Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Biện pháp quản lý giáo dục cộng đồng cho nhóm trẻ vị thành niên ở huyện lục nam, tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.81 KB, 114 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lý luận
Bước sang thế kỷ XXI, với sự bùng nổ của tri thức, khoa học công nghệ
và đặc biệt là công nghệ thông tin, nền kinh tế thế giới đang phát triển theo xu
hướng toàn cầu hóa và hội nhập mạnh mẽ. Các nước trên thế giới đều nhận thấy
vai trò to lớn có ý nghĩa quyết định của GD & ĐT đối với sự phát triển KT- XH
và sự hưng thịnh của quốc gia.
Nhận thấy được vai trò quan trọng của giáo dục, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: "Cùng với khoa học
công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước". Chính vì vậy vấn đề giáo dục cho mọi thế hệ luôn được quan
tâm.
Quyết định 112/2005/QĐ-TTg, ngày 18 tháng 05 năm 2005, Thủ tướng
Chính phủ khẳng định: “Xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập với
tiêu chí cơ bản là tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để mọi người ở mọi lứa
tuổi, mọi trình độ được học tập thường xuyên, học liên tục, học suốt đời ở
mọi nơi, mọi lúc, mọi cấp, mọi trình độ; huy động sức mạnh tổng hợp của
toàn xã hội tham gia xây dựng và phát triển giáo dục; mọi người, mọi tổ chức
đều có trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc học tập và tham gia tích cực xây
dựng xã hội học tập”
Trong thời đại ngày nay, xây dựng xã hội học tập đã trở nên đa dạng,
phong phú với nhiều hình thức. Với phương châm “Cần gì học nấy, học trước
khi làm; học để biết, học để làm, học để tồn tại, học để chung sống”. Cùng bắt
nguồn từ những nhu cầu, đòi hỏi thiết yếu nên mà mô hình giáo dục cộng
đồng được phát triển rộng khắp. Nó không chỉ là công cụ thiết yếu để xây
dựng xã hội học tập từ cơ sở mà còn là công cụ quan trọng của các cấp uỷ,
chính quyền địa phương thúc đẩy phát triển KT-XH. Đây còn là mô hình hợp



lòng dân, có sự gắn kết chặt chẽ với cộng đồng, có hiệu quả thực tế, đặc biệt
đối với vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số. Một trong
những đối tượng mà giáo dục cộng đồng hiện nay đặc biệt chú trọng quan tâm
và khai thác đó là việc giáo dục cho trẻ em vị thành niên.
Đặc trưng cơ bản của nhóm vị thành niên biểu hiện trước hết ở vị trí vai
trò của nó trong đời sống xã hội cũng như trong chính cuộc đời của mỗi
người. Nếu trong cuộc đời, tuổi vị thành niên là giai đoạn quan trọng, giai
đoạn bản lề có thể quyết định toàn bộ cuộc sống sau này của mỗi người thì
trong xã hội, thế hệ vị thành niên bao giờ cũng đại diện cho một sự chuyển
tiếp vào các thế hệ mới, hướng tới tương lai. Vị thành niên là độ tuổi chuyển
tiếp giữa tuổi thơ ấu và tuổi trưởng thành. Đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ
về thể chất và trí tuệ; là giai đoạn có ý nghĩa quyết định trong việc định hình
nhân cách con người. Nguồn nhân lực hiện nay cho sự phát triển của xã hội
rất cần được bảo vệ, nuôi dưỡng từ tuổi trẻ em, bổ sung và hoàn thiện dần về
thể chất, tri thức và nhân cách từ vị thành niên và bắt đầu thực sự đóng góp
cho xã hội ở những giai đoạn sau đó.
Ở nước ta, thực tế những năm thực hiện công cuộc đổi mới cho thấy, sự
nâng cao bước đầu về đời sống kinh tế xã hội, đặc biệt là về mức sống đã
khiến cho vị thành niên ở nước ta có những sự phát triển mạnh về thể chất.
Bên cạnh sự phát triển về thể chất, việc mở rộng các điều kiện học tập sinh
hoạt, vui chơi giải trí, giao lưu văn hoá...cũng khiến cho các thế hệ vị thành
niên hiện nay đã có được những sự phát triển mạnh mẽ về nhận thức, tình
cảm, suy nghĩ và sức sáng tạo. Vị thành niên nước ta ngày càng chứng minh
được trên thực tế tiềm năng to lớn, vị trí, vai trò của họ đối với sự phát triển
của đất nước trong tương lai. Thêm nữa vị thành niên thoát dần từ phạm vi gia
đình để hòa nhập vào tập thể và hoạt động của những người cùng trang lứa.
Về đặc điểm giới tính, vị thành niên rất cần sự quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ
và tạo điều kiện để rèn luyện cả về các mặt đức, trí, thể, mỹ.
1.2. Cơ sở thực tiễn



Trong những năm qua, thanh thiếu niên dành được sự quan tâm đặc
biệt từ xã hội. Chúng ta đã chứng kiến nhiều hoạt đồng của toàn xã hội nhằm
tác động đến lứa tuổi này như: Các chương trình, hội thảo về học tập, sức
khỏe, sinh sản, đời sống tình cảm, đạo đức…của các em.
Cụ thể, vấn đề quản lý giáo dục cộng đồng cho nhóm trẻ vị thành niên
ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang đã làm tương đối tốt, luôn quan tâm tới
công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ. Nhiều chủ trương và chính
sách mới đã được ban hành và thực hiện, bước đầu đã tập hợp được sự tham
gia đông đảo của các cơ quan, tổ chức, chính quyền, đoàn thể, cộng đồng và
gia đình vào công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Các cấp, ngành và
đoàn thể đã tạo điều kiện cho các em chủ động và sáng tạo trong học tập, sinh
hoạt, vui chơi giải trí và phát huy được những tiềm năng của mình. Tuy nhiên,
thực tế cũng lại cho thấy chúng ta còn chưa có được những sự quan tâm đầy
đủ và đúng mức tới nhóm tuổi vị thành niên.
Bên cạnh những chính sách chung về trẻ em và thanh niên ngày càng
được hoàn thiện và có hiệu quả thiết thực thì những chính sách về tuổi vị thành
niên lại tỏ ra còn thiếu cụ thể, sự ảnh hưởng của các hoạt động nói trên còn chưa
đạt được hiệu quả sâu sắc và có hệ thống. Sự lúng túng trong việc nhận thức về
vị trí, vai trò và những đặc điểm sinh học, tâm lý học và xã hội học của nhóm
vị thành niên trong xã hội hiện đại đã ảnh hưởng tới việc xây dựng các chính
sách cũng như cơ chế sát thực nhằm tăng cường việc chăm sóc, giáo dục,
quản lý và phát huy vai trò của nhóm đối tượng này vì sự phát triển của địa
phương.
Các cấp chính quyền ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang cũng chưa tạo
được một sự thống nhất chung trong nhận thức và hành động nhằm chăm sóc,
giáo dục, quản lý đối tượng vị thành niên. Trên thực tế mỗi cấp chính quyền đoàn
thể, địa phương, cộng đồng lại có những suy nghĩ và hành động khác nhau.
Công tác tuyên truyền, giáo dục về sức khỏe sinh sản vị thành niên tuy đã
có nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa được tổ chức rộng rãi trên các phương tiện



thông tin đại chúng và trong hoạt động của các quần thể quần chúng ở từng địa
phương.
Nhóm trẻ vị thành niên ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang cũng giống
như ở các địa phương khác lớn lên trong hoàn cảnh xoá bỏ bao cấp về nhiều
mặt, cuộc sống của cha mẹ, những người lớn tuổi trong gia đình và xã hội
phần nhiều đều tập trung vào những lo toan hàng ngày về kinh tế và đời sống,
lại luôn phải sống và chứng kiến những mặt trái của cơ chế thị trường, những
tệ nạn xã hội. Như vậy, nhóm nam nữ vị thành niên đã sinh trưởng và lớn lên
cùng với rất nhiều tâm tư, suy nghĩ với những bộn bề của cuộc sống; hay có
thể gọi chung là những đe dọa, thách thức về nhiều mặt như: Bệnh tật, sự tổn
thương về thể trạng và tinh thần, sự thiếu hiểu biết về thông tin giới tính, an
toàn tình dục và kế hoạch hóa gia đình. Rất nhiều chuyện đau lòng đã xảy ra
như: Tự tử, mại dâm, ma túy, tảo hôn, yêu theo kiểu “trào lưu”…
Đặc biệt, đối tượng bỏ học hoặc không được học hành đến nơi đến
chốn trong nhóm tuổi vị thành niên ở Bắc Giang chiếm tỷ lệ khá cao. Theo
các cuộc khảo sát về mức sống dân cư của cơ quan thống kê tại huyện Lục
Nam trong những năm gần đây thì số lượng vị thành niên có trình độ văn hoá
thấp hiện nay ở mức đáng lo ngại. Số trẻ vị thành niên bỏ học hoặc không thể
thi đỗ vào trung học hoặc đại học cũng đã khiến cho tỷ lệ những người không
đi học ở nhóm vị thành niên cao hơn hẳn ở nhóm học sinh trẻ em. Không có
điều kiện để tiếp tục học tập ở tuổi chưa thành niên, lại không thể kiếm được
việc làm đã khiến cho các em dễ rơi vào các tệ nạn xã hội.
Qua đó, chúng ta nhận thấy trong sự di chuyển dân cư và lao động
mạnh mẽ dưới tác động của cơ chế thị trường, số lao động vị thành niên đã
chiếm một tỷ lệ khá cao. Trong điều kiện không được sự quan tâm sát sao từ
gia đình, không được chăm sóc, quản lý, giáo dục đầy đủ, phải tự lập quá sớm
lại thiếu kinh nghiệm sống, chưa đủ kiến thức và bản lĩnh để ứng xử, các em
rất dễ bị bóc lột, lừa gạt, lôi kéo, ép buộc, rơi vào cạm bẫy của các tệ nạn xã

hội hoặc vi phạm pháp luật.


Dựa vào thực tế trên, cho thấy tình hình tệ nạn xã hội và vi phạm pháp
luật trong vị thành niên ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang đang có xu hướng
tăng lên. Những trường hợp phạm pháp trầm trọng như giết người, cướp của,
hiếp dâm, sử dụng vũ khí, bạo lực, tụ tập thành băng nhóm tội phạm ở tuổi vị
thành niên đã diễn ra ngày càng nhiều, gây lo ngại cho địa phương.
Chỉ có thông qua những kết quả nghiên cứu điều tra để nhận biết một
cách đúng đắn hơn về những đặc trưng cơ bản của nhóm tuổi vị thành niên,
chia sẻ với nhau những kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú, chúng ta
mới có thể đề xuất được các khuyến nghị và giải pháp quản lý giáo dục đối
với đối tượng vị thành niên ngày càng tốt, sát thực và hợp lý hơn; tạo điều
kiện để nhóm vị thành niên có điều kiện trưởng thành; phát huy được hết
những tiềm năng sẵn có; đóng góp tích cực vào sự phát triển KTXH của
huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang trong thế kỷ 21.
Thực tiễn, mặc dù đã có các biện pháp tổ chức giáo dục cộng đồng ở
huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang nói riêng và trong cả nước nói chung đối với
nhóm vị thành niên, song các biện pháp này còn chưa hiệu quả và thiếu tính
đồng bộ, đôi khi còn lãng phí. Vì vậy đòi hỏi phải có những biện pháp phù
hợp, hiệu quả hơn.
Từ những lí do nêu trên đề tài nghiên cứu được lựa chọn là “Biện pháp
quản lý giáo dục cộng đồng cho nhóm trẻ vị thành niên ở huyện Lục
Nam, tỉnh Bắc Giang”. Với mong muốn góp phần khiêm tốn của mình vào
việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục cộng đồng cho nhóm trẻ vị
thành niên ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về công tác quản lý giáo dục cộng đồng
cho nhóm trẻ vị thành niên, đánh giá thực trạng giáo dục cộng đồng cho nhóm
trẻ vị thành niên không còn tham gia học tập trong nhà trường và quản lý giáo

dục cộng đồng cho nhóm trẻ vị thành niên không còn tham gia học tập trong
nhà trường hiện nay ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, từ đó đề xuất biện


pháp quản lý giáo dục cộng đồng cho nhóm trẻ vị thành niên không còn tham
gia học tập trong nhà trường có hiệu quả.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Công tác quản lý giáo dục cộng đồng ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp quản lý giáo dục cộng đồng cho nhóm trẻ vị thành niên
không còn tham gia học tập trong nhà trường.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Trong những năm qua, việc quản lý giáo dục cộng đồng cho nhóm trẻ
vị thành niên không còn tham gia học tập trong nhà trường ở huyện Lục Nam,
tỉnh Bắc Giang đã có chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả nhất
định song vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Nếu đề xuất các biện pháp quản lí
giáo dục cộng đồng cho nhóm trẻ vị thành niên không còn tham gia học tập
trong nhà trường ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang một cách phù hợp và
đồng bộ thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục cộng đồng cho
nhóm trẻ vị thành niên không còn tham gia học tập trong nhà trường ở địa bàn
này.
5. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
5.1. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng quản lý giáo dục cộng đồng cho
nhóm trẻ vị thành niên không còn tham gia học tập trong nhà trường đang
triển khai và thực hiện ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, từ đó đề xuất giải
pháp quản lý giáo dục cộng đồng cho nhóm trẻ vị thành niên ở huyện Lục
Nam, tỉnh Bắc Giang.
5.2. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu:

Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu trên địa bàn cộng đồng huyện Lục Nam,
tỉnh Bắc Giang.
5.3. Giới hạn về khách thể nghiên cứu:


Đề tài tiến hành điều tra lấy ý kiến đánh giá của 106 cán bộ lãnh đạo,
quản lý giáo dục và 120 trẻ vị thành niên trên địa bàn huyện Lục Nam, tỉnh Bắc
Giang.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý giáo dục cộng đồng cho nhóm trẻ vị
thành niên không còn tham gia học tập trong nhà trường.
6.2. Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý giáo dục cộng đồng cho nhóm trẻ
vị thành niên không còn tham gia học tập trong nhà trường ở huyện Lục Nam,
tỉnh Bắc Giang.
6.3. Xây dựng hệ thống các biện pháp giáo dục cộng đồng cho nhóm trẻ vị
thành niên không còn tham gia học tập trong nhà trường ở huyện Lục Nam,
tỉnh Bắc Giang và khảo nghiệm tính khả thi của các biện pháp đó.
7. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ nghiên cứu trong phạm vi giới hạn đề
tài nêu trên, tôi sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận bao gồm:
Phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa về khoa
học Quản lý, các tài liệu và các văn bản pháp quy của ngành, địa phương xác
định bản chất vấn đề nghiên cứu. Nghiên cứu các số liệu, tư liệu có liên quan
nhằm khái quát hoá các vấn đề nghiên cứu thành lý luận quản lý giáo dục
cộng đồng cho nhóm trẻ vị thành niên.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm
7.2.1. Phương pháp quan sát:
Mục đích: Thu thập thông tin về những biểu hiện của trẻ vị thành niên
qua các hoạt động giáo dục cộng đồng.

Cách tiến hành: Quan sát trực tiếp các biểu hiện về thái độ và hành vi
của trẻ vị thành niên khi được tham gia vào các hoạt động, chương trình do
cộng đồng tổ chức.
7.2.2. Phương pháp điều tra viết:


Mục đích: Thu thập những thông tin liên quan đến nhận thức, quan
niệm của cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý trong công tác giáo dục cho trẻ vị
thành niên; kiểm chứng tính cần thiết, khả thi của các biện pháp một cách
khách quan nhằm tránh những sai sót trong quá trình nghiên cứu.
Cách tiến hành:
+ Thiết kế phiếu hỏi
+ Điều tra, khảo sát các CB lãnh đạo, CB quản lý để tìm hiểu quan
niệm, phương thức quản lý và cách thức tổ chức các hoạt động nhằm giáo dục
cho trẻ vị thành niên.
7.2.2. Phương pháp chuyên gia
Mục đích: Khẳng định tính khả thi của biện pháp được đề xuất sau khi
nghiên cứu.
Cách tiến hành: Hỏi ý kiến các chuyên gia bằng phiếu hỏi về tính khả
thi của các biện pháp đề xuất sau khi nghiên cứu.
7.2.3. Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn sâu:
Mục đích: Thu thập thông tin cần thiết để làm cơ sở nghiên cứu, đề
xuất biện pháp quản lý giáo dục cho nhóm đối tượng là trẻ vị thành niên
Cách tiến hành: Trò chuyện, tâm sự, hỏi thăm, phỏng vấn các CB lãnh
đạo, CB quản lý cũng như các em trong độ tuổi vị thành niên của huyện Lục
Nam, tỉnh Bắc Giang về các vấn đề tâm tư tình cảm, nguyện vọng, đời sống
tinh thần, vật chất… khi tham gia các hoạt động giáo dục trên.
7.2.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết, đánh giá thực trạng và
hiệu quả của công tác giáo dục cộng đồng cho nhóm trẻ vị thành niên ở huyện
Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

7.2.5. Phương pháp khảo nghiệm
Khảo nghiệm các biện pháp đưa ra nhằm thấy được những thuận lợi và
khó khăn của các biện pháp mang lại đối với nhóm trẻ vị thành niên.
Nhóm phương pháp xử lí thông tin: sử dụng các công thức toán học để
xử lí kết quả khảo sát như tính số liệu %, tính điểm trung, xếp thứ bậc.
+ Tính hệ số tương quan theo công thức : r = 1– [(6 Σ(R1- R2)2)/n(n2 –
1)]
Trong đó: R1 : Thứ bậc đại lượng 1


R2 : Thứ bậc đại lượng 2
n : số lượng các đơn vị xếp hạng
Nếu:
r < -0,7: Tương quan nghịch rất mạnh
-0,69 < r < -0,5: Tương quan nghịch mạnh
-0, 49< r < -0,3 : Tương quan nghịch trung bình
-0,29 < r < -0,1 : Tương quan nghịch yếu
-0,09 < r < -0,01 : Tương quan không đáng kể
r = 0 : Không có mối tương quan
0,01 0,1 < r < 0,29 : Tương quan thuận yếu
0,3 < r < 0,49 : Tương quan thuận trung bình
0,5 < r < 0,69 : Tương quan thuận mạnh
r > 0,7 : Tương quan thuận rất mạnh
8. Đóng góp mới của đề tài
- Hệ thống hóa tri thức về lý luận về quản lý giáo dục cộng đồng cho
nhóm trẻ vị thành niên, đề xuất một số biện pháp khả thi về quản lý giáo dục
cộng đồng cho nhóm trẻ vị thành niên ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang
- Góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý giáo dục cộng đồng cho
nhóm trẻ vị thành niên ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

9. Cấu trúc Luận văn
Phần mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý giáo dục cộng đồng cho nhóm trẻ vị
thành niên.
Chương 2: Thực trạng quản lý giáo dục cộng đồng cho nhóm trẻ vị
thành niên ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
Chương 3: Biện pháp quản lý quản lý giáo dục cộng đồng cho nhóm
trẻ vị thành niên ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC CỘNG ĐỒNG
CHO NHÓM TRẺ VỊ THÀNH NIÊN


1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu trong nước
1.1.2. Nghiên cứu ở khu vực và thế giới
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm quản lý:
Quản lý xuất hiện và tồn tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của xã hội
loài người. Ở đâu có hoạt động chung, ở đó cần đến sự quản lý, như Các Mác
đã nói một cách hình tượng rằng: Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển
mình, còn dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng.
Có thể tiếp cận khái niệm quản lý theo những cách sau:
Theo quan niệm truyền thống Quản lý là quá trình tác động có ý thức
của chủ thể vào một bộ máy ( đối tượng quản lý) bằng cách vạch ra mục tiêu
cho bộ máy, tìm kiếm các biện pháp tác động để bộ máy đạt tới mục tiêu đã
xác định” [34, 5]
Với tác giả Mai Quang Huy: “ Thuật ngữ quản lý gồm hai quá trình tích

hợp nhau: Quá trình quản lý gồm coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ thống ở trạng
thái ổn định; quá trình quản lý là sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa vào hệ thống
phát triển”. [23, 4]
“ Quản lý phải làm cho hệ thống ở trạng thái cân bằng vận động, vận
động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả trong môi trường tương tác giữa nhân
tố bên trong và các nhân tố bên ngoài. Như vậy, quản lý là tác động có định
hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong tổ chức,
làm cho tổ chức đó vận động và đạt được mục tiêu của tổ chức.” [23, 4]
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “ Quản lý là sự tác động có mục đích, có
kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động ( khách thể
quản lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến.” [29, 43]
Theo GS.TS Nguyễn Quang Uẩn: “ Quản lý là quá trình tác động của
chủ thể quản lý đến khách thể thông qua các công cụ , phương tiện để đạt
được mục tiêu quản lý.” [30,33]


Theo F.Taylor: “ Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người
khác làm, và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt
nhất và rẻ nhất”. [33,89]
Harold Koonzt: “ Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối
hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được những mục đích của nhóm. Mục
tiêu của mọi nhà quản lý là nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con
người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất
và sự bất mãn cá nhân ít nhất”.[19, 33]
Như vậy, quản lý là một yêu cầu tất yếu của một tổ chức; là tác động có
định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đạt
mục tiêu đề ra. Để quản lý tốt, nhà quản lý – chủ thể quản lý phải thực thi
những biện pháp cụ thể, khoa học, hợp qui luật.
1.2.2. Khái niệm quản lý giáo dục:
Quản lý và quản lý giáo dục là sự tồn tại song hành. Nếu nói giáo dục

là hiện tượng xã hội tồn tại lâu dài cùng với xã hội loài người thì cũng có thể
nói như thế về quản lý giáo dục. Ở đây, nhiều nhà nghiên cứu cũng đưa ra
những quan điểm của mình:
Theo Kôndakôp: “ Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế
hoạch, có ý thức, có mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau
đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm đảm bảo việc giáo dục cho thế hệ trẻ,
đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hòa của họ trên cơ sở nhận thức và sử
dụng các quy luật chung của xã hội cũng như các quy luật khách quan của quá
trình dạy học và giáo dục, của sự phát triển thể chất và tâm trí của trẻ em…”.
[26, 94]
“ Quản lý giáo dục nói chung là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng
trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành tiến tới
mục tiêu đào tạo theo nguyên lý giáo dục”. [17, 25]. Đó là ý kiến của tác giả
Đặng Quốc Bảo khi bàn về quản lý giáo dục.


Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “ Quản lý giáo dục là hệ thống
tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý, nhằm
làm cho hệ vận hành theo đường lối giáo dục của Đảng, thực hiện được các
tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình
dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục đến mục tiêu dự kiến, tiến
lên trạng thái mới về chất”.[29,12]
Tác giả Trần Kiểm đã đưa ra khái niệm về quản lý giáo dục với nhiều
cấp độ, ít nhất có hai cấp độ chủ yếu: cấp vĩ mô và cấp vi mô.
+ Cấp vĩ mô:
Quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác ( có ý thức, có
mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp qui luật) của chủ thể quản lý đến
toàn bộ hệ thống ( từ trung ương, địa phương đến các cơ sở giáo dục là nhà
trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo
dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành giáo dục.

Quản lý giáo dục là sự tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của
chủ thể quản lý lên hệ thống giáo dục nhằm tạo ra tính trồi của hệ thống; sử
dụng một cách tối ưu các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống nhằm đưa hệ
thống đến mục tiêu một cách tốt nhất trong điều kiện bảo đảm sự cân bằng
với môi trường bên ngoài luôn luôn biến động.
Cũng có thể định nghĩa quản lý giáo dục là hoạt động tự giác của chủ
thể quản lý nhằm huy động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát một cách
có hiệu quả các nguồn lực giáo dục ( nhân lực, vật lực, tài lực) phục vụ cho
mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
+ Cấp vi mô:
Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động tự giác ( có ý
thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp qui luật) của chủ thể quản lý
đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và
các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng
và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường.


Cũng có thể định nghĩa quản lý giáo dục thực chất là những tác động
của chủ thể quản lý vào quá trình giáo dục ( được tiến hành bởi tập thể Giáo
viên và Học sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã hội) nhằm hình
thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của
nhà trường. [24, 37]
* Theo Giáo sư Phạm Minh Hạc: Quản lý giáo dục là tổ chức các hoạt
động dạy học, thực hiện được các tính chất của nhà trường phổ thông Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, mới quản lý được giáo dục, tức là cụ thể hóa giáo dục
của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng nhu cầu của nhân
dân, của đất nước. [21,17]
Tóm lại: Theo các tác giả thì khái niệm quản lý giáo dục đều chứa đựng
các nhân tố đặc trưng bản chất như: Phải có chủ thể quản lý giáo dục, ở tầm vĩ
mô là quản lý của nhà nước mà cơ quan quản lý trực tiếp là Bộ, Sở, Phòng

giáo dục, còn ở tầm vi mô là quản lý của hiệu trưởng nhà trường. Phải có hệ
thống tác động quản lý theo nội dung, chương trình kế hoạch thống nhất từ
trung ương đến địa phương nhằm thực hiện mục đích giáo dục trong mỗi giai
đoạn cụ thể của xã hội; Phải có một lực lượng đông đảo của xã hội những
người làm công tác giáo dục cùng với hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương
ứng.
Quản lý giáo dục có tính xã hội cao. Bởi vậy, cần tập trung giải quyết
tốt các vấn đề xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh quốc phòng phục vụ
cho công tác giáo dục. Nhà trường là đối tượng cuối cùng và cơ bản nhất của
quản lý giáo dục, trong đó đội ngũ giáo viên và học sinh là đối tượng quản lý
quan trọng nhất.
1.2.3. Quản lý giáo dục cộng đồng
1.2.3.1. Giáo dục cộng đồng
1.2.3.1.1. Giáo dục


Giáo dục là một hiện tượng xã hội. Lúc đầu, giáo dục xuất hiện như
một hiện tượng tự phát diễn ra đơn giản, theo lối quan sát – bắt chước, về sau
giáo dục trở thành một hoạt động có ý thức. Con người dần biết xác định mục
đích, hoàn thiện về nội dung và tìm ra các phương thức để tổ chức quá trình
giáo dục có hiệu quả. Ngày nay, giáo dục đã trở thành một hoạt động được tổ
chức đặc biệt, đạt tới trình độ cao, có chương trình, có kế hoạch, nội dung,
phương pháp hiện đại, diễn ra theo một nhịp độ khẩn trương và đã trở thành
động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của xã hội loài người.
Phân tích hiện tượng giáo dục trong lịch sử nhân loại về tất cả các
phương diện, nó có những tính chất cơ bản sau đây:
+ Giáo dục là một hiện tượng đặc biệt chỉ có ở xã hội loài người. Giáo
dục xuất hiện, gắn bó cùng loài người. Ở đâu có con người, ở đó có giáo dục
(tính phổ biến). Khi nào còn loài người lúc đó giáo dục vẫn tiếp diễn (tính
vĩnh hằng).

+ Giáo dục là một hình thái ý thức xã hội, là hiện tượng văn minh của
xã hội loài người. Về bản chất, giáo dục là sự truyền đạt và tiếp thu những
kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ sau; về mục đích, giáo dục là sự
định hướng của thế hệ trước cho sự phát triển của thế hệ sau; về phương thức
giáo dục là cơ hội giúp mỗi cá nhân đạt tới hạnh phúc và là cơ sở đảm bảo
cho sự kế thừa, tiếp nối và phát triển những thành quả văn minh của xã hội
loài người.
+ Giáo dục là hiện tượng có tính lịch sử, giáo dục ra đời theo nhu cầu
của lịch sử xã hội, một mặt nó phản ánh trình độ phát triển của lịch sử, mặt
khác nó lại tác động tích cực vào sự phát triển của lịch sử. Ở mỗi giai đoạn
phát triển của xã hội có một trang lịch sử của giáo dục.
+ Trong xã hội có giai cấp, giáo dục được sử dụng như một công cụ của
giai cấp cầm quyền nhằm duy trì quyền lợi của mình thông qua mục đích, nội
dung và phương pháp giáo dục. Do vậy, giáo dục có tính giai cấp.


+ Mỗi quốc gia có một truyền thống lịch sử, có nền văn hóa riêng, cho
nên giáo dục ở mỗi nước cũng có những nét độc đáo, những sắc thái đặc trưng
thể hiện trong mục đích, nội dung, phương pháp và trong sản phẩm giáo dục
của mình. Do vậy, giáo dục có tính dân tộc.
Từ những phân tích trên, chúng tôi đi đến kết luận: Giáo dục là một
hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh
nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người, nhờ có giáo dục mà các thế
hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại được thừa
kế,bổ sung và trên cơ sở đó mà xã hội loài người không ngừng tiến lên.
Trong giáo dục học, khái niệm giáo dục ở cấp độ xã hội được hiểu theo
nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
+ Theo nghĩa rộng:
Khái niệm giáo dục theo nghĩa rộng ở cấp độ xã hội là khái niệm được
dùng để chỉ một hệ thống toàn vẹn của hoạt động xã hội, một phân hệ của các

hệ thống kinh tế - xã hội, một thiết chế xã hội đang vận động theo một
phương hướng đặc thù (có mục đích riêng), với các giai đoạn diễn biến nhất
định. Giáo dục có thể hiểu là quá trình hình thành nhân cách dưới ảnh hưởng
của những tác động chủ quan và khách quan, có ý thức và không ý thức của
cuộc sống, hoàn cảnh xã hội đối với các cá nhân. Đó là quá trình xã hội hóa
con người.
+ Theo nghĩa hẹp:
Khái niệm giáo dục theo nghĩa hẹp ở cấp độ xã hội là khái niệm chỉ quá
trình tác động, gây ảnh hưởng đến ý thức và hành vi người khác. Theo nghĩa
hẹp, giáo dục được hiểu là quá trình bồi dưỡng để hình thành những phẩm
chất đạo đức thông qua việc tổ chức cuộc sống, hoạt động và giao lưu. Ở cấp
độ này, khái niệm giáo dục ngang hàng với khái niệm dạy học.
1.2.3.1.2. Cộng đồng và cộng đồng xã hội
* Cộng đồng:


Xã hội loài người được bắt đầu từ những bầy, đàn, nhóm người cùng
nhau chung sống và lao động. Cộng đồng là một thuộc tính của xã hội loài
người ngay từ lúc sơ khai và khái niệm cộng đồng đã tồn tại từ lâu trong lịch
sử. Tuy nhiên, việc nghiên cứu chuyên sâu về khái niệm này mãi đến cuối thế
kỉ XIX mới được các nhà xã hội học tiến hành, một trong số những người tiên
phong là nhà xã hội học người Đức F. Tonnies. Từ đó đến nay, đã có nhiều
định nghĩa về cộng đồng như sau:
- Cộng đồng là một tập hợp những thành viên gắn bó với nhau bằng
những giá trị chung. Cộng đồng có sự kết nối nội tại không phải do những
quy tắc rõ ràng, những luật pháp thành văn, mà do những liên kết sâu hơn như
huyết thống, truyền thống… Khái niệm cộng đồng hiện được dùng rộng rãi
trong các lĩnh vực và chính trị.Ở các lĩnh vực này, cộng đồng mang những giá
trị chung mà ở đó mỗi thành viên trong các quan hệ hợp tác với nhau để mang
lại lợi ích cao nhất do chính mình cũng như cho cả cộng đồng.

- Cộng đồng là một kiểu tổ chức xã hội được hình thành trong một quá
trình lịch sử lâu dài, dựa trên cơ sở của sự thống nhất, sự câu kết với nhau về
lợi ích, quyền lợi, nghĩa vụ, những nhu cầu cùng tồn tại và phát triển của mọi
thành viên sống và làm việc trên một phạm vi lãnh thổ nhất định.
- Cộng đồng là một tập hợp người sống trên một phạm vi lãnh thổ, có
những nét chung về văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, có những mối quan tâm,
những lợi ích cùng chia sẻ.
- Cộng đồng là một mối quan hệ qua lại giữa các cá nhân được quyết
định bởi sự liên hệ giữa các lợi ích nhờ sự giống nhau về các điều kiện tồn tại
và hoạt động của những con người hợp thành cộng đồng đó. Sự giống nhau
này có thể kể đến các hoạt động vật chất, sản xuất, quan điểm, tín ngưỡng,
quan điểm về sự sống.
- Theo UNESCO: Cộng đồng là một tập hợp người có chung một lợi
ích và cùng chung sống trong một khu vực xác định. Những người chỉ sống
gần nhau, không có sự tổ chức lại thì đơn thuần chỉ là sự tập trung của một
nhóm các cá nhân và không thực hiện chức năng như một thể thống nhất.


- Nguyễn Sinh Huy đã nhấn mạnh rằng, khái niệm cộng đồng có nhiều
cách định nghĩa khác nhau, nhưng cần chú ý đến những yếu tố cơ bản sau
đây:
+ Cộng đồng trước hết là một tập người.
+ Sự tương quan giữa các cá nhân trong cộng đồng rất chặt chẽ và mật
thiết.
+ Mọi thành viên trong cộng đồng đều có ý thức đoàn kết, có tình cảm
gắn bó với nhau, cùng nhau phấn đấu vì những lợi ích và nguyện vọng chung.
+ Có sự dấn thân của mỗi thành viên trong việc phát triển và giữ gìn
các giá trị chung về vật chất và tinh thần.
Trong thực tế, dựa theo những yếu tố giống nhau đặc trưng nhất,
thường có các loại cộng đồng như: Cộng đồng Tôn giáo (cộng đồng người

Hồi giáo), cộng đồng Ngôn ngữ (cộng đồng nói tiếng Pháp), cộng đồng dân
tộc (cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài), cộng đồng phong tục (cộng
đồng người Tày), cộng đồng Huyết thống (cộng đồng dòng họ, gia tộc…). Ở
Việt Nam, làng, xã, tổ dân phố, cụm dân cư, gia tộc, các tộc người mang tính
cộng đồng khá rõ ràng.
*Cộng đồng xã hội:
Xét về một khía cạnh nào đó có thể quan niệm cộng đồng là một cấu
trúc vi mô, còn cấu trúc vĩ mô chính là xã hội. Xã hội là một thuật ngữ rất
thông dụng để chỉ một tập hợp những quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội chặt chẽ với nhau.
Theo quan điểm xã hội học, cộng đồng xã hội là một khái niệm khá
phức tạp, mặc dù trên thực tế chúng ta nói đến từ này rất nhiều mà không cần
giải thích. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải chỉ ra những đặc điểm bản chất
nhất của nó như sau:
- Thứ nhất là đặc điểm về lãnh thổ.
- Thứ hai là đặc điểm liên quan đến tái sản xuất và dân cư. Điều này có
chức năng tạo ra những thành viên mới cho xã hội.


- Thư ba là đặc điểm có liên quan tới hệ thống pháp luật, văn hóa và
bản sắc dân tộc.
Trong thực tế chúng ta cũng thường gặp khái niệm “cộng đồng xã hội”
để chỉ tập người có đặc điểm giao thoa như vừa phân tích ở trên.
1.2.3.1.3. Giáo dục cộng đồng (GDCĐ)
Trên thế giới khái niệm GDCĐ (Community Education) được sử dụng
từ cuối thế kỉ XIX. Ở Việt Nam, khái niệm này cũng đã được triển khai một
số loại hình giáo dục mang tính chất GDCĐ trước khi nói đến GDCĐ.
Có rất nhiều cách định nghĩa về khái niệm GDCĐ này như sau:
- Theo tuyên bố về sứ mạng của Hiệp hội GDCĐ quốc tế: GDCĐ là
quá trình làm cho cộng đồng có đủ khả năng kiểm soát sự phát triển và cải

thiện chất lượng cuộc sống của cộng động thông qua việc học tập suốt đời.
Nó tạo thêm sinh lực và nguồn lực tự nguyện để xây dựng, cải thiện cộng
đồng thông qua việc xác định và đáp ứng những nhu cầu của cộng đồng. Nó
trao quyền cho mọi người để họ có thể quyết định và hành động vì sự phát
triển của cộng đồng mình.
- GDCĐ là phương thức giáo dục không chính quy tạo cơ hội cho các
địa phương, các nhà trường cộng đồng, chính quyền, đoàn thể trở thành
những đối tác chủ động và tích cực trong việc giải quyết những mối quan tâm
về giáo dục, cũng như những mối quan tâm chung của cộng đồng. Nó làm cho
các thành viên của cộng đồng xích lại gần nhau, cùng nhau xác định và liên
kết những nhu cầu và nguồn lực của cộng đồng theo cách thức giúp mọi
người là tự giúp mình để nâng cao chất lượng cuộc sống trong cộng đồng. Nó
giúp nâng cao nhận thức của cộng đồng về sự phát triển để tạo ra những thay
đổi.
- GDCĐ là những hoạt động có tính chất giáo dục nhằm tạo cơ hội cho
các thành viên của cộng đồng trở thành những đối tác tích cực và chủ động
trong việc giải quyết những vấn đề của cộng đồng thông qua việc cung cấp
kiến thức, vui chơi giải trí, cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dịch vụ xã
hội, định hướng nghề nghiệp, rèn luyện kĩ năng sống, kỹ năng lao động sản
xuất… cho người dân ở mọi lứa tuổi.


Tích hợp những cách hiểu trên đây, chúng ta có thể đưa ra nội dung cơ
bản của khái niệm này như sau:
GDCĐ là một phương thức giáo dục, đào tạo không chính quy hoặc
những hoạt động mang tính giáo dục diễn ra tại cộng đồng nhằm:
+ Tạo thêm cơ hội và lựa chọn về những vấn đề cần học tập cho mọi
cư dân của cộng đồng, không phân biệt lứa tuổi.
+ Làm cho người dân trong cộng đồng, nhà trường cộng đồng, chính
quyền, các đoàn thể trở thành những đối tác tích cực và chủ động liên kết các

nhu cầu và nguồn lực để giải quyết những vấn đề chung của chính cộng đồng
mình.
+ Giúp nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển cộng đồng.
Hay có thể hiểu:
GDCĐ là nền giáo dục vì mọi người, diễn ra ở mọi địa điểm và với
nhiều hình thức học tập khác nhau: Chính quy, không chính quy, học tập ở nơi
làm việc, ở các cơ sở đào tạo kỹ thuật và dạy nghề, đào tạo giáo viên và cả ở
các tổ chức cộng đồng và xã hội dân sự địa phương, GDCĐ đòi hỏi dự tiếp
cận giáo dục đổi mới, từ chương trình, nội dung, phương pháp sư phạm và
kiểm tra đánh giá.
GDCĐ là giáo dục hiện đại theo đuổi mục tiêu xây dựng và phát triển
các năng lực cho cá nhân và cộng đồng nhằm tạo điều kiện cho công dân đưa
ra các quyết định dựa trên cộng đồng, sự khoan dung xã hội, việc cai quản
môi trường, lực lượng lao động có khả năng thích ứng và chất lượng cuộc
sống. GDCĐ liên kết chặt chẽ và phù hợp môi trường và văn hóa địa phương;
dựa trên những nhu cầu, nhận thức và điều kiện của địa phương, ưu tiên giải
quyết các vấn đề địa phương trong bối cảnh chung, cục diện toàn cầu.
1.2.4. Quản lý giáo dục cộng đồng đối với trẻ vị thành niên
1.2.4.1. Quản lý giáo dục cộng đồng


Quản lý giáo dục cộng đồng là hoạt động điều hành, phối hợp các lực
lượng xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của dân cư trong cộng đồng theo
phương châm “Cần gì học nấy”. Đó là hệ thống những tác động, những biện
pháp của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm thực hiện mục tiêu giáo
dục đề ra.
Nội dung quản lý nhằm phát triển giáo dục cộng đồng bao gồm:
- Quản lý các đối tượng tham gia học tập tại các lớp GDCĐ
GDCĐ là nơi tiến hành các hoạt động GDTX với mục đích học tập đáp
ứng những nhu cầu học tập cụ thể của các nhóm đối tượng khác nhau. Việc

GDCĐ giúp cho mọi người vừa học vừa làm, học liên tục, học suốt đời.
Không những thế nó còn là cơ hội học tập cho tất cả các đối tượng xã hội, từ
trẻ em thất học đến người lớn chưa biết chữ; từ những cán bộ công chức nhà
nước đến những công dân, nông dân; từ những thanh niên không có cơ hội
học tập trong nhà trường đến cả những người đang được đào tạo chính quy
cần học thêm các chương trình bổ trợ và các kỹ năng sống khác; từ những
thanh niên vi phạm pháp luật cần được giáo dục lại và cần được sự quan tâm,
hỗ trợ của cộng đồng để làm lại cuộc đời… Như vậy ta thấy GDCĐ là
phương thức giáo dục mềm dẻo, linh hoạt, đa dạng về đối tượng, phong phú
về nội dung chương trình. Do đó cần tạo môi trường học tập thoải mái cho
người học.
- Quản lý đội ngũ cán bộ, giáo viên, hướng dẫn viên, báo cáo viên thực
hiện tổ chức các hoạt động GDCĐ:
Đội ngũ cán bộ, giáo viên, hướng dẫn viên, báo cáo viên của trung tâm
chủ yếu là những người tình nguyện của cộng đồng, của các ban, ngành đoàn
thể và các nhà trường; ở họ có sự nhiệt tình, hiểu biết, có năng lực, có tâm
huyết sẵn sàng tự nguyện tham gia giảng dạy vì sự phát triển của cộng đồng.
Đó là các cán bộ chuyên môn, kỹ sư các ban ngành, đoàn thể ở Trung ương,
tỉnh, huyện vã xã; đội ngũ giáo viên mẫu giáo, tiểu học, THCS tại các xã và


của TTGDTX; những người sản xuất giỏi, có nghề truyền thống, những thanh
niên, phụ nữ tiêu biểu có trình độ và nhiệt tình ở cộng đồng địa phương.
- Quản lý chương trình GDCĐ:
Các chương trình của GDCĐ là các hoạt động học tập được tổ chức
nhằm đáp ứng nhu cầu cần gì học nấy của cư dân trong cộng đồng. Tại các
Cuộc hội thảo về việc phát triển GDCĐ, cụ thể là các TTHTCĐ do Bộ GD &
ĐT phối hợp với hội Khuyến học Việt Nam tổ chức tại Hà Nội đã thống nhất
có 4 loại chương trình học tập, đó là:
+ Chương trình học tập đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật và

thời sự.
+ Chương trình hoạt động về khoa học kỹ thuật sản xuất và đời sống…
+ Chương trình về đời sống, văn hóa, văn nghệ, thể thao, vệ sinh môi
trường…
+ Chương trình bồi dưỡng văn hóa cơ bản, ngoại ngữ, tin học…
- Quản lý các phương thức và hình thức tổ chức học tập tại các lớp
GDCĐ:
Phối kết hợp là phương thức học tập chủ yếu của các lớp GDCĐ nhằm
huy động nguồn lực (kinh phí, con người, nội dung hoạt động…) để duy trì và
phát triển các chương trình hoạt động giáo dục mang tính cộng đồng. Nội
dung hoạt động của các lớp giáo dục cộng đồng phải do cộng đồng và tất cả
các ban ngành, đoàn thể cùng xây dựng, cùng tổ chức thực hiện, cùng lo kinh
phí, tài liệu, báo cáo viên, giảng viên.
GDCĐ là hình thức giáo dục không chính quy. Do vậy, việc tổ chức
học tập, xây dựng các chương trình mang tính cộng đồng này phải đảm bảo
tính đa dạng, linh hoạt, mềm dẻo với nội dung học tập thiết thực, phù hợp với
điều kiện của đối tượng và địa phương; thủ tục học đơn giản nhưng phải đảm
bảo nguyên tắc quản lý nhà nước về giáo dục.
Hình thức tổ chức các chương trình GDCĐ rất đa dạng: Các lớp học
theo cấp lớp; có quy chế chặt chẽ để lấy các văn bằng như các lớp XMC; bổ


túc tiểu học; bổ túc trung học cơ sở; các lớp học theo chuyên đề; các buổi nói
chuyện, các lớp tập huấn chuyển giao khoa học, kĩ thuật; các hội thảo trao đổi
kinh nghiệm với các chủ đề khác nhau; các câu lạc bộ; xem phim video; tham
gia thực tế; tổ chức hội thi; các buổi tư vấn; tổ chức triển lãm…
- Quản lý các điều kiện đảm bảo chất lượng GDCĐ:
Để đảm bảo chất lượng của các chương trình GDCĐ, ngoài việc quản
lý tốt các chương trình học tập, cần phải quản lý tốt các yếu tố sau đây: đội
ngũ CBQL và GV; nguồn lực tài chính; CSVC và các phương tiện dạy học.

+ Đội ngũ CBQL phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng,
có kinh nghiệm quản lý, có tâm huyết, có thời gian và nhiệt tình; có đội ngũ
GV, hướng đẫn viên, báo cáo viên rất đa dạng nhưng phải đảm bảo chất
lượng, có sức thuyết phục cao.
+ Cơ sở vật chất để tiến hành cho các hoạt động GDCĐ sẽ do cấp ủy,
chính quyền xây dựng, phải sử dụng và quản lý tốt nguồn ngân sách hỗ trợ để
mua sắm các trang thiết bị cần thiết cho việc dạy học, giáo dục này.
- Kiểm tra, đánh giá:
Với chương trình đào tạo, hình thức học tập và đối tượng đa dạng, linh
hoạt và mềm dẻo như vây đòi hỏi việc quản lý, kiểm tra, đánh giá cũng phải
đa dạng.
1.2.4.2. Quản lý giáo dục cộng đồng đối với nhóm trẻ vị thành niên
Nhóm trẻ vị thành niên


Khái niệm Trẻ em

Theo công ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc “trẻ em có nghĩa là
mọi người dưới 18 tuổi trừ khi theo luật có thể áp dụng cho trẻ em, tuổi
trưởng thành được quy định sớm hơn". Trong trường hợp ở Việt Nam, luật
pháp qui định tuổi trưởng thành là 18 tuổi nên trẻ em được định nghĩa theo
đúng như khoảng tuổi của công ước quốc tế [38].


Trẻ vị thành niên


- VTN (người sắp đến tuổi trưởng thành) là những em đang ở giai đoạn
chuyển tiếp từ ấu thơ sang trưởng thành trong độ tuổi từ 10- 19 (theo quy định
của Tổ chức Y tế Thế giới). Đây là giai đoạn phát triển đặc biệt mạnh mẽ và

phức tạp nhất của cuộc đời mỗi con người. Biểu hiện của nó là xảy ra đồng
thời một loạt những thay đổi bao gồm: Sự phát triển mạnh mẽ về thể chất, sự
biến đổi điều chỉnh tâm lý và các quan hệ xã hội, bước đầu hình thành nhân
cách nên nảy sinh nhiều rối nhiễu về tâm lý nhất so với các lứa tuổi khác.
- Tuổi VTN còn được chia ra ba nhóm:
* Nhóm VTN sớm (10-13 tuổi)
* Nhóm VTN giữa (14-16 tuổi)
* Nhóm VTN muộn (17-19 tuổi)
- Sự phân chia các nhóm như vậy là dựa trên sự phát triển thể chất, tâm
lý xã hôi của từng thời kỳ, sự phân chia này cũng chỉ có tính chất tương đối.
Vì trong thực tế, yếu tố tâm sinh lý, phát triển thể lực của mỗi em có những
đặc điểm riêng biệt không hoàn toàn theo đúng như sự phân định
Vậy quản lý giáo dục cộng đồng đối với trẻ vị thành niên là việc tổ
chức, hướng dẫn, chỉ đạo các hoạt động, chương trình, dự án…có sự tham gia
của cộng đồng xã hội dành cho đối tưởng trẻ vị thành niên với mục tiêu rèn
luyện, dạy dỗ, giúp đỡ và tạo cơ hội học tập tốt nhất cho nhóm trẻ này.
1.3. Đặc điểm của giáo dục cộng đồng
1.3.1. Đặc trưng cơ bản của giáo dục cộng đồng
Đặc trưng cơ bản của giáo dục cộng đồng là hướng những hoạt động
của cơ sở giáo dục và đào tạo vào việc làm thỏa mãn mọi nhu cầu giáo dục và
đào tạo cho từng cá nhân và cộng đồng dân cư trong vùng kinh tế - xã hội có
những đặc thù riêng (về cấu trúc xã hội, trình độ phát triển kinh tế, sản xuất,
bản sắc và văn hóa truyền thống).
Hiệp hội HTCĐ ở British Columbia cho rằng HTCĐ có 8 đặc điểm
chính như sau:
- Có sự tham gia của các cư dân trong cộng đồng vào giải quyết vấn đề
và ra quyết định, thông thường qua hội đồng cộng đồng.


- Tìm kiếm và tạo cơ hội học tập suốt đời cho người học ở mọi lứa

tuổi.
- Sử dụng các nguồn lực của cộng đồng cho các chương trình giáo dục.
- Có cơ hội cho các cha mẹ tham gia vào quá trình học tập của con cái
và cuộc sống học tập.
- Sử dụng tối đa các phương tiện giáo dục có trong cộng đồng.
- Có sự phối kết hợp và cộng tác của nhiều cơ quan, tổ chức để cung
cấp dịch vụ giáo dục về xã hội, kinh tế, văn hóa, giải trí… cho mọi thành viên
của cộng đồng.
- Có quan hệ đối tác giữa doanh nghiệp, các nhà kinh doanh và nhà
trường cộng đồng để cải thiện bầu không khí học tập.
- Có các tình nguyện viên giúp đỡ để cung cấp, phân phát dịch vụ cho
cộng đồng.
1.3.2. Đối tượng của giáo dục cộng đồng
Đối tượng của giáo dục cộng đồng là sự giáo dục cho tất cả con người
Việt Nam và trên khắp thế giới, không phân biệt chủng tộc, màu da, ngôn
ngữ, địa vị, trình độ kinh tế- xã hội, giới tính, nghề nghiệp.
Khi tìm hiểu một cách sâu sắc và trên từng phương diện giáo dục thì có
thể thấy đối tượng của giáo dục cộng đồng rất đa dạng. Cụ thể như sau:
- Người lớn, những người đang công tác, có vị trí nghề nghiệp xã hội
nhưng vẫn có những nhu cầu học tập, bồi dưỡng thêm.
- Những trẻ em có hoàn cảnh, không đủ điều kiện để tham gia học tập
trong môi trường học tập chính quy.
- Những cá nhân, tập thể đã từng vi phạm pháp luật cần được uốn nắn,
giúp đỡ từ cộng đồng.
Đặc biệt, hiện nay giáo dục cộng đồng đang hướng tới và tập trung chủ
yếu vào đối tượng là trẻ em, đặc biệt là trẻ em vị thành niên. Bởi lẽ đây là lứa
tuổi hiếu động và có nhiều vấn đề phức tạp nhất của giai đoạn phát triển của
con người chúng ta.



×