm liền.
Tỷ lệ tăng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 1986-1990 là 4,4%, thời kỳ 19912000 là 7,5%, thời kỳ 2001-2005 là trên 7,5%; năm 2006 đạt 8,23%, năm 2007 đạt
8,46%; mấy năm gần đây, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, GDP
năm 2008 tăng 6,18%, năm 2009 tăng hơn 5%. Tổng sản phẩm trong nước (GDP)
năm 2014 ước tính tăng 5,98% so với năm 2013, trong đó quý I tăng 5,06%; quý II
tăng 5,34%; quý III tăng 6,07%; quý IV tăng 6,96%. Mức tăng trưởng năm 2014 cao
hơn mức tăng 5,25% của năm 2012 và mức tăng 5,42% của năm 2013 cho thấy dấu
hiệu tích cực của nền kinh tế. Trong mức tăng 5,98% của toàn nền kinh tế, khu vực

nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,49%, cao hơn mức 2,64% của năm 2013, đóng
góp 0,61 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng
tăng 7,14%, cao hơn nhiều mức tăng 5,43% của năm trước, đóng góp 2,75 điểm
phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 5,96%, đóng góp 2,62 điểm phần trăm. Với tốc độ
tăng trưởng như vậy, năm 2014 Việt Nam trở thành nước có tốc độ tăng trưởng
GDP cao thứ 2 trên thế giới (sau Trung Quốc).
* Về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung
bình hàng năm cả nước đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có
công ăn việc làm; những năm 2001-2005, mức giải quyết việc làm trung bình hàng
năm đạt khoảng 1,4 - 1,5 triệu người; những năm 2006-2010, con số đó lại tăng lên
đến 1,6 triệu người. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước ước tính đến


10

thời điểm 01/01/2015 là 54,48 triệu người, tăng 782 nghìn người so với cùng thời
điểm năm trước, trong đó lao động nam chiếm 51,3%; lao động nữ chiếm 48,7%.
Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ước tính đến thời điểm trên là 47,75
triệu người, tăng 333,7 nghìn người so với cùng thời điểm năm 2014, trong đó nam
chiếm 53,7%; nữ chiếm 46,3%.
Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2014
ước tính 53,0 triệu người, tăng 1,56% so với năm 2013. Lao động từ 15 tuổi trở lên
đang làm việc năm 2014 của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 46,6%
tổng số (Năm 2012 là 47,4%; năm 2013 là 46,8%); khu vực công nghiệp và xây
dựng chiếm 21,4% (Năm 2012 và 2013 cùng ở mức 21,2%); khu vực dịch vụ
chiếm 32,0% (năm 2012 là 31,4%; năm 2013 là 32%).
Số người có việc làm trong quý I năm 2014 ước tính là 52526,2 nghìn người,
tăng 616,1 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; quý II là 52838,4 nghìn người,
tăng 436,1 nghìn người; quý III là 53258,4 nghìn người, tăng 520,7 nghìn người;

quý IV là 53471,1 nghìn người, tăng 678 nghìn người.
Công tác đào tạo nghề tiếp tục được các cấp, các ngành và địa phương quan
tâm đầu tư. Tính đến thời điểm cuối năm 2014, cả nước có 1340 cơ sở dạy nghề,
bao gồm 165 trường cao đẳng nghề; 301 trường trung cấp nghề; 874 trung tâm dạy
nghề.
Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn
quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm
2010. Còn theo chuẩn do Ngân hàng Thế giới phối hợp với Tổng cục Thống kê
tính toán, thì tỷ lệ nghèo chung đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 29% năm 2002
và còn khoảng 17% năm 2008. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2014 ước tính khoảng 8,2%,
giảm 1,6 điểm phần trăm so với năm 2013. Như vậy, Việt Nam đã "hoàn thành sớm
hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015", mà Mục
tiêu Thiên niên kỷ (MDG) của Liên hợp quốc đã đề ra.


11

Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại
hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Tại thời điểm cuối
năm học 2013 - 2014, cả nước có 13867 trường mầm non; 15337 trường tiểu học;
10882 trường trung học cơ sở và phổ thông cơ sở; 2758 trường trung học phổ
thông; 242 trường phổ thông dân tộc nội trú; 687 trường phổ thông dân tộc bán trú
và 715 trung tâm giáo dục thường xuyên (73 trung tâm cấp tỉnh và 642 trung tâm
cấp huyện). Năm học 2013 - 2014, cả nước có thêm 658 trường mầm non; 449
trường tiểu học; 416 trường trung học cơ sở và 98 trường trung học phổ thông
được công nhận đạt chuẩn quốc gia.
Theo báo cáo sơ bộ, cả nước có 910,8 nghìn thí sinh tham dự thi kỳ thi tốt
nghiệp phổ thông năm học 2013 - 2014. Tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông đạt
99,02% (tăng 1,04 điểm phần trăm so với năm học trước), trong đó tỷ lệ tốt nghiệp
loại khá, giỏi đạt 23,33%. Tỷ lệ tốt nghiệp hệ bổ túc trung học đạt 89,01% (tăng

10,93 điểm phần trăm), trong đó tỷ lệ tốt nghiệp loại khá, giỏi chiếm 3,9%.
Tính đến tháng 12/2014, cả nước có 21/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; 63/63 tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, trong đó
08 tỉnh/thành phố được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ
tuổi mức độ 2.
Theo kết quả Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ Việt Nam năm
2014, số trẻ em trong độ tuổi đi học mầm non tham gia chương trình giáo dục mầm
non đạt tỷ lệ 71,3%, trong đó số trẻ em 5 tuổi đi học đạt 96,8%; số trẻ em nhập học
lớp 1 theo học đến lớp 5 đạt 98,6%; tỷ lệ đi học đúng tuổi của cấp tiểu học là
96,2%; cấp trung học cơ sở là 90,4% và cấp trung học phổ thông là 70,7%. Tỷ lệ
trẻ em hoàn thành cấp tiểu học tiếp tục học cấp trung học cơ sở đạt 98,6%; tỷ lệ
chuyển cấp từ trung học cơ sở lên trung học phổ thông giảm xuống còn 89,5%.


12

Hoạt động khoa học và công nghệ có bước tiến đáng ghi nhận. Đội ngũ cán
bộ khoa học và công nghệ (bao gồm khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học
kỹ thuật) đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối,
chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; tiếp thu, làm chủ và ứng
dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực
thông tin - truyền thông, lai tạo một số giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao,
thăm dò và khai thác dầu khí, xây dựng cầu, đóng tàu biển có trọng tải lớn, sản
xuất vắc-xin phòng dịch... và bước đầu có một số sáng tạo về công nghệ tin học.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Tính đến năm 2014, sau 5
năm Luật Bảo hiểm y tế được thực thi, số người có bảo hiểm y tế tăng nhanh,
quyền lợi người tham gia được mở rộng. Năm 2012, cả nước có gần 60 triệu người
tham gia, bao phủ gần 67% dân số, đặc biệt là tại khu vực trung du và miền núi
phía Bắc có tỷ lệ bao phủ khá cao. Việc tiếp cận các cơ sở y tế của người có thẻ

bảo hiểm y tế trở nên thuận lợi khi số lượng cơ sở y tế ký hợp đồng bảo hiểm y tế
trong khám, chữa bệnh ngày càng nhiều, kể cả các cơ sở y tế tư nhân. Năm 2012,
có 2.453 cơ sở khám chữa, bệnh nhà nước và 471 cơ sở tư nhân, không kể các trạm
y tế xã và tương đương. Công tác tổ chức đăng ký khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế
ban đầu và chuyển tuyến theo tuyến chuyên môn kỹ thuật được thực hiện đúng quy
định, phù hợp với thực tế hệ thống tổ chức y tế, đáp ứng yêu cầu về khám, chữa
bệnh và bảo đảm quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế (ngay cả các trường
hợp khám, chữa bệnh vượt tuyến, trái tuyến). Những năm gần đây, số lượt người
có thẻ bảo hiểm y tế đi khám, chữa bệnh tăng nhanh về cả số lượng và tần suất tại
tất cả các tuyến y tế. Năm 2012, có khoảng 121 triệu lượt người có thẻ bảo hiểm y
tế đi khám, chữa bệnh, tăng gần 2,6 triệu lượt so với năm 2011; quyền lợi của
người tham gia bảo hiểm y tế được bảo đảm và ngày càng mở rộng theo đúng quy
định; mặc dù nhu cầu khám, chữa bệnh ngày càng tăng, khoa học - công nghệ ứng
dụng trong chẩn đoán, điều trị và sản xuất thuốc luôn phát triển không ngừng, giá
dịch vụ y tế có sự điều chỉnh tăng lên, trong khi mức đóng bảo hiểm y tế vẫn


13

không thay đổi. Hầu hết các dịch vụ kỹ thuật đang thực hiện tại các bệnh viện ở
Việt Nam đều thuộc danh mục được Quỹ Bảo hiểm y tế chi trả, trong đó có cả dịch
vụ kỹ thuật cao, chi phí lớn như can thiệp tim mạch, thay ổ khớp nhân tạo, phẫu
thuật bằng dao gamma, chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ hạt nhân…; hoặc
một số loại thuốc, đặc biệt là thuốc điều trị ung thư, thuốc chống thải ghép sau
phẫu thuật với giá thành cao, chi phí điều trị lớn, thể hiện tính ưu việt của chế độ
bảo hiểm y tế ở nước ta, khẳng định sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với công
tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Đồng thời, cho thấy khả năng quản lý và kiểm
soát tốt việc sử dụng Quỹ Bảo hiểm y tế. Từ năm 2010 đến nay, Quỹ bảo hiểm y tế
đã kết dư trên 12 nghìn tỷ đồng. Nguồn thu từ bảo hiểm y tế đã đóng góp khoảng
80% tổng chi phí phục vụ khám, chữa bệnh tại các bệnh viện, góp phần nâng chất

lượng khám, chữa bệnh cho người dân.
Theo Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam, chúng
ta đã đạt được các mục tiêu về giảm tỉ lệ tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi và trẻ sơ sinh,
với cả hai tỉ lệ trên đều giảm một nửa từ năm 1990 đến năm 2006. Tỉ lệ tử vong ở
trẻ sơ sinh đã giảm từ 44,4 trên 1.000 ca đẻ sống năm 1990 xuống còn 14 trên
1.000 ca đẻ sống năm 2011 (MICS 2011). Tỷ lệ tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi cũng đã
giảm đáng kể, từ 58 trên 1.000 ca đẻ sống năm 1990 xuống còn 16 năm 2011
(MICS 2011). Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị nhẹ cân giảm từ 25,2% năm 2005 xuống
còn 18,9% năm 2009. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 81‰ năm
1990 xuống còn khoảng 28‰ năm 2010; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng
đã giảm tương ứng từ 50% xuống còn khoảng 20%. Công tác tiêm chủng mở rộng
được thực hiện, nhiều dịch bệnh hiểm nghèo trước đây đã được thanh toán hoặc
khống chế. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 73,2
tuổi hiện nay.
Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập
niên kỷ qua: từ 0,561 năm 1985 lần lượt tăng lên 0,599 năm 1990; 0,647 năm
1995; 0,690 năm 2000; 0,715 năm 2005 và 0,725 năm 2007. Theo Báo cáo Phát


14

triển con người toàn cầu (HDR) 2014 do UNDP và Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam tổ chức ngày 11/9, năm 2013: HDI của Việt Nam đã tăng 41% trong
vòng hai thập kỷ qua. Năm 2012, Việt Nam đứng thứ 127/187 quốc gia.
b. Hạn chế
* Về kinh tế
Đến nay, Việt Nam vẫn còn là một nước đang phát triển, với mức thu nhập
bình quân đầu người thuộc loại trung bình thấp. Gần 50% lao động xã hội làm việc
trong các ngành nông - lâm - thủy sản; công nghiệp còn nhỏ bé, dịch vụ chưa phát
triển. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được thể chế hóa

đồng bộ. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng
như: gia công, lắp ráp, khai thác tài nguyên, sử dụng nhiều vốn, công nghệ thấp,
tiêu hao vật chất cao. Những năm 2003-2008: Trong tăng trưởng GDP, tỷ trọng
đóng góp của yếu tố vốn là 52,7%, yếu tố lao động là 19,1%, yếu tố năng suất lao
động tổng hợp (TFP) là 29,2%, trong khi một số nước trong khu vực tỷ lệ đóng
góp của TFP là 35 - 40%. Tiêu hao điện trên 1 đơn vị GDP của Việt Nam gấp 1,7
lần Thái Lan, 2,5 lần Philippin, 3,3 lần Inđônêxia. Năng lực cạnh tranh quốc gia
của Việt Nam năm 2007 đứng thứ 68/131, năm 2008 đứng thứ 70/134 nước được
xếp hạng. Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2014 (Global Competitiveness
Report) công bố ngày 3/9/2014 cho thấy năng lực cạnh tranh của Việt Nam được
đánh giá ở mức khiêm tốn, đứng vị trí 68 trong tổng số 144 nền kinh tế trong báo
cáo. Mặc dù đã tăng 2 bậc so với năm 2013, nhưng vẫn thấp hơn so với nhiều nước
trong khu vực (Singapore xếp thứ 2, Maylaysia xếp thứ 20, Thái Lan 31, Indonesia
34, Philipines xếp thứ 52).
Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của Đảng nêu rõ: “Kinh tế phát triển chưa
bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa tương xứng với tiềm
năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước; một số chỉ tiêu không đạt kế
hoạch.
Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng dựa vào tăng đầu tư, khai thác
tài nguyên; các cân đối vĩ mô chưa vững chắc. Công nghiệp chế tạo, chế biến phát


15

triển chậm, gia công, lắp ráp còn chiếm tỉ trọng lớn. Cơ cấu kinh tế giữa các ngành,
lĩnh vực chuyển dịch theo hướng tích cực nhưng còn chậm. Cơ cấu trong nội bộ
từng ngành cũng chưa thật hợp lý. Năng suất lao động xã hội thấp hơn nhiều so với
các nước trong khu vực. Năng lực cạnh tranh quốc gia chậm được cải thiện. Đầu tư
vẫn dàn trải. Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư còn thấp, còn thất thoát, lãng
phí, nhất là nguồn vốn đầu tư của Nhà nước. Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển

chậm, thiếu đồng bộ, đặc biệt đối với khu vực đồng bào dân tộc thiểu số. Chất
lượng nhiều công trình xây dựng cơ bản còn thấp. Quản lý, khai thác, sử dụng tài
nguyên thiên nhiên hiệu quả chưa cao, còn lãng phí. Tình trạng khai thác rừng,
khai thác khoáng sản bất hợp pháp vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi, nhưng chưa có biện
pháp hữu hiệu, ngăn chặn kịp thời. Trình độ phát triển giữa các vùng cách biệt lớn
và có xu hướng mở rộng. Các chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế không đạt kế hoạch Đại hội X đề ra”4.
* Về xã hội
- Những năm gần đây tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại, tình trạng
tái nghèo còn nhiều, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, vùng thường bị thiên tai, dịch bệnh. Theo báo cáo của Ban chỉ đạo Trung
ương về giảm nghèo bền vững, tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm từ 14,2% năm 2010
xuống còn 11,76% năm 2011 và 9,6% năm 2012. Năm 2012, trên cả nước, tỉ lệ số
hộ nghèo cao nhất tập trung ở khu vực miền núi Tây Bắc với trên 28%, tiếp đó là
miền núi Đông Bắc với 17,4%, Tây Nguyên và Khu IV cũ là 15%. Khu vực Đông
Nam Bộ chỉ có khoảng 1,3% hộ nghèo. Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo chưa đồng
đều, chưa vững chắc. Địa bàn các xã nghèo miền núi, vùng dân tộc thiểu số tỷ lệ
hộ nghèo còn cao, chiếm 50% trong tổng số hộ nghèo cả nước. Đặc biệt, tỷ lệ hộ
tái, phát sinh nghèo hàng năm còn cao. Bình quân cứ 3 hộ thoát nghèo thì có một
hộ tái nghèo, phát sinh nghèo, tỷ lệ này bao gồm cả số hộ tái nghèo và phát sinh
nghèo do hậu quả thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh, do tách hộ.
4 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr.165-166


16

- Về mức độ chênh lệch thu nhập giữa các vùng miền: Ở thành thị: đặc biệt
là các thành phố lớn và các khu công nghiệp phát triển, có mức thu nhập khá cao.
Hà Nội là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị, du lịch của cả nước, các ngành kinh

tế mũi nhọn như ngân hàng, thông tin truyền thông, thương mại, du lịch... đều có
mức tăng trưởng cao. Theo số liệu của UBND Thành phố Hà Nội thì sau 5 năm mở
rộng địa bàn, kinh tế thủ đô luôn duy trì tăng trưởng với tốc độ cao, bình quân đạt
9,45% mỗi năm. Nhờ vậy, thu nhập bình quân đầu người (TNBQĐN) năm 2012
đạt 2.257 USD. Đời sống của người dân tăng lên đồng chiều với việc tăng chất
lượng đầu tư xây dựng hạ tầng cho khu vực thành thị cũng như nông thôn của Hà
Nội (xóa triệt để tình trạng phòng học tạm, phòng học cấp 4, 100% các xã có điện
lưới, 86% dân cư dùng nước hợp vệ sinh…). Hiện, TNBQĐN của Hà Nội cao hơn
TNBQĐN cả nước 1,4 lần. TNBQĐN của TP.Hồ Chí Minh cao hơn bình quân cả
nước khoảng 2,5 lần. Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu - là địa phương gắn với vựa dầu mỏ,
có tốc độ đô thị hóa đạt 51,2%, đứng thứ 3 sau TP. Hồ Chí Minh và Bình Dương
trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Năm 2012, TNBQĐN của thành phố
Vũng Tàu đã đạt hơn 6.000 USD, cao gấp 4 lần bình quân chung cả nước và cao
gần gấp đôi TP.Hồ Chí Minh. Ở các thành phố loại 2, 3, TNBQĐN thấp hơn ở các
thành phố lớn khá nhiều. Năm 2011- 2012, TNBQĐN của Nam Định đạt khoảng
19 triệu đồng/người/năm (khoảng 900 đô la Mỹ), Bắc Kạn là khoảng 14,5 triệu
đồng/người/năm (khoảng hơn 700 đô la ), Quảng Ngãi đạt chưa đến 9 triệu
đồng/người/năm (hơn 400 đô la), Hà Giang chưa đến 6 triệu đồng/ người/năm
(dưới 300 đô la. Ở nông thôn: Theo Một số liêu khảo sát của Tổng cục Thống kê,
vùng có thu nhập bình quân đầu người cao nhất là Đông Nam Bộ, cao gấp 2,6 lần
vùng có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất là vùng Trung du và miền núi phía
Bắc. Trung du và miền núi phía Bắc có TNBQĐN thấp nhất toàn quốc: năm 20112012 ước đạt dưới 300 đô la. Thấp xa so với vùng Tây Nam bộ, năm 2011-2012
TNBQĐN ước đạt 32,3 triệu đồng (khoảng 1.538 USD).
Qua các số liệu trên có thể thấy chênh lệch TNBQĐN ở thành phố lớn cao
gấp hơn 10 lần ở các vùng, tỉnh nghèo.


17

Như vậy, xóa đói giảm nghèo, giúp cho người nghèo vươn lên trung bình và

khá giả vẫn còn là một thách thức lớn đối với triển vọng phát triển xã hội trên
nguyên tắc tiến bộ và công bằng ở nước ta.
- Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi ở nước ta năm 2014 là 2,08%.
Đây thực sự vẫn còn là một vấn đề cần phải tập trung giải quyết. Đặc biệt, trong
nông thôn những năm gần đây, do hàng chục vạn hộ nông dân bị thu hồi đất cho
công nghiệp hóa, đô thị hóa mà phần lớn lại không được hỗ trợ đào tạo nghề mới
để kiếm sống, nên nạn thiếu việc làm khá nghiêm trọng. Tỷ lệ thời gian lao động
được sử dụng trong độ tuổi ở nông thôn hiện nay chỉ đạt khoảng 84%.
- Trong lĩnh vực giáo dục, nội dung chương trình giảng dạy và học tập vừa
quá tải vừa lạc hậu; cơ cấu ngành nghề của số lao động được đào tạo ra chưa hợp
lý, thiếu nhiều thợ bậc cao, nhất là chuyên gia và cán bộ quản lý giỏi. Nhìn chung,
chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu
cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Còn tồn tại một sự chênh lệch khá rõ
về điều kiện học tập, cơ sở trường lớp giữa thành thị và nông thôn, miền xuôi và
miền núi.
- Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân, mạng lưới y tế tuy được mở
rộng, nhưng trang bị còn thiếu thốn, phân bố chưa hợp lý, chưa thuận tiện cho dân.
Cơ chế chính sách bảo hiểm y tế, thu viện phí và khám chữa bệnh cho người nghèo
cũng còn không ít bất cập. Ước tính mỗi năm có hàng vạn người nghèo và cận
nghèo phải vay lãi, bán gia cầm, gia súc hoặc tài sản cố định để chi trả viện phí. Vì
thế, đối với người nghèo và cận nghèo bị bệnh, nhất là các bệnh nặng đòi hỏi dịch
vụ y tế chất lượng cao, là một rủi ro có thể đẩy họ vào bần cùng.
- Bên cạnh đó, nhiều vấn đề xã hội nhức nhối do mặt trái của kinh tế thị
trường đẻ ra, đặc biệt khi vai trò quản lý của Nhà nước còn yếu, khi việc thực thi
kỷ cương phép nước chưa nghiêm, là tệ tham nhũng, buôn lậu và những tệ nạn xã
hội khác như ma túy, mại dâm, kéo theo sự lây lan của đại dịch HIV/AIDS... vẫn
đang diễn biến phức tạp ở nhiều nơi. Môi trường sinh thái ở không ít thành phố và
vùng nông thôn cũng đã bị ô nhiễm đến mức báo động.



18

Chính những hạn chế và yếu kém trên đây đã làm cho việc kết hợp giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta gần 30 năm qua chưa
hoàn toàn đạt được kết quả như mong muốn.
2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta hiện nay
Để góp phần phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục những hạn
chế và yếu kém còn lại của quá trình phát triển kinh tế - xã hội thời gian qua, trên
cơ sở đó thực hiện tốt hơn việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và
công bằng xã hội trong mô hình phát triển của nước ta từ nay đến năm 2020. Để
giải quyết được vấn đề đó, cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, đẩy mạnh quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, thực hiện mô hình phát
triển theo chiều sâu chủ yếu dựa trên nguồn nhân lực chất lượng cao.
Bước vào giai đoạn 2011-2020, không thể tiếp tục kéo dài mãi mô hình phát
triển kinh tế theo chiều rộng vốn được áp dụng trong suốt mấy thập niên qua. Vì
đây là mô hình phát triển sử dụng nhiều vốn, công nghệ lạc hậu, với đa số lao động
tay nghề thấp chủ yếu làm gia công, lắp ráp, khai thác và bán rẻ tài nguyên thô
hoặc sơ chế. Hệ quả là chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế không cao, thu nhập
của một bộ phận đáng kể người lao động thấp, đời sống của họ gặp nhiều khó
khăn. Do đó, đã đến lúc cần có cơ chế, chính sách và lộ trình thích hợp để tái cấu
trúc nền kinh tế, chuyển sang mô hình phát triển theo chiều sâu, với đa số lao động
có trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng đi vào lĩnh vực thiết
kế, chế tạo thuộc các ngành công nghệ mũi nhọn, làm ra sản phẩm có giá trị gia
tăng cao. Nhờ vậy mà nền kinh tế nước nhà tăng trưởng nhanh hơn, với chất lượng
cao hơn và người lao động cũng có thu nhập xứng đáng để cải thiện đời sống vật
chất và văn hóa của chính mình.
Nói cách khác, để chuyển sang mô hình phát triển theo chiều sâu thì cần thật
sự chấn hưng nền giáo dục nước nhà nhằm đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng
cao, xem đó vừa là nhân tố có vai trò quyết định trong thúc đẩy tăng trưởng kinh

tế, vừa là thước đo trung tâm của tiến bộ và công bằng xã hội.


19

Hai là, tạo cơ hội cho các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế được tiếp cận bình đẳng các yếu tố “đầu vào” của sản xuất kinh doanh,
vừa góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vừa thực hiện tốt hơn tiến bộ và công
bằng xã hội.
Cho đến nay, nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước luôn khẳng định: Các
thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều bình đẳng trước pháp luật, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên, trên thực tế, các
doanh nghiệp nhà nước vẫn thường được xem là đối tượng ưu tiên trong tiếp cận
các yếu tố “đầu vào” của sản xuất kinh doanh (như đất đai, tín dụng, cơ chế, chính
sách, môi trường kinh doanh, thông tin kinh tế…). Nhưng hiệu quả sản xuất kinh
doanh của nhiều doanh nghiệp nhà nước không tương xứng với những tài sản to
lớn mà họ nắm giữ và những ưu ái mà Nhà nước dành cho họ. Không những thế,
không ít doanh nghiệp nhà nước còn làm ăn thua lỗ kéo dài. Trong khi đó, các
doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân - thành phần có tốc độ tăng trưởng
cao nhất và tạo ra nhiều việc làm nhất - thì bị phân biệt đối xử.
Do đó, sắp tới cần triệt để xóa bỏ cơ chế xin - cho, đặt tất cả các doanh
nghiệp nhà nước vào môi trường cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế
khác trong cơ chế thị trường. Chỉ có như vậy mới nâng cao được hiệu quả của
doanh nghiệp nhà nước và sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước mới không
chèn lấn các nguồn lực để phát triển khu vực tư nhân - một động lực mạnh của
tăng trưởng kinh tế gắn liền với mở rộng việc làm, yếu tố quan trọng của tiến bộ và
công bằng xã hội.
Ba là, thực hiện đa hình thức phân phối
Việc phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế được xem là chủ
yếu vì chính lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả mới thực sự là nguồn

gốc quan trọng nhất tạo ra mọi của cải cho xã hội. Nhưng trong điều kiện chuyển
sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, thì ngoài phân phối theo kết quả lao
động, việc phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất,
kinh doanh cũng phải được coi là công bằng.


20

Dĩ nhiên thừa nhận điều này cũng có nghĩa là chấp nhận sự tồn tại của quan
hệ bóc lột giá trị thặng dư ở một phạm vi nhất định. Song đây là điều không thể
tránh khỏi, khi trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta còn thấp, thì việc thu hút vốn,
công nghệ của các công ty tư bản nước ngoài cũng như các doanh nghiệp tư nhân
trong nước đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ ở nước ta,
qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thêm việc làm, tăng thêm thu
nhập, cải thiện đời sống nhân dân vẫn còn là yêu cầu khách quan tất yếu.
Kết hợp hài hòa giữa việc phân phối lại thông qua hệ thống phúc lợi xã hội
với hệ thống an sinh xã hội.
Trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay, các đối tượng của chính sách
xã hội là rất đa dạng, do đó cần mở rộng chính sách phúc lợi xã hội thành hệ thống
chính sách an sinh xã hội nhiều tầng nấc. Hệ thống đó bao gồm: Chính sách ưu đãi
xã hội nhằm bảo đảm mức sống ít nhất là trên trung bình cho những người có công
trong quá trình cách mạng và kháng chiến trước đây; chính sách bảo hiểm xã hội
nhằm huy động sự tích góp một phần thu nhập của những người lao động lúc bình
thường để dành chi tiêu cho những lúc gặp khó khăn (thất nghiệp, bệnh tật, tuổi
già...); chính sách trợ cấp xã hội để trợ giúp những người yếu thế và dễ bị tổn
thương như người tàn tật, người già cô đơn, trẻ em mồ côi lang thang cơ nhỡ...;
chính sách cứu tế xã hội để cưu mang những người bị thiệt hại do thiên tai, địch
họa hoặc rủi ro trong cuộc sống; chính sách tương trợ xã hội nhằm phát huy truyền
thống tương thân tương ái, “lá lành đùm lá rách” trong cộng đồng để giúp nhau
vượt qua khó khăn, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống.

Việc thực hiện tốt hệ thống chính sách an sinh xã hội nhiều tầng nấc là chỉ
báo không thể thiếu của một xã hội tiến bộ, công bằng, văn minh, đồng thời là
nhân tố quan trọng khơi dậy tính tích cực, sự hăng hái của các tầng lớp nhân dân
trong sản xuất kinh doanh để thoát đói vượt nghèo, vươn lên làm giàu cho mình và
cho đất nước.
Bốn là, tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương


21

Chính sách tiền lương, tiền công chính là cụ thể hoá sự quan tâm đến người
lao động của Đảng và Nhà nước. Ở nước ta hiện nay, chính sách về tiền công, tiền
lương tuy đã được cải tiến nhưng nhìn chung vẫn chưa phù hợp với cơ chế kinh tế
mới. Tiền lương vẫn mang tính chất bình quân, bao cấp, chưa thực sự là thước đo và
đảm bảo tái sản xuất sức lao động, chưa thực sự trở thành đòn bẩy kích thích người
lao động làm việc. Theo số liệu thống kê tháng 6 năm 2011: Nếu tính theo giá thị
trường mức lương của người công nhân Việt Nam chỉ đủ đảm bảo 63% nhu cầu cuộc
sống; mức lương cơ sở cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang
được thực hiện từ giữa năm 2013 là 1,150 triệu đồng/tháng, mới chỉ đạt 44,2% so
với mức lương tối thiểu bình quân của 4 vùng của khu vực doanh nghiệp (2,6 triệu
đồng/tháng) và tính ra mới đạt 35,6% so với mức chi cho nhu cầu tối thiểu (3,23
triệu đồng/tháng); nhà nước vẫn chưa làm chủ hoàn toàn trong việc kiểm soát và
quản lý tiền lương, thu nhập của tất cả các cá nhân trong xã hội; phân phối thu
nhập các nhân còn thiếu công bằng, chứa đựng những chênh lệch bất hợp lý giữa
các vùng, miền, ngành; đời sống nhân dân khó khăn, đặc biệt là người nông dân,
người làm công ăn lương. Do đó, phải tiếp tục hoàn chỉnh chính sách tiền lương, tiền
công, chống thu nhập bất hợp lý. Bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện
sống và tái sản xuất sức lao động.
Từng bước thực hiện tiền tệ hoá tiền lương, tức là trong cấu thành tiền
lương, tiền công phải tính toán đến các yếu tố để đảm bảo cho đời sống của người

lao động tương ứng với một vị trí công tác, cương vị đảm đương, trí tuệ, công sức
và tài năng đã cống hiến...để phân phối cho phù hợp. Trong lộ trình cải cách tiền
lương đến năm 2020 chúng ta cũng đã tính toán đến các yếu tố như nhà ở, tiền điện
thoại và các dịch vụ khác. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay những giải pháp
đang được áp dụng chỉ mang tính chất tình thế chứ chưa đưa vào thực hiện một
cách rộng rãi như việc trả công cho những người có học vị tiến sĩ thêm 1.0, học vị
phó giáo sư 1.5 và giáo sư là 2.0 trong thang bậc lương;


22

Quy định mức lương tối thiểu phù hợp với từng thời kỳ. Vì thực tế, chỉ số giá
tiêu dùng luôn có xu hướng tăng lên, điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống
của người lao động, cũng đồng nghĩa với tiền công trên thực tế bị giảm xuống. Tăng
lương cơ bản phù hợp với từng đối tượng là giải pháp để khắc phục những khó khăn
về đời sống cho người dân. Đến nay, trong lộ trình cải cách tiền lương, chúng ta đã
tiến hành điều chỉnh theo hướng tăng lương cơ bản từ 144.000 đồng năm 1997 lên
1.050.000 đồng tháng 5/2011, tháng 7 năm 2013 là 1.150.000 đồng và tháng 5 năm
2016 tới là 1210.000 đồng đối với khối hành chính sự nghiệp; thực hiện điều chỉnh
tăng 8% đối với lương hưu, trợ cấp ưu đãi người có công và tiền lương đối với cán
bộ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang có thu nhập thấp (hệ số lương từ 2,34
trở xuống). Theo Nghị định 122/2015/NĐ-CP thì mức lương tối thiểu vùng áp
dụng đối với doanh nghiệp từ ngày 01/01/2016 như sau: Vùng I: 3.500.000
đồng/tháng; Vùng II: 3.100.000 đồng/tháng; Vùng III: 2.700.000 đồng/tháng; Vùng
IV: 2.400.000 đồng/tháng. Thực hiện điều chỉnh tiền lương đối với người có mức
lương hưu, trợ cấp mất sức lao động dưới 2.000.000 đồng/tháng và trợ cấp đối với
giáo viên mầm non có thời gian công tác trước năm 1995 để lương hưu của các đối
tượng này đạt mức lương cơ sở.
Gắn chặt tiền công, tiền lương với năng suất, chất lượng và hiệu quả sức
lao động, coi hiệu quả kinh tế là tiêu chí cuối cùng để phân phối cho tiêu dùng cá

nhân. Đấu tranh loại bỏ những tư tưởng chây lười, ỷ lại, không tính toán đến hiệu
quả sản xuất... đảm bảo sự hợp lý trong thu nhập giữa các ngành, các khu vực…
tránh tình trạng phân hóa và chênh lệch quá mức.
Năm là, cần có quy hoạch và kế hoạch cụ thể để cân đối hợp lý mức đầu tư
cho các vùng lãnh thổ khác nhau.
Việc dành mức đầu tư cao hơn cho các vùng kinh tế động lực là rất cần thiết
nhằm tạo ra những “đầu tàu” tăng trưởng để kéo các “đoàn tàu” kinh tế Việt Nam
đi lên. Song không thể không chú ý đầu tư thích đáng cho các vùng khác, nhất là
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhằm giảm dần khoảng cách về


23

trình độ phát triển giữa các vùng, từng bước khắc phục tình trạng bất công tự
nhiên" và "bất công do lịch sử để lại", giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm
cho sự phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng gắn liền với tăng
trưởng kinh tế của tất cả các vùng miền trong nước.
Sáu là, đẩy mạnh và thiết thực hóa công tác phòng chống tham những, lãng phí
Đây là “nhiệm vụ rất quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài” nhằm ngăn
chặn và đẩy lùi tiêu cực bảo đảm giải quyết hài hoà các nhóm lợi ích trong xã hội.
Dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng XII đã đánh giá: Trong những
năm qua công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt mục tiêu, yêu cầu.
Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp,
xảy ra trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều cấp, nhiều ngành, làm cản trở sự phát triển của
xã hội, gây bức xúc trong dư luận, đe dọa sự tồn vong của xã hội.
Cần tiến hành một cuộc đấu tranh không khoan nhượng nhằm ngăn chặn và
đẩy lùi có hiệu quả những hiện tượng làm giàu phi pháp, vì đây chính là những
hiện tượng vừa gây tổn hại cho sự tăng trưởng lành mạnh của nền kinh tế quốc
dân, vừa cản trở tiến bộ xã hội và tạo ra bất công xã hội lớn nhất.
Những kẻ làm giàu phi pháp hiện nay chủ yếu thuộc hai nhóm: nhóm thứ

nhất là bọn buôn gian, bán lận, lừa đảo, đầu cơ trên thương trường; nhóm thứ hai là
những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất chỉ lo tìm cách lợi dụng vị thế và
quyền lực được giao (nhất là trong các lĩnh vực địa chính - nhà đất, xây dựng cơ
bản, tài chính doanh nghiệp nhà nước, thuế vụ, hải quan...) để đục khoét tài sản của
Nhà nước và của nhân dân. Hơn nữa, thực tế nhiều vụ án kinh tế lớn còn cho thấy
rõ có sự móc ngoặc tinh vi giữa hai nhóm trên.
Cả hai nhóm này đều có lợi ích đối kháng với lợi ích của toàn xã hội. Chúng
phải bị pháp luật trừng trị và xóa bỏ. Nếu để cho chúng tiếp tục phát triển và câu
kết chặt chẽ với nhau thì sớm muộn chúng sẽ ngang nhiên phá hoại sự nghiệp đổi
mới ngay từ bên trong, biến nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
thành nền kinh tế thị trường "hoang dã", vừa cản trở tăng trưởng kinh tế nhanh,


24

lành mạnh và bền vững vừa kìm hãm tiến bộ và công bằng xã hội, gây bất bình
trong quảng đại nhân dân, tạo thành nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của sự nghiệp
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh mà toàn Đảng, toàn
dân ta đang ra sức phấn đấu để đạt tới.

KẾT LUẬN
Tóm lại, một chính sách kinh tế tốt là một chính sách vừa thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế nhanh, vừa đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, hướng vào mục
tiêu phát triển con người và lành mạnh hóa xã hội, tạo sự đồng thuận xã hội, không
làm gia tăng quá mức chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa
các vùng, các nhóm dân cư; tăng trưởng phải gắn với xóa đói giảm nghèo; mọi
người, nhất là người nghèo, đều được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng kinh tế.
Ngược lại, một chính sách xã hội tích cực là một chính sách phù hợp với khả năng
của nền kinh tế, dựa trên cơ sở của tăng trưởng kinh tế, tạo sự ổn định và động lực
cho tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Trong bối cảnh toàn cầu hóa mạnh

mẽ hiện nay, quốc gia nào không chấp nhận luật chơi quốc tế, tự áp đặt những quy
định bất bình đẳng thì cũng đồng nghĩa với việc tự cô lập mình, đánh mất cơ hội và
tăng nguy cơ tụt hậu. Nước ta đang trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng
vào nền kinh tế quốc tế. Sẽ không thể có một xã hội tiến bộ nếu chúng ta không
xây dựng được một nền kinh tế vững mạnh; và ngược lại, nếu chỉ quan tâm phát
triển kinh tế mà bỏ qua các vấn đề xã hội thì chúng ta lại xa rời những mục tiêu tốt
đẹp của chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến


25

bộ, công bằng xã hội luôn luôn là yêu cầu đặt ra trong suốt quá trình đổi mới ở
nước ta hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

C. Mác và Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 3, tr.
632 – 633.

2.

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.

3.

Phạm Xuân Nam (chủ biên) (2001), Quản lý sự phát triển xã hội trên nguyên tắc
tiến bộ và công bằng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 77-81.


4.

GS.TS. Ngô Thắng Lợi, PGS.TS Phan Thị Nhiệm (chủ biên), sách chuyên khảo
kinh tế phát triển, Nxb CT-HC, Hà Nội, 2013.

5.

J. M. Keynes (1994), Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ, Nxb. Giáo
dục - Trường Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr. 426.

6.

“Lợi ích động lực phát triển xã hội”, Phó giáo sư Nguyễn Linh Khiếu, Nxb
KHXH, Hà Nội 1999

7.

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
CTQG, H.2006

8.

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
CTQG, H.2011


×