Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TIỂU LUẬN tôn GIÁO dưới CHỦ NGHĨA xã hội tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về đoàn kết tôn GIÁO, sự vận DỤNG của ĐẢNG TRONG sự NGHIỆP đổi mới ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.05 KB, 16 trang )

1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO. SỰ VẬN
DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo. Tín ngưỡng, tôn
giáo đã chi phối sâu sắc đến đời sống tinh thần của một bộ phận nhân dân theo cả
hai chiều tích cực và tiêu cực. Trong những năm vừa qua, nhu cầu tín ngưỡng,
tôn giáo của nhân dân ta có xu hướng gia tăng, hoạt động của các tổ chức tôn
giáo tiếp tục diễn ra phức tạp, các thế lực thù địch luôn lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để chống phá cách mạng nước ta ngày càng thâm độc. Tất cả những tác
động đó đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội của nhân dân ta và ngày
càng gia tăng trong tình hình hiện nay. Do đó, việc tìm hiểu những luận điểm cơ
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng nói chung, đoàn
kết tôn giáo nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong công tác nghiên cứu lý luận,
góp phần thực hiện tốt công tác tôn giáo của Đảng.

T

ư tưởng đoàn kết tôn giáo là một nội dung quan trọng trong di sản tư
tưởng Hồ Chí Minh, được hình thành từ những năm 20 và đến những năm

40 của thế kỷ XX trở thành một hệ thống, phát triển hoàn thiện gắn với quá trình
hoạt động thực tiễn cách mạng của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
tôn giáo thiết thực góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết
tôn giáo, đấu tranh làm thất bại âm mưu thâm độc "chia để trị" của các thế lực
thù địch.
NỘI DUNG
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo
1. Những nội dung cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo
Đoàn kết tôn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh là chúng ta phải tạo ra được


lực lượng tiến bộ trong các tôn giáo, đồng thời chống lại các hoạt động phản


2
động lợi dụng tôn giáo, cô lập bọn phản động, làm thất bại mọi hoạt động của
bọn tay sai, đế quốc; làm cho Giáo hội Việt Nam ngày càng tiến bộ hơn, có tinh
thần dân tộc, yêu nước, yêu hòa bình và đoàn kết dân tộc hơn.
Từ mục tiêu cách mạng Việt Nam, tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Hồ Chí
Minh nhằm phát huy sức mạnh của đồng bào các tôn giáo, các dân tộc ở nước ta
dốc lòng với sự nghiệp cách mạng chung của Đảng.
Đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo khác nhau về
quan niệm tâm linh, đức tin và hoạt động theo những thể chế và thiết chế văn hóa
- xã hội khác nhau. Nhưng dưới ách thống trị của thực dân và đế quốc, họ đều bị
bóc lột và bị chia rẽ sâu sắc. Chính sách "chia để trị" của thực dân Pháp, đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai của chúng đã để lại hậu quả nghiêm trọng, làm suy yếu khối
đoàn kết cộng đồng, trong đó có vấn đề đoàn kết tôn giáo. Nhận rõ ý nghĩa của
vấn đề đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo
và đồng bào không theo tôn giáo, đoàn kết lương, giáo là vấn đề trọng tâm, hệ
trọng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết lương, giáo có cơ sở và điều kiện
thực tế để thực hiện, bởi lẽ đồng bào lương cũng như đồng bào giáo đều có
chung một cội nguồn sâu xa từ truyền thống có lịch sử gắn bó lâu đời.
Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã viết: "Hỡi đồng bào!", chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn
bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là
người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có
súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng,
gậy, gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước" 1. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khơi dậy sức mạnh lòng yêu nước, phát huy lòng dũng cảm và tinh thần hy
sinh tiềm ẩn trong mỗi người dân Việt Nam để đoàn kết, tập hợp họ lại thành một

khối thống nhất không phân biệt Bắc - Nam, giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo để
cùng nhau đứng lên cứu nước.


3
Người luôn coi đoàn kết lương, giáo là một nhiệm vụ cách mạng. Người
khẳng định trước quốc dân, đồng bào, đoàn kết tức là lực lượng, chia rẽ tức là
yếu hèn. Cho nên, Người luôn luôn nhắc nhở, kêu gọi đồng bào lương, giáo phải
đoàn kết, đồng tâm, hiệp sức, sát cánh bên nhau để đánh thắng thực dân xâm
lược. Người từng xác định, đồng bào ta, công giáo và ngoài công giáo đều đoàn
kết chặt chẽ, nhất trí đồng tâm như con một nhà, ra sức đấu tranh để giữ gìn nền
độc lập của Tổ quốc! Ngoài sa trường thì xương máu của chiến sĩ công giáo và
ngoài công giáo đã xây nên một bức thành kiên cố vĩ đại để cản lại kẻ thù chung
là bọn thực dân. Ở khắp nước thì đồng bào công giáo và ngoài công giáo đương
đem cả lực lượng giúp vào cuộc kháng chiến kiến quốc.
Người cho rằng, trong bản chất các tôn giáo đều có cùng mục đích vì con
người. Với những lời văn mộc mạc, chân thành có sức thuyết phục lòng người,
khi nói về các vị sáng lập ra các tôn giáo, Hồ Chí Minh viết:
"Chúa Giê-su dạy: đạo đức là bác ái
Phật Thích Ca dạy: đạo đức là từ bi
Khổng Tử dạy: đạo đức là nhân nghĩa" (8).
"Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá
nhân. Tôn giáo Giê-su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả..."(9).
Mục đích của các tôn giáo là hướng tới mục tiêu giải phóng con người,
mong muốn cho con người có cuộc sống chí thiện, chí mỹ, tự do, dân chủ, bác ái
cao cả, mở lòng nhân từ... Đó chính là chiều sâu bản chất nhân văn của các tôn
giáo, là cơ sở để Người đập tan luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của kẻ thù
nhằm chia rẽ đoàn kết giữa người có đạo và không có đạo. Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói, mục đích của Chính phủ ta theo đuổi là chiến đấu vì nền độc lập và
đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Song để đạt tới hạnh phúc đó cho mọi người,

cần phải xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nếu Đức Giêsu sinh ra vào thời đại chúng ta
và phải đặt mình trước những nỗi khổ đau của người đương thời, chắc Ngài sẽ là
một người xã hội chủ nghĩa đi tìm đường cứu khổ loài người.


4
Đoàn kết giữa người cộng sản với những người theo các tín ngưỡng, tôn
giáo là đóng góp rất lớn của Hồ Chí Minh trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo
phục vụ sự nghiệp cách mạng. Nó xóa đi mặc cảm cho rằng giữa người cộng sản
và những người có đức tin tôn giáo là không thể cùng chung sống. Không những
thế, quan điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn tập hợp được một lực lượng
xã hội quan trọng tham gia cách mạng. Tập hợp đồng bào các tôn giáo trong các
tổ chức đoàn thể, mặt trận là một trong những nội dung quan trọng trong tư
tưởng đoàn kết giữa đồng bào theo và không theo tôn giáo của Hồ Chí Minh.
Người luôn chủ động tạo điều kiện tiếp xúc thường xuyên với các thành phần xã
hội, nhằm tạo điều kiện cho họ hiểu đúng những vấn đề nóng bỏng đang được
đặt ra để yên tâm đi cùng nhân dân, cùng dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý xây dựng khối đoàn kết tôn giáo,
đoàn kết dân tộc trong các hình thức tổ chức yêu nước thích hợp. Người đã chủ
trương tập hợp tất cả quần chúng nhân dân không phân biệt giàu nghèo, sang
hèn, dân tộc, tôn giáo... trong các hình thức mặt trận như: Mặt trận phản đế Đông
Dương, Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt..., và các tổ chức hội đoàn như
Công giáo cứu quốc, Phật giáo cứu quốc, Cao Đài cứu quốc... Thông qua các tổ
chức mặt trận và hội đoàn, Người đã làm cho đồng bào tín đồ các tôn giáo thực
sự hòa mình vào cuộc đấu tranh chung của dân tộc.
Đoàn kết các tôn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đoàn kết trên cơ sở
tương thân, tương ái giữa các bên cùng có lợi. Lợi ích cao cả của sự đoàn kết các
tôn giáo là hướng tới phục vụ Tổ quốc, phụng sự tôn giáo. Đoàn kết không làm
suy giảm mà còn làm cho bản thân mỗi tôn giáo mạnh lên, có được vị trí xứng
đáng trong khối đại đoàn kết chung của cộng đồng toàn dân tộc. Như vậy, đoàn

kết giữa các tôn giáo vừa đáp ứng lợi ích, nhu cầu của đất nước, dân tộc, vừa phù
hợp với lợi ích của mỗi tôn giáo, tạo cho nó những cơ hội và điều kiện phát triển
tốt hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết một cách nhuần nhuyễn, vững vàng,


5
có tính nguyên tắc vấn đề về phép biện chứng giữa cái chung và cái riêng, lợi ích
cục bộ và lợi ích toàn cục.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến đồng bào theo các tôn
giáo khác nhau, tạo điều kiện cho họ hòa nhập vào cộng đồng, góp phần vào sự
nghiệp chung của cả dân tộc.
Người luôn thổi luồng sinh khí mới vào lòng yêu nước kính Chúa, tôn thờ
đức Phật tổ của các tín đồ, khơi dậy lòng nhiệt tình cách mạng, xóa bỏ những
mặc cảm nghi kị, hiềm khích giữa các tôn giáo để cùng cộng sinh, cộng hưởng;
cộng đồng trách nhiệm trước vận mệnh chung của đất nước. Người đã chủ
trương giúp đỡ các tôn giáo lập ra các tổ chức yêu nước để phát huy nội lực đoàn
kết yêu nước của họ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm thường xuyên đến đồng bào các tôn giáo
và chăm lo lợi ích cho mọi người. Điều Người quan tâm trước hết là lợi ích vật
chất để cho dân đủ ăn, đủ mặc, có nhà ở, được học hành. Người chú trọng đến
đời sống văn hóa, đời sống tinh thần của đồng bào các tôn giáo. Sự quan tâm sâu
sắc của Người là nguồn động viên to lớn đối với đồng bào, nhằm khuyến khích
đồng bào đoàn kết chặt chẽ hơn nữa trong sự nghiệp kháng chiến cứu nước giành
độc lập dân tộc và xây dựng đất nước.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau trong khối đại đoàn kết
dân tộc, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, còn bao hàm cả sự phê phán những
hành vi lợi dụng tôn giáo chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân, xâm
phạm đến lợi ích chung của đất nước, của dân tộc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,
xây dựng khối đoàn kết giữa các tôn giáo phải đi đôi với đấu tranh để giữ gìn và
phát triển đoàn kết. Người cũng phân định rõ ràng những mức độ và phương

thức đấu tranh khác nhau. Đấu tranh với các thế lực tôn giáo phản động cấu kết
cùng chủ nghĩa thực dân thì phải cương quyết, không khoan nhượng. Việc này có
tác dụng giúp cho quần chúng không bị lừa phỉnh. Còn đấu tranh phê phán đối
với đồng bào các tôn giáo hoặc những cán bộ làm sai chính sách tôn giáo của


6
Đảng, Nhà nước là đấu tranh nội bộ, nhằm giải tỏa hiểu lầm và tăng cường đoàn
kết, nên phải mềm mỏng, lấy thuyết phục làm chính.
Để củng cố và tăng cường đoàn kết giữa đồng bào các tôn giáo khác nhau,
Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng giáo dục đồng bào nêu cao cảnh giác, phát hiện
kịp thời và kiên quyết đấu tranh ngăn chặn và làm thất bại âm mưu, hành động
của kẻ thù lợi dụng tôn giáo hòng chia rẽ đoàn kết giữa các tôn giáo. Cuộc đấu
tranh chống âm mưu chia rẽ tôn giáo của kẻ thù cần gắn liền với cuộc đấu tranh
chống mưu đồ chia cắt đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Phải ra sức tuyên truyền chính sách của
ta và vạch rõ chính sách chia rẽ của kẻ thù "dùng người Việt đánh người Việt, lấy
chiến tranh nuôi chiến tranh". Người khẳng định, phần lớn đồng bào tôn giáo,
nhất là các tầng lớp lao động đều yêu nước kháng chiến, như Công giáo ở nhiều
nơi, như Cao Đài kháng chiến, v.v.. Một phần bị địch lợi dụng như ngụy quân
Cao Đài, Hoà Hảo, Công giáo ở Nam Bộ. Một số đồng bào Công giáo tuy bản
chất thì tốt, nhưng bị bọn cầm đầu phản động lung lạc, nên họ hoài nghi chính
sách của Đảng và Chính phủ.
Trước thủ đoạn xảo quyệt của kẻ thù, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần
gửi thư kêu gọi, nhắc nhở đồng bào các tôn giáo nêu cao cảnh giác để ngăn chặn
âm mưu của kẻ thù. Người đã khuyên nhủ đồng bào Phật giáo, mong các vị tăng
ni và đồng bào tín đồ đã đoàn kết thì càng đoàn kết hơn để góp phần xây dựng
hòa bình. Hãy ra sức giúp đỡ cán bộ, hăng hái thực hiện mọi công tác của Chính
phủ, chấp hành đúng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo, ngăn chặn âm mưu
của Mỹ - Diệm và bọn tay sai lợi dụng tôn giáo, hòng chia rẽ khối đoàn kết toàn

dân, hãy ra sức đấu tranh giành thống nhất đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ nguyên nhân phát sinh các mâu thuẫn rắc rối
liên quan đến các tôn giáo, làm ảnh hưởng đến sự đoàn kết tôn giáo, một phần do
thủ đoạn chia rẽ của địch. Mặt khác, vì ta chưa có phương pháp thích hợp để vận
động đồng bào tôn giáo, chưa thực hiện đúng đường lối đại đoàn kết của Đảng.


7
Người đã thẳng thắn phê bình những yếu kém trong đội ngũ cán bộ thực hiện
chính sách tôn giáo. Có những cán bộ không biết tổ chức, không biết giải thích
tuyên truyền, lại tự tư tự lợi, không cảnh giác để cho bọn phản động chui vào các
đoàn thể để phá hoại. Trong khi thực hiện công tác tôn giáo của Đảng, nhất là ở
vùng đồng bào Công giáo, cán bộ chưa hiểu rõ chính sách của Đảng và Chính
phủ; chưa gần gũi học hỏi quần chúng; chưa hiểu được phong tục tập quán của
quần chúng nên đã dẫn tới hậu quả không tốt: "Không những dân ghét bỏ, mà
còn oán Chính phủ, oán Đảng".
Để khắc phục những thiếu sót trong công tác vận động quần chúng có đạo
nhằm tăng cường sự đoàn kết giữa các tôn giáo vì sự nghiệp chung của cách
mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói với cán bộ làm công tác mặt trận,
phải kết hợp giữa công tác tuyên truyền vận động và việc đem lại kết quả thiết
thực cho đồng bào.
Trên đây là một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn
kết tôn giáo. Quán triệt, vận dụng và thực hiện tốt những nội dung cơ bản nêu
trên là thiết thực góp phần xây dựng khối đoàn kết tôn giáo, làm cơ sở xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh.
1. Tính tất yếu phải đoàn kết tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đã là người Việt Nam, dù theo tôn giáo
hay không theo tôn giáo, dù theo tôn giáo nào thì đều chung một dân tộc, đều là
con cháu của dòng dõi Lạc-Hồng, vì vậy, đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết dân tộc
là vấn đề tất yếu, là nhân tố quyết định thành công của cách mạng.

Tư tưởng đoàn kết của Người không chỉ xuất phát từ thực tế của đất nước,
mà từ kinh nghiệm xương máu trong truyền thống mấy nghìn năm lịch sử của
dân tộc, từ tinh hoa văn hoá của nhân loại, từ lý luận học thuyết Mác - Lê-nin.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” là
sức mạnh chiến thắng mọi thiên tai, địch hoạ; là sức mạnh để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc ngày càng giàu mạnh. Trong mối quan hệ giữa dân tộc và nhân dân, Bác


8
Hồ đã dạy: đất nước có độc lập thì nhân dân mới được tự do. Đối với tôn giáo,
Người cũng đã chỉ rõ: “…hơn ai hết, đồng bào công giáo càng mong cho Tổ
quốc được độc lập, cho tôn giáo được hoàn toàn tự do…”2.
Trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn có quan điểm đúng
đắn về tín ngưỡng, tôn giáo. Điều này được thể hiện rõ trong nhiều chủ trương,
nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Tại Đại hội VII,
Đảng ta đã khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không
tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các
tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng
bào có đạo, chống những hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập dân tộc,
chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân” 3. Nghị
quyết 25-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 (khoá IX), xác định: “Tín ngưỡng,
tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng
dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Hiến pháp nước ta
qua các thời kì đã ghi rõ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Điều 70,
Hiến pháp 1992 đã ghi: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; theo
hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật,
những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo đều được pháp luật bảo hộ”.
Đặc biệt, Pháp lệnh về Tín ngưỡng, tôn giáo được Uỷ ban Thường vụ

Quốc hội (khoá IX) thông qua ngày 18-6-2004 và được Chủ tịch Nước ký lệnh
công bố ngày 29-6-2004 tiếp tục khẳng định: tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn
giáo là nguyên tắc nhất quán trong chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
và pháp luật của Nhà nước ta. Sự ra đời của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo đã
đáp ứng cơ bản nguyện vọng chính đáng của các tôn giáo; tạo sự phấn khởi trong
đại đa số đồng bào tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành tôn giáo ở nước ta.
Những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã làm cho


9
“lòng dân, ý Đảng” hoà quyện, tạo nên sức mạnh vô địch trong công cuộc đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Những năm qua, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của
Đảng, xu hướng chủ đạo trong đời sống hoạt động của các tôn giáo là gắn bó,
đồng hành cùng dân tộc. Với phương châm “Tốt đời, đẹp đạo” các tôn giáo ở
Việt Nam đã xây dựng nên đường hướng hành đạo tiến bộ, như: “Đạo pháp-Dân
tộc-Chủ nghĩa xã hội” của Phật giáo; “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc” của
Công giáo; “Sống phúc âm phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và dân tộc”
của Hội thánh Tin lành Việt Nam; “Nước vinh, đạo sáng” của Cao Đài… vừa
phù hợp với đạo lý, truyền thống của dân tộc, vừa phù hợp với Hiến pháp, pháp
luật và xu hướng phát triển của thời đại.
Qua đó, các tôn giáo đã góp phần cùng chính quyền và Mặt trận Tổ quốc
các cấp xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, phát triển kinh tế-xã hội, củng cố
quốc phòng-an ninh; nhất là, chăm lo cho người nghèo, những người có công với
nước, người già cô đơn, trẻ mồ côi, khuyết tật, xây dựng Nhà Tình thương, Nhà
Đại đoàn kết; chăm lo giúp đỡ người bị bệnh phong, nhiễm và ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS, cứu trợ thiên tai, tai nạn… Các hoạt động bình thường vừa “tốt đời”,
vừa “đẹp đạo” của các tôn giáo thời gian qua đã minh chứng cho quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam và sự gắn bó, đồng hành cùng dân tộc của các tôn
giáo trong công cuộc xây dựng nước Việt Nam theo mục tiêu: “dân giàu, nước

mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó cũng là lời phản bác mạnh mẽ đối với
những luận điệu cho rằng: “ở Việt Nam không có tự do tôn giáo”, “Việt Nam vi
phạm quyền tự do, tôn giáo”…
Hiện nay, đất nước ta đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH và hội
nhập kinh tế quốc tế với những thời cơ, thách thức đan xen. Các thế lực thù địch
tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hoà bình” hòng phá hoại độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chúng ra sức sử dụng chiêu bài “tự do tôn giáo”
để kích động mâu thuẫn tôn giáo; lợi dụng một số thiếu sót của đội ngũ cán bộ


10
các cấp trong ứng xử với tín đồ tôn giáo… để phá hoại khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, đoàn kết tôn giáo của nhân dân ta.
II. Sự vận dụng của Đảng trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
1. Một số giải pháp cơ bản thực hiện đoàn kết tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo, trong đó, các tôn giáo lớn trên
thế giới như: Thiên chúa giáo, Phật giáo, Hồi giáo, Tin lành đều có mặt ở Việt
Nam. Bên cạnh đó còn có một số tôn giáo ra đời trong lòng dân tộc như: đạo Cao
đài, đạo Hoà hảo... cũng xuất hiện khá sớm càng làm cho "bức tranh" tôn giáo ở
nước ta đa dạng nhiều mầu sắc. Đồng bào theo tôn giáo chiếm số lượng khá
đông (khoảng 19,4% dân số cả nước)(11). Đại đa số đồng bào có đạo là người
lao động, luôn "đồng hành" cùng dân tộc và có nhiều công lao đóng góp trong
cách mạng giải phóng dân tộc trước đây, cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc XHCN ngày nay. Tuy nhiên, tôn giáo là một lĩnh vực tinh tế và nhạy
cảm trong đời sống xã hội, các thế lực thù địch luôn lợi dụng tôn giáo để chống
phá CNXH và thực tiễn chứng minh rằng kẻ thù chưa khi nào từ bỏ lợi dụng tôn
giáo để chống phá cách mạng Việt Nam. Trong chiến lược "diễn biến hoà bình"
của các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta, chúng luôn sử dụng vấn
đề "dân tộc, tôn giáo" để gây mất ổn định chính trị, chia rẽ đoàn kết dân tộc,

đoàn kết tôn giáo, hòng làm suy yếu và tiến tới lật đổ chế độ XHCN ở Việt Nam.
Để góp phần vận dụng và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn
giáo trong thực hiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, theo tôi cần thực
hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về
tôn giáo, giáo dục lòng yêu nước, truyền thống dân tộc và các giá trị văn hoá tốt
đẹp của đất nước.


11
Đây là giải pháp có vai trò quan trọng để nâng cao nhận thức, trình độ hiểu
biết cho nhân dân, là cơ sở quan trọng để nhân dân hiểu rõ hơn về nguồn gốc,
bản chất của tôn giáo, trên cơ sở đó có hành động đúng đắn, phù hợp. Thông qua
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, góp phần định hướng nhận thức cho nhân
dân, giúp nhân dân hiểu được giá trị, vị trí to lớn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống xã hội nước ta. Đặc biệt, phải hết sức coi
trọng tuyên truyền giáo dục đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước về tôn giáo để nhân dân hiểu rõ, hiểu đúng và thực hiện tốt, tạo niềm tin
của nhân dân không phân biệt tôn giáo vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Hai là, phát huy vai trò, trách nhiệm của hệ thống chính trị để thực hiện tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo trong giai đoạn hiện nay.
Đây là giải pháp quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả sự vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo ở Việt Nam. Bởi vì, tổ chức và
vận động nhân dân thực hiện đoàn kết tôn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh phụ
thuộc trước hết vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và vai trò, trách
nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội trong toàn bộ hệ thống chính trị các cấp.
Đảng, Nhà nước ta luôn bám sát thực tiễn đất nước, kịp thời đề ra những chủ
trương, biện pháp thích hợp để thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc,

đoàn kết tôn giáo... nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng.
Sau 30 năm đổi mới, những chủ trương, biện pháp đúng đắn, kịp thời của
Đảng, Nhà nước về công tác tôn giáo đã có ý nghĩa quyết định tới việc củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết tôn giáo, củng cố niềm tin của đồng bào
theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo vào đường lối đổi mới do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo. Tư tưởng đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được toàn Đảng, toàn dân ta vận dụng, thể nghiệm
thành những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua. Điều


12
đó đã khẳng định tính đúng đắn và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh qua thực
tiễn cách mạng.
Ba là, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, cải thiện và từng bước nâng cao
đời sống nhân dân, đặc biệt là nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng có đông
đồng bào theo tôn giáo.
Đây là giải pháp cơ bản, vừa mang tính cấp bách trước mắt vừa mang tính
chiến lược lâu dài đối với công tác tôn giáo. Bởi vì, nước ta với hơn 2/3 dân số là
nông dân, điều kiện kinh tế - xã hội tuy đã được cải thiện song còn không ít khó
khăn. Đặc biệt trong đó đồng bào theo tôn giáo phần đông là người lao động
nghèo (chủ yếu là nông dân) đời sống còn nhiều khó khăn, thu nhập thấp so với
mặt bằng chung của toàn xã hội. Chỉ có ổn định và phát triển kinh tế, xã hội, cải
thiện và từng bước nâng cao đời sống nhân dân, đưa ánh sáng của Đảng đến với
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có đông đồng bào theo
tôn giáo thì mới là giải pháp hữu hiệu nhất, giúp nhân dân cảnh giác với sự tuyên
truyền xuyên tạc của kẻ thù, không bị thủ đoạn truyền đạo trái phép lừa bịp.
Bốn là, ngăn chặn kịp thời và kiên quyết trừng trị những âm mưu hành
động lợi dụng tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân.
Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán: tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo và
tự do không tín ngưỡng tôn giáo của công dân, kiên quyết trừng trị các âm mưu

hành động lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng của kẻ thù. Quan điểm trên
chính là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng
tôn giáo nói chung, về đoàn kết tôn giáo nói riêng trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể
của cách mạng nước ta hiện nay.
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận quần chúng nhân dân,
còn tồn tại lâu dài cùng với tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN. Đoàn kết tôn giáo là quan điểm, chủ trương xuyên suốt, là một chiến
lược cách mạng của Đảng nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi
dậy và phát huy những giá trị tích cực của mỗi tôn giáo để đóng góp vào công


13
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh".
2. Vai trò của quân đội trong thực hiện đoàn kết tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay.
Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ phận trong hệ thống chính trị, là
công bạo lực của Đảng, Nhà nước, là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, bảo vệ tổ quốc, đòi hỏi Quân đội phải được thực hiện tốt các
chức năng của mình, trong đó tham gia thực hiện tốt chính sách tôn giáo của
Đảng, Nhà nước là một trong những nội dung quan trọng thuộc về chức năng đội
quân công tác của Quân đội.
Quân đội từ nhân dân mà ra, có quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân,
cán bộ chiến sỹ trong quân đội là con em của đồng bào các dân tộc trong đó có
đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, địa bàn đóng quân trên mọi miền của tổ
quốc, nên đây là điều kiện thuận lợi để Quân đội, thực hiện chính sách tôn giáo
của Đảng Nhà nước.
Mặt khác thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, nhà nước là một
trong những nội dung của công tác dân vận, góp phần quan trọng đối với việc
xây dựng mối quan hệ đoàn kết máu thịt quân – dân và xây dựng Quân đội cách

mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, củng cố nền quốc phòng toàn
dân, thế trận an ninh nhân dân vững mạnh.
Trong Chỉ thị số 36/ĐUQSTƯ ngày 23- 02- 1999 xác định: Công tác tôn
giáo “là một nhiệm vụ chính trị của Quân đội” mà “trọng tâm công tác tôn giáo
của Quân đội là làm tốt công tác tuyên truyền vận động quần chúng ở đơn vị và
công tác dân vận ở vùng tôn giáo, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân,
làm thất bại âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch,giữ
vững ổn định chính trị- xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa”. Vì vậy để thực hiện tốt chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước, Quân
đội cần làm tốt một số nội dung sau:


14
Trước hết Quân đội cần giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nắm vững quan
điểm, đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng, nhà nước; trang bị những kiến
thức cơ bản về các tôn giáo, giúp họ hiểu và tôn trọng phong tục tập quán, truyền
thống văn hóa của đồng bào. Nâng cao trách nhiệm của cán bộ chiến sĩ trong
việc thực hiện đường lối, chấp hành nghiêm kỷ luật, giữ vững bản chất truyền
thống “bộ đội cụ Hồ”.
Cần sử dụng linh hoạt, hiệu quả các hình thức công tác dân vận ở khu vực
đồng bào theo đạo, kết hợp tuyên truyền giáo dục với các iện pháp kinh tế, chính
trị- xã hội, vận động đồng bào, chiến sỹ nắm và thực hiện tốt chủ chương, chính
sách của Đảng nói chung và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước nói riêng;
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết quân dân, động viên đồng bào
thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương. Trong công tác dân vận, cần
quán triệt tốt phương châm: “Chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị,
vững chắc” và phong cách công tác: “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có
trách nhiệm với dân”, theo tinh thần NQTƯ 7- Khóa IX của Đảng.
Tăng cường cán bộ Quân đội cho vùng cơ sở địa phương vùng tôn giáo.

Đặc biệt cần quan tâm bồi dưỡng nâng cao hiểu biết và năng lực tổ chức thực
hiện chính sách tôn giáo cho cán bộ sỹ quan làm công tác tôn giáo. Đầu tư cơ
sở vật chất bảo đảm cho đơn vị thực hiện công tác tôn giáo có hiệu quả. Thực
hiện tốt chính sách tôn giáo của Đảng chính là góp phần vào thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
hiện nay.
Tích cực tham gia giúp địa phương xây dựng hệ thống chính trị cơ sở
vững mạnh, giúp địa phương phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng; xóa đói
giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe…Tích cực đấu tranh chống sự phân biệt, đối xử
đối với đồng bào theo đạo, đấu tranh với các hiện tượng lợi dụng tín ngưỡng tôn
giáo để hành nghề mê tín dị đoan. Đặc biệt Quân đội cần cảnh giác, góp phần


15
vạch trần những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn
giáo chống Đảng, chống Nhà nước.
Các đơn vị quân đội cần quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa những
chiến sỹ theo các đạo khác nhau và những chiến sỹ không theo đạo trong nội bộ
dơn vị (nếu có), tạo sự cảm thông hiểu biết lẫn nhau, xây dựng tinh thần đoàn kết
trong đơn vị. Kịp thời phát hiện và ngăn chặn những biểu hiện phân biệt đối xử
với những chiến sỹ có đạo. Quan tâm giáo dục, nâng cao nhận thức mọi mặt và
bồi dưỡng những kỹ năng công tác vận động quần chúng cho những chiến sỹ
theo các đạo, để sau khi hết hạn nghĩa vụ quân sự, họ sẽ là những hạt nhân nòng
cốt làm công tác vận động quần chúng ở các địa phương.
Các đơn vị Quân đội cần phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ đảng, chính quyền
và các tổ chức quần chúng, các chức sắc tôn giáo ở địa phương để thống nhất
chương trình hành động, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong công tác vận động
đồng bào các tôn giáo. Đồng thời các cấp uỷ đảng, chỉ huy cần nâng cao trách
nhiệm trong lãng đạo, chỉ đạo công tác tôn giáo ở đơn vị, kịp thời kiểm tra, tổng
kết rút kinh nghiệm, kịp thời biểu dương những tập thể, cá nhân hoàn thành tốt

nhiệm vụ, chấn chỉnh và xử lý nghiêm những biểu hiện thiếu trách nhiệm, không
hoàn thành nhiệm vụ.
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo cho đến nay vẫn còn nguyên
giá trị, là cơ sở quan trọng để Đảng, Nhà nước ta vận dụng trong thực hiện chính
sách tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Thực hiện tư tưởng của Người chính là góp
phần xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


16
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb

CTQG, H, 2001, tr 117
1

Hồng Vinh, Những thành tựu cơ bản về nhân quyền ở nớc ta, Tạp chí công sản,

số 16, 6/ 2002, tr 16
1

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 4, tr 224

2

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 BCHTW Khoá IX, Nxb


CTQG, H, 2003, tr 46



×