MỞ ĐẦU
Nhân tố con người có vai trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát
triển KTXH. Trong xu thế phát triển của khoa học và công nghệ, NNL ngày càng
có vai trò quan trọng đối với sự phát triển KTXH, đặc biệt là NNL chất lượng cao.
Lợi thế về lao động giá rẻ cũng như sự phát triển của nền kinh tế theo chiều rộng
đã đến mức trần, đòi hỏi bức thiết phải đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại
nền kinh tế, nhanh chóng chuyển đổi từ lợi thế so sánh dựa trên lao động giá rẻ, tài
nguyên và môi trường sang lợi thế cạnh tranh chủ yếu dựa trên việc phát huy NNL
chất lượng cao. Phải Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế từ chủ
yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu;
vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững;
từ tăng trưởng chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và sử dụng
lao động giá rẻ sang tăng trưởng chủ yếu do áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ,
nguồn nhân lực chất lượng cao Vì vậy NNL có vai trò quan trọng đối với sự phát
triển KTXH của đất nước.
Nhận thức đúng vấn đề trên, Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định phát triển
GDĐT con người Việt Nam là một trong những nhiệm vụ quan trọng, là “quốc sách
hàng đầu” quyết định sự thành công của cách mạng Việt Nam. Con người, nhân tố
con người là một trong năm quan điểm phát triển; phát triển nhanh nguồn nhân
lực (NNL) nhất là NNL chất lượng cao là một trong ba khâu đột phá chiến lược;
nâng cao chất lượng NNL, đổi mới toàn diện, phát triển nhanh giáo dục và đào
tạo là một trong mười hai định hướng lớn về phát triển KTXH của đất nước.
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VÀ VAI
TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Nguồn lực con người, nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
a.. Nguồn lực con người
Nghiên cứu về NNL, chúng ta cần nghiên cứu và bàn đến vấn đề nguồn lực
và NLCN. Trước hết, nguồn lực được hiểu là toàn bộ các yếu tố cả vật chất, tinh
thần đã, đang và sẽ tạo ra sức mạnh cho sự phát triển và trong những điều kiện
thích hợp sẽ thúc đẩy quá trình cải biến xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc. Nghĩa
là, khái niệm nguồn lực có phạm vi bao quát rộng, hàm chứa không chỉ những
yếu tố đã và đang tạo ra sức mạnh trên thực tế mà cả những yếu tố mới ở dạng
sức mạnh tiềm năng; không chỉ nói lên sức mạnh mà còn chỉ ra nơi bắt đầu, nơi
phát sinh hoặc nơi có thể cung cấp sức mạnh; phản ánh không chỉ số lượng mà
còn cả chất lượng các yếu tố và nói lên sự biến đổi không ngừng của các yếu tố
đó.
Thứ hai, về NLCN: quan niệm về NLCN khá đa dạng, được đề cập từ những
góc độ khác nhau. Trong lý luận về lực lượng sản xuất, con người được coi là lực
lượng sản xuất hàng đầu, là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự vận động và
phát triển của lực lượng sản xuất, quyết định quá trình sản xuất và do đó quyết
định năng suất lao động và tiến bộ xã hội. Con người được xem xét từ góc độ là
lực lượng lao động cơ bản của xã hội. Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, con
người được nhìn nhận như một phương tiện chủ yếu, bảo đảm tốc độ tăng trưởng
sản xuất và dịch vụ. Trong lý luận về vốn, con người được đề cập đến như một
loại vốn (vốn người), một thành tố cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất và kinh
doanh. Với cách tiếp vận này, Ngân hàng thế giới cho rằng, NLCN được hiểu là
toàn bộ vốn người (thể lực, trí tuệ, kỹ năng nghề nghiệp) mà mỗi cá nhân sở hữu.
Do đó, NLCN được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác.
Ở nước ta khái niệm này được sử dụng tương đối rộng rãi kể từ đầu thập
niên 90 của thế kỷ XX đến nay. NLCN được hiểu là số dân và chất lượng con
người bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm
chất hay quan niệm về NLCN bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn
với truyền thống của dân tộc ta. Từ những cách tiếp cận đó, có thể nói rằng
NLCN không chỉ là lực lượng lao động hay nguồn lao động mà là một tập hợp
các yếu tố. NLCN là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất lượng
con người với tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội.
Như vậy, NLCN là một trong những nguồn lực quan trọng thúc đẩy quá
trình phát triển KTXH của đất nước. Các nguồn lực này có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau nhưng mức độ và vai trò của nó đối với toàn bộ quá trình phát triển của
đất nước không giống nhau, trong đó NLCN giữ vai trò quyết định.
b. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực quan trọng nhất để phát triển
KTXH, vì vậy, các quốc gia trên thế giới đều quan tâm nghiên cứu NNL. Tuy mỗi
quốc gia có khái niệm khác nhau về NNL nhưng nhìn chung NNL được xem xét
dưới các góc độ như số lượng, chất lượng và cơ cấu.
Số lượng được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu về quy mô và tốc độ tăng của
NNL. Các chỉ tiêu về số lượng có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu quy mô và tốc độ
tăng dân số: quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì quy mô và
tốc độ tăng NNL càng lớn và ngược lại. Chất lượng NNL là tình trạng sức khoẻ,
văn hoá, đạo đức tư tưởng, kỹ năng lao động của người có năng lực lao động. là một
bộ phận cấu thành quan trọng của tình hình quốc gia, đóng vai trò to lớn trong việc
tạo ra của cải vật chất, là điểm xuất phát và chỗ dựa của chiến lược phát triển KTXH
đất nước.
c. Phát triển nguồn nhân lực
Phát triển NNL là quá trình tạo ra sự biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu
hợp lý của NNL biểu hiện ở sự hình thành và hoàn thiện từng bước về thể lực, kiến
thức, kỹ năng, năng lực, thái độ và nhân cách nghề nghiệp đáp ứng những nhu cầu
hoạt động, lao động của cá nhân và sự phát triển xã hội. Theo Đại từ điển kinh tế thị
trường. Để tận dụng đầy đủ sức lao động, phải thông qua giáo dục và bồi dưỡng, xúc
tiến việc làm, mở mang hoạt động và chính sách quản lý nhân sự, sử dụng sức lao
động . Phát triển NNL là hướng tới việc đào tạo và đào tạo lại NNL nhằm nâng cao
kiến thức và kỹ năng cho công việc đang làm hoặc công việc mới, làm cho con
người trở thành những người lao động có năng lực và phẩm chất đáp ứng được yêu
cầu sử dụng lao động của các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế.
Đại hội IX, X, XI Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm trên, đặc biệt trong
điều kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng sâu rộng. Đẩy mạnh CNH,HĐH gắn với phát triển kinh tế tri
thức, tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi
thế của đất nước để rút ngắn quá trình CNH,HĐH đất nước theo định hướng
XHCN. Trong đó, vấn đề NNL, NNL chất lượng cao càng đặt ra yêu cầu bức
thiết cho phát triển KTXH.
2. Vai trò của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Trong quá trình CNH,HĐH đất nước và thúc đẩy phát triển KTXH, Đảng ta
khẳng định: “NLCN là quý báu nhất, có vai trò quyết định, đặc biệt đối với nước ta,
khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp”. Các nguồn lực khác như
vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, khoa học - kỹ thuật, công nghệ… dù có nhiều
bao nhiêu cũng là hữu hạn, chúng không có sức mạnh tự thân và sẽ cạn kiệt dần trong
quá trình khai thác, sử dụng của con người. Hơn thế nữa các nguồn lực này chỉ phát
huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực xã hội khi chúng được kết hợp với NLCN, thông
qua hoạt động có ý thức của con người. Vai trò của NLCN, NNL ngày càng tăng lên
cùng với sự phát triển của nền KTXH. Đây là ưu thế hơn hẳn của NLCN so với các
nguồn lực khác. Trước đây, người ta đánh giá cao vai trò của kỹ thuật công nghệ, của
các nguồn lực tự nhiên; ngày nay, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, người ta quan
tâm đến vai trò của con người, đặc biệt đến chiến lược phát triển NNL đất nước.
Để thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, nước ta không có con đường nào
khác ngoài con đường CNH,HĐH. Muốn đưa sự nghiệp CNH,HĐH đất nước đến
thắng lợi, thì không chỉ dựa vào nguồn lực tự nhiên có sẵn mà phải dựa vào NLCN
và NNL này phải đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, hợp lý về cơ cấu; phải quan
tâm đến yếu tố con người, đào tạo và phát triển NNL một cách toàn diện. Trong
quá trình phát triển KTXH của đất nước phải luôn quán triệt quan điểm con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Chúng có mối quan hệ hữu cơ
với nhau, tác động qua lại và thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta luôn quan tâm, chú
ý đến việc khai thác một cách hợp lý các nguồn lực của đất nước để thúc đẩy sự
phát triển KTXH. Đồng thời, cũng đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người, đào
tạo và phát triển NNL tương xứng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu về NNL của
đất nước, nhất là NNL chất lượng cao. Đại hội VI của Đảng, đất nước bước vào
một thời kỳ mới, thời kỳ đổi mới để phát triển. Đại hội VII, Đảng ta đã nhận thức
ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn về vai trò của NNL đối với sự phát triển kinh tế
xã hội. Từ đó đến nay, Đảng ta luôn coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực
của sự phát triển; nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con
người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp CNH,HĐH đất
nước.
Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng trải qua
gần một trăm năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, tiếp đó là hai cuộc kháng
chiến trường kỳ giải phóng đất nước và các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc;
nguồn tài nguyên của đất nước vừa bị khai phá vừa bị chiến tranh tàn phá đã trở
lên nghèo nàn. Mặt khác, do chính sách khai thác các nguồn tài nguyên không lý,
còn gây nhiều lãng phí nên nguồn tài nguyên cũng dần cạn kiệt.
Đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, tích luỹ từ
nội bộ nền kinh tế thấp trong khi đó, để phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi phải có một
nguồn lực tài chính không nhỏ. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước xác định chỉ
có thể dựa vào một nguồn lực duy nhất và quan trọng nhất là NLCN, đầu tư thích
đáng vào việc phát triển NNL. Đại hội XI của Đảng lựa chọn phát triển nhanh NNL,
nhất là NNL chất lượng cao là khâu đột phá của chiến lược phát triển KTXH giai
đoạn 2011-2020. Đây là giải pháp quan trọng giúp chúng ta có thể khai thác hiệu quả
các nguồn lực trong và ngoài nước. Chẳng hạn, riêng lĩnh vực chuyển giao công nghệ,
theo tinh thần chỉ đạo của Đảng, cần chuyển giao công nghệ theo hướng đi thẳng vào
công nghệ hiện đại để có thể đi trước đón đầu, nhanh chóng bắt kịp các nước. Muốn
vậy, tất yếu phải đào tạo và phát triển được đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, đội
ngũ cán bộ khoa học có trình độ tương xứng để nắm bắt, sử dụng có hiệu quả.
Từ cách tiếp cận trên, vai trò của NNL đối với sự phát triển KTXH của đất
nước được biểu hiện ở các mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.
a. Vai trò của nguồn nhân lực trong lĩnh vực kinh tế
Thực tiễn đã chứng minh rằng, trong các nguồn lực có thể khai thác để phát
triển KTXH của đất nước thì NNL là quyết định nhất. Các nguồn lực khác chỉ có thể
khai thác có hiệu quả khi NNL được sử dụng và phát huy. Trong khi những nguồn
lực khác ngày càng cạn kiện thì NNL lại ngày càng đa dạng, phong phú và có sự
phát triển mới, có khả năng nội sinh không bao giờ cạn kiệt
Con người khi được làm chủ tư liệu sản xuất; được đào tạo cơ bản, có kiến
thức, kỹ năng, năng lực và phẩm chất tốt chắc chắn mọi tiềm năng KTXH của đất
nước sẽ được khai thác có hiệu quả cao nhất. Vai trò của NNL trong xã hội hiện đại
ngày càng đóng vai trò quan trọng, nhất là NNL chất lượng cao. Điều đó được thể
hiện ở việc nâng cao năng suất lao động của mỗi cá nhân thông qua tích luỹ kiến
thức, kỹ năng, thái độ lao động. Năng suất đã trở thành “tài sản của dân tộc” bằng
việc chuyển đổi từ lao động giản đơn tiền công thấp sang lao động có tay nghề và
trình độ công nghệ cao. Nâng cao chất lượng NNL, bộ phận cấu thành của tăng
trưởng kinh tế. Tích luỹ vốn con người, đặc biệt là kiến thức sẽ tạo điều kiện phát
triển các công nghệ mới, là nguồn duy trì tăng trưởng. Những thuyết tăng trưởng
kinh tế gần đây cho rằng: công nghệ thay đổi càng nhanh thì càng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế dài hạn, nhưng công nghệ sẽ thay đổi nhanh hơn khi lực lượng lao
động có trình độ cao hơn. Vì lẽ đó, phải luôn quan tâm và có chiến lược đào tạo,
phát triển NNL đúng đáp ứng yêu cầu phát triển KTXH cả trước mắt và lâu dài.
Quan tâm đầu tư, phát triển NNL cả về số lượng, chất lượng với một cơ cấu
hợp lý. Trước sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thì nhu cầu về NNL ngày
càng tăng. Để đáp ứng tốt cho nền kinh tế phát triển tất yếu phải tập trung phát
triển mạnh mẽ về số lượng NNL, đng thời nâng cao chất lượng, nhân tố có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng, quyết định đến chất lượng tăng trưởng và phát triển kinh tế
của đất nước. Những nghiên cứu, trắc nghiệm gần đây đã chỉ ra rằng những đầu tư
về nguồn vốn chỉ góp một phần nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế. Phần lớn trong giá
trị của sản phẩm thặng dư là do chất lượng của lực lượng lao động quyết định.
Thêm vào đó, trong thời đại cách mạng khoa học, công nghệ, thông tin và tri thức
trở thành yếu tố cốt lõi của cả hệ thống hiện đại. Các số liệu thống kê đã chỉ ra
rằng, phần đóng góp của thông tin, tri thức trong thu nhập quốc dân của Mỹ là
47%, Anh là 45,8%, Đức là 40%. Trong ngành vi điện tử, trong tổng giá trị của sản
phẩm, nguyên liệu chỉ chiếm 1-3%, lao động cơ bắp chiếm 12%, còn lại 85% là
giá trị của tri thức, bí quyết công nghệ và chế thử. Ở Việt Nam, tại các khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, các trung tâm phần mềm và ở các thành phố lớn
đang thiếu trầm trọng NNL chất lượng cao. Xét ở một góc độ nào đó, thiếu NNL
chất lượng cao và không đáp ứng được nhu cầu NNL chất lượng cao cho nền kinh
tế thì sức cạnh trạnh của nền kinh tế giảm sút và chất lượng tăng trưởng của nền
kinh tế không cao. Chẳng hạn, ở nhà máy Xi măng Nghi Sơn (Thanh Hoá), tổng
quỹ lương của 20 người nước ngoài làm việc ở đây bằng tổng quỹ lương của gần
2000 công nhân Việt Nam trong nhà máy. Trong ngành ngân hàng, y tế có tới 40%
người có thu nhập từ 14.000 USD/năm trở lên thuộc về người nước ngoài. Mặt
khác, phát triển NNL với một cơ cấu hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy
phát triển nền kinh tế và khai thác có hiệu quả nhất mọi nguồn lực của đất nước.
b. Vai trò của nguồn nhân lực trong lĩnh vực chính trị
Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước, các cơ quan,
tổ chức, đoàn thể xã hội… tất yếu phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức của mình. Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, ở đâu có được đội
ngũ cán bộ tốt có đủ đức và tài, ở đó chất lượng, hiệu quả công việc sẽ tốt. Vì vậy,
hơn bao giờ hết, phải đào tạo được đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên đáp ứng
được yêu cầu phát triển của đất nước qua các giai đoạn khác nhau.
c. Vai trò của nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hoá
Phát triển kinh tế để phát triển văn hoá vì mục tiêu phục vụ con người và phát
triển tự do, toàn diện con người, hoàn thiện nhân cách của nó, của mỗi người và
của cả cộng đồng trong sự thống nhất hài hoà đó mới là mục đích tự thân của lịch
sử như C.Mác đã từng nói. Con người chính là giá trị cao nhất của mọi giá trị văn
hoá. Nâng cao chất lượng NNL, NLCN, nguồn tài nguyên đặc biệt quý giá, tài
nguyên của mọi tài nguyên, nguồn lực của mọi nguồn lực, đó là giải pháp chiến
lược sâu xa để phát triển KTXH, trong đó có văn hoá. Chính điều đó chứng tỏ
rằng, văn hoá vừa là động lực vừa là mục tiêu của phát triển KTXH.
d. Vai trò của nguồn nhân lực trong lĩnh vực xã hội
Những vấn đề xã hội bao gồm những lĩnh vực như: lao động, việc làm; thực
hiện công bằng xã hội; xoá đói, giảm nghèo… Muốn thực hiện tốt vấn đề này tất
yếu phải làm tốt công tác đào tạo NNL.
II. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
NGUỒN NHÂN LỰC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KTXH CỦA ĐẤT NƯỚC
TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Thực trạng
a. Nhận thức của các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức đoàn thể, chính
quyền địa phương và toàn thể nhân dân về vai trò của NNL đối với sự phát triển
KTXH của đất nước
Ngay sau khi giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan
tâm đến GDĐT, nâng cao trình độ dân trí và sử dụng hiền tài để xây dựng, phát
triển đất nước. Đến nay, chúng ta đã có được đội ngũ cán bộ hùng hậu, NNL được
chăm lo đào tạo, phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu từng
bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng, của các giai đoạn và các thời kỳ
khác nhau đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước
đang phát triển có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, thành tựu đạt được chưa tương
xứng với tiềm năng vẫn còn có những hạn chế yếu kém chậm được khắc phục ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững nền kinh tế của đất nước; đã và đang
đặt ra nhiều vấn đề xã hội phải giải quyết, trong đó có nguyên nhân về nhận thức
của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa đúng, chưa đầy đủ về vai trò
của NNL đối với công cuộc xây dựng đất nước. Nhận thức của các cấp, các ngành,
các cơ quan, tổ chức đoàn thể và chính quyền địa phương có lúc chưa thật sự quan
tâm đầy đủ đến lĩnh vực GDĐT; đến việc huy động và sử dụng có hiệu quả NLCN
trong thực hiện các nhiệm vụ KTXH; còn tình trạng lãng phí chất xám, chảy máu
chất xám và mai một trình độ của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước.
Các cấp, các ngành và chính quyền ở một sô địa phương chưa quyết liệt vào
cuộc; tinh thần trách nhiệm thái độ không cao, không biến đường lối, chủ chương
của Đảng, chính sách của Nhà nước đi vào cuộc sống. Nên không thể nâng cao chất
lượng NNL và phát huy có hiệu quả vai trò của nó đối với sự phát triển KTXH. Sự
tham gia, quan tâm đến GDĐT của một bộ phận nhân dân còn hạn chế, thiếu sự hợp
tác cùng với nhà trường, xã hội để nâng cao chất lượng đào tạo, sử dụng và phát huy
NNL.
b. Cơ chế, chính sách nâng cao chất lượng NNL cũng như việc sử dụng nguồn
lực này cho các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KTXH của đất nước
Từ khi đất nước tiến hành đổi mới đến nay, Đảng, Nhà nước và các cơ quan
chức năng luôn quan tâm đến những vấn đề về cơ chế, chính sách và biện pháp để
không ngừng nâng cao số lượng, chất lượng và cơ cấu hợp lý trong phát triển NNL
cũng như việc sử dụng nguồn lực này phục vụ có hiệu quả cao góp phần quan trọng
trong việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,HĐH đất nước.
Tuy nhiên, trước sự biến đổi nhanh chóng của đời sống KTXH, hệ thống cơ chế
của chúng ta đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết, chưa thực sự đồng bộ, chưa phát huy vai
trò của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong đào tạo, phát triển và sử dụng NNL
phục vụ CNH,HĐH; chưa liên kết được các khâu, các cấp của quá trình đào tạo nhằm
đảm bảo chất lượng NNL được đào tạo; cơ chế phát triển và sử dụng NNL còn nhiều
bất cập hạn chế, gây lãng phí lớn cho cả nhà nước và cá nhân.
c. Cơ cấu, số lượng và chất lượng NNL - những nhân tố quan trọng, quyết định
đến chất lượng và hiệu quả các hoạt động KTXH của đất nước
Cơ cấu NNL thể hiện ở tỷ trọng lao động của từng ngành, thành phần kinh tế,
vùng kinh tế trong tổng số lao động xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của đất
nước, khu vực và thế giới trong mỗi giai đoạn nhất định. Tỷ trọng lao động của
ngành công nghiệp và xây dựng trong tổng số lao động xã hội tăng từ 12,1% năm
2000 lên 17,9% năm 2005; lao động trong các ngành dịch vụ tăng từ 19,7% lên
25,3%; lao động trong ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm từ 68,2% xuống
còn 56,8%. Tỷ trọng lao động đã qua đào tạo tăng từ 20% năm 2000 lên 25% năm
2005”[4, tr.145-146] và “năm 2010 đạt 40% tổng số lao động đang làm việc”[5,
tr.153-154]. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ trong các lĩnh vực
sản xuất, kinh doanh và dịch vụ đã làm biến đổi nhanh chóng về nội dung và tính
chất lao động cũng như cơ cấu ngành nghề và cơ cấu trình độ.
So sánh cơ cấu lao động của Việt Nam và thế giới theo ba khu vực sản
xuất cho thấy: để chuyển dịch cơ cấu lao động với mục tiêu đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại còn gặp không ít
khó khăn. Đây là thực trạng cần được nghiên cứu, đánh giá một cách khoa học để
sớm có chính sách phát triển NNL và khai thác nguồn lực này, “vì cơ cấu lao
động trong cơ cấu giai tầng xã hội là đối tượng rất quan trọng của quản lý lãnh
đạo. Cơ cấu lao động là đầu ra của cơ cấu đào tạo”[6, tr.475]. Công nhân kỹ
thuật, có tay nghề cao đang thiếu trầm trọng trong hầu hết các cơ sở sản xuất,
dịch vụ thuộc mọi thành phần kinh tế. Tình trạng mất cân đối về ngành nghề đào
tạo, các nhóm ngành quản lý kinh doanh, máy tính, tin học có rất đông cơ sở
tham gia đào tạo, học sinh ra trường không có việc làm, trong khi đó các nhóm
ngành cơ khí, nông lâm nghiệp mà các cơ sở sản xuất đang cần nhiều lao động kỹ
thuật lại không được đầu tư để thu hút người học.
Theo kết quả của Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân số trong độ
tuổi lao động cả nước là 55 triệu người, trong đó 45,2 triệu người thuộc lực lượng
lao động trong độ tuổi, chiếm 82,2% tổng dân số trong độ tuổi lao động. Số lao
động trong độ tuổi đang làm việc là 43,9 triệu người, chiếm 51,1% tổng dân số,
bao gồm: lao động khu vực thành thị gần 12 triệu người, chiếm 27% tổng lao
động trong độ tuổi đang làm việc; lao động khu vực nông thôn 31,9 triệu người,
chiếm 73%. Tại thời điểm điều tra, cả nước có 1,3 triệu lao động trong độ tuổi
thất nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp là 2,9% (cao hơn mức 2,38% của năm 2008), trong
đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 4,64%, xấp xỉ năm 2008; khu vực nông
thôn là 2,25%, cao hơn mức 1,53% của năm 2008. Trong thời gian tới, trước sự
phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh, tình
trạng lao động nông nhàn ở khu vực nông thôn tăng cùng với quá trình đào tạo
không theo kịp sự phát triển kinh tế của đất nước làm cho tình trạng thất nghiệp ở
khu vực nông thôn gia tăng, nên sự mất cân đối tiếp tục diễn ra.
Về cơ cấu trình độ, tỷ lệ biết chữ chung cả nước: 94% - 95%; đã đạt chuẩn
quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học, đang phổ cập trung học cơ sở. Công tác
xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ
sở triển khai mạnh mẽ tại nhiều địa phương, tính đến hết tháng 8 năm 2009, số
trường mầm non và phổ thông được công nhận đạt chuẩn quốc gia của cả nước
đạt 8672 trường, bao gồm 1644 trường mầm non; 5254 trường tiểu học; 1573
trường trung học cơ sở và 201 trường trung học phổ thông. Tính đến tháng 12
năm 2009, cả nước đã có 48/63 địa phương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học
đúng độ tuổi và 56/63 địa phương đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
“Đến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung
học cơ sở” [5, tr.153]. Thực tế, chất lượng nền giáo dục còn ở mức thấp. Theo kết
quả của Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, tỷ lệ lao động có trình độ học vấn
trung học cơ sở trở lên là 56,7% so với tổng số lao động trong độ tuổi, trong đó tỷ lệ
lao động có trình độ trung học phổ thông trở lên là 27,8%. Lực lượng lao động trong
độ tuổi có trình độ đại học trở lên chiếm 5,3% tổng lực lượng lao động trong độ tuổi,
trong đó thành thị 14,4%; nông thôn 1,8%; nam 5,6%; nữ 5%. Số người từ 15 tuổi
trở lên chưa được đào tạo chuyên môn kỹ thuật của cả nước còn chiếm tỷ lệ cao
(86,7%), trong đó cao nhất là khu vực đồng bằng sông Cửu Long (93,4%). Cơ cấu
giữa lao động có trình độ đại học, cao đẳng, trung học, công nhân kỹ thuật mất
cân đối nghiêm trọng, số người đi học nghề đang có xu hướng giảm trong khi số
người đi học cao đẳng và đại học lại đang có xu hướng gia tăng.
Số lượng của NNL được xác định bởi các chỉ tiêu về quy mô và tốc độ tăng của
NNL. Trong những năm qua, NNL đã có những bước phát triển nhanh chóng “Tính
đến giữa năm 1998 cả nước có 591 người có học vị tiến sĩ, 1.127 phó tiến sĩ và
10.000 người là thạc sĩ; đến đầu năm 1999 cả nước đã có gần một triệu người tốt
nghiệp cao đẳng, đại học, có 807 giáo sư; đến năm 2000 đã đào tạo được lực lượng
lao động có chuyên môn kỹ thuật khoảng 8 triệu người, chiếm 22,2% trong tổng số
hơn 36 triệu lao động của cả nước”[14, tr.31]. Đến năm 2008, “Số người đã qua đào
tạo khoảng 26%, ước tính là hơn 12 triệu, trong đó trình độ công nhân kỹ thuật (kể
cả đào tạo ngắn hạn): 8 - 9 triệu; trung học chuyên nghiệp: hơn một triệu; cao đẳng,
đại học: hơn một triệu; thạc sĩ: hơn 20.000; tiến sĩ: 5.000; tiến sĩ khoa học: 500; hơn
5.000 phó giáo sư, hơn 1.000 giáo sư (khoảng 2/3 số này đang làm việc)”[6, tr.470].
Điều đó, cho thấy NNL nước ta đã có sự phát triển nhanh chóng về số lượng.
Đất nước hiện có đội ngũ nhân lực khá dồi dào so với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới. Theo Niên giám thống kê năm 1995, 1997 và 2007 của
Tổng cục Thống kê, dân số nước ta từ 59.872.000 người (năm 1986) lên
76.709.000 người (năm 1997) và 84.155.800 người (năm 2006); trong đó lực
lượng lao động từ 27.398.000 người (năm 1986) lên 36.994.000 người (năm
1997) và 43.347.200 người năm (2006). Năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo
đạt 40%. Như vậy, Việt Nam là quốc gia đứng thứ hai trong khu vực và đứng
thứ 13 trên thế giới về quy mô dân số và là một trong số ít các quốc gia trong khu
vực có tỷ lệ về cơ cấu độ tuổi của dân số và lao động khá lý tưởng với trên 50% số dân
trong độ tuổi lao động (từ 15 - 60), trong đó 45% có độ tuổi dưới 54. Đây là yếu tố rất
thuận lợi để phát triển KTXH. Nước ta hiện đang trong giai đoạn “cơ cấu dân số vàng”
tức là số người trong độ tuổi lao động cao hơn số người phụ thuộc. Song, trên thực tế
quy mô nguồn lao động nước ta còn lớn hơn mức gia tăng của lực lượng lao động,
bởi số người ngoài độ tuổi lao động hàng năm tăng và phần lớn vẫn có nhu cầu
việc làm. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá với quy mô dân số đông, lực lượng lao
động dồi dào là điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tốc độ phát triển. Nhưng với một
nước chậm phát triển cùng với những hạn chế về nguồn vốn, trang thiết bị, nguyên,
nhiên vật liệu, cơ sở hạ tầng… và nguồn lao động dư thừa lại tăng với tốc độ lớn sẽ
gây sức ép về việc làm. Tình trạng thừa lao động, thiếu việc làm, thừa lao động phổ
thông lại thiếu lao động qua đào tạo, nhất là trong các ngành kinh tế mũi nhọn
đang là vấn đề phải tiếp tục giải quyết trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất
nước.
Chất lượng của NNL được thể hiện bằng các chỉ tiêu về tình trạng phát triển
thể lực, trình độ kiến thức, tay nghề, tác phong lao động, ý thức tổ chức kỷ luật.
Trong NNL, chất lượng đóng vai trò quyết định. Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ
người lớn biết chữ và trẻ em trong độ tuổi đến trường khá cao so với các nước
trong khu vực, trình độ giáo dục phổ cập và số lượng học sinh, lực lượng lao
động có đào tạo, số người tốt nghiệp các bậc học tăng nhanh so với nhiều nước.
Hơn hai mươi năm đổi mới đất nước, lực lượng lao động có trình độ chuyên môn
kỹ thuật đã tăng từ 7,6% năm 1986 lên gần 30% năm 2007 và 40% vào năm
2010, với chất lượng NNL cao hơn trước, thể hiện rõ nét nhất ở năng suất lao
động của toàn xã hội đã thay đổi hẳn cục diện phát triển kinh tế đất nước kể từ
khi tiến hành đổi mới, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong một thời gian
dài.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của quá trình phát triển nền kinh tế đất nước trong
bối cảnh hội nhập, cạnh tranh quốc tế ngày càng sâu rộng nhưng chất lượng NNL
hiện nay còn nhiều bất cập và hạn chế. Đội ngũ cán bộ, công chức còn bất cập về
năng lực chuyên môn, ngoại ngữ. Chất lượng lực lượng lao động còn nhiều hạn chế,
số lượng chưa qua đào tạo chiếm tỷ trọng lớn và ngay số đã được đào tạo thì kỹ
năng, tay nghề vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế chất lượng cao.
Những năm qua nền kinh tế nước ta tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, kết quả
do số lượng vốn tạo nên 57,5%; do số lượng lao động tạo nên 20%; do hiệu quả
quản lý và năng suất lao động tạo nên 22,5%. Đặt ra vấn đề thời gian tới phải
nhanh chóng chuyển nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, chủ
yếu dựa vào các nhân tố như: khoa học công nghệ, kỹ năng quản lý hiện đại và
NNL chất lượng cao.
2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của nguồn nhân lực đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
Thứ nhất, Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức
của các cấp các ngành, các cơ quan chức năng và toàn thể xã hội về vai trò của
nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của
việc đào tạo, phát triển NNL của đất nước trong sự nghiệp CNH,HĐH ở nước ta
hiện nay. công tác tuyên truyền đòi hỏi phải được tiến hành thường xuyên, liên
tục và chỉ ra được thực trạng về công tác đào tạo NNL cũng như chất lượng NNL,
nhu cầu NNL, dự báo nhu cầu NNL thời tiếp theo và việc đáp ứng nhu cầu NNL
cho nền kinh tế hiện nay. Qua đó, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cấp các
ngành các cơ quan đoàn thể xã hội và toàn thể nhân dân, quyết tâm nâng cao chất
lượng đào tạo NNL, thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển KTXH 2011 - 2020
mà Đảng và Chính phủ đã đề ra.
Thứ hai, Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực coi đây là mắt khâu
quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và hiệu quả của mọi hoạt động
kinh tế - xã hội
Giáo dục và đào tạo được coi là khâu then chốt, quyết định chất lượng NNL.
Nâng cao chất lượng đào tạo NNL, trước hết phải xác định đúng nhu cầu đào tạo
nhằm đáp ứng đúng, đủ về số lượng, chất lượng và cơ cấu NNL cho xã hội. Khắc
phục triệt để tình trạng thừa thầy, thiếu thợ, tình trạng lao động làm việc không
đúng ngành, nghề đào tạo và tình trạng lao động phải đào tạo lại. Nhu cầu đào tạo
của các đơn vị, tổ chức KTXH được xuất phát từ chính nhu cầu về lao động của
các đơn vị và tổ chức đó. Những đơn vị, tổ chức KTXH khác nhau sẽ có nhu cầu
đào tạo khác nhau. Căn cứ tình hình thực tế của các đơn vị, tổ chức đó để xác
định nhu cầu đào tạo về đối tượng, ngành nghề, số lượng, trình độ… phù hợp với
nhu cầu thực tế cũng như công tác dự báo về NNL trong tương lai.
Thứ ba, Cấu trúc lại hệ thống giáo dục quốc dân và mở rộng mạng lưới cơ
sở giáo dục; nâng cao chất lượng toàn diện đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý
giáo dục và đổi mới công tác tuyển chọn, đào tạo nguồn nhân lực
Cấu trúc lại hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng đa dạng hoá, chuẩn hoá,
bảo đảm tính phân luồng rõ rệt và liên thông sau trung học cơ sở, tạo cơ hội được
học tập suốt đời cho người học. Khắc phục hiện tượng trường nghề bị cô lập với
trường phổ thông dẫn đến tình trạng không phân luồng, không liên kết được ở các
bậc học tiếp theo. Tình trạng học chay, nên tâm lý muốn học văn hoá chứ không
muốn học nghề đang trở thành phổ biến. Hướng tới, phải thay đổi tâm lý này,
phải coi trường nghề là trường văn hoá có dạy nghề, người học nghề cũng tốt
nghiệp 12, sau đó có thể học tiếp lên cao đẳng, đại học nếu như có khả năng. Giải
pháp này sẽ bảo đảm được tính phân luồng và hiệu quả của nó.
Quy hoạch lại mạng lưới các trường cao đẳng, đại học trên phạm vi toàn
quốc và từng vùng kinh tế, đáp ứng nhu cầu nhân lực cả về số lượng, chất lượng
và cơ cấu. Phát triển các trường cao đẳng cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu nhân
lực cho các địa phương. Đồng thời, mở rộng mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp, giáo dục thường xuyên, phấn đấu đến năm 2020, có thể tiếp nhận 30% số
học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở và 30% số học sinh tốt nghiệp trung học phổ
thông vào học một ngành nghề và có thể tiếp tục học lên trình độ cao hơn khi có
thể; bảo đảm 100% quận, huyện có trung tâm giáo dục thường xuyên, 95% xã,
phường có trung tâm học tập cộng đồng.
Thứ tư, Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, liên kết chặt chẽ giữa
đào tạo với sử dụng nguồn nhân lực
Để nâng cao vai trò và hiệu quả sử dụng NNL, thời gian tới Nhà nước cần
nghiên cứu và đánh giá đầy đủ, chính xác về thực trạng NNL ở từng giai đoạn,
những nghề nào thừa hoặc thiếu và xác định nguyên nhân của tình trạng trên; từ
đó, áp dụng các chính sách và công cụ đòn bẩy phù hợp nhằm khai thác, sử dụng
hợp lý và hiệu quả NNL. Đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân luồng
trong đào tạo, hướng nghiệp cho học sinh, qua đó tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu
lao động theo hướng tích cực phù hợp với nhu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH đất
nước.
Thứ năm, Đổi mới và nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về giáo dục và
đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn cơ sở vật chất, trong thiết bị phục vụ cho quá
trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập
Cần đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý của nhà nước về nhiệm vụ GDĐT
theo hướng xây dựng và phát triển một nền giáo dục mở, hiện đại phù hợp với
điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Phương thức quản lý đối
với giáo dục, Nhà nước cần tập trung quản lý chặt chẽ về nội dung, chương trình
đào tạo, chất lượng đào tạo, đội ngũ nhân lực đồng thời, cho phép tất cả các thành
phần kinh tế, các lực lượng cùng tham gia vào quá trình GDĐT với tất cả các bậc
học trong cả nước. Thực hiện phân cấp quản lý đối với các địa phương và các cơ
sở giáo dục, nhất là các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và đại học; nâng cao tính tự
chủ, tính tự chịu trách nhiệm ở các cấp về nội dung đào tạo, tài chính, nhân sự;
thành lập Hội đồng trường ở các cơ sở giáo dục đại học để thực hiện quyền tự
chủ và trách nhiệm xã hội của đơn vị. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong toàn
bộ hệ thống quản lý giáo dục, từ cơ quan trung ương tới các địa phương, các cơ
sở giáo dục nhằm tạo ra một cơ chế quản lý gọn nhẹ, hiệu quả. Cần có cơ chế
thích hợp để phát triển những dịch vụ giáo dục trong cơ chế thị trường định
hướng XHCN nhằm thu hút ngày càng nhiều các nguồn vốn đầu tư, tạo điều kiện
mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng
của nhân dân. Bằng cơ chế và chính sách để tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa
các cơ sở giáo dục và giữa các cá nhân tham gia giáo dục là một trong những
động lực thúc đẩy sự phát triển của nền giáo dục nước nhà.
KẾT LUẬN
Nguồn nhân lực và phát triển NNL là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng
đối với mọi quốc gia. Ở nước ta, phát triển NNL là quan điểm, chính sách nhất
quán của Đảng và Nhà nước, vì NNL là nguồn lực nội tại, cơ bản, có khả năng tái
sinh và đổi mới phát triển nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác một cách hợp lý.
Nguồn nhân lực còn là nguồn lực của mọi nguồn lực, là tài nguyên của mọi tài
nguyên; vừa là chủ thể vừa là khách thể, vừa là động lực vừa là mục tiêu giữ vị trí
trung tâm trong các nguồn lực, giữ vai trò quyết định đến sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.Thực trạng NNL và phát triển NNL ở nước ta còn nhiều
hạn chế, chất lượng NNL thấp, số lượng và cơ cấu NNL bất cập đã và đang đặt ra
yêu cầu bức thiết về đào tạo và phát triển NNL cho sự phát triển kinh tế của đất
nước, đặc biệt trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH hội nhập kinh tế quốc tế. Chưa
phát huy được vai trò của NNL đối với sự phát triển KTXH của đất nước cũng
như quá trình khai thác, sử dụng và phát huy nguồn lực này, Vì vậy, thời gian tới
cần nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện về cơ chế chính sách đào tạo, bồi dưỡng,
sử dụng NNL hợp lý cũng như việc tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả
những cơ chế, chính sách đó nhằm phát huy vai trò của NNL đối với sự phát triển
KTXH của đất nước.