Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Đề tài:" VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.95 KB, 12 trang )



Nghiên cứu triết học

Đề tài: " VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG HỌC
THUYẾT MÁC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI
PHÁP PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI CHO SỰ
NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI
HOÁ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY "
VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON
NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

NGUYỄN THÀNH TRUNG (*)
Bài viết góp phần làm rõ thêm vai trò của con người đối với sự phát triển
của xã hội. Trên cơ sở chỉ ra một số hạn chế về mặt chất lượng cũng như
những bất cập trong việc khai thác nguồn lực con người, tác giả đã phân
tích một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực con người và
cơ chế phát huy nguồn lực đó trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.

Hiện nay, phát triển bền vững được xác định là chiến lược ưu tiên hàng đầu
của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Một trong những cơ sở, nền tảng
quan trọng nhất để thực hiện chiến lược phát triển đó là nguồn lực con
người. Lịch sử phát triển xã hội đã chứng minh rằng, trong mọi giai đoạn,
con người là yếu tố đóng vai trò quyết định sự phát triển theo chiều hướng
tiến bộ của xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã hoàn toàn đúng
khi khẳng định rằng, sự phát triển của xã hội không phải do bất kỳ một lực
lượng siêu nhiên nào, mà chính con người đã sáng tạo nên lịch sử của
mình - lịch sử xã hội loài người. Nhận thức rõ vai trò to lớn của nguồn lực
con người, trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh", Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh đến nguồn lực con


nguời, coi đó là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất cho sự phát triển nhanh
và bền vững của đất nước.
Với sự ra đời của triết học Mác, vấn đề con người đã được nhìn nhận, đánh
giá và lý giải một cách sâu sắc, khoa học và toàn diện. Đặc biệt, triết học
Mác đã có những
phân tích hết sức đúng đắn và khoa học về vị trí, vai trò của con người đối
với sự phát triển xã hội. Vai trò quan trọng không thể thay thế của con
người trong tiến trình phát triển lịch sử thể hiện tập trung trên một số điểm
cơ bản sau:
Trước hết, bằng hoạt động cải biến tự nhiên theo nhu cầu mục đích của
mình, đối tượng hoá lực lượng bản chất của mình thông qua thực tiễn, con
người đã tự khẳng định và thể hiện vai trò động lực đối với sự phát triển
của xã hội. Nhờ hoạt động lao động, con người không chỉ tạo nên bước
chuyển quan trọng của mình, “tách” khỏi thế giới động vật để trở thành con
người theo đúng nghĩa của từ này, mà còn "tự nhân đôi mình lên một cách
tích cực, một cách hiện thực”(1) như C.Mác đã khẳng định. V.I. Lênin
cũng chỉ rõ rằng, con người là nhân tố quyết định, làm biến đổi thế giới
bằng chính những hành động thực tiễn của mình. Trên cơ sở thực tiễn,
nhận thức của con người về hiện thực khách quan ngày càng đầy đủ hơn,
sâu sắc hơn, tiếp cận gần hơn bản chất của khách thể bằng cách sáng tạo hệ
thống những khái niệm, phạm trù và sử dụng chúng như những phương
tiện nhận thức thế giới. Quá trình vươn lên không ngừng trong nhận thức,
phản ánh thế giới khách quan cũng chính là quá trình con người tích cực
hoá năng lực tư duy của mình thông qua sự trừu tượng hoá, khái quát hoá,
suy lý lôgíc để nắm bắt những quy luật vận động, phát triển của thế giới.
Trên cơ sở đó, con người vận dụng những hiểu biết, tri thức về thế giới vào
hoạt động thực tiễn nhằm cải biến thế giới, phục vụ lợi ích của mình. Chính
con người từng bước nhận thức, khám phá những thuộc tính, bản chất, quy
luật, sức mạnh của tự nhiên và đã vận dụng, sử dụng chúng để cải biến tự
nhiên theo mục đích của mình. Nhờ con người mà tự nhiên hoang sơ đã trở

thành tự nhiên nhân tạo, thành thế giới tự nhiên mang tính người với những
đặc tính hoàn toàn mới; đến lượt nó, giới tự nhiên đã hoà nhập vào đời
sống xã hội của con người như một thành tố không thể thiếu. Đồng thời,
trong quá trình tác động vào giới tự nhiên, con người có thể hoàn thiện mọi
tố chất: thể chất, trí tuệ, tình cảm, tâm lý của mình để ngày càng thể hiện
đầy đủ tư cách một thực thể thống nhất giữa cái tự nhiên - sinh học với cái
xã hội - văn hoá.
Thứ hai, do có năng lực nhận thức và cải tạo thế giới, con người đóng vai
trò là chủ thể hoạt động sáng tạo lịch sử, làm cho lịch sử vận động theo
hướng tiến bộ. Lịch sử nhân loại chính là lịch sử hoạt động của con người.
Con người là chủ thể tích cực trong quá trình phát triển xã hội và sáng tạo
ra lịch sử của chính mình. Họ là chủ thể của các quan hệ kinh tế - xã hội và
mọi giá trị tinh thần của xã hội. Theo quan niệm duy vật về lịch sử, sự phát
triển của xã hội loài người từ trước đến nay (và tiếp tục sau này), suy cho
cùng, được quyết định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong cấu
trúc của lực lượng sản xuất, con người không chỉ là một bộ phận cấu thành
cơ bản mà hơn thế, còn đóng vai trò đặc biệt quan trọng - kết nối các yếu tố
khác với nhau để chúng phát huy tác dụng. Với tính cách một thành tố của
lực lượng sản xuất, con người vừa là chủ thể sáng tạo và “tiêu dùng” sản
phẩm của sản xuất, vừa là một nguồn lực đặc biệt của quá trình sản xuất.
V.I.Lênin hoàn toàn đúng khi ông coi "lực lượng sản xuất hàng đầu của
toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động"(2). Thực tế cho thấy,
lao động của con người không chỉ cải biến tự nhiên, mà còn cải biến chính
bản thân con người và các quan hệ giữa con người với con người.
Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của
toàn bộ đời sống loài người”(3). Như vậy, con người và xã hội loài người
tồn tại, phát triển được không phải là nhờ vào một sức mạnh thần bí, vô
hình nào từ bên ngoài, mà chính là do hoạt động sản xuất vật chất. Đồng
thời, đây cũng là cơ sở cho các hoạt động trong đời sống tinh thần của con
người.

Con người sử dụng sức lao động của mình (cả cơ bắp lẫn trí tuệ) kết hợp
với các công cụ, phương tiện sản xuất khác để tác động vào tự nhiên, cải
biến tự nhiên nhằm thoả mãn các nhu cầu của bản thân và xã hội. Trong
quá trình đó, con người còn không ngừng sáng tạo nên những công cụ lao
động mới, thay đổi cách thức sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Lực lượng sản xuất phát triển đòi hỏi phải thay đổi quan hệ sản xuất
lỗi thời và lúc đó, chính con người - với tư cách chủ thể các quan hệ sản
xuất - bằng hoạt động thực tiễn cách mạng của mình tạo lập nên quan hệ
sản xuất mới, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất; theo đó, tạo nên
bước phát triển mới của phương thức sản xuất và của xã hội. Trong các
cuộc cách mạng xã hội, con người luôn đứng ở vị trí trung tâm, là lực
lượng tiến hành cuộc đấu tranh đưa xã hội sang một giai đoạn phát triển
mới, tiến bộ hơn. Đó chính là vai trò tích cực của nhân tố con người trong
phát triển lịch sử thông qua quá trình thay thế hợp quy luật hình thái kinh tế
- xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn. Nói cách khác,
thông qua quá trình đó, con người đã sáng tạo, "viết nên" lịch sử của mình,
của xã hội loài người.
Thứ ba, trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác của sự phát triển xã
hội, con người đóng vai trò nguồn lực trọng yếu nhất; hơn thế, còn là
nguồn lực vô tận, có thể khai thác không bao giờ cạn. Như chúng ta đã biết,
sự phát triển xã hội luôn cần đến một hệ thống các nguồn lực khác nhau,
như tài nguyên thiên nhiên, vốn, lao động, Trong đó, con người thể hiện
như một nguồn tài nguyên quý giá nhất. Các nguồn lực vật chất ngoài con
người đương nhiên là cần thiết cho sự phát triển, song chúng là những
nguồn lực hữu hạn, nghĩa là có thể bị cạn kiệt và một số trong đó là không
thể tái tạo được; hơn nữa, chúng cũng chỉ thực sự phát huy giá trị khi được
kết hợp với nguồn lực con người. Trong khi đó, nguồn lực con người có
những tiềm năng nổi trội hơn hẳn. Đặc biệt, trong điều kiện cách mạng
khoa học và công nghệ phát triển mạnh như ngày nay, trí tuệ được coi là
nguồn tài nguyên vô hạn; đồng thời, lao động trí tuệ của con người có ảnh

hưởng quyết định đối với năng suất, chất lượng lao động và do vậy, con
người trở thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất đối với sự phát triển
bền vững.
Như vậy, có thể thấy nhân tố con người đóng vai trò cực kỳ to lớn trong
lịch sử phát triển của nhân loại. Một mặt, trong toàn bộ các nhân tố hợp
thành cơ thể xã hội, con người luôn đứng ở vị trí trung tâm; mặt khác,
trong hệ thống động lực thúc đẩy lịch sử xã hội phát triển, con người là
động lực cơ bản, quan trọng nhất và đóng vai trò quyết định.
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, cũng đã có nhiều nhà tư tưởng lớn sớm
nhận rõ và luôn đề cao vai trò của con người, của quần chúng nhân dân.
Chẳng hạn, Nguyễn Trãi đã từng ví sức dân như nước, đẩy thuyền cũng là
dân, lật thuyền cũng là dân. Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin và kế thừa những giá trị tinh hoa trong truyền thống tư tưởng
của dân tộc về con người, trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi con người là
vốn quý nhất. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định rằng, trong
bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng
lực lượng đoàn kết của toàn dân. Quan điểm đó thể hiện sự tin tưởng của
Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào sức mạnh vô địch, tuyệt đối của
quần chúng nhân dân - những người làm nên lịch sử của dân tộc. Thực tế
cho thấy, những thắng lợi to lớn, những thành tựu vẻ vang của cách mạng
Việt Nam giành được trong công cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và xây
dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa luôn gắn liền với vai trò
của quần chúng nhân dân, với phương thức phát huy, sử dụng nguồn lực
con người một cách đúng đắn và hiệu quả của Đảng.
Bước vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, một lần nữa, vai trò quan
trọng của nguồn lực con người tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định và phát huy. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã chỉ rõ rằng, con người là nguồn

lực quan trọng nhất của sự phát triển xã hội; rằng, phát huy sức mạnh tổng
hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ chiến lược của Đảng
nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, một trong những yếu tố
quyết định việc chúng ta có tranh thủ, tận dụng thành công những thuận
lợi, cơ hội và vượt qua những thách thức, khó khăn mà quá trình đó đặt ra
hay không phụ thuộc đáng kể vào con người - nguồn lực nội sinh đóng vai
trò quan trọng và quyết định nhất. Đương nhiên, nguồn lực nội sinh này
cần được bồi dưỡng, phát triển về mặt chất lượng và sử dụng một cách hợp
lý mới phát huy được tiềm năng, hiệu quả to lớn của nó. Song, để làm được
như vậy, cần có sự đánh giá một cách đúng đắn, toàn diện và khách quan
thực trạng nguồn nhân lực của nước ta hiện nay; từ đó, có những giải pháp
mang tính khả thi nhằm phát huy sức mạnh của nguồn lực này. Trong
phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đưa ra đánh giá khái quát về phương
diện những hạn chế của nguồn lực con người, cụ thể là chất lượng lao
động và việc khai thác, sử dụng lao động ở nước ta hiện nay.
Như chúng ta đã biết, Việt Nam là quốc gia có dân số đông trong khu vực.
Xét về mặt lượng, có thể khẳng định nguồn nhân lực nói chung, lực lượng
lao động nói riêng của chúng ta rất dồi dào. Điều này là một thuận lợi nếu
chúng ta biết khai thác triệt để và sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả; song
đó cũng là một khó khăn, một sức ép lớn có thể kìm hãm quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhìn chung, trong điều kiện hiện nay,
đông đảo về lượng không còn là một ưu thế của lực lượng lao động. Xét về
mặt chất lượng, ngoài những phẩm chất như cần cù, khéo léo , nguồn
nhân lực nói chung và lực lượng lao động nói riêng của nước ta còn khá
nhiều hạn chế, bất cập. Điều này thể hiện trên một số khía cạnh cơ bản, như
thể chất, trí lực, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng, Hiện nay, mặt
bằng dân trí ở nước ta đã được cải thiện và nâng cao một bước; cụ thể là,
tính đến năm 2005, cả nước đã có trên 30 tỉnh, thành phố hoàn thành
chương trình phổ cập trung học cơ sở. Tuy nhiên, chất lượng trí lực của

nhân tố con người không chỉ thể hiện ở trình độ học vấn, quan trọng hơn là
ở trình độ chuyên môn kỹ thuật được phản ánh thông qua các chỉ số về số
lượng và chất lượng lao động đã qua đào tạo. Theo số liệu điều tra thực
trạng lao động - việc làm năm 2004, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo ở nư-
ớc ta còn rất lớn: 72%. Số lao động được đào tạo và được cấp bằng từ
công nhân kỹ thuật trở lên chiếm tỷ trọng thấp: 16,65%. Xét về lực lượng
trí thức, tính đến tháng 7 năm 2005, nước ta có 2.339.091 người có trình độ
cao đẳng và đại học trở lên, trong đó có hơn 18.000 thạc sĩ, gần 16.000 tiến
sĩ và tiến sĩ khoa học đang hoạt động ở tất cả các ngành, lĩnh vực, địa ph-
ương. Trí thức khoa học và công nghệ tập trung chủ yếu trong khu vực sự
nghiệp (71%), khu vực hành chính (gần 22%) và khu vực doanh nghiệp
gần 7%(4).
Nếu phân tích sâu hơn sẽ thấy những bất hợp lý khác, chẳng hạn, cơ cấu
lao động đã qua đào tạo ở các trình độ lại phân bổ không đồng đều giữa các
vùng nông thôn và thành thị, trung ương và địa phương, miền núi và đồng
bằng. Thực tế cho thấy, lực lượng lao động đã qua đào tạo, đặc biệt là số
lao động có trình độ cao tập trung chủ yếu ở các cơ quan trung ương, các
thành phố hoặc trung tâm kinh tế lớn, như Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh Đặc biệt, có sự mất cân đối trầm trọng về lực lượng trí thức có trình
độ tiến sĩ trở lên ở các vùng, miền; vùng đồng bằng sông Hồng và vùng
Đông Nam Bộ chiếm gần 90% số tiến sĩ cả nước (trong đó, thành phố Hà
Nội chiếm 63,82% và thành phố Hồ Chí Minh chiếm 19,33%). Ở 6 vùng
còn lại, vùng cao nhất cũng chỉ chiếm chưa đến 4%. Tổng số tiến sĩ của hai
vùng Tây Bắc và Tây Nguyên chỉ đạt 1% tổng số tiến sĩ của cả nước(5).
Mặt khác, trong số lao động đã qua đào tạo không phải ai cũng làm việc
đúng ngành nghề chuyên môn; tình trạng làm trái ngành, trái nghề không
phải là cá biệt. Có thể nói, việc sử dụng không hợp lý lao động nói chung
đã là một sự lãng phí, song sử dụng không hợp lý lao động đã qua đào tạo
thì mức độ lãng phí còn lớn hơn nhiều.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, đối với nước ta, để phát huy nguồn lực

con người một cách hợp lý, hiệu quả cần phải có một hệ thống các biện
pháp đồng bộ; trong đó, cần tập trung vào một số biện pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, phát triển mạnh mẽ giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ
nhằm, một mặt, phục vụ trực tiếp sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước; mặt khác, xây dựng tiềm lực trí tuệ - cốt lõi của nguồn nhân lực
chất lượng cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: một dân tộc dốt là
một dân tộc yếu và “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm
năm thì phải trồng người”(6).
Trí tuệ là một trong những chỉ số quan trọng nhất của chất lượng nhân tố
con người, nhất là trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ có
những bước phát triển nhảy vọt, khoa học đang trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp và sự xuất hiện của kinh tế tri thức hiện nay. Bên cạnh đó,
cần phải chú trọng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho con người,
trước hết là với các thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước. Bởi
vì, xã hội hiện đại không chỉ cần có những con người chuyên gia, mà còn
rất cần những con người công dân, có nhân cách và trách nhiệm cao đối
với cộng đồng và xã hội. Do đó, quan điểm của Đảng về “giáo dục - đào
tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu” phải trở thành tư tưởng
chỉ đạo, được tất cả các cấp, các ngành, gia đình và xã hội quán triệt sâu
rộng và thực thi nghiêm túc nhằm đào tạo những con người Việt Nam phát
triển toàn diện, có đủ cả đức lẫn tài, cả sức khoẻ dồi dào lẫn đời sống tinh
thần phong phú, tạo nền tảng đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Mặt khác, để phát huy vai trò của giáo dục - đào tạo trong sự nghiệp đổi
mới, cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa đào tạo và sử dụng hợp lý, hiệu
quả lực lượng lao động. Đồng thời, cần kết hợp giữa nâng cao trình độ dân
trí và phát triển nguồn nhân lực đồng đều ở các vùng miền, các cộng đồng
xã hội; gắn chiến lược phát triển khoa học công nghệ với nâng cao hàm
lượng trí tuệ trong nhân tố con người. Từ chỗ có nguồn lực con người bảo
đảm về chất lượng, cần xây dựng và thực hiện những phương thức, cơ chế
phát huy nguồn lực đó.

Thứ hai, cần quan tâm giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích theo phương
châm bảo đảm công bằng xã hội trong từng chính sách, từng bước phát
triển. Lợi ích chính là điểm mấu chốt, là một trong những động lực hàng
đầu nhằm phát huy nhân tố con người. Trong thực tiễn cách mạng trước
đây, do nhu cầu giải phóng dân tộc nổi lên hàng đầu nên lợi ích toàn dân
tộc phải được đặt lên trên hết trong giải quyết mọi mối quan hệ lợi ích. Tuy
nhiên, khi đất nước hoà bình, các nhu cầu và lợi ích chính đáng của người
dân cần được tôn trọng và bảo đảm ngày càng tốt hơn. Theo đó, để phát
huy vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước,
không thể không đặt ra vấn đề giải quyết hài hoà giữa lợi ích cá nhân với
lợi ích cộng đồng và lợi ích toàn xã hội, giữa lợi ích trực tiếp trước mắt với
lợi ích lâu dài, giữa lợi ích vật chất với lợi ích tinh thần Bên cạnh đó, cần
coi trọng và thực hiện tốt hệ thống chính sách xã hội theo hướng lấy con
người là trung tâm. Đặc biệt, Đảng và Nhà nước cần có chính sách bảo đảm
công bằng xã hội, tạo điều kiện cho tất cả mọi người đều được hưởng lợi từ
sự tăng trưởng của nền kinh tế, có cơ hội bình đẳng trong việc tiếp cận các
dịch vụ liên quan đến phát triển con người. Đó chính là quá trình tích luỹ về
lượng để có những biến đổi về chất và trong trường hợp mà chúng ta đang
xem xét, là sự cống hiến ở mức cao nhất năng lực cá nhân của mỗi con
người cho cộng đồng, xã hội.
Thứ ba, cần xây dựng và thực hiện một cơ chế dân chủ hoá mọi mặt đời
sống xã hội nhằm tạo môi trường, điều kiện thiết yếu để phát huy vai trò
của nguồn lực con người trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhân tố
con người chỉ được khai thác và phát huy tối đa khi con người thực sự làm
chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ chính mình. Để phát huy tính tích
cực, tự giác, sáng tạo của con người trong mọi hoạt động thì nhất thiết phải
xây dựng và thực hiện một cơ chế dân chủ, trong đó ngày càng quan tâm
đến dân chủ trực tiếp nhằm hiện thực hoá những giá trị dân chủ xã hội chủ
nghĩa trong đời sống xã hội. Việc phát huy dân chủ không chỉ tạo cơ hội
thuận lợi cho tất cả mọi người có thể cống hiến năng lực của mình cho xã

hội, mà còn có ý nghĩa tạo điều kiện cho việc thực hiện cơ chế phản biện
xã hội với tinh thần lành mạnh, xây dựng và phát huy trách nhiệm công
dân. Nói cách khác, thông qua quá trình dân chủ hoá, trí tuệ của toàn dân
được huy động và đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội. Đó cũng là
lý do tại sao Hồ Chí Minh coi dân chủ là chìa khoá vạn năng để giải quyết
mọi vấn đề mà thực tiễn cách mạng đặt ra.
Tuy nhiên, thực hiện dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ cương pháp
luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa; khắc phục mọi biểu hiện dân chủ cực đoan
hoặc lợi dụng “dân chủ” để chia rẽ khối đại đoàn kết, làm rạn nứt sự đồng
thuận xã hội. Lấy dân chủ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước làm nòng
cốt để thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng cường dân chủ nhằm giải
phóng mọi năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân, góp phần ổn định
chính trị - xã hội, tạo điều kiện cho sự nghiệp đổi mới thắng lợi.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, cha ông ta đã sáng suốt
khi dựa vào nhân tố con người để đạt đến mọi thành công. Ngày nay, trong
bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, việc luôn nhận thức sâu sắc vai
trò to lớn của nguồn lực con người và lấy đó làm điểm tựa vững chắc là
điều kiện để chúng ta đưa sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đến thắng lợi. Phát huy nguồn lực con người để
phát triển xã hội, đó là một vấn đề có tính quy luật.r



(*) Cử nhân triết học, Bộ Khoa học và Công nghệ.
(1) C.Mác - Ph.Ăngghen. Tuyển tập, t.1. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr.120.
(2) V.I.Lênin. Toàn tập, t.38. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr. 430.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1994, tr. 641
(4) Dẫn theo: Báo cáo tổng kết của đề tài độc lập cấp Nhà nước “Đổi mới
chính sách đối với trí thức khoa học và công nghệ trong thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”, Hà Nội, tháng 4/2007, tr. 79-80.
(5) Xem: Tài liệu đã dẫn, tr. 81
(6) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996,
tr.222.


×