Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH và PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT về DOANH NGHIỆP ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.48 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
Nền kinh tế nào bao giờ cũng biểu hiện thông qua các đơn vị, các loại
hình tổ chức kinh tế nhất định, với nhiều loại hình đa dạng và phong phú.
Trong đó doanh nghiệp là hình thức phổ biến nhất, chung nhất, được ví như là
tế bào cơ bản cấu thành nền kinh tế quốc dân thống nhất. Đối với nền kinh tế
Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ, đặc biệt kể từ khi nước ta thực hiện
công cuộc đổi mới thì vấn đề doanh nghiệp trở thành trung tâm cần giải quyết
trong quá trình quản lý, duy trì, tổ chức hoạt động của nền kinh tế. Trong thực
tế doanh nghiệp ngày càng trở thành lực lượng vật chất quan trọng cấu thành
và quết định đến hiểu quả, chất lượng hoạt động của nền kinh tế nước nhà. Để
doanh nghiệp hoạt động có hiểu quả, phục vụ đắc lực cho mục tiểu phát triển
kinh tế, cần phải có những cơ chế, chính sách, qui định…về cách thức thành
lập, tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, phá sản…Tổng hợp các qui định,
các chính sách, cơ chế đó được biểu hiện tập trung nhất qua các văn băn pháp
luật về doanh nghiệp, mà cụ thể, trực tiếp nhất là pháp luật về doanh nghiệp.
Việc nắm được quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về doanh
nghiệp của nước ta, đặc biệt là trong thời kỳ xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa rất quan trong trong nhận thức các
hiện tượng, các quá trình kinh tế xã hội đang diễn ra. Đồng thời nhận thức
được các vấn đề liên quan đến quá trình phát triển của doanh nghiệp trong quá
trình xây dựng đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Xuất phát từ ý nghĩa đó,
tác giả chọn vấn đề “Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về doanh
ở Việt Nam ” làm chủ đề tiểu luận của mình sau khi được nghiên cứu học tập
môn “Luật kinh tế”. Trong phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu và yêu cầu học tập,
tác giả trình bày chủ đề tiểu luận thông qua các nội dung cụ thể sau:
1. Doanh nghiệp và phân loại doanh nghiệp.
2. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam.
3. Những điểm mới và bất cập của luật doanh nghiệp 2005 được rút ra
thông qua thực tiễn thi hành.
2



NỘI DUNG
1. Doanh nghiệp và phân loại doanh nghiệp.
Khi bàn về doanh nghiệp có nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau tùy
vào góc độ tiếp cận và mục đính nghiên cứu. Theo quan điểm của nhà tổ chức:
Doanh nghiệp là tổng thể các phương tiện, máy móc, thiết bị và con người
được tổ chức lại nhằm đạt được một mục đích.Theo quan điểm mục tiêu cơ
bản cho mọi hoạt động của mọi doanh nghiệp là lợi nhuận: Doanh nghiệp là
một tổ chức sản xuất, thông qua đó, trong khuôn khổ một số tài sản nhất định
người ta kết hợp nhiều yếu tố sản xuất khác nhau nhằm tạo ra sản phẩm và
dịch vụ để bán trên thị trường nhằm thu về một khoản chênh lệch giữa giá
thành và giá bán sản phẩm.Theo quan điểm chức năng: Doanh nghiệp là một
đơn vị sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện một, hoặc một số, hoặc tất cả các
công đoạn trong quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, hoặc thực
hiện các nhiệm vụ nhằm mục đích sinh lãi. Theo quan điểm lý thuyết hệ
thống: Doanh nghiệp là một bộ phận hợp thành trong hệ thống kinh tế, mỗi
đơn vị trong hệ thống đó phải chịu sức tác động tương hỗ lẫn nhau, phải tuân
thủ những điều kiện hoạt động mà nhà nước đặt ra cho hệ thống kinh tế đó
nhằm phục vụ cho mục đích tiêu dùng của xã hội.
Dưới góc độ pháp luật doanh nghiệp thì thống nhất nhận thức về
doanh nghiệp là: Doanh nghiệp là thành tố cơ bản của hệ thống kinh tế - xã
hội. Bản chất của doanh nghiệp là những thực thể kinh tế - xã hội, có tư cách
chủ thể pháp lý độc lập, có chức năng chủ yếu là hoạt động kinh doanh. Trong
điều kiện kinh tế thị trường, doanh nghiệp là chủ thể chủ yếu của quan hệ
pháp luật kinh doanh. Ở nước ta, Điều 4, Khoản 1 Luật doanh nghiệp năm
2005 quy định: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ
sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Trong nền kinh tế, doanh nghiệp tồn tại dưới nhiều hình thức, đa dạng
và phong phú ở trong nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề kinh doanh khác

3


nhau. Để thực hiện có hiệu quả công tác quản lý và kịp thời có những cơ chế
chính sách cho phù hợp với đặc điểm của từng doanh nghiệp cụ thể thì chúng
ta phải tiến hành phân loại doanh nghiệp. Về lý thuyết cũng như thực tiễn có
thể phân loại doanh nghiệp theo những dấu hiệu khác nhau.
Nếu xét từ dấu hiệu sở hữu (tính chất sở hữu của những vốn và tài sản
được sử dụng để thành lập doanh nghiệp - sở hữu vốn). Doanh nghiepj ở nước
ta có thể chia doanh nghiệp thành các loại doanh nghiệp sau: Doanh nghiệp
nhà nước, Doanh nghiệp tư nhân, Doanh nghiệp tập thể, Doanh nghiệp của
các tổ chức chính trị - xã hội, Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành
viên trở lên, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, Công ty cổ phần,
Công ty hợp danh
Nếu xem xét theo dấu hiệu về phương thức đầu tư vốn, có thể chia
doanh nghiệp thành: Doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước, Doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài (bao gồm doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài).
Theo luật doanh nghiệp năm 2005 quy định bốn loại hình doanh
nghiệp cơ bản hoạt động tại Việt Nam. Đó là: công ty TNHH, công ty cổ
phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.
Doanh nghiệp tư nhân.
Theo Điều 141 Luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp tư nhân là
doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Từ quy định trên chúng ta
thấy doanh nghiệp tư nhân gồm những đặc điểm cơ bản sau:
Một là: Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân đầu tư
vốn thành lập và làm chủ. Chủ sở hữu tài sản của doanh nghiệp là một cá
nhân. Bởi vậy mà chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định những
vấn đề liên quan tới quản lý doanh nghiệp, thuê người khác điều hành ( trong

trường hợp này phải khai báo với cơ quan đăng ký kinh doanh và vẫn phải

4


chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của doanh nghiệp), có quyền cho thuê toàn
bộ doanh nghiệp, bán doanh nghiệp, tạm ngừng hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
Hai là: Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân bởi vì tài sản
của doanh nghiệp không tách bạch rõ ràng với tài sản của chủ doanh nghiệp. Tài
sản mà chủ doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư
nhân không phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp.
Ba là: Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn
về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn ( TNHH ).
Công ty TNHH hai thành viên trở lên. Công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên là doanh nghiệp có những đặc điểm chung sau đây;
Hình thức sở hữu của công ty là thuộc hình thức sở hữu chung của các thành
viên công ty; Thành viên của công ty có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng
thành viên mỗi công ty không ít hơn hai và không vượt quá năm mươi; Công
ty không được quyền phát hành cổ phần; Công ty là doanh nghiệp có tư cách
pháp nhân và chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp.
Công ty TNHH một thành viên. Công ty TNHH một thành viên là
doanh nghiệp có những đặc điểm chung sau đây: Chủ sở hữu công ty phải là
một tổ chức hoặc cá nhân và có thể là: Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, các
pháp nhân của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội,
tổ chức xã hội nghề nghiệp, các loại doanh nghiệp, các tổ chức khác theo quy
định của pháp luật. Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng toàn bộ
hoặc một phần vốn điểu lệ cho tổ chức hoặc cá nhân khác theo quy định về

chuyển đổi doanh nghiệp. Công ty không được phát hành cổ phần. Công ty có

5


tư cách pháp nhân và chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm hữu hạn đối với kết
quả kinh doanh của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là doanh nghiệp có những đặc điểm chung sau đây:
Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông có
thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế tối
đa.Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động
vốn, theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Công ty cổ phần có tư cách
pháp nhân và là doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn, cổ đông của công ty
chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
Công ty hợp danh
Công ty hợp danh là doanh nghiệp có những đặc điểm chung sau đây:
Phải có ít nhất hai thành viên hợp danh; ngoài các thành viên hợp danh còn có
thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ chuyên
môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình về các nghĩa vụ của công ty ( Trách nhiệm vô hạn ). Thành viên góp vốn
chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp
vào công ty. Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân. Công ty hợp danh không
được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Như vậy, công ty họp danh có hai
loại: Công ty hợp danh mà tất cả các thành viên đều là thành viên hợp danh và
công ty hợp danh có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn.
2. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về doanh nghiệp
ở Việt Nam.
Do điều kiện kinh tế xã hội và đặc điểm lịch sử của đất nước có nhiều

biến động thăng trầm. Chịu sự tác động mạnh mẽ của các điều kiện, biến
6


động của tình hình kinh tế chính trị trên thế giới và ảnh hưởng sâu sắc bởi xu
thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa về kinh tế. Ở trong nước những thay đổi có tính
bước ngoặc trong tuy duy quản lý kinh tế xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của
các loại hình doanh nghiệp đã tác động trược tiếp đến quá trình hình thành và
phát triển pháp luật về doanh nghiệp. Từ đặc điểm đó, có thể phân chia quá
trình hình thành và phát triển pháp luật về doanh nghiệp ở nước ta thành hai
giai đoạn chính. Giai đoạn trước đổi mới và giai đoạn đổi mới, xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Pháp luật về doanh nghiệp trong giai đoạn trước đổi mới (19451985).
Từ khi dành độc lập đến 1985, đất nước ta vừa phải kháng chiến đánh
đuổi hai đế quốc lớn và Pháp và Mỹ, thực hiện hai cuộc chiến tranh biên giới
bảo vệ Tổ quốc, thực hiện nghĩa vụ quốc tế giúp nước bạn Cămpuchia thoát
khỏi nạn diệt chủng, các thế lực thù địch bao vây cấm vận, vừa phải xây dựng
và phát triển nền kinh tế. Trong giai đoạn này vấn đề nổi trội, chủ đạo nhất, phổ
biến nhất ở nước ta là phát triển kinh tế quốc doanh được ưu tiên đặc biệt. Kinh
tế quốc doanh được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế quốc
dân. Để phát triển kinh tế quốc doanh chúng ta đã thành lập rất nhiều doanh
nghiệp nhà nước. Vấn đề địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước đã được
Đảng và Nhà nước ta quan tâm thích đáng. Ngay sau cách mạng Tháng Tám
thành công, chúng ta đã có các văn bản pháp luật về doanh nghiệp nhà nước.
Văn bản pháp luật đầu tiên về doanh nghiệp nhà nước là Sắc lệnh số
104/SL do Chủ tịch nước ban hành ngày 01/01/1948. Sắc lệnh này khẳng định
doanh nghiệp quốc gia thuộc sở hữu quốc gia do Nhà nước quản lý. Nhiệm vụ
của xí nghiệp quốc gia là sản xuất ra nhiều sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của
nền kinh tế, điều phối các hoạt động kinh tế trong nước; bảo vệ kinh tế và tăng
thêm tài chính quốc gia…


7


Ngày 25/02/1949, Chủ tịch nước ký Sắc lệnh số 09/SL bổ sung Sắc
lệnh số 104/SL về việc thành lập xí nghiệp quốc doanh. Để triển khai hai sắc
lệnh đó, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Điều lệ tạm thời về xí nghiệp quốc
gia theo Nghị định số 214/TTg ngày 31/10/1952. Điều lệ này đã xác định vai
trò chủ đạo của xí nghiệp quốc doanh trong nền kinh tế nước ta, xác định xí
nghiệp quốc doanh là pháp nhân và có trách nhiệm trước bộ chủ quản về thực
hiện kế hoạch và quản lý tài sản nhà nước.
Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Nhà nước ta bắt đầu chính
thức triển khai thực hiện những nguyên tắc và phương pháp quản lý kinh tế xã
hội chủ nghĩa. Vì vậy, ngày 04/4/1957, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 130/TTg về việc thi hành từng bước chế độ hạch toán kinh tế để
tăng cường việc quản lý kinh doanh của xí nghiệp quốc doanh nhằm từng
bước thi hành chế độ hạch toán kinh tế để sản xuất.
Trong những năm 60, trong hoàn cảnh chiến tranh, Đảng và Nhà nước
ta không có điều kịên để thực hiện những quy định có tính nguyên tắc trên.
Mãi tới những năm 70, chúng ta mới có dịp quan tâm cải tiến công tác quản lý
kinh tế ở xí nghiệp quốc doanh. Ngày 09/01/1971, Thủ tướng Chính phủ ra
Chỉ thị số 11/TTg về ổn định sản xuất và cải tiến quản lý xí nghiệp quốc
doanh. Tuy nhiên năm 1976 những quy định này mới được áp dụng thống
nhất ở tất cả các xí nghiệp quốc doanh.
Như vậy, để quản lý doanh nghiệp thời kỳ này, Nhà nước ta đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật xác định địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà
nước nhưng những văn bản đó còn rất sơ sài, thiếu đồng bộ và một số văn bản
chỉ có giá trị tạm thời. Thời kỳ này, Đảng và Nhà nước còn ban hành nhiều
chủ trương và quy định về quản lý xí nghiệp quốc doanh như Điều lệ xí
nghiệp công nghiệp quốc doanh kèm theo Nghị định số 93/CP và Điều lệ liên

hiệp các xí nghiệp kèm theo Nghị định số 302/CP ngày 10/12/1977 của Chính
phủ. Đó là những văn bản pháp lý quan trọng quy định tương đối đầy đủ và cụ
thể các quyền và nghĩa vụ chủ yếu của xí nghiệp quốc doanh trong các lĩnh
8


vực sản xuất kinh doanh. Có thể nói đó là những văn bản pháp luật quan trọng
nhất về địa vị pháp lý của doanh nghiệp thời đó. Bản điều lệ này đã xác định
vị trí, vai trò của xí nghiệp công nghiệp quốc doanh và liên hiệp các xí nghiệp
quốc doanh trong hệ thống kinh tế. Điều lệ cũng hoàn thiện thêm một bước về
cơ chế quản lý trong nội bộ doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp tập thể, trong cơ chế quản lý kinh tế tập trung
bao cấp có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước và đã được ghi nhận trong các văn bản pháp lý khác nhau ngay từ khi
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời.
Kinh tế tập thể được tổ chức với nhiều hình thức khác nhau như: tổ
hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong nhiều ngành kinh tế quốc dân,
như: nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng,
vận tải, thuỷ sản, làm muối, mua bán, tín dụng, tiêu thụ… Tất cả các tổ chức
kinh tế này được gọi chung là doanh nghiệp tập thể.
Như vậy, trong giai đoạn này do điều kiện kinh tế và xu thế của thời
đại, pháp luật về doanh nghiệp tuy có những yếu tổ để trở thành một hệ thống
thống nhất trong quản lý kinh tế, nhưng vấn còn nhiều hạn chế, thiếu sót, thậm
chí là sai lầm. Những văn bản pháp luật về doanh nghiệp không đáp ứng và
theo kịp thực tiễn phát triển của nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói
riêng. Thực trạng đó đã đặt ra yêu cầu bức thiết cần phải bổ sung, sửa đổi và
hoàn thiện hệ thống pháp luật về doanh nghiệp và yêu cầu đó đã được tường
bước cụ thể hóa trong thời kỳ đổi mới đất nước, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ chủ nghĩa.
Pháp luật về doanh nghiệp trong giai đoạn đổi mới, xây dựng nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc
tế.
Đây là giai đoạn pháp luật về doanh nghiệp có bước phát triển vượt
bậc cả về số lượng và chất lượng. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
của Đảng và nhất là sau Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 3
9


(khoá VI), quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về
doanh nghiệp đã có nhiều thay đổi quan trọng. Trong khoảng thời gian 20 năm
đổi mới, nước ta đã ban hành các đạo luật về doanh nghiệp như: Luật doanh
nghiệp tư nhân năm 1990, Luật công ty năm 1990, Luật phá sản năm 1994, Luật
sửa đổi một số điều của Luật công ty số 35 - L/CTN của Quốc Hội. Luật thương
mại năm 1997… Ngày 12/6/1999 tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá X đã thông qua
Luật doanh nghiệp thay thế cho Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990. Luật
doanh nghiệp năm 1999 ra đời đã đánh dấu một mốc son trên con đường hoàn
thiện khung pháp luật về các loại hình doanh nghiệp ở nước ta. Gần đây nhất,
ngày 29/11/2005, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông
qua Luật doanh nghiệp thay thế cho Luật doanh nghiệp năm 1999, Luật doanh
nghiệp nhà nước năm 2003 và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996
(sửa đổi, bổ sung năm 2000). Luật doanh nghiệp năm 2005 ra đời thể hiện sự
thống nhất trong việc điều chỉnh địa vị pháp lý của các doanh nghiệp ở Việt Nam
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Luật công ty năm 1990, Luật doanh nghiệp tư nhân 1990.
Để thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, lao động và tài nguyên
của đất nước, tạo thêm việc làm; bảo hộ lợi ích hợp pháp của người góp vốn
đầu tư, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế; khuyến khích việc đầu tư kinh
doanh, bảo hộ lợi ích hợp pháp của chủ doanh nghiệp tư nhân; tăng cường
hiệu lực quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh. Tại kỳ họp lần

thứ 8 Quốc hội khóa VIII ngày 21.12.1990 đã thông qua hai đạo luật quan
trong về doanh nghiệp, Luật công ty năm 1990 và Luật doanh nghiệp tư nhân
1990, hai luật này có hiệu lực từ ngày 15.04.1991. Luật công ty 1990 gồm 6
chương và 46 điều, quy định về Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ
phần. Luật doanh nghiệp tư nhân 1990 gồm 5 chương và 28 điều, qui định về
doanh nghiệp tư nhân. Việc ban hành và thực hiện 2 đạo luật này đã tạo nên
bước phát triển đột phá của các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là doanh
10


nghiệp tư nhân, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, sau một
thời gian thực hiện, cùng với những thay đổi của thực tiễn nền kinh tế, hai luật
này đã bộc lộ những vấn đề bất cập cần được khắc phục. Do vậy, Luật Sửa đổi
một số điều của Luật công ty 1990 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 22/0 6/1994. Luật quy
định sửa đổi một số điều của Luật công ty. Luật này sửa đổi một số điều của
Luật công ty được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông
qua ngày 21 tháng 12 năm 1990 cụ thể như sau:
Điều 1. Sửa đổi một số điều của Luật công ty như sau:
1- Đoạn cuối Điều 16 được sửa đổi như sau: "Trong trường hợp người
xin phép thành lập công ty thấy việc từ chối cấp giấy phép là không thoả
đáng, thì có quyền khiếu nại lên Thủ tướng Chính phủ".
2- Đoạn đầu Điều 17 được sửa đổi như sau: "Công ty phải đăng ký
kinh doanh tại Uỷ ban kế hoạch tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Hồ sơ
đăng ký kinh doanh bao gồm: giấy phép thành lập, điều lệ công ty và giấy tờ
chứng thực trụ sở giao dịch của công ty".
3- Đoạn cuối Điều 18 được sửa đổi như sau: "Trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Uỷ ban kế hoạch
phải gửi bản sao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh kèm theo hồ sơ của
công ty cho cơ quan thuế, tài chính, thống kê và các cơ quan quản lý ngành

kinh tế, kỹ thuật cùng cấp".
4- Điểm 1 Điều 20 được sửa đổi như sau: "1- Xin phép Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nơi đặt chi nhánh hoặc văn phòng
đại diện và đăng ký kinh doanh tại Uỷ ban kế hoạch cùng cấp như quy định tại
các điều 14, 17 và 18 của Luật này;".
5- Điều 21 được sửa đổi như sau: "Điều 21-Khi thay đổi mục tiêu, ngành,
nghề kinh doanh, vốn điều lệ và các nội dung khác trong hồ sơ đăng ký kinh doanh,
công ty phải khai báo lại với Uỷ ban kế hoạch đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh và phải đăng báo theo quy định tại Điều 19 của Luật này".
11


6- Điều 24 được sửa đổi như sau: "Điều 24. Công ty lâm vào tình
trạng phá sản là công ty gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh
doanh, sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả
năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Việc giải quyết phá sản công ty được
thực hiện theo quy định của Luật phá sản doanh nghiệp".
7- Điểm 2 Điều 32 được sửa đổi như sau: "2- Trong trường hợp công
khai gọi vốn từ những người khác thì sau khi được cấp giấy phép thành lập,
các sáng lập viên phải nộp tại Uỷ ban kế hoạch nơi cấp giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh một bản dự thảo điều lệ, danh sách sáng lập viên, địa chỉ
thường trú và nghề nghiệp của họ;".
8- Các chữ "Hội đồng bộ trưởng" được sửa đổi thành các chữ "Chính
phủ". Các chữ "Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng" được sửa đổi thành các chữ
"Thủ tướng Chính phủ".
Điều 2. Luật này có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 1994.Những
quy định trước đây trái với luật này đều bãi bỏ.
Điều 3. Chính phủ sửa đổi các văn bản quy định chi tiết thi hành
Luật công ty cho phù hợp với Luật này.
Luật Sửa đổi một số điều của Luật Doanh nghiệp tư nhân1990. Được

Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 5
thông qua ngày 22/06/1994. Luật Quy định Sửa đổi một số điều của Luật
doanh nghiệp tư nhân 1990 cụ thể như sau:
Điều 1. Sửa đổi một số điều của Luật doanh nghiệp tư nhân như sau
1- Điều 10 được sửa đổi như sau: "Điều 10- Uỷ ban nhân dân nhận
đơn phải cấp hoặc từ chối cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp trong thời
hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận đơn; nếu từ chối cấp giấy phép thì phải nói
rõ lý do. Trong trường hợp người xin phép thành lập doanh nghiệp tư nhân
thấy việc từ chối cấp giấy phép là không thoả đáng thì có quyền khiếu nại lên
cơ quan Nhà nước cấp trên trực tiếp của Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền cấp
giấy phép thành lập doanh nghiệp".
12


2- Đoạn đầu Điều 11 được sửa đổi như sau: "Trong thời hạn sáu mươi
ngày, kể từ ngày được cấp giấy phép thành lập, chủ doanh nghiệp tư nhân phải
đăng ký kinh doanh tại cơ quan kế hoạch cùng cấp uỷ ban nhân dân đã cấp
giấy phép thành lập".
3- Đoạn cuối Điều 12 được sửa đổi như sau: "Trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cơ quan kế hoạch
phải gửi bản sao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh kèm theo hồ sơ của
doanh nghiệp cho cơ quan thuế, tài chính, thống kê và các cơ quan quản lý
ngành kinh tế, kỹ thuật cùng cấp".
4- Điểm 1 Điều 14 được sửa đổi như sau:
"1- Xin phép Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
nơi đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện và đăng ký kinh doanh tại cơ quan
kế hoạch cùng cấp Uỷ ban nhân dân đã cho phép dặt chi nhánh hoặc văn
phòng đại diện theo quy định tại Điều 8 và Điều 11 của Luật này;".
5- Điều 15 được sửa đổi như sau: "Điều 15- Khi thay đổi mục tiêu,
ngành, nghề kinh doanh, vốn đầu tư ban đầu và các nội dung khác trong hồ sơ

đăng ký kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân phải khai báo lại với cơ quan
kế hoạch đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đối với doanh nghiệp
tư nhân được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp giấy
phép thành lập, thì chủ doanh nghiệp còn phải đăng báo về những nội dung
thay đổi".
6- Điều 17 được sửa đổi như sau: "Điều 17-Doanh nghiệp tư nhân lâm
vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thùa lỗ trong hoạt
động kinh doanh, sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất
khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Việc giải quyết phá sản doanh nghiệp
tư nhân được thực hiện theo quy định của Luật phá sản doanh nghiệp".
7- Điều 23 được sửa dổi như sau: "Điều 23- Chủ doanh nghiệp tư
nhân có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp của mình. Trước khi cho thuê,
chủ doanh nghiệp phải báo cáo bằng văn bản với cơ quan kế hoạch đã cấp
13


giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trong thời hạn chho thuê, chủ doanh
nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật với tư cách là chủ sở
hữu doanh nghiệp".
8- Đoạn cuối Điều 24 đựơc sửa đổi như sau:
"Sau khi hoàn tất thủ tục bán hoặc sáp nhập doanh nghiệp vào một
doanh nghiệp khác, chủ doanh nghiệp tư nhân phải khai báo với cơ quan kế
hoạch đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh để xoá tên trong sổ đăng
ký kinh doanh và phải thông báo công khai".
9- Các chữ "Hội đồng bộ trưởng" được sửa đổi thành các chữ "Chính
phủ". Các chữ "Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng" được sửa đổi thành các chữ
"Thủ tướng Chính phủ".
Điều 2 Luật này có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 1994. Những
quy định trước đây trái với Lụât này đều bãi bỏ.
Điều 3 Chính phủ sửa đổi các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật

doanh nghiệp tư nhân cho phù hợp với Luật này.
Tuy luật sửa đổi luật công ty 1990 và luật doanh nghiệp tư nhân 1990
đã giải quyết được những bất cập trước mắt của nền kinh tế, nhưng so với yêu
cầu thực tế thì còn nhiều vấn đề phải được bổ sung, sửa đổi. Do vậy, Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào ngày 12 tháng 6 năm 1999 và
có hiệu lực thi hành vào ngày 01.01.2000.
Luật doanh nghiệp 1999.
Để góp phần phát huy nội lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước; đẩy mạnh công cuộc đổi mới kinh tế; bảo đảm quyền tự
do, bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế; bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; tăng
cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh... Quốc hội
khóa X, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật doanh nghiệp 1999, gồm 10 chương
và 124 điều. Luật này quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Khi có hiệu lực thì đối
14


tượng điều chỉnh của luật này là: Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần, doanh nghiệp tư nhân đã thành lập theo quy định của Luật công ty, Luật
doanh nghiệp tư nhân ngày 21 tháng 12 năm 1990 và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật công ty, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
doanh nghiệp tư nhân ngày 22 tháng 6 năm 1994 không phải làm thủ tục đăng
ký kinh doanh lại. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có
Điều lệ không phù hợp với quy định của Luật này, thì công ty đó phải sửa đổi,
bổ sung Điều lệ trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực.
Trường hợp quá thời hạn này mà Điều lệ công ty không được sửa đổi, bổ
sung, thì Điều lệ đó bị coi là không hợp lệ.
Luật doanh nghiệp 1999 đã đáp ứng được yêu cầu phát triển các loại
hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

và hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo ra bước phát triển tương đối bền vững của
nền kinh tế. Nhưng trước yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh, khả năng sản
xuất kinh doanh và phát triển bền vững trong quá trình nền kinh tế đất nước
hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, thì Luật doanh nghiệp 1999 trở
nên lạc hậu và không có khả năng giải quyết các vấn đề của hoạt động kinh tế
doanh nghiệp, đặc biệt là tranh chấp, phá sản, hợp đồng quốc tế... Trước yêu
cầu đó, Quốc hội Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua Luật doanh
nghiệp 2005 vào ngày 29 tháng 11 năm 2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 1
tháng 7 năm 2006.
Luật doanh nghiệp 2005.
Để góp phần phát huy nội lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước; đẩy mạnh công cuộc đổi mới kinh tế; bảo đảm quyền
tự do, bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế; bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư;
tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh; góp
phần nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc
tế... Quốc hội Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua Luật doanh nghiệp
15


2005. Luật này gồm 10 chương và 172 điều, quy định về việc thành lập, tổ
chức quản lý và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp gồm công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.
Luật doanh nghiệp 2005 còn quy định về nhóm công ty và thay thế Luật
doanh nghiệp năm 1999; Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003, trừ trường
hợp quy định tại khoản 2 Điều 166 của Luật này; các quy định về tổ chức
quản lý và hoạt động của doanh nghiệp tại Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam năm 2000.
Như vậy, sau 20 năm đổi mới, với sự nỗ lực của toàn Đảng , toàn dân,

Nhà nước ta đã có một đạo luật về doanh nghiệp tương đối hoàn chỉnh và
đồng bộ. Đáp ứng được yêu cầu phát triển của doanh nghiệp, nâng cao khả
năng quản lý của nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp nói riêng và
nền kinh tế nói chung. Luật Doanh nghiệp năm 2005 ra đời đánh dấu một sự
thay đổi lớn trong pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam, đồng thời phản ánh
được tư tưởng và mục tiêu nổi bật của luật Doanh nghiệp năm 2005 là hình
thành một khung pháp lý chung, bình đẳng áp dụng thống nhất cho mọi loại
hình doanh nghiệp. Đây là lần đầu tiên nước ta ban hành một văn bản pháp
luật chung điều chỉnh thống nhất tất cả các loại hình doanh nghiệp. Với việc
ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2005, các doanh nghiệp Việt Nam đã có
điều kiện để hoạt động bình đẳng trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay. Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng đáp ứng
được yêu cầu đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế. Qua thực tế áp dụng và sự vận động, biến đổi của nền
kinh tế, đến nay chúng ta cũng có thể nhận định dánh giá về giá trị và những
hạn chế của Luật doanh nghiệp 2005, để là cơ sở cho việc btieeps tục bổ sung,
sửa đổi và phát triển pháp luật về doanh nghiệp trong thời gian tới.

16


3. Những điểm mới và bất cập của luật doanh nghiệp 2005 được
rút ra thông qua thực tiễn thi hành.
Trải qua hơn năm năm áp dụng và thi hành Luật doanh nghiệp 2005,
đã đem lại kết quả to lớn trong phát triển các loại hình doanh nghiệp và nâng
cao vai trò quản lý của nhà nước đối với doanh nghiệp. Đồng thời cũng chỉ ra
những bất cập của nó cần được khắc phục.
Những điểm mới cơ bản của Luật Doanh nghiệp năm 2005.
So với luật doanh nghiệp 1999 và các văn bản hiện hành liên quan đến
doanh nghiệp thì Luật doanh nghiệp 2005 có những điểm mới được bổ sung

như sau:
Một là, Luật Doanh nghiệp với tư cách là luật chung cho các loại
hình doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp năm 2005 thay thế cho Luật Doanh
nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 2003, các quy định về tổ
chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp tại Luật Đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam năm 2000. Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã tạo lập
môi trường pháp lý chung cho hoạt động của các doanh nghiệp trên lãnh thổ
Việt Nam.
Hai là, các quy định về đăng ký kinh doanh. Thay cho việc có Đơn
đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp
năm 2005 đã quy định về Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh, Luật năm 2005
cũng có những quy định cụ thể về hồ sơ đăng ký kinh doanh của từng loại
hình doanh nghiệp bao gồm hồ sơ đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp
tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng đã quy định cụ thể về tên của doanh
nghiệp, trong đó có cách đặt tên cho doanh nghiệp, những trường hợp cấm về
cách đặt tên doanh nghiệp, đặt tên doanh nghiệp trong trường hợp tên doanh
nghiệp viết bằng tiếng nước ngoài, tên viết tắt của doanh nghiệp và những
trường hợp tên trùng và tên gây nhầm lẫn. Một điểm mới khác của luật Doanh
nghiệp năm 2005 theo hướng là luật chung cho các loại hình doanh nghiệp, là
17


gắn thủ tục đăng ký kinh doanh với thủ tục đăng ký đầu tư. Điều này xuất phát
từ quan điểm đổi mới, đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính, tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp gia nhập thị trường và thực hiện các hoạt
động đầu tư. Rút ngắn hơn thời hạn cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Theo khoản 2 Điều 15 Luật Doanh nghiệp 2005, “”Cơ quan đăng ký kinh
doanh có trách nhiệm xem xét hồ sơ đăng ký kinh doanh và cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận

hồ sơ”. Hồ sơ, trình tự, thủ tục, điều kiện và nội dung đăng ký kinh doanh, đầu
tư của nhà đầu tư nước ngoài lần đầu tiên đầu tư vào Việt Nam được thực hiện
theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 và pháp luật về đầu tư. Giấy
chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Ba là, Các quy định về điều lệ công ty. So với Luật Doanh nghiệp năm
1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã có nét đột phá khi đi theo hướng chỉ
quy định những vấn đề cơ bản, có tính nguyên tắc về nhiều nội dung trong
quản trị nội bộ doanh nghiệp, cho phép Điều lệ công ty quy định thêm những
vấn đề cụ thể để đáp ứng yêu cầu điều hành hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp có quyền quy định trong Điều lệ của mình các quan
hệ ứng xử nội bộ và cách thức quản lý, điều hành cụ thể trong hoạt động nội
bộ của doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa các quy định của Luật Doanh nghiệp
năm 2005 với các yêu cầu của quản trị doanh nghiệp ghi trong Điều lệ công ty
được thể hiện trong nhiều điều khoản của Luật này. Cách quy định này của
Luật Doanh nghiệp năm 2005 nhằm hình thành khung quản trị nội bộ tiên tiến
của doanh nghiệp.
Bốn là, hoàn thiện quản trị doanh nghiệp. Khung quản trị doanh
nghiệp được hoàn thiện hơn, rõ ràng hơn và bảo vệ mạnh mẽ hơn quyền và lợi
ích của thành viên, cổ đông thiểu số, cụ thể: - Khung quản trị được thiết kế tùy
theo loại hình doanh nghiệp và được áp dụng thống nhất đối với doanh nghiệp
trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hay doanh nghiệp có sở
hữu tư nhân, doanh nghiệp sở hữu vốn nhà nước. - Xác định rõ hơn các nghĩa
18


vụ của người quản lý, nhất là đối với thành viên HĐQT và giám đốc, đặc biệt
là nghĩa vụ trung thành, trung thực và cẩn trọng; quy định rõ điều kiện và tiêu
chuẩn của một chức danh quản lý quan trọng trong công ty. - Tăng thêm quy
định yêu cầu công khai và minh bạch hóa, nhất là đối với những người quản
lý. - Nâng cao, tăng cường và quy định cụ thể hơn vai trò, vị trí và trách

nhiệm của Ban kiểm soát. - Tăng cường thêm các quy định về quản lý vốn,
hạn chế nguy cơ lạm dụng trách nhiệm hữu hạn.
Năm là, các quy định về nhóm công ty. Luật Doanh nghiệp năm 2005
bổ sung quy định về nhóm công ty .Thực chất, quy định về nhóm công ty
nhằm mục đích tăng cường sự công khai, minh bạch trong hoạt động kinh
doanh cũng như hạn chế chế độ trách nhiệm hữu hạn và bảo vệ lợi ích của cổ
đông thiểu số. Đó là các quy định trách nhiệm đền bù của công ty mẹ đối với
công ty con, hay nghĩa vụ lập báo cáo tài chính hợp nhất của nhóm công ty
.Đây là một bước phát triểm mới của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam trong
việc tạo ra cơ sở pháp lý để hình thành các tập đoàn kinh tế lớn có khả năng
cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Sáu là, các quy định về công ty hợp danh.Thừa nhận tư cách pháp
nhân của công ty hợp danh.
Bảy là, các quy định Công ty TNHH một thành viên. Điểm mới nổi bật
của Luật Doanh nghiệp năm 2005 về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên là Luật cho phép một cá nhân có thể thành lập công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên (Điều 63 Luật doanh nghiệp) và đã đưa ra quy định về cơ
cấu tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân.
Đạo luật cũng đã đưa ra những quy định cụ thể về người đại diện theo pháp
luật của công ty. Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định tại Điều
lệ công ty. Người đại diện theo pháp luật của công ty phải thường trú tại Việt
Nam, trường hợp vắng mặt ở Việt Nam trên 30 ngày thì phải uỷ quyền bằng

19


văn bản cho người khác làm người đại diện theo pháp luật của công ty theo
nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty.
Tám là, các quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên

trở lên. Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã đưa ra quy định cụ thể khác biệt và cụ
thể hơn so với Luật Doanh nghiệp năm 1999 về người đại diện theo pháp luật
đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, theo đó Chủ tịch
Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc là người đại diện
theo pháp luật của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty. Người đại diện
theo pháp luật của công ty phải thường trú tại Việt Nam, trường hợp vắng mặt ở
Việt Nam trên 30 ngày thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho người khác theo
quy định tại Điều lệ công ty để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại
diện theo pháp luật của công ty. Những quy định về người đại diện theo pháp
luật của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên cũng tương đồng
với quy định về vấn đề này của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên. Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã đưa ra quy định về người đại diện theo
uỷ quyền. Đây là quy định mới so với Luật Doanh nghiệp năm 1999. Theo quy
định của Luật Doanh nghiệp năm 2005, việc chỉ định người đại diện theo uỷ
quyền phải bằng văn bản, được thông báo đến công ty và cơ quan đăng ký kinh
doanh trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày chỉ định.
Chín là, các quy định về công ty cổ phần. Tăng cường và củng cố
thêm các quyền của thành viên, cổ đông (điều 41); bảo vệ mạnh hơn quyền và
lợi ích của thành viên, cổ đông (điều 79).
Về cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần, Luật quy định áp dụng
bầu Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát theo quy chế cộng dồn phiếu bầu
(điểm c khoản 3 điều 104); đó là cơ chế đảm bảo các cổ đông phổ thông luôn
có đại diện của mình trong Hội đồng quản trị. Theo Luật Doanh nghiệp năm
2005, nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị là năm năm, nhiệm kỳ của thành viên
Hội đồng quản trị không quá năm năm. Thành viên Hội đồng quản trị có thể
được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng
20


có những quy định khác biệt so với Luật Doanh nghiệp năm 1999 về việ thông

qua quyết định của Đại hội đồng cổ đông. Theo Luật mới, quyết định của Đai hội
đồng cổ đông được thông qua tại cuộc họp khi có đủ một trong các điều kiện:
(1)được số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ
đông dự họp chấp thuận; tỷ lệ cụ thể do điều lệ công ty quy đinh; (2) Đối với
quyết định về loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào
bán, sửa đổi, bổ sung theo Điều lệ công ty; tổ chức lại, giải thể công ty, đầu tư
hoặc bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi
trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu Điều lệ công ty không có quy
định khác thì phải được ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả số cổ
động dự họp chấp thuận; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định; (3) Việc biểu
quyết bầu thành viên Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát phải thực hiện theo
phương thức bầu dồn phiếu, theo đó mỗi cổ đông có tổng số phiếu biểu quyết
tương ưúng với tổng số cổ phần sở hữu nhân với số thành viên được bầu của Hội
đồng quản trị hoặc Ban kiểm soát và cổ đông có quyền dồn hết tổng số phiếu bầu
của mình cho một hoặc một số ứng cử viên; (4) Các quyết định được thông qua
tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông với số cổ đông trực tiếp và uỷ quyền tham dự
đại diện 100% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là hợp pháp và có hiệu lực
ngay cả khi trình tự và thủ tục triệu tập, nội dung chương trình họp và thể thức
tiến hành họp không được thực hiện đúng quy đinh; (5)Trường hợp thông qua
quyết định dưới hình thức lấy ý kiến bằng văn bản thì quyết định của Đại hội
đồng cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết chấp thuận; tỷ lệ cụ
thể do Điều lệ công ty quy định.
Về vị trí Chủ tịch Hội đồng quản trị: Khoản 1 Điều 111 quy định:
Điều lệ công ty quy định Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị bầu
Chủ tịch HĐQT. Trường hợp HĐQT bầu Chủ tịch HĐQT thì Chủ tịch được
bầu trong số thành viên của HĐQT. Chủ tịch HĐQT có thể kiêm Giám đốc
hoặc Tổng Giám đốc công ty nếu Điều lệ công ty không có quy định khác.
Như vậy, trong cơ cấu này Chủ tịch HĐQT là cơ quan thường trực của HĐQT,
21



tổ chức thực hiện các nhiệm vụ và công việc của HĐQT giữa hai kỳ họp;
không phải là một chức danh có thẩm quyền độc lập tách biệt riêng.
Nếu Đại hội đồng cổ đông bầu trực tiếp Chủ tịch HĐQT có thể phát sinh
xung đột trong quản lý, điều hành của Công ty. Cụ thể là Chủ tịch Hội đồng quản trị
lúc này chịu trách nhiệm trực tiếp trước Đại hội đồng cổ đông, chứ không phải Hội
đồng quản trị. Do đó, khi các quyền, nghĩa vụ và nhiệm vụ đúng theo quy định của
pháp luật và quyết định, nghị quyết của HĐQT thì công việc của Hội đồng quản trị
có nguy cơ bị đình trệ thậm chí không thực hiện được ? Vì vậy, Luật đã quy định:
Điều lệ công ty quy định thể thức thông qua quyết định của công ty; nguyên tắc giải
quyết tranh chấp nội bộ tại khoản 9 Điều 22.
Quy định về công khai các lợi ích liên quan: Đối tượng phải công
khai: Thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc và người quản lý khác của Công ty (Điều118). Xác định rõ
hơn quyền lợi và nghĩa vụ của người quản lý: Thiết lập chế độ thù lao, tiền
lương gắn với kết quả và hiệu quả kinh doanh của công ty (các Điều
58,73,117,125); Nghĩa vụ của người quản lý, nhất là đối với thành viên Hội
đồng quản trị và Giám đốc, đặc biệt là nghĩa vụ trung thành, trung thực và cẩn
trọng (Điều 56,72,119,126,134); Nâng cao, tăng cường và quy định cụ thể hơn
vai trò, vị trí và trách nhiệm của Ban kiểm soát, Thành viên Ban kiểm soát
(các Điều 123,124,126).
Mười là, các quy định về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Xác
định cụ thể thời hạn (chậm nhất là bốn năm) kết thúc quá trình chuyển đổi
công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần, tổ
chức quản lý và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp. Việc xác
định thời hạn 4 năm xuất phát từ yêu cầu đẩy nhanh quá trình sắp xếp, tổ chức
lại và nâng cao hiệu quả quản lý doanh nghiệp nhà nước, yêu cầu tạo lập môi
trường kinh doanh bình thường, không phân biệt đối xử giữa các doanh
nghiệp theo thành phần kinh tế, đồng thời, đã tính đến các điều kiện, các vấn
đề cần phải xử lý trong quá trình chuyển đổi.

22


Như vậy, lộ trình chuyển đổi DNNN đã được luật hoá, theo đó các
quy định hiện hành về DNNN sẽ chỉ được áp dụng trong khoảng thời gian 4
năm, kể từ ngày Luật doanh nghiệp 2005 có hiệu lực. Sau thời gian này, các
doanh nghiệp không kể thành phần kinh tế đều hoạt động trong một hành lang
pháp lý chung về doanh nghiệp và đầu tư.
Mười một là, tăng cường quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp được tăng cường và cụ thể hơn. Điều
này được thể hiện bằng các quy định về cung cấp thông tin giữa các cơ quan
nhà nước, quy định rõ và cụ thể trách nhiệm của từng cơ quan nhà nước, cấp
chính quyền trong quản lý doanh nghiệp, quy định cụ thể điều kiện giải thể
doanh nghiệp, quy định cụ thể các hành vi bị cấm, bổ sung thêm trường hợp
thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. - Đổi mới cơ bản cơ chế thực
hiện quyền chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp, trong đó, tách chức
năng thực hiện quyền chủ sở hữu ra khỏi chức năng quản lý hành chính nhà
nước, thực hiện tập trung và thống nhất các quyền chủ sở hữu, đồng thời tôn
trọng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp.
Những bất cập của Luật doanh nghiệp 2005.
Luật Doanh nghiệp được thông qua vào tháng 11-2005 và sẽ có hiệu
lực từ tháng 7-2006 là một nỗ lực đáng ghi nhận nhằm hoàn thiện hệ thống
pháp luật để Việt Nam gia nhập cộng đồng thương mại thế giới. Tuy nhiên,
làm luật mà vội vàng thì không tránh khỏi những bất cập. Qua nghiên cứu các
ý kiến trên xoay quanh vấn đề Luật doanh nghiệp 2000, tác giả tổng hợp, nêu
lên một số ý kiến có tính cách tham khảo liên quan đến những nhầm lẫn hay
bất cập trong Luật Doanh nghiệp 2005 như sau:
Một là, đối với công ty trách nhiệm hữu hạn. Điều 60, khoản 2 quy
định: “trường hợp tăng vốn điều lệ bằng việc tiếp nhận thêm thành viên phải
được sự nhất trí của các thành viên”. Ở đây có sự nhầm lẫn bởi vì việc tăng

vốn điều lệ thuộc thẩm quyền quyết định của hội đồng thành viên, mà theo

23


điều 52 quy định việc thông qua quyết định của hội đồng thành viên không có
trường hợp nào cần phải có sự nhất trí của các thành viên.
Điều 66, khoản 1 quy định: “chủ sở hữu công ty chỉ được quyền rút
vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn điều lệ cho tổ
chức hoặc cá nhân khác; trường hợp rút vốn một phần hoặc toàn bộ vốn đã
góp ra khỏi công ty dưới hình thức khác thì phải liên đới chịu trách nhiệm về
các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty”.
Quy định này thiếu chính xác khiến điều luật không có nghĩa. Thực vậy,
vấn đề đặt ra là: việc rút vốn dưới “hình thức khác” được thực hiện trên thực tế
như thế nào? Và “liên đới” chịu trách nhiệm với ai? Ngoài việc chuyển nhượng
một phần hay toàn bộ vốn cho người khác, chủ sở hữu công ty TNHH một thành
viên còn có thể giảm vốn điều lệ, và trong trường hợp này một mình họ phải chịu
trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty.
Hai là, đối với công ty cổ phần. Các quy định về công ty cổ phần cho
thấy nhiều sự lúng túng của nhà làm luật. Trước hết xin nói về điều 80, có hai
vấn đề:
- Khoản 1: cổ đông phổ thông phải “thanh toán đủ số cổ phần đã cam
kết mua trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh”. Ở đây có sự nhầm lẫn. Sự thật chỉ riêng các cổ đông
sáng lập là phải thanh toán đủ số cổ phần phổ thông đăng ký mua trong thời
hạn trên. Đối với các cổ đông khác, trên nguyên tắc họ phải thanh toán đủ một
lần khi đăng ký mua, nhưng không nhất thiết phải trong thời hạn 90 ngày như
nói trên, bởi vì công ty có quyền rao bán cổ phần trong thời hạn ba năm sau
khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (điều 84).
- Khoản 5: “cổ đông phổ thông phải chịu trách nhiệm cá nhân khi

nhân danh công ty... thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn trước nguy cơ tài
chính có thể xảy ra đối với công ty”. Quy định này vô nghĩa bởi vì khó có thể
24


hình dung làm thế nào một cổ đông phổ thông lại có thể nhân danh công ty
thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn của công ty nếu họ không phải là
người có thẩm quyền trong cơ cấu quản lý công ty.
Điều 84, khoản 5 quy định: “trong thời hạn ba năm kể từ ngày công ty
được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cổ đông sáng lập có quyền tự do
chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho cổ đông sáng lập khác, nhưng
chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là
cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của đại hội đồng cổ đông”.
Quy định này không rõ ràng, có thể dẫn đến các giải thích sai lệch. Sự
thật quy định này chỉ liên quan đến số cổ phần phổ thông tối thiểu (20% tổng
số cổ phần được quyền chào bán) mà các cổ đông sáng lập phải cùng nhau
đăng ký mua khi đăng ký kinh doanh; số cổ phần này không được tự do
chuyển nhượng trong thời hạn ba năm kể từ ngày công ty được cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Ngoài số cổ phần tối thiểu này, cổ phần phổ
thông khác của cổ đông sáng lập được tự do chuyển nhượng như đối với các
cổ đông khác.
Điều 86, khoản 4 quy định: “cổ đông sở hữu từ 5% tổng số cổ phần
trở lên phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền trong
thời hạn bảy ngày kể từ ngày được tỷ lệ sở hữu đó”.
Vấn đề đặt ra là: mục đích của việc đăng ký này là gì? Phải chăng để
Nhà nước kiểm soát công ty? Nhưng như thế là vi phạm quyền tự chủ của
doanh nghiệp được xác nhận tại điều 8. Hoặc Nhà nước muốn kiểm soát việc
đầu tư của tư bản tư nhân? Nhưng điều này đã lỗi thời trong thời đại mới. Dầu
sao thì thủ tục này cũng có thể khiến các nhà đầu tư e ngại.
Điều 89 quy định: “cổ phần, trái phiếu của công ty cổ phần... phải

được thanh toán đủ một lần”.

25


Khó khăn đặt ra trong trường hợp các cổ đông sáng lập không góp đủ
vốn điều lệ và phải rao bán cổ phần sau khi đăng ký kinh doanh (đây là
trường hợp thông thường). Đại hội đồng thành lập chỉ có thể được triệu tập để
thiết lập cơ cấu quản lý đầu tiên của công ty khi toàn bộ cổ phần của công ty
đã được đăng ký mua. Đối với công ty có vốn điều lệ lớn nếu buộc người
mua cổ phần phải thanh toán đủ một lần khi đăng ký mua thì thời gian rao bán
có thể kéo dài và việc triệu tập đại hội đồng thành lập sẽ bị đình trệ, gây thiệt
hại cho cổ đông và công ty.
Tham chiếu luật của các quốc gia khác, người mua cổ phần không
bắt buộc phải thanh toán giá tiền ngay một lần mà có thể trả trước 50%, số
tiền còn lại sẽ thanh toán trong thời hạn quy định tại phiếu đăng ký mua; mọi
việc thanh toán chậm trễ sẽ chịu lãi và người nào thanh toán không đúng hạn
sẽ phải bồi thường thiệt hại cho công ty nếu có. Như vậy, đại hội đồng sáng
lập có thể được triệu tập ngay sau khi toàn bộ cổ phần của công ty đã được
đăng ký mua mặc dù chưa thanh toán đủ.
Ba là, đối với doanh nghiệp tư nhân. Điều 144 quy định: “Chủ doanh
nghiệp tư nhân có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp của mình... Trong
thời hạn cho thuê, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật với tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp”. Vấn đề đặt ra là phạm vi
trách nhiệm của chủ doanh nghiệp trong trường hợp này. Nếu hiểu theo văn từ
thì mặc dù đã cho thuê, chủ doanh nghiệp vẫn phải chịu trách nhiệm như
không hề có sự thuê mướn này. Đây là một điều trái với nguyên tắc pháp lý
thông thường trong việc cho thuê tài sản nên khó có thể chấp nhận được. Sự
thực chủ doanh nghiệp chỉ chịu trách nhiệm về tài sản cho thuê và không chịu
trách nhiệm về công việc khai thác tài sản này. Chủ doanh nghiệp có nghĩa vụ

bảo đảm cho người thuê sử dụng ổn định cơ sở kinh doanh. Nghĩa vụ này bao
gồm: bảo đảm cho người thuê không bị quấy nhiễu trong thời gian thuê, bảo
đảm các hư hỏng của cơ sở kinh doanh.
26


×