Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Quy luật mâu thuẫn, vận dụng vào phân tích công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.91 KB, 36 trang )

lời nói đầu
Quy luật mâu thuẫn là quy luật quan trọng nhất trong phép biện chứng duy
vật nó đợc coi là hạt nhân của phép biện chứng, nó vạch ra nguồn gốc bên trong
của sự vận động và phát triển, nó chỉ ra nguyên nhân của sự thay đổi cái này
thành cái khác, đồng thời nó tác động đến tất cả quy luật và phạm trù của phép
biện chứng.
Trong công cuộc đổi mới ở nớc ta hiện nay có rất nhiều mâu thuẫn trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là một vấn đề quan tâm của Đảng và Nhà
nớc, nhiều bài báo, cuộc họp đã bàn về vấn đề bức xúc này. Vì vậy trong quá
trình học tập và nghiên cứu về bộ môn Triết học - Mác, em đã quyết định chọn
đề tài: Quy luật mâu thuẫn, vận dụng vào phân tích công cuộc đổi mới ở nớc
ta hiện nay.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo - thạc sĩ Lê Trọng Khanh đã hớng
dẫn, chỉ bảo và định hớng cho em đề cập đến vấn đề nghiên cứu một cách khoa
học và nghiêm túc.
1
Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài Mục đích của đề tài
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ,
cuốn hút tất cả các nớc ở mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời sống
xã hội đang trong quá trình quốc tế hoá sâu sắc, ảnh hởng lớn tới nhịp độ phát
triển lịch sử và cuộc sống các dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát
triển nhanh cho các nớc, vừa đặt ra những thách thức gay gắt, nhất là đối với
những nớc lạc hậu về kinh tế.
Trong cách mạnh XHCN, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu tìm tòi,
xây dựng đờng lối, xác định đúng mục tiêu và phơng hớng XHCN. Nhng Đảng
đã phạm sai làm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, nóng vội
trong cải tạo XHCN, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần. Có lúc đẩy
mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng, duy trì quá lâu cơ chế quản lý
tập trung quan liêu, bao cấp, có nhiều chủ trơng sai trong việc cải cách giá cả,
tiền tệ, tiền lơng. Công tác t tởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm


nghiêm trọng.
Tại Đại hội lần thứ VI, Đảng đã tự phê bình và đề ra đờng lối đổi mới.
Đại hội VI là cột mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng XHCN của
nhân dân ta. Công cuộc đổi mới đã đạt đợc những thành tựu bớc đầu rất quan
trọng. Tình hình kinh tế xã hội có nhiều chuyển biến tích cực tạo thế đi lên và
khẳng định con đờng chúng ta đang đi là đúng. Tuy nhiên khó khăn còn nhiều,
đất nớc cha ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Trong hoàn cảnh đó, việc chúng ta liên tục tìm hiểu, nghiên cú về các
mâu thuẫn trong công cuộc đổi mới của đất nớc để từ đó nhận rõ đợc các tác
động, sự chi phối vận động, phát triển của các mâu thuẫn kinh tế - xã hội đối với
nền kinh tế nớc ta trong giai đoạn hiện nay là một vấn đề có ý nghĩa trọng yếu
đối với việc soạn thảo, hoàn thiện chiến lợc, chủ trơng, chính sách và tổ chức lực
lợng triển khai thực hiện. Có nh vậy chúng ta mới tráng khỏi mắc phải những sai
lầm đáng tiếc trong sự nghiệp xây dựng CNXH.Chính vì tầm quan trọng của quy
luật mâu thuẫn đối với công cuộc đổi mới đang đợc tiến hành ở nớc ta mà em đã
quyết định chọn đề tài này.
2
Nội dung của đế án đợc dựa trên t tởng của những bài viết những vẫn đề
kinh tế - xã hội ở nớc ta trong giai đoạn hiện nay của các chuyên gia hoạt động
trong ngàng kinh tế và triết học.
Mục đích của đề tài: nhằm tìm hiểu về đặc điểm và những biểu hiện của
quy luật mâu thuẫn trong công cuộc đổi mới ở nớc ta hiện nay, qua đó thấy đợc
những mặt tích cực cũng nh tiêu cực mà công cuộc đổi mới đã đem lại. Để từ đó
phát huy những mặt tích cực và đẩy lùi, tiến tới xoá bỏ những mặt tiêu cực còn
tồn tại trong xã hội Việt Nam hiện nay.
II. Nội dung của bài viết bao gồm các phần
sau
Cơ sở lý luận
- Quy luật mâu thuẫn.
- Vì sao phải chuyển đổi từ nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trờng.

Thực tiễn
- Mâu thuẫn kinh tế xã hội ở nớc ta trong giai đoạn hiện nay.
+ Mâu thuẫn kinh tế vốn có của CNXH
+ Tính thống nhất và mâu thuẫn của các thành phần kinh tế
+ Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trờng và mục tiêu xây dựng con ngời
trong quá trình đi lên CNXH ở nớc ta.
+ Mâu thuẫn giữa tăng trởng kinh tế và công bằng xã hội
- Các chính sách và giải pháp
3
Nội dung
a. Cơ sở lý luận
i. QUY luật mâu thuẫn
Mâu thuẫn là hiện tợng khách quan và phổ biến. Phép biện chứng duy
vật khẳng định rằng , mọi sự vật và hiện tợng trong thế giới đều tồn tại mâu
thuẫn bên trong Mỗi sự vật và hiện tợng đều là một thể thống nhất của các mặt,
các thuộc tính, các khuynh hớng đối lập nhau. Những mặt này đối lập nhau nh-
ng lại liên hệ ràng buộc nhau tạo thành mâu thuẫn.
Mâu thuẫn chẳng những là một hiện tợng khách quan mà còn là một hiện t-
ợng phổ biến. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi sự vật hiện tợng của giới
tự nhiên đời sống xã hội và t duy của con ngời. Không có một sự vật hiện tợng
nào lại không có mâu thuẫn và không có một giai đoạn nào trong sự phát triển
của mỗi sự vật hiện tợng lại không có mâu thuẫn. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu
thuẫn khác lại hình thành.
Mâu thuẫn là một chỉnh thể , trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất, vừa
đấu tranh với nhau. Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập
không tách rời sự đấu tranh giữa chúng. Sự đấu trang giữa các mặt đối lập là một
quá trình phức tạp. Quá trình ấy có thể chia ra từng giai đoạn, mỗi giai đoạn có
những đặc điểm riêng của nó. Khi mới xuất hiện, mâu thuẫn thờng đợc biểu hiện
ở sự khác nhau của hai mặt. Trong quá trình phát triển cuă mâu thuẫn sự khác
nhau đó biến thành sự đối lập. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với

nhau gay gắt, nếu có điều kiện chín muồi thì hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn
nhau, mâu thuẫn đợc giải quyết. Kết quă là sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ
bị phá huỷ, sự đối lập của hai mặt đối lập mới đợc hình thành cùng với mâu
thuẫn mới. Mâu thuẫn mới này lại triển khai, phát triển và lại đợc giải quyết làm
cho sự vật mới luôn luôn xuất hiện thay thế sự vật cũ. Sự đấu tranh giữa hai mặt
đối lập đã làm cho các sự vật không thể tồn tại một cách vĩnh viễn .
Về sự chuyển hoá của các mặt đối lập, Lênin viết : không phải chỉ là sự
thống nhất của các mặt đối lập, mà còn là mỗi chuyển hoá của mỗi quy định,
chất, đặc trng, mặt, thuộc tính sang mỗi cái khác . Do đó ta không nên hiểu sự
chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập một cách đơn giản, máy móc chỉ căn
cứ vào hình thức bên ngoài, chỉ nói về sự chuyển hoá vị trí của chúng. Sự vật và
4
hiện tợng trong thế giới là muôn hình, muôn vẻ nên sự chuyển hoá của các mặt
đối lập cũng rất khác nhau.
Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi lĩnh vực của thế giới với những
hình thức rất đa dạng. Tính đa dạng của mâu thuẫn do tính đa dạng của các mối
liên hệ trong sự vận động và phát triển của thế giới vật chất quy định. Mỗi loại
mâu thuẫn đều có những đặc điểm riêng và có vai trò khác nhau đối với sự tồn
tại và phát triển của sự vật
Do tầm quan trọng của quy luật đối với sự phát triển của sự vật hiện tợng
trong thế giới nên trong công cuộc đổi mới đất nớc trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội việc chúng ta đi sâu nghiên cứu quy luật mâu thuẫn và sự biểu hiện
của nó trong nền kinh tế - xã hội nớc ta hiện nay là cực kỳ cần thiết
II. Vì sao phải chuyển đổi từ nền kinh tế cũ
(kinh tế tập trung quan liêu bao cấp) sang
nền kinh tế thị trờng
1. Những hạn chế của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
Theo quan điểm của duy vật biện chứng sự ngự trị của một hình thức tổ
chức kinh tế xã hội nào đó là tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lợng ssản
xuất và nhu cầu của phơng thức sản xuất. Thoạt đầu loài nhời chỉ có thể sống

bằng nền kinh tế tự nhiên, cùng với sự lớn mạnh của lực lợng sản xuất ( biểu
hiện ở sự phân công lao động và chuyên môn hoá sản xuất ngày càng phát triển
sâu sắc ). Xã hội loài ngời theo Lênin bớc vào mội cách tổ chức của kinh tế xã
hội mới , sản xuất hàng hoá. Do giáo đầu và do ngộ nhận các xã hội hoá trên
thực tế cùng với những nguyên nhân khác sau khi Lênin mất sản xuất hàng hoá
ở các nớc XHCN đã bị thủ tiêu và thay thế bằng một nền kinh tế phi hàng hoá đ-
ợc quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung tuyệt đối. Những khiếm khuyết
căn bản của phơng pháp tổ chức kinh tế phi hàng hoá là ở chỗ: nó triệt tiêu tinh
thần lao động sáng tạo, nó không trực tiếp tác động đến động lực cố hữu, thiết
thân của ngời lao động, là lợi ích vật chất.
ở nớc ta đã có một thời gian dài sai lầm này dẫn tới kinh tế trì trệ, phát
triển chậm chạp. Cơ chế quan liêu bao cấp chính là nhân tố hàng đầu làm biến
dạng CNXH chân chính, khoa học. Nó chính là mâu thuẫn cơ bản mà công cuộc
đổi mới cần xoá bỏ dần để tiến tới cơ chế dân chủ, bởi vì chính nó làm cho sở
hữu không dân chủ, không có con ngời, làm biến dạng các quan hệ kinh tế - xã
hội, chính trị, nhân văn. Nó là một trong những mâu thuẫn cơ bản khác nh sự
phát triển lạc hậu của lực lợng sản xuất mâu thuẫn ới yêu cầu hiện đại hoá, dân
5
chủ hoá đất nớc. Cơ chế quan liêu đã làm méo mó con ngời, triệt tiêu các động
lực nội tại của nó, tớc mất ý chí và tự do độc lập, nhu cầu tự thể hiện bản thân
của nó - một điều kiện tiên quyết của hạnh phúc cá nhân. Cơ chế quan liêu
muốn hay không muốn biến con ngời thành phơng tiện của bộ máy của kế
hoạch vạch ra một cách quan liêu thành các vai trò xã hội nh vai trò của ngời
chấp hành, chấp hành các mệnh lệnh quan liêu từ trên dội xuống. Cơ chế quan
liêu do ngộ nhận xã hội hoá trên thực tế là công hữu hoá tập thể hoá, vội vàng
xoá bỏ sở hữu cá nhân - t nhân mà nh Anghen nói : thiết chế sở hữu t nhân còn
lâu mới đóng hất vai trò lịch sử của nó . Nó biến các cá nhân thành những ngời
không có sở hữu , mà làm chủ sở hữu là làm chủ về mặt kinh tế, tức tôi phải làm
chủ cái gì đó do chính bàn tay khối óc của tôi làm nên. Thực tế đã đợc chứng
minh ở trong các hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam , mọi ngời ỷ lại vào nhau ,

không ai chịu lao động tích cực vì lợi ích giữa những ngời làm việc chăm chỉ và
những ngời không chịu làm đều nh nhau . Họ không phát huy đợc tính sáng tạo
của cá nhân . Nhà nớc chủ trơng phân phối lao động theo kiểu cào bằng đó đúng
là đã giải quyết đợc vấn đề lớn , đó là hạn chế đợc những ngời phải chịu đói ,
không có cơm ăn , áo mặc nhng lại là sự cản trở đối với việc phát triển kinh tế,
không chú trọng phát triển lực lợng sản xuất, kéo theo quan hệ sản xuất không
tiến bộ lên đợc thì sản xuất ra chỉ đủ ăn, đủ cho nhu cầu hàng ngày, việc kinh tế
giàu lên là điều khó khăn. Vậy là cơ chế quan liêu chậm thay đổi chẳng những
làm trì trệ sự phát triển kinh tế mà lớn hơn làm cho cá nhân con ngời chậm phát
triển về nhiều mặt. Đến lợt nó, chính con ngời lại là nhân tố cản trở sự phát triển
của kinh tế xã hội vì nó là hậu quả của sự bao cấp về ý chí và t tởng, t duy chứ
không chỉ bao cấp về mặt hiện vật theo nghĩa thuần kinh tế.
2. Sự tất yếu phải chuyển sang nền kinh tế thị trờng
Khuynh hớng của sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi và phát
triển. Sự phát triển đó bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi và phát triển của lực l-
ợng sản xuất, vì nó là yếu tố động nhất, cách mạng nhất của phơng thức sản
xuất. Cùng với sự phát triển của lực lợng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình
thành và biến đổi sao cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triênr của lực l-
ợng sản xuất, Sự phù hợp đó làm cho lực lợng sản xuất phát triển mạnh mẽ, và
chuyển lên một trình độ và tính chất mới, quan hệ sản xuất không còn phù hợp
với nó nữa thì sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt đố của phơng thức sản
xuất. Sự phát triển khách quan đó dẫn đến việc tất yếu xoá bỏ quan hệ sản xuất
cũ và thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới, phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lợng sản xuất đã thay đổi, mở đờng cho lực lợng sản xuất phát
triển
Nền kinh tế nớc ta trớc đổi mới là một nền kinh tế phát triển mang nặng
tính tự cung, tự cấp các yếu tố của sản xuất hàng hoá còn yếu, cha phát triển,
6
các yếu tố thị trờng mới sơ khai, thiếu đồng bộ lại quản lý theo cơ chế kế hoạch
hoá tập trung cứng nhắc nên đã phát sinh sự mất cân đối, lạm phát dẫn tới

khủng hoảng , các ngành và các thành phần kinh tế ngày càng trì trệ và sự tăng
trởng kinh tế chậm . Những mâu thuẫn nội tại của nền kinh tế ở nớc ta đòi hỏi
phải đổi mới để thoát khỏi khủng hoảng và thúc đẩy các yếu tố hàng hoá phát
triển tính tất yếu khách quan của việc chuyển đổi này là do các nhân tố sau
Nền kinh tế tự cung tự cấp ban đầu thích ứng với cơ chế tập trung, nhng
chỉ có chuyển lên sản xuất hàng hoá nền kinh tế mới có thể tăng trởng đợc
Các yếu tố thị trờng tồn tại ở nớc ta tuy còn thấp nhng xu hớng tất yếu nó
sẽ phát triển đầy đủ và toàn diện theo quy luật của nó
Nền kinh tế chỉ huy tồn tại ở nớc ta đã huy động đợc một bộ phận nguồn
lực cho sự phát triển ban đầu, nhng mô hình này bị khép kín , kém hiệu quả nên
xu hớng chung các nền kinh tế chỉ huy ở các nớc XHCN (cũ) và ở nớc ta đều
chuyển sang kinh tế thị trờng là phù hợp với xu hớng chung của thời đại ngày
nay
Sự hoà nhập trong phân công lao đông quốc tế cùng với thành quả của
khoa học kỹ thuật về công nghệ, quản lý, về chất lợng và phát triển môi trờng
cũng yêu cầu nền kinh tế nớc ta theo cơ chế thị trờng là tất yếu
Thực tiễn đó cũng là cơ sở khoa học chứng minh cho sự tất yếu của sự
chuyển đổi nền kinh tế nớc ta theo cơ chế thị trờng là phù hợp với quy luật phát
triển chủ trơng của nhà nớc ta là chuyển đổi kinh tế theo cơ chế thị trờng, phát
triển kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng XHCN.
3. Thế nào là kinh tế thị trờng và kinh tế thị trờng biểu hiện nh thế
nào dới định hớng của XHCN
Kinh tế thị trờng là một kiểu kinh tế xã hội mà trong đó sản xuất và tái
sản xuất xã hội gắn chặt với thị trờng , tức là gắn chạt với quan hẹ hàng hoá, tiền
tệ với quan hệ cung cầu .... Trong nền kinh tế thị trờng ,nét biểu hiện có tính
chất bề mặt của đời sống xã hội là quan hệ sản xuất hàng hoá Mọi hoạt động
của xã hội đều phải tính đến quan hệ hàng hoá , hay ít nhất cũng phải sử dụng
các quan hệ hàng hoá nh là một khâu trung gian. Cơ chế thị trờng - mội yếu tố
cấu thành của cơ chế dân chủ, xét theo nghĩa rộng là cơ chế trực tiếp tác động
đến sự hình thành con ngời mới ở nớc ta hiện nay. Cơ chế thị trờng, giả định một

thị trờng sức lao động tự do của mỗi cá nhân công dân. Nó tạo nên không gian
rộng lớn cho sự phát triển của mỗi cá nhân (điều mà cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp không phát huy đợc). Khi sức lao động trở thành hàng hoá thì tài sản,
giá trị, quyền tự do của mỗi cá nhân trớc hết thể hiện ở chỗ mỗi ngời đợc làm
chủ sức lao động của mình, tự do bán theo giá cả ngoài thị trờng theo nghĩa rộng
7
. Cơ chế thị trờng khiến cho mỗi cá nhân dần dần trở thành ngời chủ trớc hết
của sức lao động của mình trong đó có tài sản tự do có hay do thừa kế . Mọi ng-
ời đều phải tích cực lao động vì lợi ích của mỗi cá nhân và của xã hội , chủ động
phát huy tính sáng tạo, tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc , từ đó quan
hệ sản xuất phát triển tác động đến sự phát triển của lực lợng sản xuất , tất yếu
dẫn đến một nền kinh tế phát triển .
Trong kinh tế thị trờng của CNXH, có sự hiện diện của chế độ sở hữu
toàn dân về những t liệu sản xuất giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ nền kinh
tế, có sự hiện diện của một nhà nớc đại biểu cho lợi ích của nhân dân do giai cấp
công nhân lãnh đạo , kinh tế thị trờng vận động vì mục tiêu bảo đảm các lợi ích
trong xã hội và phúc lợi của nhân dân chứ không phải vì lợi nhuận tối đa của
các nhà t bản dựa trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê nh dới TBCN. Nó là ph-
ơng tiện để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH chứ không phải để thiết
lập hệ thống chuyên chính t sản. Trong điều kiện hiện nay cần chú ý đến hiệu
quả kinh tế cùng với thực hiện công bằng văn minh xã hội , cố gắng hạn chế đến
mức thấp nhất những hậu quả của kinh tế thị trờng, cơ chế vận động của đồng
tiền nh theo lời nhận xét của nhiều ngời.
Trong kinh tế thị trờng dới CNXH, sở hữu quốc doanh và tập thể phải giữ
vai trò chủ thể và chủ đạo. Chủ thể là chiếm tuyệt đại bộ phận về định lợng , chủ
đạo là giữ vị trí dẫn đờng, hớng dẫn định hớng. Đặc trng này quy định bản chất
của kinh tế thị trờng dới CNXH từ đó phân biệt với cơ chế thi trờng TBCN. Dới
CNXH các yếu tố chủ thể của kinh tế thị trờng vẫn là các xí nghiệp và ngời sản
xuất hàng hoá. Nhng trong đó chủ yếu là xí nghiệp sở hữu XHCN, bao gồm
quốc doang và tập thể. Trong các đơn vị quốc doanh và tập thể , không có quan

hệ chủ thợ, không có quan hệ giữa t bản và ngời làm thuê. Trong kinh tế, lấy sở
hữu xã hội làm chủ thể, quá trình lu thông trên thị trờng chủ yếu là quan hệ mua
bán và quan hệ tín dụng giữa các cộng đồng ngời lao động . Quan hệ về lợi ích
giữa nhà nớc, tập thể và cá nhân trong kinh tế thị trờng của CNXH là do chế độ
sở hữu công cộng quyết định nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng là dân giàu nớc
mạnh , xã hội công bằng văn minh theo định hớng XHCN . Trong kinh tế thị tr-
ờng của CNXH, giữa các chủ thể kinh tế khác nhau ( ngời sản xuất, ngời kinh
doanh, ngời mua , ngời bán .. ) có lợi ích khác nhau. Đó là sự khác nhau giữa lợi
ích cá thể , cục bộ , lợi ích trớc mắt , lợi ích ngắn hạn . Đứng về lợi ích lâu dài
và lợi ích tổng thể các chủ thể kinh tế khác nhau đó đều có lợi ích chung nh
nhau. Sự khác nhau về lợi ích riêng và sự giống nhau về lợi ích chung đó tạo nên
một mối quan hệ mới, quan hệ hợp tác, cùng có lợi giữa các chủ thể kinh tế, dựa
trên nền tảng của sở hữu XHCN. Nhờ đó kinh tế thị trờng của CNXH giảm bớt
sự đối kháng vì xung đột về lợi ích .
Việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trờng, kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng XHCN ở nớc ta trong giai đoạn
vừa qua với sự tăng trởng của kinh tế đã chứng minh đờng lối đúng đắn của
8
Đảng cộng sản. Trong những năm tới, vấn đề đặt ra là làm sao duy trì và phát
triển mạnh hơn nữa về kinh tế, đảm bảo hớng đi đúng theo XHCN của nhân dân
ta.
4. Vì sao phải thừa nhận các thành phần kinh tế hiện có
Giai đoạn hiện nay nớc ta đang ở trong thời kỳ quá độ lên CNXH, với sự
tồn tại của 5 thành phần kinh tế cơ bản, tơng ứng với nó là hai hình thức sở hữu
khác nhau. Việc tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong một giai đoạn phát triển
kinh tế của xã hội là tất yếu khách quan của kinh tế quá độ. Trong bất cứ hình
thái kinh tế xã hội nào cũng có phơng thức sản xuất giữ vị trí chi phối. Ngoài ra
còn có phơng thức sản xuất tàn d của xã hội trớc và phơng thức sản xuất mầm
mống cuả xã hội tơng lai. Các phơng thức sản xuất này ở vào địa vị lệ thuộc, bị
tri phối bởi phơng thức sản xuất thống trị. Trong một hình thái kinh tế xã hội có

nhiều phơng thức sản xuất biểu hiện thành các thành phần kinh tế. Trong thời kỳ
quá độ cha có thành phần kinh tế nào giữ vai trò thống trị, chi phối các thành
phần kinh tế khác, mà chúng chỉ là những mảnh, những bộ phận hợp thành cơ
cấu kinh tế xã hội trong một hệ thống thống nhất biện chứng. Mỗi thành phần
kinh tế có kiểu tổ chức sản xuất kinh doanh của nó hợp thành nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần. Nền kinh tế thời kỳ quá độ tồn tại nhiều thành phần kinh
tế là vì những nguyên nhân sau đây.
Thứ nhất khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành đợc chính
quyền tiếp quản nền kinh tế chủ yếu dựa trên chế độ t hữu về t liệu sản xuất.
Thực tế có hai loại t hữu: t hữu lớn ( nhà máy, hầm mỏ, doanh nghiệp, đồn
điền ...của các chủ t bản trong và ngoài nớc - đó là kinh tế TBCN) và t hữu nhỏ
(gồm những nông dân cá thể, những ngời buôn bán nhỏ, đó là sản xuất nhỏ cá
thể).
Thứ hai sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia, do đặc điểm lịch sử, điều
kiện chủ quan và khách quan tất yếu có sự phát triển không đều về lực lợng sản
xuất giữa các ngành, các vùng, các doanh nghiệp. Chính sự phát triển không đều
đó quyết địng quan hệ sản xuất, trớc hết về hình thức, quy mô và quan hệ sở hữu
phải phù hợp với nó, nghiã là tồn tại những quan hệ sản xuất không giống nhau
cơ sở hình thành các thành phần kinh tế khác nhau.
Thứ ba để phát triển kinh tế, củng cố và phát triển hệ thống chính trị, xã
hội. Nhà nớc xây dựng hệ thống những cơ sở kinh tế mới , hình thành thnàh
phần kinh tế nhà nớc . Mặt khác trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế,
thông qua hợp tác và đầu t nớc ngoài. Nhà nớc cùng các nhà t bản, các công ty
trong và ngoài nớc, hình thành kinh tế t bản nhà nớc.
9
Thành phần kinh tế XHCN ra đời, trớc hết là do kết quả của việc quốc hữu
hoá XHCN, Thực chất kinh tế của quốc hữu hoá XHCN là tớc đoạt các t liệu sản
xuất chủ yếu của các giai cấp bóc lột và biến thành tài sản của nhà nớc, tức là
của toàn dân. Mục đích của nó nhằm làm cho giai cấp bóc lột mất chỗ dựa kinh
tế, đồng thời làm cho nhà nớc nắm đợc những mạch máu quan trọng để lãnh đạo

và điều hành đất nớc, xây dựng kinh tế có kế hoạch. Biện pháp đó phản ánh yêu
cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lợng sản xuất, xoá bỏ quan hệ sản xuất TBCN, xây dựng quan hệ
XHCN mở đờng cho lực lợng sản xuất phát triển.
Trong thời kỳ quá đọ ngoài biện pháp quốc hữu hoá, các thành phần kinh tế
còn đợc ra đời bằng cách cải tạo XHCN đối với các thành phần kinh tế khác, đặc
biệt là thành phần sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân lao động. Việc nhà nớc
chuyên chình vô sản đầu t xây dựng những xí nghiệp quốc doanh mới về công,
nông, thơng nghiệp, ngân hàng, vận tải ...cũng là biện pháp cực kỳ quan trọng
nhằm mở rông và củng cố các thành phần kinh tế XHCN.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng công sản Việt Nam xác định ở nớc ta có các
thành phần kinh tế sau
Thành phần kinh tế nhà nớc: là những đơn vị, tổ chức trực tiếp sản xuất,
kinh doanh hoặc phục cụ sản xuất kinh doanh mà toàn bộ quyền lực thuộc sở
hữu nhà nớc, hoặc phần của toàn nhà nớc chiếm tỷ lệ khống chế .
Thành phần kinh tế hợp tác: kinh tế hợp tác là sự liên kết kinh tế tự nguyện
của các chủ thể kinh tế với hình thức đa dạng, linh hoạt phù hợp với nhu cầu khả
năng và lợi ích của các bên tham gia, có thể dẫn tới hoặc không dẫn tới pháp
nhân. Hình thức quan trọng của kinh tế hợp tác là hợp tác xã, kinh tế hợp tác xã
là những hình thức liên kết kinh tế có pháp nhân, tuân thủ có nguyên tắc, có tổ
chức chặt chẽ và điều lệ hoạt động rõ ràng.
Thành phần kinh tế t bản nhà nớc: kinh tế t bản nhà nớc là sản phẩm của sự
can thiệp của nhà nớc vào hoạt động của các tổ chức đơn vị kinh tế t bản trong
và ngoài nớc, nhằm sử dụng, khai thác, phát huy thế mạnh của mỗi bên tham
gia, đặt dới sự kiểm soát giúp đỡ của nhà nớc.
Thành phần kinh tế cá thể: là thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh
doanh dựa vào vốn là sức lao động của bản thân là chính. Đó là kinh tế cá thể,
tiểu chủ của nông dân, thợ thủ công, những ngời buôn bán, dịch vụ cá thể. Thế
mạnh của thành phần kinh tế cá thể là phát huy nhanh, có hiệu quả tiền vốn, sức
10

lao động, tay nghề, sản phẩm truyền thống. Vì thế nó có vai trò quan trọng trong
nền kinh tế, có khả năng đóng góp phát triển kinh tế - xã hội .
Thành phần kinh tế t bản t nhân : là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc
một số nhà t bản trong và ngoài nớc đầu t để sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Nét
nổi nbật của thành phần kinh tế này là sở hữu t nhân hoặc sở hữu hỗn hợp, thuê
và bóc lột sức lao động làm thuê, thờng đầu t vào những ngành vốn ít lãi cao.
Các thành phần kinh tế trên đều đợc thừa nhận là tồn tại khách quan và nhà
nớc cũng luôn tạo điều kiện và môi trờng để chúng tồn tại, phát triển và luôn đ-
ợc bình đẳng trớc pháp luật. Nhng theo định hớng XHCN nhà nớc vẫn phải luôn
giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế khác.

B. Thực tiễn
i. Mâu thuẫn kinh tế xã hội ở nớc ta
trong
giai đoạn hiện nay
Quá trình phát triển nền kinh tế nớc ta tiến lên theo định hớng XHCN
chịu sự tác động , chi phối của hệ thống các mâu thuẫn kinh tế - xã hội . Để
nhận rõ các mâu thuẫn đó một các khách quan . khoa học , trớc hết phải quán
triệt những cơ sở xuất phát sau
Quá độ tiến lên chủ nghĩa xẫ hội là một tất yếu khách quan trong hành
trình tiến bộ của nhân loại nói chung , đất nớc ta nói riêng nh đã trình bày ở
phần trên . Do đó , nhân dân Việt Nam , dới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam vẫn kiên trì đi theo định hớng XHCN , trở thành một trong những căn cứ
quan trọng hàng đầu của việc xác định những mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ
quá độ tiến lên CNXH ở nớc ta .
CNTB hiện đại mặc dù có nhiều đặc điểm mới so với CNTB cổ điển, trong
lòng nó đã , đang và sẽ nảy sinh nhiều nhân tố của xã hội mới kế tiếp. Những
nhân tố mới xuất hiện chính là sự thể hiện quá trình tự phủ định của CNTB trong
hình thức và khuôn khổ của nó khi mà lực lợng sản xuất đạt tới trình đọ xã hội
hoá rất cao không thể tơng dung với chế độ chiếm hữu t nhân TBCN kiểu cổ

điển nữa . Nhng những biểu hiện mới đó cũng chỉ có thể coi là những thay đổi
11
cục bộ thứ cấp về chất của CNTB chứ không phải CNTB đã thay đổi bản chất.
CNTB vẫn là CNTB, mục tiêu cao nhất của CNTB vẫn là lợi nhuận tối đa và nó
vẫn đang còn sức sống và sức hấp dẫn đối với những quốc gia, dân tộc cha có
định hớng phát triển rõ ràng, nhất là trong bối cảnh quốc tế hiện nay.
Thế giới luôn luôn là một chỉnh thể đang trên hành trình đi tới một sự
thống nhất mới về chất. Do đó thế giới ngày nay đang ở trong một trạng thái vừa
có sự lệ thuộc, nơng tựa vào nhau, hợp tác với nhau để cùng tồn tại, phát triển,
vừa có sự đấu tranh, cạnh tranh quyết kiệt với nhau để đi tới một sự thống nhất,
một chỉnh thể dới hình thức và phơng pháp phong phú, đa dạng.
Thế giới đang chịu sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ trên cả hai phơng diện mà xét về hệ quả của nó là mặt thiện và mặt
ác. Do đó không thể chỉ nhấn mạnh một chiều là mặt thiện và tính nhân loại của
những thành tựu do cách mạng khao học công nghệ đem lại với tính cách là:
của chung của loài ngời. Không nên xem nhẹ cái điều khoa học công nghệ và
làm thế nào để sử dụng những thành tựu ấy chỉ cho việc thiện. Trong điều kiện
cụ thể phát triển theo định hớng XHCN của nớc ta hiện nay, tác động của cách
mạng khoa học công nghệ vào quá trình đó có cả hai mặt thiện và ác, chúng ta
phải tính đến một cách đầy đủ cả hai mặt đó trong sự chuyển giao, tiếp nhận
thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ và sự hội nhập vào nền kinh tế thế
giới để nhận rõ mâu thuẫn kinh tế cơ bản và những mâu thuẫn kinh tế - xã hội
khác đang tác động, chi phối quá trình phát triển nền kinh tế nớc ta theo định h-
ớng XHCN
Tính chất của xã hội ta hiện nay là đang quá độ từ một nớc tiểu nông kém
phát triển, tiến lên theo định hớng XHCN. Do đó, trong thực tế chúng ta đang
phải làm những việc theo quá trình lịch sử - tự nhiên thì cách mạng xã hội do
giai cấp t sản lãnh đạo trớc kia phải làm là chủ yếu. Nhng ở nớ ta giai cấp t sản
dân tộc nhỏ yếu, bất lực cha làm đợc, nay chúng ta phải làm. Chúng ta làm
những công việc ấy theo phơng hớng chiến lợc phát triển nền kinh tế hàng hoá

nhiều thành phần với quyết tâm định hớng XHCN trớc sự tấn công bằng cách
này hay cách khác của các thế lực chống đối ở trong và ngoài nớc.
Từ những cơ sở xuất phát trên chúng ta có thể hình dung những mâu thuẫn
kinh tế cơ bản ở nớc ta trong giai đoạn hiện nay.
1. Mâu thuẫn kinh tế vốn có của CNXH
12
Thắng lợi của cuộc cách mạng XHCN không xoá bỏ đợc những mâu
thuẫn trong xã hội, mặc dù dới CNXH việc xã hội hoá các t liệu sản xuất và việc
thủ tiêu các giai cấp bóc lột đã xoá bỏ những nguyên nhân sâu xa nhất của
những mâu thuẫn và xung đột cực kỳ gay gắt. Do sự thay đổi của cơ sở kinh tế
và kết cấu giai cấp nên trong xã hội XHCN hoàn chỉnh tuy vẫn còn mâu thuẫn
những đó là những mâu thuẫn không đối kháng. Những mâu thuẫn không đối
kháng đó là động lực phát triển xã hội XHCN. Đó là những hình thức biểu hiện
khác nhau về các mâu thuẫn giữa cái mới và cái cũ, cái tiến bộ và cái lạc hậu,
cái tích cực và cái tiêu cực. Những mặt đối lập này không biểu hiện bằng quan
hệ thù địch giữa các giai cấp đối kháng nh trong chế độ cũ mà chỉ là sự không
phù hợp giữa các mặt riêng biệt, giữa các vấn đề cụ thể, cục bộ của đời sống
muôn vẻ.
Vì vậy, xã hội XHCN là xã hội tiến bộ nhng không thể phủ định những
mâu thuẫn trong quá trình phát triển và sự phát triển ấy cũng bao hàm sự xoá bỏ
những mâu thuẫn ấy. Vì xã hội XHCN không có giai cấp đối kháng và bao gồm
những tầng lớp anh em là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp
trí thức, cho nên ở đó có đủ các điều kiện khiến cho các mâu thuẫn kinh tế chính
trị đợc khắc phục dần dần. Sự thắng lợi của công cuộc tập thể hoá đã đánh dấu
sự xoá bỏ những mâu thuẫn chủ yếu tồn tại giữa giai cấp công nhân và giai cấp
nông dân, mâu thuẫn còn tồn tại cuối cùng sẽ mất hẳn trong quá trình xây dựng
xã hội cộng sản.
Trong nền kinh tế XHCN, không có mâu thuẫn giữa lao động t nhân và lao
động xã hội, ở đây lao động xuất hiện ra là lao động xã hội trực tiếp. Nhng nếu
tính lao động có tính hai mặt, nếu nhiều hình thái của lao động cụ thể còn đợc

quy thành lao động trìu tợng thì đó là vì còn cha thể trực tiếp đo đợc lao động
bằng số lợng thời gian bỏ vào việc sản xuất ra của cải. Sự tồn tại cảu hai hình
thức toàn dân và tập thể gắn bó với nhau bởi những mối liên hệ hàng hoá sự tiếp
tục tồn tại của sự khác nhau về bản chất giữa lao động chân tay và lao động trí
óc làm cho ngời ta chỉ có thể đo đợc số lao lợng động bỏ ra dùng giá trị và dùng
các hình thức của giá trị làm trung gian. Do đó mà có tính hai mặt của hàng hoá
sản xuất ra trong xã hội XHCN. Nhng vì mâu thuẫn giữa lao động t nhân và lao
động xã hội hiện nay đã bị thủ tiêu dới CNXH, cho nên không còn đối lập giữa
giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá cũng nh của lao động cụ thể và lao động
trừu tợng, chỉ còn tồn tại một sự khác nhau thờng hay là một sự khác nhau về
bản chất mà thôi. Chúng ta đều thấy rằng cái trớc kia là một sự đối lập hay hơn
nữa là sự đối lập địch đối thì nay trở thành một sự khác nhau thờng trong quá
trình thủ tiêu các mâu thuẫn. Tuy nhiên sự khác nhau giữa giá trị sử dụng và giá
trị có thể trở nên gay gắt một cách dễ dàng trong nền kinh tế XHCN, nhng đó là
do công tác không tốt của một vài xí nghiệp, do không hoàn thành kế hoạch, do
13
những sai lầm về kế hoạch hoá ... chứ không phải do những khuynh hớng và quy
luật tất yếu của sản xuất hàng hoá dới CNXH.
Dới chế độ XHCN, sức lao động không còn là hàng hoá nữa. Ngời công
nhân không còn phải lao động để tạo ra giá trị thặng d nữa, vì mục đích của sản
xuất XHCN là thoả mãn những nhu cầu của bản thân những ngời lao động. Sự
phát triển của sản xuất XHCN không tuân theo quy luật của cạnh tranh và của
tình trạng sản xuất vô chính phủ mà tuân theo quy luật phát triểncó kế hoạch của
nền kinh tế quốc dân. Cho nên không có lý do khách quan nào để cho sự khác
nhau giữa lao động cụ thể và lao động trừu tợng, giữa giá trị sử dụng và giá trị
của hàng hoá biến thành sự đối lập, sự xung đột nh dới chế độ TBCN. Nh vậy thì
tính hai mặt của hàng hoá và cả của lao động dới CNXH không còn là biểu hiện
của những mâu thuẫn của nền sản xuất hàng hoá trớc kia, của nền sản xuất hàng
hoá giản đơn hay TBCN, mà của một nền sản xuất hàng hoá thuộc một loại đặc
biệt phục vụ cho xây dựng CNCS

Dới chế độ XHCN tiền tệ không còn là phơng tiện cho giá trị tự tăng thêm
và cũng không biến thành t bản . Tiền tệ là công cụ để phát triển kinh tế XHCN .
Trong những điều kiện của chế độ sở hữu xã hội về t liệu sản xuất , của sự thủ
tiêu việc ngời bóc lột ngời , của sự phát triển một cách có kế hoạch nền kinh tế
quốc dân , thì mọi nguyên nhân gây ra khủng hoảng đều không còn nữa . Điều
đó cũng chấm dứt tác động của tiền tệ trong việc làm cho mâu thuẫn thêm trầm
trọng và trong việc làm nổ ra những khủng hoảng .
Chẳng hạn là phơng tiện của lun thông tiền tệ không thể tạo điều kiện cho
khủng hoảng xuất hiện dới CNXH , vì ở đây không còn có mâu thuẫn giữa lao
động t nhân và lao động xã hội . Tiền tệ không còn là lực lợng nối liền những
ngời sản xuất riêng lẻ , những ngời t hữu nữa , tiền tệ là công cụ mà xã hội dùng
để đánh giá và kiểm soát sản xuất và lu thông .
Là phơng tiện thanh toán, tiền tệ cũng có một tác dụng tơng tự. Trong xã
hội XHCN, sản xuất không còn có mục đích làm cho giá trị tự tăng lên và sáng
tạo ra giá trị thặng d mà là nhằm thoả mãn đến mức tối đa nhu cầu của những
ngời lao động. Cho nên tiền tệ không còn là hàng hoá tuyệt đối nữa. Sự khác
nhau giữa hàng hoá và tiền tệ không có thể trở thành mâu thuẫn tuyệt đối dới
CNXH. Tuy nhiên chừng nào mà tiền tệ còn là một hàng hoá thuộc loại riêng
biệt dùng làm vật ngang giá cho các hàng hoá khác thì tiền tệ và hàng hoá vẫn
còn tồn tại một số mâu thuẫn. Những mâu thuẫn ấy biểu hiện ra chẳng hạn là
trong trờng hợp có sản phẩm thừa, chất lợng kém hoặc kế hoạch sai lầm thì hàng
hoá không thể đổi lấy tiền tệ đợc. Nhng khi đó tiền tệ không làm cho những mâu
thuẫn ấy thêm sâu sắc mà là dùng để thủ tiêu những mâu thuẫn ấy, để sửa chữa
14

×