Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

tiểu luận kinh tế phát triển so sánh nghiên cứu về đất nước hungary

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.83 KB, 54 trang )

**** TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ****
KHOA KẾ HOẠCH & PHÁT TRIỂN
______&&&_____

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN SO SÁNH

Đề tài: Nghiên cứu về đất nước Hungary

Giảng viên hướng dẫn: TS. Phạm Thị Nhiệm
Nhóm: 2
Lớp: KTPT-K47A-QN


MỤC LỤC
I/ Đặc trưng
1/ Giới thiệu chung.............................................................................................................8
1.1/ Thể chế chính trị..............................................................................................8
1.2/ Các lãnh đạo chủ chốt hiện nay.......................................................................9
2/ Điều kiện tự nhiên...........................................................................................................9
2.1/ Khí hậu, đất đai và tự nhiên.............................................................................9
2.2/ Vị trí địa lý......................................................................................................10
II/ Lịch sử hình thành và các giai đoạn phát triển
1/ Hungary thời trung cổ....................................................................................................12
2/ Sự chiếm đóng của Ottoman giai đoạn 1526 - 1686.....................................................14
3/ Nhà Habsburg và Đế quốc Áo-Hungary 1686-1918.....................................................15
3.1/ Đế quốc Ác - Hunga và hậu quả sau chiến tranh...........................................15
3.2/ Những ảnh hưởng kinh tế, địa - chính trị.......................................................16
4/ Nội chiến 1918 - 1941..................................................................................................17
5/ Hungary trong thế chiến thứ hai...................................................................................18
6/ Thời đại Xô viết 1945 - 1989.......................................................................................19


7/ Cộng hòa Hungary 1989 - đến nay...............................................................................20
III/ Các chính sách văn hóa của Hungary
1/ Các thiết chế chính sách văn hóa...................................................................................22
1.1/ Sau khi thành lập.............................................................................................22
1.2/ Sau chiến tranh thế giới thứ I..........................................................................23
1.3/ Giai đoạn 1918 - 1980....................................................................................23
1.4/ Thời kỳ xã hội chủ nghĩa................................................................................23
2/ Hệ thống chính sách văn hóa.........................................................................................24
2.1/ Mơ tả chung hệ thống.....................................................................................24
2.2/ Hợp tác giữa các bộ ngành và giữa các cấp chính quyền...............................25
2.3/ Hợp tác quốc tế về văn hóa.............................................................................25
3/ Các mục tiêu và nguyên tắc của chính sách văn hóa.....................................................26
4/ Các vấn đề hiện nay trong việc xây dựng chính sách văn hóa......................................26
4.1/ Những vấn đề chính sách quan trọng và những ưu tiên.................................26


4.2/ Các vấn đề chính sách và những tranh luận..................................................27
4.2.1/ Văn hóa các dân tộc thiểu số................................................................27
4.2.2/ Bình đẳng giới và chính sách văn hóa..................................................28
4.2.3/ Vấn đề ngơn ngữ và các chính sách.....................................................28
4.2.4/ Đa ngun truyền thơng và đa dạng nội dung......................................28
4.2.5/ Các ngành kinh doanh văn hóa, sự phát triển các trương trình và các
quan hệ đối tác...............................................................................................29
4.2.6/ Chính sách việc làm trong lĩnh vực văn hóa.........................................29
4.2.7/ Cơng nghệ mới và chính sách văn hóa..................................................31
4.2.8/ Giáo dục nghệ thuật...............................................................................32
4.3.9/ Vấn đề di sản.........................................................................................32
5/ Quy định pháp luật trong lĩnh vức văn hóa..................................................................32
5.1/ Phân chia thẩm quyền...............................................................................32
5.2/ Phân bổ nguồn tài chính nhà nước............................................................32

5.3/ An sinh xã hội...........................................................................................32
5.4/ Luật thuế...................................................................................................33
5.5/ Luật lao động............................................................................................33
6/ Luật văn hóa..................................................................................................................34
IV/ Chính phủ và xã hội
1/ Tổng quan ....................................................................................................................34
2/ Khung hiến pháp..........................................................................................................34
3/ Chính quyền địa phương..............................................................................................35
4/ cơng lý...........................................................................................................................35
5/ Quy trình chính trị.........................................................................................................36
6/ Sự ổn định.....................................................................................................................36
7/ Sức khỏe và phúc lợi.....................................................................................................37
8/ Nhà cửa.........................................................................................................................38
9/ Giáo dục và những xem xét chung...............................................................................39
10/ Giáo dục và giáo dục bậc cac hơn...............................................................................40
V/ Kinh tế Hungary qua các giai đoạn phát triển
1/ Tổng quan về kinh tế Hungary......................................................................................41


2/ Kinh tế nông nghiệp......................................................................................................43
3/ Kinh tế với thế mạnh tài nguyên....................................................................................44
4/ Kinh tế và sản xuất........................................................................................................44
5/ Kinh tế và tài chính........................................................................................................45
6/ Kinh tế và bn bán.......................................................................................................46
7/ Kinh tế và công tác dịch vụ...........................................................................................47
8/ Kinh tế lao động và hệ thông thuế.................................................................................47
9/ Kinh tế vận tải và viễn thông.........................................................................................47
VI/ Cộng hòa Hungary và mối quan hệ với Việt Nam
1/ Kinh tế...........................................................................................................................49
2/ Chính trị.........................................................................................................................50

3/ Đối ngoại.......................................................................................................................50
4/ Quan hệ Việt Nam - Hungary........................................................................................53


Chú giải các từ viết tắt

XHXH: Xã hội chủ nghĩa
BT: Công ty hợp danh hữu hạn (beteti tarsasag)
M AK: Quỹ sáng tạo nghệ thuật
GDP: Tổng sản phẩm trong nước
NEM : Cơ chế kinh tế mới
Comecon: Hội đồng tương trợ kinh tế (1949 - 1991)
OECD: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
EU: Hội liên hiệp các nước Châu Âu
NATO: Tổ chức hiệp ước Bắc đại Tây dương
M SZP: Đảng xã hội Hungary
FIDESZ: Đảng liên minh Dân chủ trẻ (1998 - 2002)
Đảng liên minh công dân (2003)
SZDSZ: Đảng liên minh Dân chủ tự do


TĨM TẮT NỘI DUNG BÀI

Hungary có bề dầy lịch sử lâu đời, tổ tiên là những bộ lạc du mục sống bên chân
núi Uran di dân đến vào năm 896, sau bị quân Mông Cổ tàn phá khoảng năm 1241, rồi
150 năm bị Thỗ Nhĩ Kỳ đô hộ, trước đại chiến thế giới lần thứ I Hungary là một phần của
Đế chế Áo Hung, năm 1918 Cách mạng Dân Chủ Tư Sản thắng lợi đã thành lập nước
Cộng Hòa. Sau chiến thắng phát xít của Hồng Qn Liên Xơ năm 1949 Cộng Hòa Nhân
Dân Hungary ra đời theo đường lối XHCN, từ năm 1968 Hungary bắt đầu tự do hóa nền
kinh tế theo mơ hình kinh tế Thị Trường, và việc bầu cử quốc hội đã có nhiều đảng phái

tham gia, cuối năm 1989, Hungary thay đổi thể chế chính trị. Ngày 23/10/1989, Quốc hội
Hungary thông qua Hiến pháp mới và tuyên bố thành lập Cộng hòa Hungary theo chế độ
dân chủ đại nghị, nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường tự do. Trải qua 5 cuộc bầu cử
Quốc hội đa đảng (tháng 3/1990, 5/1994, 5/1998, 4/2002, 4/2006), các chính phủ liên
hiệp cánh hữu và cánh tả thay phiên nhau cầm quyền ngày, 10/8/1989 Cộng Hòa
Hungary ra đời. Từ năm 1997, kinh tế đi vào quỹ đạo phát triển ổn định với tốc độ khá
cao, có những năm GDP tăng khoảng 4 - 5%.
Từ sau khi chuyển đổi, các chính phủ đều nhất quán thực hiện 3 mục tiêu ưu tiên
trong chính sách đối ngoại: nhanh chóng hội nhập các tổ chức Châu Âu và Đại Tây
Dương, trước hết là NATO và EU, củng cố quan hệ với các nước láng giềng, khu vực và
bảo vệ lợi ích của cộng đồng Hungary sống ở nước ngoài, trước hết là ở các nước láng
giềng.


I/ ĐẶC ĐIỂM
1/ Giới thiệu chung
Hungary (phát âm: Hung-ga-ri, Hán-Việt: Hung Gia Lợi, tiếng Hungary:
M agyarország), tên chính thức là Cộng hòa Hungary.
Cộng Hòa Hungary (M aguyar Koztarsasag) là một quốc gia thuộc khu vực Trung
Âu phía Tây sơng Danube, có diện tích 93,030km2, tọa lạc trên vùng đồng bằng phì
nhiêu chiếm tới 3/4 diện tích đất đai, phần cịn lại là đồi núi, không giáp biển, các nước
láng giềng cùng biên giới là Cộng Hịa Áo p hía Tây, Slovakia và Ucraina phía Bắc,
Romania phía Đơng, Serbia - M ontenegro, Crotia và Slovenia phía Nam. Như để bù lại
cho sự thiếu vắng màu xanh của đại dương, đất nước này có rất nhiều sơng sâu và hồ
rộng. Trong số 1200 hồ rộng và nổi tiếng là hồ Balaton – lớn nhất Trung Âu. Con sông
Danube dài thứ hai ở Châu Âu tựa dải nơ xanh chảy qua chia thủ đơ Budapest làm hai
phần. Quốc gia này cịn giầu có về số lượng suối nước nóng với nhiều dược chất. Trữ
lượng nước nóng của Hungary đứng thứ hai trên thế giới, chỉ sau Iceland. Dân số trên
10.032.375 (tháng 7/2004), trong đó 90% là người Hungary, số cịn lại là người Croatia,
Đức, Zigan, Romania, Serbia, Slovakia, Slovenia, (2/3 sống ở thành thị), thủ đơ Budapest

chỉ có khỏang trên 1,7 triệu người.
Tơn giáo: Số người theo đạo Thiên chúa La mã chiếm 67,8%, 21% theo đạo Tin
lành, còn lại: Phúc âm 6,2%, Do thái 5,9%, Cơ đốc Hy lạp 2,2%, Chính thống giáo 0,6%.
Tín ngưỡng: Đạo Cơ đốc, Can vin.
Ngơn ngữ chính thức: Tiếng Hungary (93,6%).
Cơ cấu hành chính: Đất nước chia thành 19 hạt, 21 tỉnh thành phố và thủ đô
Budapest.
1.1/ Thể chế chính trị
Thể chế Cộng hồ, đứng đầu là Tổng thống. Chế độ dân chủ đại nghị, đa đảng.
Tổng thống do Quốc hội bầu, nhiệm kỳ 5 năm. Quốc hội 1 viện gồm 386 ghế, hình thành
từ danh sách bầu cử của các đảng lọt vào Quốc hội (đạt 5% số phiếu bầu trở lên) và các
đại biểu thắng cử trực tiếp tại các khu vực bầu cử. Nhiệm kỳ Quốc hội 4 năm. Thủ tướng
do Tổng thống đề cử và Quốc hội bỏ phiếu bầu từ Đảng hoặc Liên minh giành được đa số


trong Quốc hội. Các thành viên Chính phủ do Thủ tướng đề cử và Tổng thống ra quyết
định bổ nhiệm.
1.2/ Các lãnh đạo chủ chốt hiện nay
Tổng thống: Sôi-ôm La-xlô (Solyom Laszlo) từ tháng 8/2005.
Thủ tướng: Du-tran Phe-ren-xơ (Gy urcsany Ferenc) bầu tháng 5/2006.
Chủ tịch Quốc hội: Xi-li Co-to-lin (Szili Katalin) bầu tháng 5/2006.
Bộ trưởng Ngoại giao: Bà Guên-xơ King-go (Goncz Kinga) bổ nhiệm 5/2006.
Hungary có bề dầy lịch sử lâu đời, tổ tiên là những bộ lạc du mục sống bên chân
núi Uran di dân đến vào năm 896, sau bị quân Mông Cổ tàn phá khoảng năm 1241, rồi
150 năm bị Thỗ Nhĩ Kỳ đô hộ, trước đại chiến thế giới lần thứ I Hungary là một phần của
Đế Chế Áo Hung, năm 1918 Cách mạng Dân Chủ Tư Sản thắng lợi đã thành lập nước
Cộng Hòa. Sau chiến thắng phát xít của Hồng Qn Liên Xơ năm 1949 Cộng Hòa Nhân
Dân Hungary ra đời theo đường lối XHCN, từ năm 1968 Hungary bắt đầu tự do hóa nền
kinh tế theo mơ hình kinh tế Thị Trường, và việc bầu cử quốc hội đã có nhiều đảng phái
tham gia, ngày 10/8/1989 Cộng Hòa Hungary ra đời.

2/ Điều kiện tự nhiên
2.1/ Khí hậu, đất đai và tài nguyên
Hungary mang kiểu khí hậu ơn đới đại lục, chịu ảnh hưởng của khí hậu lục địa và
Địa Trung Hải.có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông rõ rệt. M ùa hè, tiết trời ấm áp. M ùa xn
và thu, khí hậu ơn hồ. Cịn mùa đơng thời tiết rất lạnh, có tuy ết rơi nhiều. Lục địa chỉ có
duy nhất ở vùng lịng chảo Các-pát, với rau xanh và hoa quả có chất lượng nổi trội hơn
trên thế giới, sự hội tụ nhiều nền văn hóa ẩm thực, v.v.
Trong Vịnh Carpathian, Hungary có một khí hậu lục địa thường khơ. Nhiệt độ là
khoảng 50° F (10° C). Những biên độ nhiệt trung bình từ 25 đến 32° F (4 tới 0° C) trong
tháng giêng và nhiệt độ từ 64 tới 73° F (18 tới 23° C) trong tháng bảy. Những biến động
nhiệt độ được ghi là 109° F (43° C) trong mùa hè và -29° F (-34° C) trong mùa đông.
Trong những vùng đất thấp, q trình đóng băng nói chung từ 20 đến 24 inch (500 tới
600 mm), tới 24 tới 31 inch (600 tới 800 mm) tại những vùng cao hơn. Những vùng


Phương Đơng và trung tâm của Alfửld lớn thì khơ nhất, và những vùng cao southwestern
là ẩm ướt nhất.
Những thảo nguyên bát ngát nằm ở phía tây châu Âu - nơi lý tưởng dành cho
những du khách muốn giải trí bằng đi săn bắn, cưỡi ngựa và câu cá.
Địa hình: địa hình bằng phẳng, có một vài dãy đồi và núi thấp ở vùng biên giới
giáp Slovakia.
Tài nguyên thiên nhiên: bơxít, than, khí gas tự nhiên, đất đai màu mỡ, đất canh
tác.
Tài nguyên đất: đất có thể canh tác: 50,09%, đất canh tác thường xuyên: 2,06%,
khác: 47,85% (2001).
2.2/ Vị trí địa lý
Hungary có vị trí chiến lược, nằm trên tuy ến chính giữa Đơng Âu và bán đảo
Balkan, cũng như giữa Ukraine và lịng chảo Địa Trung Hải.
Hai con sơng sông Danube và Tisza chạy theo hướng Bắc Nam chia Hungary
thành 3 vùng chính. Hungary có đường biên giới chung dài tổng cộng 2.216,8 km với các

nước Ukraine (103km), Slovenia (102km), Áo (366 km), Croatia (329 km), Romania
(443 km), Serbia (151 km), Slovakia (677 km).
Từ rất xa xưa cho đến ngày nay, Hungary luôn là chiếc cầu nối giữa Ðông và Tây
Âu. Người Hungary đến châu Âu và lập nghiệp ở vùng lịng chảo Các-pát từ năm 896, họ
ln gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc trong q trình hội nhập châu Âu. Tuy diện tích có
hơn 93 nghìn km2, chiếm 1% lãnh thổ châu Âu, nhưng Hungary có tới 520 nghìn ha đất
dành cho các khu bảo tồn thiên nhiên, trong đó có mười cơng viên quốc gia. Hungary có
nhiều sơng ngịi và hồ lớn. Và dường như dưới mặt đất của Hungary là cả một biển nước
trị bệnh. Nguồn nước nóng, nước khống của Hungary chữa được các bệnh tê thấp, rối
loạn vận động, các căn bệnh ngồi da, các chứng rối loạn tiêu hóa, v.v. Là nước chịu ảnh
hưởng của cả hai nền văn hóa Ðơng và Tây, trải qua hơn một nghìn năm lịch sử, những
kiến trúc thời La M ã, các dinh thự lộng lẫy, các nhà thờ thời trung cổ, vương cung, thánh
đường tráng lệ cùng các tịa lâu đài cổ kính của Hungary vẫn trường tồn cùng thời gian,
cuốn hút du khách nước ngoài đến chiêm ngưỡng và khám phá.


Thủ đô Budapest là một trong số những thành phố có vị trí độc đáo và đẹp nhất
châu Âu. Con sông Danube trong xanh chảy qua trung tâm thành phố lịch sử này và chia
thành phố thành hai phần hoàn tồn tương phản nhau. Phía bờ trái là thành phố Bu-đa
được xây dựng trên một ngọn đồi với nhiều tòa lâu đài tuyệt đẹp. Trong khi đó thành phố
Pest nằm phía bờ phải được xây dựng trên một bình ngun gồm những tịa nhà cổ kính
thời trung cổ. Có tới chín cây cầu bắc qua sơng Ða-np đoạn chạy qua thủ đơ Budapest,
trong đó có cây cầu Lan-chít được xây dựng đầu tiên vào năm 1849, đã trở thành biểu
tượng của Budapest. Từ giữa thế kỷ 19 Budapest đã là điểm nóng của ngành xây dựng.
Vào đầu thế kỷ 20 những nhà hát mới, các cây cầu, đường xe điện ngầm cùng những khu
dân cư xuất hiện ngày càng nhiều. Nổi bật trong số đó là tịa nhà quốc hội bên bờ sơng
Danube, có các tháp kiểu Gơ-tích cùng 88 bức tượng trang trí. Những đại lộ tỏa ra từ
trung tâm thành phố được công nhận là một di sản thế giới. Budapest còn là trung tâm
của các suối nước nóng. Nơi đây có hơn 100 suối nước nóng và nước khống tn trào,
được người La M ã sử dụng từ khi lập ra thành phố này. Vào thế kỷ 14 - 15 nhiều nhà tắm

nước nóng đã được xây dựng ở đây. Ðến năm 1934, Budapest được tặng danh hiệu
"thành phố của những nhà tắm hơi" và được toàn thế giới biết đến.
II/ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN
Đế quốc Áo-Hung thuộc quyền cai trị của vương triều Hasburg, một trong những
vương triều có lịch sử thống trị dài nhất châu Âu. Tổ tiên của vương triều này là 1 lãnh
chúa phong kiến của vương quốc Frank. Đến đầu thế kỷ XIX, dòng họ Hasburg vẫn ln
giành danh hiệu Hồng đế của đế quốc La M ã thần thánh. Dịng họ này ln mở rộng
lãnh địa bằng các cuộc hôn nhân và lần lượt chiếm được Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan,
Italia.
Đến thế kỷ XIX cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở châu Âu mà đỉnh
điểm là các cuộc cách mạng tư sản lần lượt lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế ở Anh,
Pháp dẫn đến việc vương triều Hasburg ngày càng suy yếu. Cuộc chiến tranh Áo - Phổ
năm 1866 mà kết quả là Áo bị Phổ đánh bại, buộc lòng phải rút khỏi liên bang Đức.
Vương triều Hasburg trước hồn cảnh đó để giữ được quyền thống trị của mình ở châu
Âu buộc phải liên kết với vương quốc Hungary để tạo thành đế quốc Áo - Hung. M ùa


xuân năm 1867, Áo và Hungary đi đến 1 hiệp nghị: Áo cải tổ thành 1 nước quân chủ gọi
là đế quốc Áo-Hung, lấy sông Danube làm ranh giới trong đó đế quốc Áo bao gồm Áo,
Tiệp Khắc, Dalmatia, M oravia; vương quốc Hungary bao gồm Hungary, Croatia, 1 phần
Tiệp Khắc, Slovenia. Hoàng đế Áo Franz Jose I cũng là hồng đế của đế quốc Áo - Hung,
kiêm ln quốc vương Hungary.
Vào thời gian của Đế chế La mã, khu vực phía tây của sơng Danube được biết đến
như là Pannonia. Sau khi Đế chế La mã phía tây sụp đổ dưới áp lực di dân của các bộ lạc
Germanic và Carpia, Giai đoạn di dân tiếp tục đem lại nhiều kẻ xâm lược châu Âu. M ột
trong những người đầu tiên đến vùng này là người Hun, những người đã xây dựng nên
một đế quốc hùng mạnh dưới thời Attila. Bây giờ người ta tin rằng nguồn gốc của cái tên
"Hungary" không phải đến từ những kẻ xâm lược thuộc dân du mục từ Trung Á gọi là
người Hung, mà nó xuất p hát sau này, từ một liên minh với người Bulgar vào thế kỉ thứ 7
gọi là On - Ogour, mà trong tiếng Thỗ Nhĩ Kì cổ nghĩa là "Mười M ũi Tên"

Sau khi sự cai trị của người Hung mờ nhạt dần, người Ostrogoth và sau đó là
người Lombard đã dần cai quản vùng Pannonia, và người Gepid cai quản phần đông của
Carpathian Basin trong khoảng 100 năm, trong suốt giai đoạn này những bộ lạc Slavic
bắt đầu nhập cư vào khu vực này. Vào những năm 560, những người Slav bị khuất phục
bởi người Avar, những tộc người này đã cai trị vùng đất hơn hai thế kỷ. Người Frank
dưới quyền của Charlemagne từ phía tây và những người Bulgar từ phía đơng nam đã
đánh đổ được sự thống trị của người Avar vào đầu thế kỉ thứ 9. Tuy nhiên, người Frank
sớm rút đi, và vương quốc Slavonic của Great M oravia và Balaton Principality đã tiếp tục
cai quản phần còn lại của Pannonia cho đến hết thế kỉ. Những người M agyar đã di cư vào
Hungary vào cuối thế kỉ thứ 9.
1/ Hungary thời trung cổ
Truyền thống M agyar cho rằng đất nước của người M agyar (M agyarország) được
thành lập bởi Árp ád, người đã dẫn dắt người M agyar vào vùng đồng bằng Pannonian vào
khoảng năm 896 AD, và - theo như truyền thuyết- là một người họ hàng xa với Attila.


Cái tên "M ười M ũi Tên" được nói trên kia được dùng để chỉ mười bộ lạc, liên minh đã
làm thành phần nòng cốt của quân đội xâm lược người M agyar.
Vương quốc Hungary được thành lập vào năm 1000 bởi Vua Stephen I của
Hungary. Tên thật là Vajk, Stephen là một hậu duệ trực tiếp của Árp ád, và được rửa tội từ
lúc cịn nhỏ tuổi. Ơng kết hôn với Giselle xứ Bavaria, con gái của Henry II, Duke xứ
Bavaria vào năm 996, và sau cái chết của cha ơng là Hồng tử Géza vào năm 997, ơng trở
thành người cai trị và là vua theo Thiên chúa giáo đầu tiên của Hungary.
St. Stephen I nhận vương miện và thập tự kép từ Giáo hoàng Silvester II vào năm
1000. Vì là một vị vua Thiên chúa giáo, ơng thiết lập Nhà thờ Hungary với mười giáo
khu và triều đình quản lý đất nước bằng cách chia thành các quận gọi là (comitatus hay là
vármegye). Hungary trở thành một vương quốc thuộc về nhà thờ khi phần lớn đất đai là
tài sản của nhà vua. Vào năm 1083, ông được phong thánh cùng với người con của ông,
Imre của Hungary.
Tiêu bản lịch sử Hungary ban đầu, lịch sử và chính trị Hungary phát triển trong

mối liên hệ mật thiết với Ba Lan và Bohemia, bị thao túng bởi các can thiệp từ các Giáo
hoàng và Quốc vương khác nhau của Thánh chế La M ã. Trong giai đoạn 1241–1242,
dưới thời Vua Béla IV, Hungary bị tàn phế nặng nề, nhiều người bị giết hại bởi quân đội
M ông Cổ (Tatar) của Batu Khan người đã đánh bại quân Hungary ở trận đánh M uhi. M ặc
dù chiến thắng, quân Mơng Cổ đã khơng chiếm đóng Hungary, nhưng rút lui khơng lâu
sau đó khi nghe tin về cái chết của Ögedei Khan, để lại một quốc gia bị tàn phá nặng nề.
Theo sau sự xâm lược của quân Mông Cổ, Vua Béla IV đã mời 40 đến 60 ngàn Cumans
và một nhóm người Jazyges nhỏ hơn định cư ở khu vực thưa thớt dân cư của đồng bằng
Hungary lớn mà sau này trở thành Kunság và Jazygia. M ột khu vực giữa Szolnok và
Debrecen trở thành Cumania mở rộng trong khi các khu vực giữa Kalocsa và Szeged trở
thành Cumania nhỏ.
Dần dần, dưới sự cai trị của triều đại Árp áds và ngay cả trước lúc đó (từ thế kỉ thứ
9), Hungary tham gia với các nền văn minh của khu vực Tây Âu mở rộng. Được cai trị


bởi người Angevin từ năm 1308, Vương quốc Hungary dần dần mất đi sự kiểm soát trên
các lãnh thổ sau này được gọi là Wallachia (1330) và M oldavia (1359).
János Hunyadi, Tể tướng Hungary, lãnh đạo nhiều cuộc chiến tranh phịng vệ - tự
vệ - với các thành cơng xen kẽ nhau - chống lại Đế quốc Ottoman hiếu chiến ở bên ngồi
Hungary. Phong tục đánh lên chng lúc giữa trưa có liên hệ chặt chẽ đến một trận đánh
quan trọng chống lại quân Ottoman xảy ra vào 29 tháng 6 - 1456, tại Nándorfehérvár.
Con của János, Vua M atthias Corvinus, đã cai trị Vương quốc Hungary từ 1458
đến 1490. Ông đã làm Hungary và nhà nước cai trị trở nên hùng mạnh hơn: dưới thời
ông, Hungary trở thành một trung tâm văn hóa và nghệ thuật của châu Âu trong suốt thời
đại Phục hưng. M atthias, mà vợ là người Ý, đã nhập khẩu các tác phẩm nghệ thuật từ Ý
và Pháp. Cũng giống như vậy, văn hóa Hungary đã ảnh hưởng lên các nước khác - ví dụ,
cộng đồng thịnh vượng Ba Lan - Litva. Tuy thành công trong nhiều trận đánh chống lại
người Ottoman ơng chỉ hỗn lại trận đánh cuối cùng với Đế quốc Ottoman vừa được gia
cố.
2/ Sự chiếm đóng của Ottoman giai đoạn 1526 - 1686

Hai thế kỉ theo sau đó là những cuộc chiến triền miên chống lại Đế quốc Ottoman
lần này là bên trong đất của người Hungary. Quân Ottoman đã giành được một chiến
thắng quyết định đối với quân đội Hungary tại trận đánh M ohács vào năm 1526. Những
thập kỉ tiếp theo là những hỗn loạn chính trị triền miên, giới quý tộc Hungary phân chia
thành nhiều phe đã bầu lên hai vị vua cùng một lúc, Ferdinand Habsburg (1526 - 1540)
và János Szapolyai (1526 - 1540), hai vua xây dựng hai quân đội riêng đánh lại lẫn nhau
và làm đất nước thêm suy yếu đi. Sau sự chinh phục của Buda bởi quân Ottoman vào
năm 1541, Vương quốc Hungary đã bị chia làm 3 phần: một phần ba Hungary rơi vào
dưới sự cai trị của Ottoman; một p hần ba (ở phía Tây) vẫn dưới quyền cai trị của
Habsburg và một phần ba cịn lại, ở phía đơng (ngun ban đầu ủng hộ János Szapolyai),
vẫn độc lập (Bang Transylvania) và sau này trở thành một nước lớn bán độc lập chư hầu
của Đế quốc Ottoman. Chỉ cho đến hơn 150 năm sau, vào cuối thế kỉ 17, Áo và các nước


Thiên chúa giáo liên minh đã lấy lại được lãnh thổ của Vương quốc này từ Đế quốc
Ottoman.
3/ Nhà Habsburg và Đế quốc Áo-Hungary 1686 - 1918
Sau cuộc rút quân cuối cùng của người Ottoman, đấu tranh bắt đầu xảy ra giữa
quốc gia Hungary và các vua Habsburg về sự bảo vệ quyền lợi của giai cấp quý tộc (do
đó bảo vệ chủ quyền của Hungary). Cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa tuyệt đối kiểu Áo
đã đưa đến một cuộc nổi loạn không thành cho chủ nghĩa tự do giữa 1703 và 1711, lãnh
đạo bởi một nhà quý tộc người Transylvania, Ferenc II Rákóczi. Cuộc cách mạng và
chiến tranh năm 1848–1849 đã xóa bỏ serfdom và đem lại quyền dân sự. Người Áo cuối
cùng thì cũng thắng được, nhưng chỉ với sự giúp đỡ của người Nga.
Nhờ vào những chiến thắng chống lại Áo bởi liên quân Pháp - Ý (Trận đánh
Solferino, 1859) và Phổ (Trận đánh Königgrätz, 1866), Hungary đã cuối cùng, vào năm
1867, theo lý thuyết trở thành một nửa bình đẳng của Đế chế Áo-Hung. Sau khi đạt được
điều này, nhà nước Hungary đã cố gắng thống nhất vương quốc về mặt dân tộc bằng
chính sách M agyar hoá người các quốc tịch khác. Sự thất bại trong thế chiến thứ nhất đã
dẫn đến sự sụp đổ của đế chế Áo-Hungary vào năm 1918.

3.1/ Đế quốc Áo-Hung đầu hàng và hậu quả sau chiến tranh
Bước sang năm 1918, năm cuối cùng của cuộc chiến thì các nước phe Liên minh
Trung tâm đã lâm vào cảnh kiệt sức, cạn kiệt cả về nhân lực lẫn tài nguyên. Trong hồn
cảnh đó khi mà mặt trận phía Đơng biến mất, để đánh bại Anh và Pháp trước khi Mỹ đưa
quân sang chiến trường Châu Âu thì Đức đã mở cuộc tổng tấn công mùa xuân 1918 từ
tháng 3 đến tháng 7 nhưng hậu quả là quân Đức thiệt hại gần 700.000 người và khả năng
tấn công của người Đức cũng chấm dứt. Sau đó từ tháng 7 đến giữa tháng 9, các nước
Hiệp ước tổ chức phản công quân Đức và qn Đức khơng cịn sức để chống đỡ.
Đi đôi với việc quân Đức sụp đổ ở chiến trường phía Tây, các nước Hiệp ước
đồng loạt tổng phản cơng trên khắp các mặt trận. Ngày 29 tháng 9, Bulgaria đầu hàng còn
Đế quốc Ottoman đầu hàng vào ngày 30 tháng 10. Trong hồn cảnh đó, chính phủ Áo-


Hung đã gửi công hàm tới các nước tham chiến đề nghị tổ chức một hội nghị quốc tế tại
một quốc gia trung lập để bàn về vấn đề chấm dứt chiến tranh nhưng không được các
nước Hiệp ước chấp nhận. Tại mặt trận Ý, ngày 23 tháng 10, quân đội Ý nhận được sự
trợ giúp từ liên quân Anh - Pháp - M ỹ mở đợt tổng tấn công vào quân đội Áo - Hung
trong trận Vittorio Veneto. Trong trận này quân đội Áo - Hung đã thảm bại với 35.000
người chết, 100.000 người bị thương và 300.000 người bị bắt. Đây cũng là trận đánh cuối
cùng của quân đội Áo-Hung trong thế chiến thứ nhất cũng như của chiến trường Ý. Sau
trận này, ngày 3 tháng 11 năm 1918, Đế quốc Áo-Hung đầu hàng phe Hiệp ước và sau đó
một ngày tại Villa Giusti đã diễn ra lễ kí kết hiệp định đình chiến giữa Áo - Hung và Ý.
Sau thất bại trong thế chiến thứ nhất, ngày 12 tháng 11 xảy ra cuộc cách mạng tại Áo;
ngày trước đó hồng đế Karl I đã bỏ chạy khỏi Wien. Ngày 16 tháng 11 năm 1918,
Hungary được thành lập và Đế quốc Áo-Hung chính thức tan rã.
Sau thế chiến thứ nhất, Đế quốc Áo-Hung là nước bại trận hoàn toàn. Tổng cộng
trong thời gian tham chiến từ ngày 28 tháng 7 năm 1914 đến 3 tháng 11 năm 1918, số
người thuộc Đế quốc Áo-Hung bị động viên trong suốt thời gian chiến tranh là 9 triệu
người và số người chết là 1.400.000 người, tổng chi phí cho cuộc chiến tranh lên đến
5438 triệu dollar M ỹ. Hậu quả cuối cùng là Đế quốc Áo-Hung tan rã thành nhiều quốc

gia như Áo, Hungary, Tiệp Khắc và một phần Nam Tư, Romania, Ba Lan. Ngày 10 tháng
9 năm 1919 đã diễn ra lễ kí kết Hịa ước Saint Germain giữa Áo và các nước thắng trận
phe Hiệp ước trong đó Áo mất đi gần 3/4 lãnh thổ về tay Nam Tư, Ý, Romania, Tiệp
Khắc và Ba Lan, bồi thường chiến phí và một điều khoản quan trọng là không được sáp
nhập vào Đức. Ngày 4 tháng 6 năm 1920 đã diễn ra lễ kí kết Hịa ước Trianon giữa
Hungary và các nước thắng trận phe Hiệp ước trong đó Hungary cũng mất đi gần 3/4 lãnh
thổ về tay Tiệp Khắc, Nam Tư, Romania và phải bồi thường 2.200.000 franc vàng.
3.2/ Những ảnh hưởng kinh tế, địa-chính trị
Thế chiến thứ nhất để lại rất nhiều hậu quả trước mắt và lâu dài. Cuộc chiến làm
hơn hai mươi triệu người chết và hàng chục triệu người khác bị tàn phế, các thành phố
làng mạc của các bên lâm chiến bị phá huỷ. Ngoài sức mạnh tàn phá nhân mạng, kinh tế,
vật chất, nó còn gây hãi hùng lâu dài về tâm lý cho cả châu Âu gây ra một thế hệ bị mất


mát của châu Âu. Chính cuộc chiến này làm cho châu Âu tụt hậu và mất đi vai trò lãnh
đạo văn minh nhân loại mà nó đã đảm đương trong hơn 300 năm qua và dần dần vai trị
đó chuyển sang bên kia đại dương cho Bắc M ỹ.
Chiến tranh gây ra sự thay đổi rất lớn trong bản đồ chính trị châu Âu. Bốn đế
quốc Nga, Đức, Áo - Hung, Ottoman với các triều đình quân chủ hàng trăm năm bị sụp
đổ trong đó hai cường quốc Áo - Hung và Ottoman bị phân rã và mất hẳn vai trò cường
quốc. Hai đế quốc Đức, Nga bị cắt xén lãnh thổ và bị kiềm chế với tình cảm dân tộc nước
lớn bị tổn thương sâu sắc và đó là đất đai rất tốt cho tư tưởng phục thù để dẫn đến một thế
chiến mới. Rất nhiều các nước nhỏ xuất hiện từ sự phân rã của các đế quốc và từ sự phân
chia mang tính chủ quan, quan liêu của các cường quốc thắng trận dẫn đến các mâu thuẫn
lộn xộn gây mất ổn định thế giới sau này.
4/ Nội chiến 1918-1941
Vào tháng 3 năm 1919, quân Cộng sản nắm lấy chính quyền ở Hungary. Vào
tháng 4, Béla Kun tun bố thành lập Cộng hịa Xơ viết Hungary. Nhưng nhà nước của
Kun, cũng như chính thể tiền nhiệm, khơng tồn tại được lâu. Điều này vẫn xảy ra mặc
cho một số chiến thắng quân sự ban đầu chống lại quân độ Tiệp Khắc.

Vào ngày 13 tháng 6 năm 1919, Hội nghị Hịa bình Versailles đã ra lệnh cho
Hungary phải di tản các lãnh thổ phía bắc và Romania to phải rời khỏi Tiszántúl.
Hungary đã tuân thủ mệnh lệnh đó tính cho đến ngày 30 tháng 6 năm 1919. Nhưng quân
đội Romania đã từ chối không chịu rời khỏi Tiszántúl.
Chiến tranh nổ ra sau đó giữa Hungary và Romania đã dẫn tới thất bại của Hồng
quân Hungary. Tính đến tháng 8 năm 1919, hơn một nửa của Hungary ngày nay, bao
gồm cả Budapest, bị chiếm đóng bởi Romania. Sự chiếm đóng của quân Romania kéo dài
đến tháng 11 năm 1919 khi quân đội Romania rút đi.
Lực lượng quân đội cánh hữu Hungary, lãnh đạo bởi cựu Đô đốc Áo - Hungary
M iklós Horthy, tiến vào Budapest ngay sau khi quân đội Romania rút đi và lấp đầy chỗ
trống của quyền lãnh đạo nhà nước. Vào tháng 1 năm 1920, bầu cử diễn ra để bầu một
quốc hội đa nguyên. Đô đốc Horthy được bầu vào chức Tể tướng, do đó đã phục hồi lại


chính thức hồng gia Hungary. Tuy nhiên, khơng cịn có "Vua của Hungary" mặc cho các
cố gắng của nhà cai trị Habsburg trước đó để trở lại vị trí nắm quyền. Horthy cai trị như
là Tể tướng cho đến 16 tháng 10 năm 1944. Nhưng, sau năm 1932, các xu hướng độc tài
đã dần dần trở lại vì ảnh hưởng của chủ nghĩa Phát xít và Đại khủng hoảng.
Vào 4 tháng 6 năm 1920, Hòa ước Trianon được ký kết, thiết lập các đường biên
giới của Hungary. Sự khác nhau về biên giới giữa Vương quốc Hungary bên trong Áo Hungary và Hungary độc lập sau Hòa ước Trianon. Hungary mất 71% lãnh thổ và
khoảng 66% dân số. Khoảng 1/3 dân số M agyar trở thành dân tộc thiểu số ở các nước lân
cận. Hungary cũng bị mất cảng biển duy nhất tại Fiume (ngày nay là Rijeka). Do đó,
chính trị Hungary và văn hóa thời nội chiến bị ảnh hưởng lớn bởi chủ nghĩa irredentism
(sự khôi phục của nước Hungary vĩ đại trong quá khứ). Xuyên suốt thời kì này kinh tế
Hungary hết sức mất ổn định, trở nên phồn thịnh sau chiến tranh, tổn thất nặng trong và
sau đại khủng hoảng, và chỉ mới ổn định trước khởi đầu của thế chiến thứ II. Nước này
xích lại gần hơn Đức và Ý trong những năm của thập kỷ 1930 với cố gắng làm đảo ngược
một số hậu quả của hòa ước Trianon. M ột số lãnh thổ đã mất được trả lại cho Hungary.
5/ Hungary trong thế chiến thứ hai
Vào năm 1941, Hungary tham dự xâm lược Yugoslavia, chiếm được một số đất

đai và tham dự vào Phe trục trong q trình đó (để phản đối, thủ tướng Pál Teleki đã tự
sát). Vào 22 tháng 6 1941, khi quân Đức xâm lược Liên Xô trong chiến dịch Barbarossa,
Hungary tuyên chiến vào ngày 26 tháng 6, tham dự thế chiến thứ hai. Vào cuối năm
1941, quân Hungary ở M ặt trận phía đơng đã chiến thắng tại trận Uman. Đến năm 1943,
sau khi quân đoàn Hungary thứ 2 chịu thất bại nặng nề tại sơng Don, nhà nước Hungary
tìm cách thương lượng đầu hàng quân Đồng M inh. Vào ngày 19 tháng 3 năm 1944, để
đối phó với sự trở mặt này, quân Đức lặng lẽ chiếm Hungary trong chiến dịch
M argarethe. Nhưng, đến bây giờ thì người ta biết rõ là người Hungary không muốn làm
vệ tinh cho Đức. Vào ngày 15 tháng 10 1944, Horthy đã cố gắng yếu ớt để đưa đất nước
ra khỏi cuộc chiến. Lúc này quân Đức mở chiến dịch Panzerfaust và Horthy được thay
thế bởi một nhà nước bù nhìn dưới quyền thủ tướng thân Đức Ferenc Szálasi. Szálasi và
Đảng M ũi tên Chữ thập thân phát xít của ơng ta trung thành với quân Đức cho đến hết
cuộc chiến. Vào cuối năm 1944, qn Hungary ở M ặt trận phía Đơng lại chiến thắng một


lần nữa ở trận đánh Debrecen. Nhưng ngay lập tức sau đó là sự xâm lăng Hungary của
qn đội Xơ viết và trận đánh Budapest. Trong khi quân Đức chiếm đóng vào tháng 5 - 6
năm 1944, Đảng M ũi tên Chữ thập và cảnh sát Hungary đã trục xuất gần 440,000 dân Do
Thái, đa số là đến trại tập trung Auschwitz. Cuộc chiến đã làm Hungary thiệt hại nặng nề
và tổn thất 60% nền kinh tế làm tổn thất nhiều nhân mạng. Vào 13 tháng 2 năm 1945,
thành phố thủ đô Hungary đầu hàng không điều kiện. Vào 8 tháng 5 năm 1945, thế chiến
thứ hai ở châu Âu chính thức chấm dứt.
6/ Thời đại Xơ viết 1945-1989
Sau khi phát xít Đức thất bại, qn đội Xơ viết đã chiếm đóng hầu hết đất nước và
qua ảnh hưởng của họ Hungary dần dần trở thành một nước cộng sản thân cận với Liên
Xô. Sau năm 1948, lãnh đạo cộng sản M áty ás Rákosi đã thiết lập chế độ theo kiểu Stalin
với bắt buộc hợp tác xã hóa và kinh tế kế hoạch. Sự cầm quyền của nhà nước Rákosi đã
vượt quá sức chịu đựng của người dân Hungary sau chiến tranh. Điều này đã dẫn tới cách
mạng Hungary 1956 và Hungary tạm thời rút lui khỏi khối Hiệp ước Warszawa. Liên Xô
đã trả đũa mạnh mẽ với biện pháp vũ trang, gửi trên 150,000 quân và 2,500 xe tăng. Gần

1/4 triệu người đã bỏ chạy khỏi đất nước trong khoảng thời gian ngắn khi các biên giới để
ngỏ vào năm 1956. Từ những năm thập niên 1960 đến cuối những năm thập niên 1980,
Hungary thường được gọi một cách mỉa mai là "trại lính vui vẻ nhất" bên trong khối
Đông Âu. Điều này xảy ra dưới thời cầm quyền độc đốn của nhà lãnh đạo mà vai trị cịn
nhiều tranh cãi, János Kádár. Người lính Xơ viết cuối cùng rời đất nước Hungary vào
năm 1991 và kết thúc sự hiện diện của quân đội Liên Xô ở Hungary.
Vào năm 68, mơ hình kinh tế Stalinist tự cung , tự cấp đã được thay thế bời “bộ
máy kinh tế mới”, bộ máy này đã đưa Hungary trở lại với ngoại thương, cung cấp tự do
có hạn chế với việc họat động của thị trường và cho phép một số lượng hạn chế các
doanh nghiệp có thể hoạt động trong bộ phận dịch vụ. M ặc dù hung đã có được một trong
những nền kinh tế tiến bộ, và tự do của những nước cộng sản Đông Âu, cả về nông
nghiệp và công nghiệp bắt đầu khôi phục, phục hồi sau sự thiếu hụt nguồn đầu tư vào
những năm 70, và mạng lưới vay nơ nước ngòai của Hungary đã tăng lên một cách đáng
kể, từ 1 tỷ đô la vào năm 73 lên đến 15 tỷ đô la vào năm 93, do tiền trợ cấp khách hàng


q hào phóng, và các doanh nghiệp quốc doanh khơng mang lại lợi nhuận. Do kinh tế ứ
đọng, Hungary đã chọn lựa cố gắng mở rộng tự do hơn nữa bằng việc thông quá một điều
luật kinh doanh chung, đánh vào thuế thu nhập và tham gia vào quĩ tiền tệ quốc tế IM F
và ngân hàng thế giới .Vào khoảng năm 1988, Hungary đã phát triển hệ thống ngân hàng
2 bậc, và đã ban hành pháp chế tập thể quan trọng, cái mà đã đặt nền móng cho con
đường đạt tới tham vọng của nền kinh tế thị trường cải cách lớn sơ với cộng những năm
trước đây của nền cộng sản
Sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Tây Âu, các nước Xô viết trước đây đã
phải chuyển lên thời kỳ quá độ, từ 1 đảng cầm quyển, chính yếu của nền kinh tế kế hoạnh
sang kinh tế thị trường với hệ thống chính trị đa đảng cầm quyền. Cùng với sự tan ra của
Liên bang Xô viết, các nước cộng sản Đông Âu đã phải chịu đựng một tổn thất đáng kể ở
cả thị trường lương thực, lẫn sự bao cấp từ Liên bang Xô viết. Hungary là một ví dụ,
“thiệt hại gần 70% thị trường xuất khẩu Tây và Trung Âu”. Sự mất mát thị trường bên
ngoài Hungary, cùng với việc mất nguồn bao cấp của Liên bang Xô viết bỏ lại “ 800.000

công nhân thất nghiệp, bởi vì tất cả các nhà máy khơng sinh lợi, khơng thể cứu vãn đã
buộc phải đóng cửa”. M ột dạng khác của bao cấp Xô viết mà ảnh hưởng lớn đến hungary
sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ là sự mất mát các chương trình chăm sóc sức khỏe xã
hội. Bởi vì thiếu hụt nguồn trợ cấp và nhu cầu giảm chi phí, nhiều chương trình xã hội ở
Hungary buộc phải bị cắt giảm trong một nỗ lực hạ thấp sự chi tiêu. Kết quả là, nhiều
người sống ở Hungary đã phải chịu đựng nhiều gian khổ không thể tưởng tượng nổi,
trong suốt thời kỳ quá độ lên nền kinh tế thị trường. Thông qua sự tư hóa và cắt giảm
thuế lên các doanh nghiệp Hungary, mà nạn thất nghiệp đã dần dần giảm, và thúc đẩy sự
phát triển kinh tế chung.
Chính quyền Antall của năm 90 – 94 đã bắt đầu thị trường sửa đổi với giá và các
phương pháp tự do thương mại, một hệ thống thuế chắp vá, và một thị trường non nớt
dựa trên hệ thống ngân hàng.
7/ Cộng hòa Hungary 1989-đến nay
Trong cuối thập kỉ 1980, Hungary đã dẫn đầu phong trào giải tán Hiệp ước
Warszawa và chuyển sang một thể chế dân chủ nhiều ứng cử viên. Điều này nghĩa là mặc


dù có nhiều ứng cử viên, đảng cộng sản, M SZM P, vẫn không được đem ra bàn cãi. Tuy
nhiên, các ứng cử viên độc lập được bầu lên để phản đối lại đảng. Vào thời điểm đó, áp
lực cải cách tăng dần từ bên trong đảng. Họ cũng di chuyển về phía một nền kinh tế thị
trường. Vào 23 tháng 10 năm 1989, M áty ás Szűrös tuyên bố Cộng hòa Hungary thứ III
và trở thành tổng thống lâm thời. Bầu cử tự do ở Hungary diễn ra lần đầu tiên vào năm
1990. Theo sau sự sụp đổ của Liên Xô vào năm 1991, Hungary phát triển một mối quan
hệ gần hơn với Tây Âu cũng như các nước Trung Âu. Nước này trở thành một thành viên
của nhóm Visegrad vào năm 1991, gia nhập NATO năm 1999, và trở thành một nước
thành viên của Liên minh châu Âu vào 1 tháng 5 năm 2004.
Cuối năm 1989, Hungary thay đổi thể chế chính trị. Ngày 23/10/1989, Quốc hội
Hungary thơng qua Hiến pháp mới và tuyên bố thành lập Cộng hòa Hungary theo chế độ
dân chủ đại nghị, nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường tự do. Trải qua 5 cuộc bầu cử
Quốc hội đa đảng (tháng 3/1990, 5/1994, 5/1998, 4/2002, 4/2006), các chính phủ liên

hiệp cánh hữu và cánh tả thay phiên nhau cầm quyền. Tại cuộc bầu cử 4/2006, lần đầu
tiên kể từ năm 1990 đến nay, Liên minh trung tả tiếp tục nhận được sự ủng hộ của cử tri
để lập Chính phủ điều hành đất nước nhiệm kỳ 2006 – 2010.
Tuy Hungary có chủ quyền theo Hiến pháp và có một biểu thuế quan tự do từ
năm 1867 nhưng đất nước này vẫn bị đế chế Áo chi phối về kinh tế và chính trị. Thật khó
mà có sự thay đổi trong giai đọan này, cũng như trong suốt thời kỳ chiến tranh về kinh tế
chính trị dân tộc, việc ban hành chính sách tối ưu hội nhập tự do thương mại (chủ yếu
nhờ thị trường thuộc địa rộng lớn) và sự bảo hộ thị trường (dựa trên lập luận kinh doanh
từ trong trứng nước) đóng một vai trị thiết yếu.
Vào khoảng năm 1994, tuy nhiên, cái giá phải trả của sự chi tiêu quá khả năng
của chính phủ và sự ngập ngừng việc tư nhân hóa, đã trở nên rõ nét. Cắt trợ giúp khách
hàng dẫn tới gia tăng giá lương thực, thuốc men, dịch vụ vận tải, và năng lượng. Giảm
xuất khẩu tới các nước Xô viết trước đây và co cụm lượng hàng hóa cơng nghiệp đóng
góp vào sự suy giảm rõ nét về GDP. Nạn thất nghiệp gia tăng nhanh chóng lên khoảng
12% vào năm 1993. Gánh nặng nợ đọng nước ngoài, một trong những nước nợ lớn nhất


Châu Âu, lên đến 250% tiền lãi xuất khẩu hàng năm, trong khi ngân quỹ và các khoản
thiếu hụt hiện hành lên đến 10% tổng thu nhập quốc dân.
Vào năm 1995, tiền tệ của Hungary, đồng FORINT, trở nên có thể đổi được đối
với tất cả các khoản giao dịch hiện tại, và tiếp sau đó là thành viên của OECD vào năm
1996, cho hầu hết các khoản giao dịch chính yếu. Từ năm 95, Hungary đã ổn định đồng
FORINT chống lại các ngoại tế mạnh (trong đó có đơ la mỹ chiếm tới 30%).
Vào tháng 3 năm 1995, chính quyền của thủ tướng chính phủ Gy ual Horn đã thực
thi một chương trình khổ hạnh. Cùng với sự năng nổ tư nhân hóa của các xí nghiệp nhà
nước, và một cách thức quản lý non kém việc xúc tiến mạnh giao dịch xuất khẩu, nhằm
giảm nợ nần, cắt giảm các khỏan thiếu hụt tiền hiện tại, rút ngắn các khoản chi công
cộng, số tiền thiếu hụt của các bộ phận công cộng hợp nhất giảm tới 4,6% tổng thu nhập
quốc dân, với các khoản chi cho công cộng giảm từ 62% tổng thu nhập quốc dân xuống
dưới 50%, các khoản thiếu hụt hiện tại đã được giảm tới 2% GDP, và các khoản nợ của

chính quyền đã được thanh tốn xuống tới 94% tổng thu nhập hàng năm. Chính quyền
Hungary khơnh cịn u cầu IMF hỗ trợ tài chính và đã hoàn trả tất cả cho tổ chức này.
Kết quả là, Hungary đã có được các điều khoản cho vay có lợi. Hungary có tồn quyền
giải phóng nợ đọng tiền mặt nước ngoài theo dạng các khoản đầu tư từ tất cả chính sách
đánh giá độ tín nhiệm chính yếu, cho dù gần đây, đất nước đã bị đánh giá thấp bởi
M OODY’s , S&P và vẫn tồn tại quan điểm chủ động về FITCH
III/ CÁC CHÍNH SÁCH VĂN HỐ CỦA HUNGARY
1/ Các thiết chế chính sách văn hố
1.1/ Sau khi thành lập
Vương quốc Hungary được thành lập năm 1000. Sau khi bị Ottoman xâm lược
(1526 đến 1686) và tiếp theo là sự đô hộ của nước Áo, người ta đặt vấn đề liệu rằng
Hungary cịn gìn giữ được bản sắc và sự độc lập của mình hay khơng. Tuy nhiên, thế kỷ
19 đã cho thấy một sự hồi sinh mạnh mẽ của dân tộc này, trong đó văn hố đóng một vai
trị rất quan trọng. Phần lớn các thiết chế văn hoá của Hungary hiện nay đều được hình
thành từ thế kỉ 19.


Đặc thù của Hungary cũng kế thừa từ cấu trúc xã hội Đông Âu giai đoạn này.
Tầng lớp thượng lưu trong xã hội với những tiêu chuẩn văn hoá cao có thể so sánh với
các nước phát triển nhất, trong khi đó đa số dân chúng vẫn ở trong tình trạng lạc hậu.
Đến giữa thế kỉ 20, trong khi tầng lớp trung lưu đã hình thành nên cơ sở cho sự phát triển
dân chủ, kinh tế và xã hội ở Đơng Âu, thì hơn một nửa thành phần xã hội ở Hungary vẫn
là nông dân. So với Tây Âu, tầng lớp lao động và giới trí thức vẫn cịn có vai trò khiêm
tốn, giai cấp tư sản còn yếu kém. Tại thời điểm đó, là một nước Trung Âu, Hungary đã
xây dựng một thể chế theo hướng phương Tây, đối lập với vùng Balkan và Đông Âu.
1.2/ Sau chiến tranh thế giới thứ nhất
Sau chiến tranh thế giới lần thứ I, chính sách văn hố đóng một vai trị chiến lược
nhằm giúp đất nước vượt qua những khó khăn, hungary lúc đó mới tách ra từ nhà nước
Áo - Hung. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, chính sách văn hố tập trung vào việc tái
thiết chính trị và xây dựng cơ sở vật chất. Vào thời điểm đó, các tư tưởng của giai cấp tư

sản, phe bảo thủ, chủ nghĩa dân tộc dần bị triệt tiêu. Vào cuối những năm 1940, thành
phần cấp tiến đã bị loại trừ khỏi chính sách văn hố kiểu Bolshevik. trước cách mạng
1956 chính sách văn hố mơ phỏng một cách máy móc các mơ hình chính sách của Liên
Xơ.
1.3/ Giai đoạn 1918-1980
Sau làn sóng cách mạng, đến đầu những năm 1960 chủ nghĩa giáo điều về văn
hoá đã bắt đầu mờ nhạt dần. Đến năm 1989, tương tự như trong các lĩnh vực khác của
đời sống, chính sách văn hố được xem xét thay đổi và đã diễn ra sự chuyển đổi dần dần
của toàn bộ khối Cộng sản. Do hệ thống xã hội chủ nghĩa ngày càng yếu đi, các nguồn
lực công ngày càng suy yếu và cùng với việc kiểm sốt về chính trị ngày càng ít đi, nhà
nước đã cắt giảm việc tài trợ cho văn hoá. Vào cuối những năm 1980, q trình thương
mại hố văn hố bắt đầu diễn ra, và quỹ hội Soros của Hungary đóng vai trị quan trọng
trong việc hỗ trợ tài chính.
1.4/ Thời kỳ xã hội chủ nghĩa
Trong thời kì xã hội chủ nghĩa, do được nhà nước trợ cấp và các hàng hoá và
dịch vụ văn hoá được cung cấp với giá rẻ nên tiêu dùng cho văn hoá cũng tăng (đọc các
sách khoa học và viễn tưởng, đi xem kịch, xem phim, nghe hoà nhạc, tham quan bảo


tàng, triển lãm). Dưới thời độc tài, nghệ thuật đóng một vai trị chính trị quan trọng, và
cuối cùng điều đó gây ra quan niệm trong nhiều người rằng lĩnh vực văn hoá là một
trong những thất bại của quá trình chuyển đổi.
Sau thay đổi chính trị năm 1989 - 1990, việc xây dựng chính sách văn hố dựa
trên hai yếu tố chính: truyền thống dân tộc trước thời cộng sản và những hình mẫu hiện
đại của phương Tây. Trong những năm đầu tiên, quá trình chuyển giao này diễn ra trong
bối cảnh có những khó khăn về kinh tế. Vào thời điểm hoàn thành sự thay đổi về hệ
thống và mơ hình mới được thống nhất, thì sự suy thối tồn cầu đã ngăn cản nhà nước
chi tiêu thêm cho văn hố. Q trình hội nhập vào Liên minh châu Âu bị kéo dài cũng là
một yếu tố quan trọng hình thành nên chính sách văn hố ở Hungary, ảnh hưởng của việc
gia nhập Liên minh châu Âu vào tháng 5/2004 đối với chính sách văn hố đến nay vẫn

cịn chưa chắc chắn.
2/ Hệ thống chính sách văn hố
2.1/ Mô tả chung hệ thống
Thẩm quyền liên quan đến vấn đề văn hoá trong những thập kỉ qua đã trải qua
nhiều lần thay đổi. Thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Di sản Văn hoá Quốc gia bao gồm:
bảo vệ các cơng trình di tích, giám sát các tổ chức văn hố ở nước ngồi, và các vấn đề
tơn giáo. M ặc dù có một cơ quan quản lí về vấn đề nghe nhìn, thì Bộ trưởng cũng khơng
có thẩm quyền trực tiếp nào đối với các vấn đề liên quan đến phát thanh và truy ền hình.
Giáo dục nghệ thuật và hỗ trợ tài chính cho văn hố ở các cấp địa phương cũng không
thuộc thẩm quyền của Bộ Di sản Văn hố Quốc gia. M ặt khác, có một đơn vị độc lập có
trách nhiệm hướng dẫn về chuyên mơn cho các trung tâm văn hố cộng đồng. Phần lớn
trách nhiệm hỗ trợ cho văn hoá và các dân tộc thiểu số do Văn phòng nội các thực hiện.
Quỹ Văn hoá Quốc gia là một “chi nhánh nửa tự trị” của Bộ Di sản Văn hoá
Quốc gia, cơ quan này có trách nhiệm hỗ trợ tài chính cho các dự án.
Hungary vẫn chưa thể thực hiện xong việc tổ chức lại các vùng trên cả nước. Các
hạt, theo mô hình thể kỉ 19, vẫn có chức năng quản lí về văn hố (đặc biệt là quản lí các
tổ chức như bảo tàng, thư viện, cơ quan lưu trữ, đôi khi các thành phố cùng quản lí một


tổ chức). Bên cạnh chính quyền trung ương, cấp quản lí thực sự đáng kể khác là 3167
chính quyền địa phương.
Việc gia nhập EU buộc Hungary phải hoàn thành việc phân chia vùng (có thể là 7
vùng) và trao cho các vùng quyền quản lí thực tế, bao gồm thẩm quyền đối với các chính
sách văn hố của vùng. Và việc gia nhập EU cũng thúc đẩy việc hình thành nên 167 tiểu
vùng: chúng không phải là những đối tác đầy đủ của chính phủ trung ương, tuy nhiên lại
có nhiều cơ hội nhận được hỗ trợ từ các quỹ của EU, trong đó có xin hỗ trợ cho mục đích
văn hố.
Nghị viện Hungary theo chế độ một viện, và đây là cơ quan lập pháp. Bên cạnh
vai trò chuẩn bị luật, Uỷ ban Văn hố và Báo chí và Uỷ ban Giáo dục và Khoa học cũng
có chức năng giám sát bằng cách đưa các vấn đề văn hoá vào chương trình hoạt động của

mình. Tuy nhiên, nhìn chung Nghị viện và các Uỷ ban thuộc Nghị viện có thẩm quyền
hạn chế, trong hầu hết mọi trường hợp các cơ quan này một mặt phản ánh ý chí của
Chính phủ, và mặt khác là ý chí của các đảng đối lập.
2.2/ Hợp tác giữa các bộ ngành và giữa các cấp chính quyền
Hợp tác giữa các bộ được quy định bắt buộc theo nghị định của chính phủ.
Khơng có một cơ quan chính thức nào có nhiệm vụ thúc đẩy sự hợp tác đó. Ngoại lệ duy
nhất là Văn phòng phát triển quốc gia, là cơ quan điều phối việc đóng góp của các bộ
liên quan đến Kế hoạch phát triển Quốc gia.
2.3/ Hợp tác quốc tế về văn hố
Hiện tại Hungary có 22 viện văn hố hoạt động trên tồn thế giới. Các viện này
đều thuộc quản lí của Bộ Di sản Văn hoá. Cơ quan mới được thành lập gần đây nhất là
Trung tâm Văn hoá Hungary ở Brussels, thành lập tháng 12/ 2004. Các viện văn hố có
trách nhiệm quảng bá văn hố Hungary ở nước ngồi thơng qua các triển lãm, các thuyết
trình, buổi hồ nhạc, v.v.. Chính phủ cũng hỗ trợ việc tham gia vào các sự kiện văn hoá
lớn. Gần đây, việc quảng bá văn hoá được nhấn mạnh vào các sự kiện như:
- “M AGYart”, Năm văn hoá Hungary ở Pháp, 2001.
- “Ungherua in primo piano” ở Italy 2002.
- “M agyar” ở Anh, năm 2003-2004.


- “Hongarije an Zee” ở Hà Lan năm 2004.
Các sự kiện như vậy cũng dự kiến được tổ chức, vào năm 2005 là ở Nga và 2006
là ở Đức. Bên cạnh các quan hệ quốc tế song phương, Bộ Di sản Văn hoá cũng thúc đẩy
hợp tác đa phương với các quốc gia trong vùng trong khuôn khổ Visegrad Four và Sáng
kiến Trung tâm châu Âu. Năm 1990, Hungary trở thành thành viên của Hội đồng châu
Âu, và đã gia nhập Liên minh châu Âu năm 2004. M ột cơ quan có tên là Đầu mối giao
tiếp văn hố đã được thành lập để giải quyết các vấn đề liên quan đến EU và để thực
hiện hỗ trợ đối với các đối tượng muốn xin hỗ trợ tài chính theo chương trình Văn hố
2000. Hoạt động của cơ quan này chỉ mang tính hỗ trợ.
3/ Các mục tiêu và nguyên tắc của chính sách văn hố

Trong số các đặc điểm về chính sách văn hố ở Hungary, bất cứ người nào cũng
có thể chỉ ra hai đặc điểm sau: tính thực tế và tính hai mặt. Thực tế có nghĩa là thiếu các
văn bản chính thức làm cơ sở. Có rất ít luật quy định về văn hố, và hoạt động thực tế ít
khi được định hướng bởi các tuyên bố hoặc tài liệu mang tính đường lối về việc xây
dựng chính sách văn hố. Tính hai mặt nghĩa là có sự chia rẽ về tư tưởng đã hình thành
từ giai đoạn sau 1990, giữa cánh hữu và cánh tả, hay “chủ nghĩa dân tộc - bảo thủ” và
“tự do - xã hội”. Sự chia rẽ này lên đến đỉnh điểm tại cuộc bầu cử Nghị viện 2002, đã có
nhiều nỗ lực được thực hiện nhằm làm cho văn hoá khỏi bị ảnh hưởng bởi những yếu tố
chính trị và tư tưởng, tuy nhiên vẫn chưa mang lại hiệu quả đáng kể.
Vào thời kì xác định lại các thể chế dân chủ trong những năm 1990, chính quyền
địa phương, đặc biệt là các thành phố, đã nhận được quyền độc lập cao hơn. Q trình
phi tập trung hố này có tính quyết định đối với chính sách văn hố.
4/ Các vấn đề hiện nay trong việc xây dựng chính sách văn hố
4.1/ Những vấn đề chính sách văn hố quan trọng và những ưu tiên
Từ năm 1990 khi lần đầu tiên thực hiện bầu cử tự do, các ưu tiên chính sách văn hố,
giống như con lắc, cứ giao động từ trái sang phải theo chu kì bốn năm một lần. Một số
ưu tiên trong đó có liên quan đến sự ví von trong quan điểm chính trị về “tả” và “hữu”là
chính quyền cánh hữu nhấn mạnh đến di sản quốc gia và niềm tự hào dân tộc, mối liên
hệ văn hoá với những người Hungary đang sống ở các nước láng giềng. M ột q trình tái
tập trung hố đáng ghi nhớ vào giai đoạn 1998-2002, thời kì nắm chính quyền của phe


×