Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận kinh tế phát triển nhom 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.17 KB, 23 trang )

Đề tài: CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NGÀNH CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY

Thực hiện: Nhóm 1
Thành viên
Nguyễn Thị Như Quỳnh
Hoàng Thị Duyên
Chu Minh Thắng
Lương Thị Duyên
Nguyễn Phương Linh
Trần Thu Hiền
Trịnh Ngân Hạnh
Đỗ Thanh Nga
Phạm Thị Phương Linh
Tô Ngọc Trang
Nguyễn Hải Anh
Trần Thị Ánh Ngọc

:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:


Mã sinh viên
1311110578
1311110158
1311110611
1311110159
1311110362
1311110232
1311110217
1311110467
1311110360
1311110697
1311110018
1214410144

1


MỤC LỤC

2


Mục lục hình

Mục lục bảng

3


LỜI MỞ ĐẦU

Hiện nay, trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đưa đất nước
dần đi lên Chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế Việt Nam đang có những biến và
chuyển thay đổi nhất định để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng nhanh hơn và phát
triển bền vững hơn, và một trong những yếu tố thay đổi quan trọng đó là chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc
hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật còn kém, trình độ sản xuất còn chưa phát triển hoàn
thiện và phân công lao động giữa các ngành nông nghiệp – công nghiệp – dịch
vụ còn chưa hợp lí. Vì vậy, để đạt được mục tiêu tăng trưởng và phát triển dài
hạn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
nói riêng đóng vai trò là yếu tố tất yếu, giúp sử dụng hiệu quả nguồn lực, nâng
cao năng suất lao động, từ đó cải thiện đời sống vật chất và văn hóa cho nhân
dân, góp phần thực hiện công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.
Nhận thức được tầm quan trọng đó của chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhóm
đã quyết định nghiên cứu đề tài “Chuyển dịch cơ cấu ngành của Việt Nam từ
năm 1986 đến nay”.
Dưới sự hướng dẫn của Thạc sĩ Hoàng Bảo Trâm, nhóm đã nghiên cứu và
đưa ra được cái nhìn tổng quan về sự thay đổi trong cơ cấu ngành và những kết
quả đạt được trong thời gian qua, từ đó đưa ra một số định hướng và giải pháp
hợp lí để nâng cao quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bài nghiên cứu gồm 3
phần lớn liên kết chặt chẽ:




Cơ sở lý luận
Phân tích sự dịch chuyển cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam từ năm
1986 đến nay
Đánh giá chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam từ
năm 1986 đến nay và một số đề xuất.


Tuy nhóm đã cố gắng tìm hiểu, chuẩn bị tốt nhất có thể nhưng chắc chắn
không thể tránh khỏi những sai sót và một số nhầm lẫn. Hi vọng độc giả thông
cảm và có những góp ý để nhóm hoàn thiện đề tài của mình hơn. Xin chân thành
cảm ơn!

4


NỘI DUNG
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Cơ cấu kinh tế
Tất cả các quốc gia đều hướng tới mục tiêu xây dựng và phát triển kinh tế
với tốc độ cao và bền vững, để thực hiện được mục tiêu đó nhất thiết phải xây
dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý.
Có nhiều khái niệm về cơ cấu kinh tế, từ những góc độ tiếp cận khác nhau,
chúng ta có thể nêu ra một số khái niệm sau đây:




Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí,
tỷ trọng tương ứng của chúng với mối quan hệ hữu cơ tương đối hợp
thành trong một giai đoạn nào đó, luôn vận động chuyển dịch trong mối
quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Do đó, khi nghiên cứu cơ
cấu kinh tế phải đứng trên quan điểm hệ thống và quan điểm phát triển.
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành của nền kinh tế, giữa
chúng có mối liên hệ hữu cơ, tương tác qua lại cả về số lượng lẫn chất
lượng trong điều kiện không gian và kinh tế - xã hội nhất định, bao gồm
nhiều yếu tố quan hệ chặt chẽ với nhau trong không gian và thời gian nhất

định cả về số lượng lẫn chất lượng. Về mặt lượng, cơ cấu kinh tế được
xác định bằng tỷ trọng giá trị của các bộ phận cấu thành các ngành, lĩnh
vực trong GDP. Tỷ trọng này phụ thuộc vào vị trí của mỗi bộ phận trong
nền kinh tế ở mỗi giai đoạn cụ thể nhất định.

Mặc dù có nhiều định nghĩa về cơ cấu kinh tế, xong tựu chung lại, chúng
ta có thể hiểu cơ cấu kinh tế là một tổng thể các bộ phận hợp thành cấu trúc của
nền kinh tế trong quá trình tăng trưởng sản xuất xã hội. Các bộ phận đó gắn bó
với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và biểu hiện ở các quan hệ tỷ lệ về số lượng,
tương quan về chất lượng trong không gian và thời gian nhất định, phù hợp với
những điều kiện kinh tế xã hội nhất định nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao.
Cơ cấu kinh tế luôn ở trong trạng thái vận động, do đó, việc nghiên cứu để
thấy được các quy luật khách quan trong sự vận động của lực lượng sản xuất xã
hội là cần thiết để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với những mục tiêu
kinh tế xã hội của từng thời kì nhất định.
2. Cơ cấu ngành kinh tế
a/ Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế là tương quan giữa các ngành trong tổng thể kinh tế,
thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng
giữa các ngành với nhau. Các mối quan hệ này được hình thành trong những
điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, luôn luôn vận động và hướng vào các mục
tiêu cụ thể.
5


Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội
chung của nền kinh tế và trình độ phát triển chung của lực lượng sản xuất. Thay
đổi mạnh mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trưng của các nước đang phát triển.
Có nhiều cách phân loại các ngành hợp thành trong cơ cấu ngành kinh tế,
chẳng hạn như sau:





Dựa theo tính chất tác động vào đối tượng lao động, có thể chia thành
khối ngành khai thác (nông nghiệp, các ngành công nghiệp khai thác),
khối ngành chế biến và khối ngành dịch vụ.
Dựa vào đặc điểm kinh tế - kỹ thuật, bao gồm: công nghiệp, xây dựng cơ
bản, nông nghiệp, dịch vụ.

Số lượng ngành kinh tế không cố định, nó luôn luôn được hoàn thiện theo sự
phát triển của phân công lao động xã hội. Hiện nay khi phân tích cơ cấu ngành
của một quốc gia, người ta thường phân tích theo 3 nhóm ngành hay 3 khu vực
đó là:




Ngành nông nghiệp (khu vực I) bao gồm 3 ngành nhỏ là nông nghiệp, lâm
nghiệp và ngư nghiệp.
Ngành công nghiệp (khu vực II) bao gồm ngành công nghiệp và xây
dựng.
Ngành dịch vụ (khu vực III) bao gồm ngành thương mại , bưu điện và du
lịch

b/Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế là một phạm trù động, nó luôn luôn thay đổi theo
từng thời kỳ phát triển bới các yếu tố hợp thành cơ cấu không cố định.
Có thể định nghĩa chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình chuyển
cơ cấu ngành kinh tế từ dạng này sang dạng khác phù hợp với sự phát triển của

phân công lao động xá hội và phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất,
phát triển khoa học- công nghệ. Đây không phải đơn thuần là sự thay đổi vị trí,
mà là sự thay đổi cả về lượng và chất trong nội bộ cơ cấu ngành. Việc chuyển
dịch cơ cấu này phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có, do đó nội dung của
chuyển dịch cơ cấu ngành là cải tạo cơ cấu cũ lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây
dựng cơ cấu mới tiên tiến hoàn thiện và phù hợp hơn.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là hiện tượng phổ biến ở các nước đang
phát triển như Việt Nam nhằm tiến tới một cơ cấu kinh tế hợp lý góp phần nâng
cao hiệu quả sản xuất và khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước. Mặt khác,
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chịu sự tác động của nhiều nhân tố, do đó việc
tìm hiểu, phân tích các nhân tố này là một công việc quan trọng, sẽ cho phép tìm
ra một cơ cấu ngành hợp lý, tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh
và bền vững.

6


3.Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Ngày nay, ứng với trình độ khoa học kĩ thuật và công nghệ ngày càng
phát triển mạnh mẽ, để chạy đua với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế
toàn cầu, hầu hết các quốc gia trên thế giới nói chung và các quốc gia có nền
kinh tế đang phát triển nói riêng đều lựa chọn phương án chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cụ thể như sau: Muốn
chuyển từ một nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế dựa trên cơ sở tiêu dùng
cao, cần phải trải qua các bước: chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế
công – nông nghiệp, để từ đó chuyển từ sang nền kinh tế công nghiệp – dịch vụ,
và cuối cùng là xã hội tiêu dùng cao với cơ cấu dịch vụ - công nghiệp. Nói cách
khác, cơ cấu ngành kinh tế đang chuyển dịch theo hướng từng bước tăng tỉ trọng
của khu vực II ( công nghiệp, xây dựng) và khu vực III ( dịch vụ), đồng thời
giảm tỉ trọng của khu vực I ( nông – lâm – ngư nghiệp).

Trong quá trình phát triển, tỉ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ đều có
xu hướng tăng. Tuy nhiên, tỷ trọng ngành dịch vụ ngày càng lấn át trong cơ cấu
kinh tế do tốc độ tăng của ngành dịch vụ có xu hướng ngày càng nhanh hơn tốc
độ tăng của ngành công nghiệp. Mức độ phát triển của mỗi quốc gia có mối
quan hệ tỉ lệ thuận với tỉ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ của quốc gia đó.
Xu hướng gia tăng năng suất: Tức là tỉ trọng nông nghiệp giảm đi nhưng
năng suất phải tăng lên. Để làm được điều đó, cần biết vận dụng và kết hợp phát
triển nâng cao một cách tối đa ba yếu tố quan trọng là lực lượng sản xuất,
chuyên môn hóa sản xuất và hợp tác hóa sản xuất.
Trong công nghiệp, tỷ trọng các ngành sản xuất sản phẩm có dung lượng
vốn cao chiếm một phần ngày càng lớn và tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn, tỉ
trọng các ngành có dung lượng lao động cao có xu hướng giảm.
Trong dịch vụ, tỷ trọng các ngành dịch vụ có chất lượng cao ngày càng gia tăng.
Xét tại nội bộ ngành, các loại hình dịch vụ liên quan đến lĩnh vực kết cấu hạ
tầng kinh tế và phát triển đô thị cũng có xu hướng được đẩy mạnh.
Đối với các nước khác nhau trên thế giới, xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế là như nhau, tuy nhiên, tốc độ chuyển dịch của mỗi nước đều khác nhau.
II.SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ CỦA VIÊT NAM TỪ
NĂM 1986 ĐẾN NAY
1.Chuyển dịch cơ cấu ngành theo GDP
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
(CNH,HĐH) đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là con đường tất yếu để
Việt Nam nhanh thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển trở thành một
quốc gia văn minh, hiện đại.
Nội dung và yêu cầu cơ bản của chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CCKT) ở
nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tăng nhanh tỷ trọng giá trị
trong GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng (gọi chung là công nghiệp) và
thương mại - dịch vụ (gọi chung là dịch vụ), đồng thời giảm dần tương đối tỷ
trọng giá trị trong GDP của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp
(gọi chung là nông nghiệp). Cùng với quá trình chuyển dịch của cơ cấu kinh tế

7


tất yếu sẽ dẫn đến những biến đổi kinh tế và xã hội theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá của cơ cấu các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế, các lực lượng
lao động xã hội, cơ cấu kinh tế đối nội, cơ cấu kinh tế đối ngoại…
a/Giai đoạn 1986 đến 2006

Hình 1 Tỷ trọng các ngành kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1986-2006
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
`
Với công cuộc đổi mới, cơ cấu ngành đã chuyển dịch đúng hướng và có
kết quả tích cực: tỷ trọng khu vực công nghiệp tăng cao, dịch vụ ổn định trong
khi nông nghiệp giảm đi khá mạnh. Nhìn chung, trong cơ cấu GDP, nếu tính từ
năm 1986 đến năm 2006, tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm đi hơn một nửa
từ 38,06% xuống còn 18,73%, tỷ trọng của ngành công nghiệp tăng lên gấp gần
2 lần từ 28,88% lên 38,58%, tỷ trọng ngành dịch vụ tăng lên trong một số năm
sau đó giảm đi rồi lại tăng lên nhưng xét cả giai đoạn thì đã tăng 9,63%, từ
33,06% lên 42,69%. Cơ cấu ngành đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,
từng bước thực hiện hiện đại hóa.
Tuy nhiên cơ cấu ngành trong những năm đổi mới này còn một số yếu
kém: Nếu nhìn vào tỷ trọng của các ngành trong quá trình chuyển dịch cơ cấu
thì chuyển dịch không chậm nhưng nếu nhìn vào thực chất của quá trình chuyển
dịch từ lĩnh vực có năng suất lao động thấp sang lĩnh vực có năng suất lao động
và giá trị gia tăng cao thì cơ cấu ngành của Việt Nam chuyển dịch chậm. Chẳng
hạn như nếu lấy mốc thời gian từ năm 1986 đến năm 2003, qua 17 năm cơ cấu
công nghiệp trong GDP mới nâng từ 28,88% lên 39,47%, bình quân mỗi năm
nâng lên 0,62%; cơ cấu dịch vụ trong GDP nâng từ 33,06% lên 37,99% bình
quân mỗi năm nâng lên 0,29%; cơ cấu nông nghiệp trong GDP giảm từ 30,06%
xuống 22,54% bình quân mỗi năm giảm 0,44%. Nhìn một cách tổng quát, cơ

cấu ngành của Việt Nam năm 2003 chỉ tương đương với cơ cấu ngành của các
nước trong khu vực Đông Nam Á và Châu Á vào những năm 1980 của thế kỉ
trước và vẫn lạc hậu hơn rất nhiều so với cơ cấu ngành năm 2001 của những
nước này.
Bảng 1 Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế của một số nước (%)
TT Nước

Nông
nghiệp

Công
nghiệp

Dịch vụ

1

Việt Nam (2003)

21,8

40,0

38,2

2

Nhật Bản (1999)

1,0


32,1

66,4

3

Đài Loan (2000)

1,9

30,9

67,2
8


4

Hàn Quốc (2001)

4,0

41,4

54,1

5

Malaysia (2001)


8,0

49,6

41,9

6

Thái Lan (2001)

10,0

40,0

49,8

7

Philippin (2001)

15,0

31,2

53,6

8

Trung Quốc (2001)


15,0

52,2

32,9

Trong giai đoạn này, cơ cấu ngành chuyển dịch theo hướng hiện đại còn
rất chậm chạp, thể hiện ở chỗ các ngành công nghiệp, dịch vụ và chế biến nông
sản trình độ công nghệ cao, hiện đại kể cả tin học, điện tử,… còn chiếm tỉ
trọng rất nhỏ trong các ngành. Sản phẩm của công nghiệp vẫn chủ yếu là lắp
ráp các linh kiện, cấu kiện; phụ tùng điện tử nhập khẩu (chiếm khoảng 50% giá
trị). Giá trị sản xuất công nghiệp trong giai đoạn này tăng đến 15% nhưng giá
trị gia tăng chỉ tăng 10%, trong tổng kim ngạch xuất khẩu có đến 78% là
nguyên liệu thô, than đá, nông, lâm, thủy sản sơ chế...
b/Giai đoạn từ 2007 đến 2014
Hình 2 Tỷ trọng các ngành giai đoạn 2007-2014
(Nguồn: tổng cục thống kê)
Có thể thấy trong giai đoạn này, cơ cấu ngành qua các năm có sự biến
động nhưng không đáng kể, và xét cả giai đoạn thì tỉ trọng các ngành nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trong GDP gần như không thay đổi: Nông nghiệp
vẫn chiếm tỉ trọng khoảng 17-18%, công nghiệp khoảng 37-38% và dịch vụ
khoảng 42-43%.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010 có đề ra
mục tiêu về phát triển kinh tế: Cơ cấu ngành trong GDP: khu vực nông nghiệp
khoảng 15 - 16%; công nghiệp và xây dựng 43 - 44%; dịch vụ 40 - 41%. Như
vậy thực tế trong 7 năm sau khi gia nhập WTO, cơ cấu GDP chuyển dịch không
rõ nét và không theo xu hướng từ nông lâm ngư nghiệp sang công nghiệp xây
dựng và dịch vụ như đã đặt ra trong Kế hoạch 2006-2010. Nguyên nhân của việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế không như mong muốn chủ yếu là do hai ngành công

nghiệp xây dựng và dịch vụ tăng trưởng thấp hơn kế hoạch. “Do ảnh hưởng của
suy thoái kinh tế toàn cầu nên chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành còn
chậm, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư nhận xét.
Mục tiêu của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kỳ 2011- 2015 là
giảm tỷ trọng của nhóm ngành nông-lâm nghiệp- thủy sản, tăng mạnh tỷ trọng
của nhóm ngành công nghiệp- xây dựng và giữ tỷ trọng của nhóm ngành dịch
9


vụ, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để đến năm 2020, nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Tuy nhiên, có thể nhận xét việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế (tính đến hết
năm 2012) nhìn tổng quát là chưa theo hướng của mục tiêu đề ra, do vẫn còn
một số hạn chế bất cập.
Trước hết là tỷ trọng trong GDP của nhóm ngành nông- lâm nghiệp- thủy
sản không những cao hơn so với mục tiêu đề ra, mà còn cao hơn cả năm xuất
phát (năm gốc so sánh) là năm 2010. Tỷ trọng này của nước ta vẫn thuộc loại
cao (đứng thứ 3/8 nước trong ASEAN, thứ 9/33 nước và vùng lãnh thổ ở châu
Á, 32/142 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới có số liệu so sánh).
Ở đây có khá nhiều vấn đề cần phải được bàn thảo. Việt Nam xuất phát từ
nông nghiệp đi lên, có tới 70% dân số sống ở nông thôn, gần một nửa lao động
đang làm việc ở nhóm ngành nông, lâm nghiệp- thủy sản. Nông nghiệp, nông
dân, nông thôn có vai trò quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế, được coi là “bệ
đỡ” mỗi khi đất nước gặp khó khăn từ bên ngoài… Do vậy, việc giảm tỷ trọng
trong GDP của nhóm ngành này cũng không dễ dàng, khi các nhóm ngành khác
của nền kinh tế đang gặp khó khăn, nhất là từ vài năm nay, nhóm ngành này đã
đóng góp tích cực trong việc kiềm chế lạm phát, kiềm chế nhập siêu, giải quyết
lao động, việc làm…
Thứ hai là tỷ trọng trong GDP của nhóm ngành công nghiệp- xây

dựng tuy có cao hơn năm 2010 một chút, nhưng còn cách khá xa so với mục tiêu
đề ra cho năm 2015.
Những năm từ 2007 trở về trước, nhóm ngành này tăng với tốc độ cao
nhất, chiếm tỷ trọng cao nhất trong 3 nhóm ngành và trở thành động lực, đầu tàu
tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế, nhưng mấy năm nay tăng thấp và chậm lại
(năm 2011 tăng 6,68%, năm 2012 tăng 5,75%, 6 tháng 2013 tăng 5,18%). Do
vậy tỷ trọng đã giảm xuống. Ngoài những khó khăn ở cả đầu vào và đầu ra, công
nghiệp phụ trợ chậm phát triển, sản xuất còn mang nặng tính gia công nên phụ
thuộc vào nhập khẩu. Trình độ thiết bị, kỹ thuật- công nghệ còn thấp, nên sức
cạnh tranh yếu.
Đáng chú ý, trong 5 ngành chi tiết của công nghiệp- xây dựng thì công
nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn nhất nhưng tốc độ tăng không cao, trong khi
tỷ trọng của ngành chi tiết này sẽ quyết định việc chuyển thành nước công
nghiệp hay không; GDP do ngành xây dựng tạo ra cũng tăng thấp, chủ yếu do
vốn đầu tư tính theo giá thực tế thì tăng, nhưng nếu loại trừ yếu tố giá thì giảm.
Thứ ba là tỷ trọng trong GDP của nhóm ngành dịch vụ đã giảm trong 4
năm qua và năm 2012 tuy thấp hơn năm 2010, nhưng triển vọng có thể đạt và
vượt mục tiêu đề ra cho năm 2015. Đáng lưu ý là nhóm ngành dịch vụ mấy năm
nay đều có tốc độ tăng cao nhất trong 3 nhóm ngành và cao hơn tốc độ tăng
chung (bình quân 2006- 2012 cả nước tăng 6,15%/năm, nhóm ngành nông - lâm
10


nghiệp - thủy sản tăng 3,47%/năm, nhóm ngành công nghiệp- xây dựng tăng
6,33%/năm, còn dịch vụ tăng 7,27%/năm).
Tuy nhiên, có 4 vấn đề trong nhóm ngành dịch vụ. Tỷ trọng nhóm ngành
này trong GDP của Việt Nam thuộc loại thấp trên thế giới (đứng thứ 5/8 nước
trong khu vực ASEAN, thứ 26/40 nước và vùng lãnh thổ ở châu Á và thứ
123/150 nước và khu vực trên thế giới có số liệu so sánh. Trong nhóm ngành
này, tỷ trọng của ngành chuyên môn khoa học công nghệ chỉ chiếm 1,15%; hoạt

động tài chính, ngân hàng, bảo hiểm chỉ chiếm 4,04%. Năng suất lao động của
nhóm ngành dịch vụ còn thấp xa so với nhóm ngành công nghiệp - xây dựng
(năm 2012 đạt 77,1 triệu đồng/người, chỉ bằng 67,5% của công nghiệp - xây
dựng). Tính chuyên nghiệp của một bộ phận lao động trong nhóm ngành này
còn thấp do lao động của các nhóm ngành khác kiêm nhiệm (khi nông nhàn, làm
ngoài giờ…).
Như vậy kết quả của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện nay được thể
hiện trên một số điểm. Việt Nam xuất phát từ nông nghiệp đi lên, do vậy, sự
chuyển dịch rõ nhất trong thời gian qua là tỷ trọng trong GDP của nhóm ngành
nông, lâm nghiệp - thủy sản giảm xuống, tỷ trọng của 2 nhóm ngành công
nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng lên.
Tỷ trọng của nhóm ngành công nghiệp - xây dựng tăng lên phù hợp với tư
duy chiến lược. Ngay sau khi an ninh lương thực được bảo đảm, đất nước cơ
bản thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, Việt Nam đã chuyển sang thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp - xây dựng nhờ đó đã có sự phát
triển liên tục với tốc độ cao, chiếm tỷ trọng lớn trong GDP (tăng từ 22,67% năm
1990 lên 40,31% năm 2004), trở thành động lực và đầu tàu tăng trưởng của toàn
bộ nền kinh tế.
Tỷ trọng của nhóm ngành dịch vụ trong GDP đã tăng lên và đã chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong 3 nhóm ngành. Đây là kết quả tích cực được nhận diện dưới
các góc độ khác nhau.
2. Chuyển dịch cơ cấu ngành theo lao động
Cùng với sự chuyển dịch giữa các ngành trong nền kinh tế, số lượng và tỉ lệ
lao động giữa các ngành cũng có sự thay đổi tương ứng.
Một cách tổng quan nhất, từ năm cuối thập niên 80 đến nay, tỉ lệ lao động
có xu hướng giảm trong ngành nông nghiệp và tăng lên đối với ngành công
nghiệp và dịch vụ.
Bảng 2 Cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam theo lao động từ 1990 đến 2014
1990
Ngàn

h
GD
(%)
P


1995
GD
P

2000


GD
P

2005


2010

GD L GD

P
Đ P

2014
GD
P



11


Nôn
g
nghi
ệp
Công
nghi
ệp
Dịch
vụ

38.
74

73. 27.1 71. 24.
0
9
3
53

68. 20. 5
2
7
6

18. 49. 18.
9

5
12

45.
3

22.
67

11. 28.7 11. 36.
2
6
4
73

12. 40. 1
1
8
7

38. 20. 38.
2
9
5

22.
3

38.
59


15. 44.0 17. 38.
8
6
3
74

19. 38. 2
7
5
5

42. 29. 43.
9
6
38

32.
4

(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Nhìn vào bảng trên ta thấy xu hướng chung của sự chuyển dịch cơ cấu
ngành theo lao động là giảm tỉ lệ lao động trong nông nghiệp và tăng tỉ lệ lao
động trong 2 ngành công nghiệp và dịch vụ, nhưng tốc độ thay đổi của lao động
trong từng ngành và GDP của ngành đó trong tổng nền kinh tế qua các năm là
khác nhau. Từ năm 1990 đến năm 2014:
Tỉ lệ lao động trong ngành nông nghiệp giảm từ 73% xuống còn 45.3%,
giảm 1,6 lần, trong khi đó tốc độ giảm GDP của ngành nông nghiệp trong tổng
GDP cả nước là 2.14 lần, từ 38.74% xuống còn 18.12%
Tỉ lệ lao động trong ngành công nghiệp tăng lên từ 11.2% lên 22.3% - tăng

lên khoảng 199% so với năm 1990; tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của GDP của
ngành công nghiệp trong tổng GDP của cả nước từ năm 1990 đến năm 2014 chỉ
đạt 169.8%
Trong ngành dịch vụ, tỉ lệ lao động cũng tăng với tốc độ trên 200% từ
15.8% năm 1990 lên đến 32.4% năm 2010, song tốc độ tăng trưởng GDP của
ngành dịch vụ trong tổng GDP của cả nước trong cùng thời gian đó chỉ đạt
112.4%.
Về cơ bản, hướng dịch chuyển này của lao động theo từng ngành kinh tế là
đúng theo định hướng của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xây dựng Việt
Nam trở thành nước công nghiêp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, theo những phân
tích trên thì tốc độ chuyển dịch lao động trong từng ngành còn chậm so với tốc
độ chuyển dịch cơ cấu từng ngành trong GDP của cả nước, đặc biệt là trong
nông nghiệp. Hơn nữa, tỉ lệ lao động trong từng ngành không tương ứng với tỉ lệ
đóng góp của ngành đó trong tổng thể nền kinh tế. Năm 2014, cả nước có
khoảng 53.4 triệu lao động, trong số đó có đến 45.3% tương đương khoảng 24,2
triệu người trong độ tuổi lao động làm việc trong ngành nông nghiệp tuy nhiên
chỉ tạo ra được 18,12% GDP của cả nước. Điều này cho thấy thực tế lao động
nông nghiệp hiện tại ở Việt Nam có năng suất còn thấp và khả năng giải phóng
lao động sống kém.

12


Như vậy, tính đến hết quý I năm 2015, cả nước có gần 70 triệu người từ 15
tuổi trở nên, trong đó có 53.6 triệu người thuộc lực lượng lao động, với 41.7%
lao động làm việc tại ngành nông nghiệp, 24.7% thuộc ngành công nghiệp – xây
dựng và 33.6% còn lại thuộc ngành dịch vụ. Song cơ cấu lao động theo ngành
kinh tế có sự khác biệt giữa các khu vực.

Hình 3 Phân bố phần trăm lao động có việc làm

(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Quan sát biểu đồ ta thấy:
Về nông nghiệp, một điều đáng chú ý là 2 khu vực Tây Nguyên và Trung
du và miền núi phía Bắc với tỉ trọng lao động trong ngành nông nghiệp rất cao,
lần lượt là 70.9% và 63.8%. Ngoài ra, còn có khu vực Bắc Trung Bộ và duyên
hải miền Trung với tỉ trọng lao động trong nông nghiệp cao hơn trung bình cả
nước là 48.8%.
Thành phố Hồ Chí Minh là khu vực có tỉ trọng lao động trong nông nghiệp
rất thấp, chỉ chiếm 2.1% tổng số lao động trong khu vực, nhưng tỉ trọng lao
động trong ngành dịch vụ lại cao nhất cả nước với 60.4%. Dễ hiểu khi thành phố
Hồ Chí Minh và Hà Nội là hai trung tâm dịch vụ lớn nhất cả nước.
Đông Nam Bộ là khu vực có tỉ trọng lao động trong công nghiệp cao nhất
cả nước, chiếm 43.7% tổng số lao động, cao thứ hai là đồng bằng song Cửu
Long và tiếp đến là thành phố Hồ Chí Minh.
Cuối cùng, xét về năng suất lao động, năng suất lao động của Việt Nam liên
tục tăng trong thời gian qua, bình quân đạt 3,7%/năm trong giai đoạn 2005 2014, góp phần thu hẹp dần khoảng cách so với năng suất lao động của các nước
trong khu vực. Năm 2014, năng suất lao động xã hội theo giá hiện hành của
13


toàn nền kinh tế ước tính đạt 74,3 triệu đồng/lao động (tương đương khoảng
3515 USD/lao động), trong đó năng suất lao động khu vực nông, lâm nghiệp
và thủy sản đạt 28,9 triệu đồng/lao động, bằng 38,9% mức năng suất lao động
chung của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 133,4 triệu
đồng/lao động; khu vực dịch vụ đạt 100,7 triệu đồng/lao động. Tính theo giá
so sánh năm 2010, năng suất lao động toàn nền kinh tế năm 2014 ước tính tăng
4,3% so với năm 2013, trong đó năng suất lao động khu vực nông, lâm nghiệp
và thủy sản tăng 2,4%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,3%; khu vực
dịch vụ tăng 4,4%. Tuy nhiên, hiện nay năng suất lao động Việt Nam chỉ bằng
1/18 năng suất lao động của Singapore; bằng 1/6 của Malaysia và bằng 1/3 của

Thái Lan và Trung Quốc.
3. Chuyển dịch cơ cấu ngành theo vốn
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, các nước đang phát triển ở khu vực
Đông Á và Đông Nam Á đều lần lượt tiến hành cải cách kinh tế toàn diện trên
nhiều lĩnh vực. Trong đó cơ cấu đầu tư có một ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp
đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự hình thành một cơ cấu đầu tư
hợp lý tạo ra tiền đề cho việc xác lập một cơ cấu kinh tế hiệu quả, phù hợp với
sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.Một trong những mục tiêu phát triển dài
hạn của các quốc gia này là dựa trên việc tái cơ cấu nguồn vốn ĐTPT xã hội
nhằm đạt được cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả. Chính sách đầu tư không chỉ là
việc huy động vốn mà còn là việc phân bổ các nguồn vốn sao cho đạt hiệu quả
kinh tế lớn nhất.
a/Giai đoạn 1986 đến 2006
Năm 1986 Nghị quyết đại hội Đảng khóa VI đặt ra ba mục tiêu lớn cho kế
hoạch 5 năm 1986-1990, trong đó chú ý việc tái cơ cấu đầu tư nhằm khai thác có
hiệu quả các nguồn lực lao động, đất đai và cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện có. Ba
ngành trọng yếu là nông – lâm – ngư nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng và cuối
cùng là xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản (XDCB). Đặc biệt trong giai đoạn 1986 1990, ngoài nguồn vốn đầu tư của ngân sách, còn có nguồn vốn tự có của xí
nghiệp, vốn khấu hao cơ bản để lại, vốn hợp tác, vốn tự vay tự trả của các
ngành, các địa phương, các cơ sở, vốn tín dụng của ngân hàng đầu tư và phát
triển. Tính trung bình cứ 1 đồng vốn XDCB của ngân sách thì có 0,22 đồng vốn
huy động khác. Ngoài ra đầu tư nước ngoài trở thành nguồn vốn bổ sung quan
trọng. Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 là văn bản luật đầu tiên góp phần tạo ra
khung pháp lý cho việc hình thành nền kinh tế thị trường tại Việt Nam. Tính đến
hết tháng 9/1991 có 391 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với tổng
giá trị là 2,47 tỷ USD, đạt tỷ lệ tăng trưởng 28%/năm, tập trung chủ yếu vào
công nghiệp và dịch vụ, đầu tư cho nông lâm ngư nghiệp rất hạn chế 12,5%
(nông nghiệp chưa đến 1% tổng giá trị đầu tư).
Hình 4 Cơ cấu thực hiện vốn đầu tư của Nhà nước 1986-1990 theo ngành
kinh tế

14


(Nguồn: Niên giám thống kê 1989 – NXB Thống kê)
Có thể thấy tỷ trọng vốn đầu tư của ngành công nghiệp luôn ở mức cao,
trong khi tỷ trọng dịch vụ giảm dần từ 38,36% (1986) xuống còn 31,6% (1990).
Bên cạnh đó ngành nông nghiệp (nông-lâm-ngư nghiệp) chiếm tỷ trọng rất thấp
so với vị trí ngành mũi nhọn trong mục tiêu đã đề ra. Trong khi đó tỷ trọng GDP
của nông nghiệp vẫn cao nhất, chiếm 41,5% (1990) còn công nghiệp thì chỉ tăng
trưởng một cách chậm chạp. Điều này cho thấy trong giai đoạn 1986-1990 việc
chuyển đổi cơ cấu vốn vẫn còn diễn ra chậm và chưa hiệu quả, đặt nặng đầu tư
cho công nghiệp nặng trong khi nguồn vốn còn thiếu và khả năng quản lý còn
yếu kém. Thành phần kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo nhưng hiệu quả
hoạt động còn thấp, nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, gây lãng phí lớn.
Bắt đầu từ năm 1990 Nhà nước bắt đầu giảm dần gánh nặng bao cấp về
vốn vay. Các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước có nhu cầu đầu tư phải tự tìm
nguồn vốn trong và ngoài nước theo hướng dẫn của Nhà nước. Từ năm 1992
Việt Nam bắt đầu đẩy mạnh mở cửa thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Trong
giai đoạn 1990-1995 tích lũy nội bộ nền kinh tế bắt đầu tăng lên, cùng với số
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khiến cho tổng vốn đầu tư trong nước tăng lên
cả về số lượng và tỷ trọng so với GDP. Trong vòng 5 năm tổng vốn đầu tư đã
tăng lên gấp 5 lần (từ 13470 tỷ đồng lên 72447 tỷ đồng). Trong đó vốn đầu tư
nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn nhất, vốn đầu tư nhà nước có tăng nhưng tăng
chậm còn vốn đầu tư ngoài quốc doanh thì giảm dần.
Hình 5 Tỷ lệ vốn đầu tư theo thành phần kinh tế Việt Nam 1991-1995
(Nguồn: Niên giám thống kê 1995)
Mặc dù tăng trưởng không ổn định qua các năm, nhưng xét về tổng thể thì
nguồn vốn nhà nước vẫn chiếm vai trò quan trọng trong tổng vốn đầu tư giai
đoạn 1991-1995. Ngược lại tỷ trọng vốn ngoài nhà nước trong cơ cấu tổng
ĐTPT xã hội có xu hướng giảm dần và ngày càng nhanh. Điều này chủ yếu do

các doanh nghiệp trong nước không kịp thời thích ứng với cơ chế mới, tỏ ra lạc
hậu và khả năng cạnh tranh thấp. Tuy nhiên đây vẫn là nguồn vốn quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hội
nhập quốc tế. Đầu tư nước ngoài là khu vực có vốn tăng trưởng mạnh và nhanh
nhất. Năm 1992, Việt Nam khôi phục quan hệ bình thường vốn bị gián đoạn từ
năm 1976 với Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân
hàng Phát triển châu Á (ADB).
Điều này góp phần làm tăng các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Tổng số vốn đầu tư được cấp phép trong 5 năm là 18,476 triệu USD, chiếm
32,3%tổng số vốn ĐTPT xã hội. Từ 1991 đến 1995 số vốn này đã tăng lên 5,5
lần.
15


Để đẩy mạnh quá trình huy động vốn, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước bắt đầu được thực hiện thí điểm từ năm 1992. Tuy nhiên, tới năm 1996
mới có 10 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá. Năm 1988, Nhà nước ban
hành Nghị định 44/CP quy định rõ đối tượng, hình thức và giá trị doanh nghiệp
cổ phần hóa nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá. Từ năm 2000, Nhà nước áp
dụng các biện pháp chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang các hình thức sỡ
hữu và kinh doanh khác như: giao, bán, khoán, cho thuê, kể cả sáp nhập và giải
thể đối với các doanh nghiệp nhà nước quy mô nhỏ. Tuy nhiên tổng số vốn
doanh nghiệp mà nhà nước nắm giữ chỉ giảm rất ít, từ 6-8%. Điều này khiến cho
việc quản lý càng thêm khó khăn khi chế độ bao cấp của nhà nước đối với doanh
nghiệp trên thực tế không được cắt giảm mà còn được tái lập dưới nhiều hình
thức. Các doanh nghiệp nhà nước vẫn duy trì tình trạng hoạt động cồng kềnh,
chi phí cao kém hiệu quả, gây lãng phí rất lớn.
(Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam)
Đầu tư trong giai đoạn này tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và
dịch vụ, lượng vốn đầu tư vào các ngành nông-lâm-ngư nghiệp có tăng nhưng về

cơ bản vẫn còn thấp. Tỷ trọng vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp tiếp tục
giảm, từ mức 10,3% giai đoạn 1996-2000 xuống còn hơn 8% vào giai đoạn
2001-2007. Ngược lại, tỷ trọng vốn đầu tư vào ngành công nghiệp và dịch vụ
đều tăng nhẹ (khoảng 1%). Công nghiệp là ngành nắm giữ tỷ trọng vốn đầu tư
cao nhất, tăng từ 41,8% lên 42,3%. Dịch vụ tăng từ 21,8% lên 22,3% giai đoạn
2001-2007. Trong đó các lĩnh vực có tỷ lệ tăng trưởng cao nhất là giáo dục – đào
tạo và y tế.
b/ Giai đoạn 2007 đến 2013
Từ năm 2007 đến nay quá trình tái cơ cấu vốn được diễn ra tương đối
mạnh mẽ hơn so với thời kỳ trước. Một là trải qua 20 năm đổi mới, nguồn vốn
tích lũy đã tăng lên. Hai là Việt Nam đã tiến hành tham gia và đàm phán nhiều
Hình 6 Biểu đồ cơ cấu vốn đầu tư theo thành phần kinh tế Việt Nam 19952007
hiệp định quốc tế song phương và đa phương, đẩy mạnh xuất nhập khẩu tạo
nguồn thu ngân sách, tăng thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ
nước ngoài. Việc tái cơ cấu một loạt các tổ chức tín dụng, tái cơ cấu đầu tư công
và tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) tạo động lực lớn để huy động
nguồn vốn phát triển.
Hình 7 Biểu đồ Tỷ lệ vốn đầu tư theo thành phần kinh tế Việt Nam 20072013
(Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam)
16


Từ năm 2007-2013 tổng lượng vốn ĐTPT xã hội tăng gấp đôi lên
1091136 tỷ đồng. Trong đó lượng vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước tăng
trưởng ổn định qua các năm cả về số lượng lẫn tỷ trọng, mặc dù không còn
chiếm tỷ trọng cao như giai đoạn trước (40,4%). Ngược lại cả khu vực ngoài nhà
nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đều có tỷ lệ tăng trưởng không ổn
định, có năm còn ở mức tăng trưởng âm. Điều này một phần do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng kinh tế 2008-2009 khiến cho tỷ lệ tích lũy vốn trong nước và
lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đột ngột giảm. Theo đó trong hai năm

2008-2009 lượng vốn đầu tư tăng trưởng chậm hơn, vốn đầu tư nước ngoài
giảm. Đối với vốn đầu tư nước ngoài đà giảm này còn tiếp tục cho đến năm
2012 thì tăng trưởng nhẹ thêm 2%, đạt mức 24% tổng số vốn đầu tư. Còn khu
vực ngoài nhà nước hồi phục sớm hơn nhưng cũng tăng trưởng rất chậm. Tuy
nhiên đây vẫn là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu vốn đầu tư, đặc biệt trong
hai năm gần đây nguồn vốn đầu tư ngoài nhà nước đã dần đuổi kịp nguồn vốn
đầu tư nhà nước với khoảng cách chênh lệch rất nhỏ (37,6% so với 40,4%). Mặt
khác, về tổng thể giai đoạn này tốc độ tăng vốn khá chậm so với giai đoạn trước,
một phần là do chính sách giảm đầu tư công của Chính phủ, tăng cường rà soát,
chống thất thoát, lãng phí, tăng hiệu quả vốn đầu tư. Ngoài ra Nhà nước chưa
thực sự nới lỏng các chính sách đầu tư nước ngoài khiến cho nhà đầu tư nước
ngoài gặp nhiều khó khăn khi góp vốn tại thị trường Việt Nam.
Kết luận: Bức tranh tổng thể về ĐTPT trong những năm vừa qua ở nước ta có
biểu hiện chưa tích cực, trong đó ĐTPT của khu vực kinh tế nhà nước đóng vai
trò rất quan trọng. Nguồn vốn này góp phần thu hút được nhiều nguồn lực trong
nước và ngoài nước cho ĐTPT, góp phần tạo nên những thành tựu phát triển
kinh tế quan trọng. Bên cạnh những thành tích đã đạt được, hiệu quả đầu tư sử
dụng nguồn vốn nhà nước trong thời gian qua chưa cao. Chỉ số ICOR của kinh
tế Việt Nam từ mức 3,3 giai đoạn 1991 - 1995 đã tăng lên đến mức 7,04 giai
đoạn 2001 - 2005 và mức 6,18 giai đoạn 2006 - 2010. Nhờ vào những biện pháp
tái cơ cấu, tập trung vào nâng cao hiệu quả đầu tư, hệ số ICOR trong hai năm
2011 - 2012 đã giảm đáng kể, đạt mức khoảng 4,6. Bên cạnh đó, vẫn tồn tại
không ít dự án đầu tư có hiệu quả thấp, không đáp ứng được yêu cầu phát triển
kinh tế và xã hội, cá biệt có những dự án, nội dung đầu tư trùng lắp, chồng chéo,
hoặc gây cản trở, làm mất hiệu quả của các dự án đã được đầu tư trước đó.
Trong thời gian tới chúng ta cần đẩy mạnh tái cơ cấu nguồn vốn ĐTPT, khắc
phục tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải và tình trạng các dự án chậm tiến độ,
gây lãng phí, thất thoát lớn.
III.ĐÁNH GIÁ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ CỦA VIỆT
NAM TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY

1.Đánh giá chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam từ năm 1986
đến nay
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một nội dung quan trọng trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đồng thời nó cũng là một tiêu chí
để đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế.Kể từ khi tiến hành công nghiệp hóa
17


theo cơ chế thị trường (năm 1986 ) đến nay, cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta đã
có những biến đổi nhất định.Qua quá trình phân tích cụ thể ở trên, chúng ta có
thể rút ra một số đánh giá chung về thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Việt Nam từ năm 1986 đến nay; để trên cơ sở đó đề ra một số đề xuất và giải
pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế của nước ta trong những năm tiếp theo.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế từ sau khi đổi mới đã đạt được
nhiều kết quả và thành tựu
Cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch đúng hướng, theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa cùng với tốc độ tăng cao liên tục và khá ổn định của GDP.Cơ
cấu ngành kinh tế đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực: giảm tỷ trọng
của ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm cho thay đổi cơ cấu lao động nước ta
theo xu hướng công nghiêp hóa, hiện đại hóa.
Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch theo hướng mở cửa, hội nhập vào kinh
tế toàn cầu.
Kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ sau khi đât nước đổi mới là một
trong những nguyên nhân quan trọng và cơ bản nhất đưa đến các kết quả và
thành tựu tăng trưởng kinh tế khả quan.Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế đa góp phần tạo ra những tiền đề vật chất trực tiếp giúp chúng ta giữ được các
cân đối vĩ mô của nền kinh tế như vốn tích lũy, cán cân thanh toán quốc tế,..góp
phần bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế xã hội theo hướng bền vững.Các

chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, chương trình đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hộ cho các vùng khó khăn, các cương trình tín
dụng cho người nghèo,… đã mang lại kết quả rõ rệt.Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm
mạnh, chỉ còn 14,7% năm 2007 và năm 2008, còn 13,1 %.Chỉ số phát triển con
người HDI cũng không ngừng được cải thiện thứ bậc.
Nhìn chung cơ cấu ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ
đã chuyển dịch theo hướng phát triển nhiều ngành nghề, sản phẩm đảm bảo tăng
trưởng liên tục , phát huy lợi thế so sánh, gắn với nhu cầu thị trường.
Trong nông nghiệp, có sự dịch chuyển cơ cấu, mùa vụ, cây trồng và vật
nuôi ,..tích cực trồng cây nguyên liệu phục vụ cho các cơ sở chế biến, chăn nuôi
phát triển khá nhanh, nuôi trồng thủy sản tiến bộ nhanh, sản xuất lương thực,
thực phẩm gia tăng giá trị xuất khẩu.Trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ có
mức tăng trưởng cao, đặc biệt là khu vực ngoại quốc doanh.
Chuyển dịch cơ cấu ngành còn bộc lộ nhiều tồn tại và yếu kém
Mặc dù đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận như trên nhưng quá
trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam từ sau đổi mới vẫn còn bộc
lộ rất nhiều tồn tại và yếu kém.Cụ thể là:
18


Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta vẫn chưa theo kịp được xu
hướng của thế giới là tăng tỷ trọng ngành dịch vụ và giảm tỷ trọng các ngành
sản xuất.Có thể nhận thấy tốc độ tăng trưởng của các ngành dịch vụ vẫn chưa có
sự vượt trội , thậm chí có những năm còn tụt giảm và tốc độ này đang chậm hơn
so với ngành công nghiệp.
Sự thay đổi cơ cấu đang có dấu hiệu trị trệ.Tỷ trọng ngành nông nghiệp
đang giảm nhưng vẫn chỉ từ từ và chậm, còn ngành dịch vụ thì chưa thấy tăng
đáng kể.Nếu Việt Nam vãn duy trì tình trạng này thì nguy cơ là chúng ta sẽ
không thể có một cơ cấu ngành vững chắc cho tăng trưởng dài hạn trong tương
lai.

Cơ cấu nội bộ trong ngành công nghiệp chuyển biến chậm.Đóng góp cho
tăng trưởng công nghiệp vẫn chủ yếu là ngành công nghiệp khai thác khoáng
sản.Sản phẩm công nghiệp chủ yếu vẫn là lắp ráp các linh kiện, phụ tùng điện tử
nhập khẩu, giá trị tỷ trọng sản phẩm chế tạo, chế biến còn khiêm tốn.,…
Ngành dịch vụ tuy có sự phát triển vượt bậc so với thời kì trước đổi mới
nhưng còn ở mức thấp so với yêu cầu của sự phát triển kinh tế và so với trình độ
chung của khu vực và thế giới.Còn chưa phát triển các ngành dịch vụ theo chiều
sâu và bền vững như công nghệ thông tin, giáo dục,…
Mối quan hệ tương tác giữa các ngành, các bộ phận trong cơ cấu kinh tế
còn rời rạc, kém hiệu quả.Biểu hiện ở quan hệ hợp tác, liên kết kinh tế giữa các
ngành , các doanh nghiệp vẫn chưa phát triển.Các ngành, các doanh nghiệp vẫn
còn tư tưởng khép kín trong sản xuất kinh doanh, chưa chú trọng hợp tác, liên
kết, giữa sản xuất nguyên liệu và chế biến, giữa sản xuât với thương mại, tài
chính,ngân hang, giữa sản xuất với đào tạo, nghiên cứu khoa học,…
2.Đề xuất môt số giải pháp để nâng cao chất lượng quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong thời gian tới
Tăng mạnh hơn nữa tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản
phẩm quốc nội (GDP). Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH ở nước ta
trước hết chính là quá trình phát triển mạnh các ngành nghề phi nông nghiệp,
thông qua đó giảm bớt lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, tăng khả năng tích
luỹ cho dân cư. Đây lại chính là điều kiện để tái đầu tư, áp dụng các phương
pháp sản xuất, công nghệ tiên tiến hiện đại vào sản xuất, trong đó có cả sản xuất
nông nghiệp. Kết quả là, tất cả các ngành kinh tế đều phát triển, nhưng ngành
công nghiệp và dịch vụ cần phát triển nhanh hơn, biểu hiện là tăng tỷ trọng của
sản phẩm công nghiệp và dịch vụ trong GDP.
Hình thành các vùng kinh tế dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng, gắn với
nhu cầu của thị trường. Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là quá trình
chuyển biến căn bản về phân công lao động xã hội theo lãnh thổ. Xoá bỏ tình
trạng chia cắt về thị trường giữa các vùng; xoá bỏ tình trạng tự cung tự cấp, đặc
biệt là tự cung, tự cấp về lương thực của từng vùng, từng địa phương. Mỗi địa

phương cần đặt mình trong một thị trường thống nhất, không chỉ là thị trường cả
19


nước mà còn là thị trường quốc tế, trên cơ sở đó xác định những khả năng, thế
mạnh của mình để tập trung phát triển, tham gia vào quá trình phân công và hợp
tác lao động có hiệu quả.
Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH gắn với quá trình hình thành
các trung tâm kinh tế thương mại, gắn liền với quá trình đô thị hoá. Mặt khác,
việc quy hoạch xây dựng các khu đô thị, trung tâm kinh tế, thương mại có ảnh
hưởng trực tiếp trở lại tới quá trình chuyển dịch CCKT.
Giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng số lao
động xã hội. Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là quá trình phân công
lao động xã hội, là quá trình chuyển dịch lao động từ ngành nông nghiệp sang
các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đây là giải pháp vừa cấp bách, vừa triệt để
để giải quyết tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn hiện nay, đồng thời là hệ quả
tất yếu của quá trình chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH.
Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH,HĐH phải theo định hướng dẫn
đến phát triển bền vững không chỉ vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà
phải vì mục tiêu phát triển kinh tế mà bao trùm lên cả là vì mục tiêu phát triển
bền vững, trong đó có một cấu thành bộ phận rất quan trọng và không thể thiếu
là bảo vệ môi trường. Từ đó cho thấy, các nhà lãnh đạo, nhà quản lý cho đến các
doanh nghiệp, các địa phương, cơ sở… cần phải hết sức chú ý thực hiện tốt vấn
đề này, tránh tình trạng vì lợi nhuận kinh tế trước mắt dẫn đến phá huỷ nghiêm
trọng môi trường sinh thái tự nhiên như vừa qua và hiện nay công luận vẫn đang
tiếp tục lên án về không ít các trường hợp doanh nghiệp đã vi phạm nghiêm
trọng pháp luật bảo vệ môi trường.
Tăng cường quản lý và điều hành nhà nước theo hiến pháp và pháp luật,
cải cách hành chính công, bảo đảm an ninh chính trị. Nâng cao năng lực cán bộ
công chức đủ khả năng về chuyên môn để quản lý và điều hành, đủ đạo đức

phẩm hạnh để tạo dựng lòng tin của nhân dân. Lực lược cán bộ quyết sách có đủ
tầm để xây dựng chiến lược và cổ động toàn dân thực hiện tiến lên bước vào giai
đoạn mới phát triển và hưng thịnh quốc gia cả về kinh tế và quốc phòng, văn hóa
văn minh và tiến bộ. Tăng cường chế tài và áp dụng xử phạt hành chính đối với
các trường hợp vi phạm. Chú trọng hơn công tác kiểm tra, giám sát quá trình
thực hiện chính sách. Xắp xếp lại tổ chức quản lý nhà nước đối với lĩnh vực của
ngành cần tập trung trọng điểm theo mục tiêu chiến lược của quốc gia, tránh
phân cấp theo địa giới hành chính tạo manh mún và tự phát, làm mất tác dụng
tập trung và phát huy tối đa hiệu quả của sản xuất theo quy mô.
Lựa chọn phát triển các ngành công nghiệp phục vụ cho nông nghiệp cả đầu vào
lẫn đầu ra để đưa sản phẩm nông nghiệp thành hang hóa công nghiệp mà Việt
Nam có tiềm năng và lợi thế. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ
để tránh phụ thuộc nguyên vật liệu nhập.
20


Tập trung phát triển chất lượng nguồn nhân lực. Phát triển mạnh hệ thống
đào tạo nghề và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với nhu cầu
thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch lao động theo cung cầu
của thị trường lao động; đẩy mạnh xuất khẩu lao động, khuyến khích người lao
động tự kiếm việc làm, tạo cơ hội bình đẳng về đào tạo và lựa chọn việc làm cho
người
laođộng.

21


KẾT LUẬN
Có thể thấy, kể từ khi tiến hành công nghiệp hóa theo cơ chế thị trường
đến nay, chuyển dịch cơ cấu ngành đã có những biến đổi nhất định và đem lại

những kết quả rõ rệt. Chuyển dịch cơ cấu ngành đã đi đúng hướng, thúc đẩy quá
trình tăng trưởng và phát triển theo xu hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, là
một trong những nguyên nhân quan trọng và cơ bản nhất mang đến những thành
tựu và tăng trưởng kinh tế khả quan. Tuy nhiên những biến chuyển này vẫn chưa
rõ rệt và còn tồn tại những mặt yếu kém như sự thay đổi cơ cấu còn chậm chạp,
chưa bắt kịp được tốc độ và xu hướng chung của khu vực và thế giới, tốc độc
biến chuyển có dấu hiệu trì trệ, và sự tương tác giữa các bộ phận trong nền kinh
tế còn rời rạc, chưa thực sự hiệu quả…
Vì vậy, sự chuyển dịch cơ cấu cần đi theo một số giải pháp đúng đắn để
kích thích quá trình thay đổi cơ cấu ngành không chỉ về lượng mà còn về chất,
phù hợp với bối cảnh kinh tế toàn cầu nói chung và nền kinh tế đất nước nói
riêng, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và tạo đà phát triển bền vững cho nền kinh tế.
Tuy nhóm đã có những đề xuất về giải pháp để nâng cao chất lượng và
chuyển dịch cơ cấu ngành, nhưng chỉ mang tính chất đóng góp và tham khảo
cho hoạt động xây dựng chính sách. Nhóm rất muốn sẽ nghiên cứu sâu hơn và hi
vọng sẽ mang lại những cái nhìn sâu hơn về đề tài này.

22


Danh mục tài liệu tham khảo
-

-

-

Giáo trình kinh tế phát triển, Ts Phạm Ngọc Linh, Nguyễn Thị Kim Dung,
Trường đại học Kinh tế Quốc dân.
Tổng cục Thống kê, Tình hình kinh tế-xã hội năm 2003. H.12-2003; tr.3.

Tổng cục Thống kê, Số liệu kinh tế-xã hội các nước, vùng lãnh thổ trên
thế giới. NXB Thống kê, H.12-2002; tr55-84.
Bản tin cập nhật thị trường lao động số 5 – Quý I năm 2015;
Báo cáo lao động việc làm năm 2012, 2013, 2014, và quý I – 2015 – Tổng
cục thống kê.
Báo cáo: “Dân số và lao động” năm 2013.
Niên giám thống kê năm 2013, 2014 – Tổng cục thống kê.
/> />%C3%A0+lao+%C4%91%E1%BB
%99ng&px_type=PX&px_language=vi&px_tableid=02.+D%C3%A2n+s
%E1%BB%91+v%C3%A0+lao+%C4%91%E1%BB%99ng
%5cV_02.33.px&layout=tableViewLayout1
/>%C3%A0+lao+%C4%91%E1%BB
%99ng&px_type=PX&px_language=vi&px_tableid=02.+D%C3%A2n+s
%E1%BB%91+v%C3%A0+lao+%C4%91%E1%BB%99ng
%5cV_02.34.px&layout=tableViewLayout1
/>
23



×