Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Đánh giá tiềm năng đồng quản lý rừng của các bên liên quan làm cơ sở đề xuất nguyên tắc và giải pháp thực hiện đồng quản lý tại vườn quốc gia cát tiên đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1005.46 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

ĐÀO THỊ THÙY DƯƠNG

ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG ĐỒNG QUẢN LÝ RỪNG
CỦA CÁC BÊN LIÊN QUAN LÀM CƠ SỞ ĐỀ XUẤT
NGUYÊN TẮC VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
ĐỒNG QUẢN LÝ TẠI VƯỜN QUỐC GIA
CÁT TIÊN - ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

ĐÀO THỊ THÙY DƯƠNG

ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG ĐỒNG QUẢN LÝ RỪNG
CỦA CÁC BÊN LIÊN QUAN LÀM CƠ SỞ ĐỀ XUẤT
NGUYÊN TẮC VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
ĐỒNG QUẢN LÝ TẠI VƯỜN QUỐC GIA


CÁT TIÊN - ĐỒNG NAI

CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC
MÃ SỐ: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS.NGUYỄN THỊ BẢO LÂM

Hà Nội, 2011


1

MỞ ĐẦU
Trong suốt quá trình phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta hết
sức quan tâm đến công tác bảo tồn đa dạng sinh học bằng việc ban hành nhiều
văn kiện mang tính chất pháp lý liên quan đến bảo tồn Đa dạng sinh học; như
Luật Đa dạng sinh học, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật Bảo vệ môi
trường, Kế hoạch hành động đa dạng sinh học và tham gia các Công ước
Quốc tế.
Trong những thập kỷ cuối của thế kỷ 20 khi rừng bị thu hẹp, đa dạng
sinh học bị đẩy lùi tới cả các khu rừng đặc dụng ở vùng sâu vùng xa, nơi đồng
bào dân tộc thiểu số sinh sống. Mỗi một khu rừng đặc dụng có những đặc
điểm đặc trưng riêng biệt, nhưng thường có đặc điểm chung là địa hình đi lại
khó khăn, kinh tế xã hội chưa phát triển, dân cư thưa thớt. Tuy đã được Chính
phủ và chính quyền các cấp quan tâm nhưng kinh phí đầu tư cho các hoạt
động bảo tồn thiên nhiên vẫn rất hạn hẹp. Những đặc điểm này là nguyên
nhân dẫn đến rừng và đa dạng sinh học của các khu rừng đặc dụng tiếp tục bị

tác động và suy giảm.
Khác với rừng sản xuất và rừng phòng hộ, việc thành lập, xây dựng kế
hoạch và tổ chức quản lý rừng đặc dụng thường được tiếp cận một chiều từ
trên xuống, chưa quan tâm hoặc quan tâm chưa đúng mức đến vai trò và vị trí
của các bên liên quan, sự phối hợp giữa các bên liên quan trong công tác quản
lý bảo vệ rừng chưa nhịp nhàng, thiếu chặt chẽ dẫn đến có lúc, có nơi khó
khăn, lúng túng trong chỉ đạo, triển khai quản lý bảo vệ rừng đặc dụng, trong
khi đó tiềm năng quản lý bảo vệ rừng trong xã hội chưa được khai thác, chưa
khuyến khích thu hút được các lực lượng tham gia một cách tích cực trong
công tác quản lý bảo vệ rừng.


2

Vườn Quốc Gia Cát Tiên là khu bảo tồn thiên nhiên nằm trên địa bàn
ba huyện Tân Phú, Vĩnh Cửu ( Đồng Nai), Cát Tiên, Bảo Lộc ( Lâm Đồng) và
Bù Đăng ( Bình Phước), cách Thành Phố Hồ Chí Minh 150 km về phía Bắc.
Đặc trưng của vườn quốc gia này là rừng nhiệt đới ẩm. VQG Cát Tiên được
thành lập theo quyết định số 01/CT ngày 13 tháng 01 năm 1992 của Thủ
tướng chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở kết nối khu
rừng cấm Nam Cát Tiên (được thành lập theo quyết định số 360/TTg, ngày 07
tháng 07 năm 1978 của Thủ tướng chính phủ) và khu bảo tồn thiên nhiên Tây
Cát Tiên (được thành lập theo quyết định số 194/CT, ngày 09 tháng 08 năm
1986 của Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng).
Việc thành lập VQG đã làm thay đổi phần lớn cuộc sống của người dân
sống trong khu vực cùng đệm. Thực tế cho thấy rằng các cộng đồng chủ yếu
tìm nguồn sinh kế từ rừng của VQG như khai thác lâm sản, sử dụng đất rừng
trồng cây nông nghiệp, bãi chăn thả gia súc, tạo nên nhiều tiêu cực cho quản
lý bảo vệ rừng nhưng vẫn không nâng cao được đời sống của cộng đồng.
Những hoạt động này chỉ được xem là cách sinh kế tạm thời, không bền vững.

Do đó, các câu hỏi được đặt ra là: Làm thế nào để nâng cao nội lực của cộng
đồng, phát huy những tiềm năng sẵn có và lôi cuốn cộng đồng tham gia vào
các hoạt động đồng quản lý bảo vệ tài nguyên rừng vì mục tiêu phát triển bền
vững của địa phương. Đây là bài toán khó không chỉ đối với những nhà quản
lý, các nhà khoa học mà của cả người dân sở tại.
Trên cơ sở thực tiễn và lý luận, cùng với những kiến thức đã học hỏi
được từ thầy, cô giáo và để phần nào trả lời được câu hỏi trên chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá tiềm năng đồng quản lý rừng của các bên liên quan làm cơ sở
đề xuất nguyên tắc và giải pháp thực hiện đồng quản lý tại Vườn Quốc Gia
Cát Tiên - Đồng Nai”.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái quát chung về đồng quản lý
“Đồng quản lý” là phương thức quản lý tài nguyên thiên nhiên nói
chung và quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên nói riêng mới hình thành trên
thế giới và đang nghiên cứu áp dụng thử nghiệm ở Việt Nam.[5]
Đồng quản lý dựa trên cơ sở thương lươ ̣ng có sự tham gia, viê ̣c ra quyết
đinh
̣ chung, mô ̣t mức độ chia sẻ quyền ha ̣n và phân phối công bằng lơ ̣i ích
giữa các bên liên quan [3]. Như vậy, để đồ ng quản lý thành công, điề u cầ n
thiết là có sự ủng hô ̣ chính tri ̣ đầ y đủ của các cấ p ( tỉnh qua huyê ̣n đế n xa)̃ và
có sự thỏa thuâ ̣n của tấ t cả các bên liên quan. Một ban quản tri ̣ nhiều thành
phần (ban đồng quản lý) sẽ đảm bảo tấ t cả các bên liên quan đươ ̣c tham gia
vào viê ̣c thực hiêṇ đồ ng quản lý và quản lý thích ứng.
Khi tìm hiể u khái niệm về đồng quản lý các khu bảo tồn (Protected

Areas) Borrini – Feyerabend, 1996 [6] chỉ ra rằ ng: đồ ng quản lý là tìm kiếm
sự hợp tác, trong đó các bên liên quan cùng nhau thoả thuận chia sẻ chức
năng quản lý, quyền và nghĩa vụ trên một vùng lãnh thổ hoặc một khu vực tài
nguyên dưới tình trạng bảo vệ. Cũng theo Borrini – Feyerabend, 2000 khái
niệm về đồng quản lý như là một dạng hợp tác trong đó có hai hoặc nhiều đối
tác xã hội hiệp thương với nhau xác định và thống nhất việc chia sẻ chức năng
quản lý, quyền và trách nhiệm về một vùng, một lãnh thổ hoặc nguồn tài
nguyên thiên nhiên được xác định. Đồng thời đối với mục tiêu về văn hoá,
chính trị việc đồng quản lý là nhằm tìm kiếm sự “công bằng” trong quản lý tài
nguyên thiên nhiên. Trong đó thuật ngữ “tiếp cận số đông” trong quản lý tài
nguyên, kết hợp giữa nhiều đối tác có vai trò khác nhau, nhằm mục tiêu chung
là bảo tồn thiên nhiên, phát triển bền vững và chia sẻ công bằng quyền lợi liên
quan đến tài nguyên.


4

Đồ ng quản lý ngươ ̣c với các hợp đồ ng dựa trên hô ̣ gia điǹ h, bao gồ m
các khu vực đất khá rô ̣ng có thể đươ ̣c chia thành các khu trong đó áp du ̣ng các
chế đô ̣ quản lý khác nhau. Phân khu cho phép các khu vực đươ ̣c dành riêng
cho các hoa ̣t động cụ thể như bảo vê ̣ các môi trường số ng quan tro ̣ng, các khu
vườn ươm, các điể m chăn nuôi và sử du ̣ng tài nguyên. Nó cũng giúp làm
giảm mẫu thuẫn giữa những người sử du ̣ng khác nhau và ta ̣o điề u kiê ̣n tuân
thủ. [1]
Cũng nghiên cứu về vấ n đề này, Wild và Mutebi, 1996 [4] lại cho rằng
đồng quản lý là một quá trình hợp tác giữa các cộng đồng địa phương với các
tổ chức Nhà nước trong việc sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên hoặc
các tài sản khác. Các bên liên quan, Nhà nước hay tư nhân cùng nhau thông
qua một hiệp thương, xác định sự đóng góp của mỗi đối tác và kết quả là cùng
nhau ký một hiệp ước phù hợp mà các đối tác đều chấp nhận được.

Bên canh đó, định nghĩa đồng quản lý đươ ̣c Rao và Geisler, 1990 [7]
chỉ ra là sự chia sẻ việc ra quyết định giữa những người sử dụng tài nguyên
địa phương với các nhà quản lý tài nguyên về chính sách sử dụng các vùng
bảo vệ. Các đối tác cần hướng tới mối quan tâm chung là bảo tồn thiên nhiên
để trở thành “đồng minh tự nguyện”.
Andrew W. Ingle và các tác giả, 1999 [2]lại cho rừng đồng quản lý
được coi như sự sắp xếp quản lý được thương lượng bởi nhiều bên liên quan,
dựa trên cơ sở thiết lập quyền và quyền lợi, hoặc quyền hưởng lợi được Nhà
nước công nhận mà hầu hết những người sử dụng tài nguyên chấp nhận được.
Quá trình đó được thể hiện trong việc chia sẻ quyền ra quyết định và kiểm
soát việc sử dụng tài nguyên.
Nói tóm la ̣i, qua các khái niệm của các tác giả nêu trên, đồng quản lý
được hiểu như sau: Đồng quản lý khu bảo tồn thiên nhiên là quá trình tham
gia và hiệp thương của nhiều đối tác có mối quan tâm tới nguồn tài nguyên


5

trong khu bảo tồn, nhằm đạt được một thoả thuận thống nhất về quản lý tài
nguyên khu bảo tồn vừa đáp ứng mục tiêu chung là bảo tồn thiên nhiên, vừa
đáp ứng mục tiêu riêng có thể chấp nhận được và phù hợp với từng đối tác.
1.2. Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý nghiên cứu đồ ng quản lý
1.2.1. Cơ sở lý luận
1.2.1.1. Tính đa dạng về chủ thể và hình thức quản lý tài nguyên rừng
Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004, [8] có 4 chủ thể chính tham
gia quản lý rừng là Nhà nước, các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân.
- Quản lý nhà nước về lâm nghiệp (tài nguyên rừng) là một hình thức
khẳng định chủ quyền của nhà nước đối với tài nguyên rừng. Nhà nước quản
lý, sử dụng tài nguyên rừng phục vụ mục tiêu kinh tế-xã hội, môi trường quốc
gia. Quản lý nhà nước có thế mạnh về pháp luật, chính sách và tài chính.

- Tổ chức và doanh nghiệp quản lý tài nguyên thiên nhiên với nhiều
hình thức khác nhau và hướng đến nhiều mục tiêu khác nhau. Các tổ chức
quân đội quản lý rừng với mục tiêu quốc phòng và quân sự là chủ đạo. Các hệ
thống quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ với mục tiêu chính là bảo tồn
thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Các doanh nghiệp quản lý, sử dụng tài
nguyên lại có mục tiêu chủ đạo là kinh doanh. Các tổ chức có thế mạnh trong
quản lý về khoa học-công nghệ, vốn và thị trường.
- Hộ gia đình và cá nhân quản lý tài nguyên rừng là thành phần được
công nhận khi có Nghị định 02/CP ngày 15 tháng 1 năm 1994 của Chính phủ
[14]về giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn
định và lâu dài và đã được sửa đổi bổ sung tại Luật Bảo vệ và Phát triển rừng
năm 2004. Mục tiêu chính của đối tượng này là tạo điều kiện về tư liệu để
người dân gắn bó với rừng, bảo vệ rừng, góp phần phát triển kinh tế hộ gia
đình và xã hội. Hộ gia đình và cá nhân có thế mạnh về lực lượng tại chỗ và có
nhiều hiểu biết về kiến thức bản địa.


6

- Quản lý tài nguyên rừng cộng đồng là một hình thức quản lý truyền
thống, xuất phát từ tính cộng đồng của con người từ thời nguyên thủy. Trải
qua nhiều thay đổi của xã hội, hình thức quản lý cộng đồng được điều chỉnh
để thích hợp với hoàn cảnh mới. Nó được đúc rút thành những hiểu biết, kinh
nghiệm, hình thành nên các luật lệ và còn tiếp tục phát triển, hoàn chỉnh. Tuy
nhiên, do tính đa dạng của các cộng đồng dân cư dẫn đến sự đa dạng về văn
hoá. Sự đa dạng này cũng dẫn đến sự đa dạng về cách thức quản lý tài nguyên
rừng cộng đồng. Mục tiêu chính của hình thức quản lý này là nhằm đáp ứng
những yêu cầu của các thành viên nhưng không làm ảnh hưởng đến lợi ích
chung của cộng đồng. Cộng đồng quản lý tài nguyên có thế mạnh về tính tổ
chức, thể chế, tính tự nguyện, sự ổn định tại chỗ và những hiểu biết bản địa.

Trên một đơn vị tài nguyên rừng không chỉ tồn tại một hình thức quản
lý mà tồn tại song song nhiều hình thức. Vấn đề đặt ra là các hình thức này
nên hợp tác, liên kết với nhau như thế nào [11]? Muố n đạt được sự công bằng
đối với các chủ thể quản lý, đạt được các mục tiêu tổng thể cũng như cụ thể
của từng đối tượng thì đồng quản lý rừng sẽ là một phương thức thích hợp.
Trong thực tế, nhà nước không đủ khả năng để quản lý toàn bộ tài nguyên
trên lãnh thổ quốc gia. Gánh nặng này cần phải được chia sẻ với các chủ thể
quản lý tài nguyên khác trong xã hội. Hợp tác trong quản lý sẽ phát huy được
những thế mạnh của các chủ thể, đặc biệt cộng đồng dân cư là những người
trực tiếp tiếp cận với nguồn tài nguyên rừng và có những hiểu biết sâu sắc về
chúng. Trên cơ sở đó, hợp tác quản lý sẽ tạo ra một sức mạnh tổng hợp đảm
bảo cho sự thành công của công tác quản lý tài nguyên rừng.


7

1.2.1.2. Đồng quản lý bản chấ t là sự phát triển bền vững tài nguyên rừng.
- Tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên rừng nói riêng là
nguồn nguyên liệu cần thiết đối với phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc
gia. Để phục vụ cho mục tiêu phát triển, con người đã không ngừng khai thác
các nguồn tài nguyên hữu hạn này. Bảo tồn tài nguyên rừng sẽ mâu thuẫn với
phát triển kinh tế. Tuy nhiên, nếu khai thác một cách quá mức, bữa bãi không
theo kế hoạch làm cạn kiệt tài nguyên rừng, hệ quả không bền vững về kinh
tế-xã hội và môi trường. Chính vì vậy, cần phải bảo tồn, duy trì khả năng tái
tạo các tài nguyên cho sự phát triển ổn định lâu dài. Đồng quản lý tài nguyên
khu bảo tồn sẽ là phương thức hiệu quả cho tiến trình bảo tồn và phát triển.
Như vâ ̣y bảo tồn và phát triển là hai mặt đối lập nhưng thống nhất.[9]
- Bên ca ̣nh đó, Nhà nước có chiến lược, chính sách bảo tồn nguồn tài
nguyên thiên nhiên và thường nảy sinh mâu thuẫn với các cộng đồng địa
phương đang sử dụng tài nguyên (đối tượng bảo tồn) phục vụ đời sống. Giữa

cộng đồng và quốc gia sẽ đạt được đồng nhất trong các mục tiêu bảo tồn và
phát triển nếu như tiến tới thỏa thuận về một phương thức đồng quản lý. Vì
vâ ̣y, đồng quản lý giải quyết được mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển.
1.2.1.3. Đồng quản lý dựa trên cơ sở tiến bộ khoa học và kiến thức bản địa
- Đồng quản lý sẽ ứng dụng kết hợp sự hiểu biết về đa dạng sinh học
của khoa học với những kiến thức sinh thái bản địa. Những nghiên cứu đánh
giá các giá trị đa dạng sinh học cần phải bảo tồn là cơ sở thiết lập khu bảo tồn
thiên nhiên. Kiến thức sinh thái bản địa về đặc tính của các tài nguyên là cơ
sở kinh nghiệm giúp cho công tác bảo tồn phát triển tài nguyên rừng. Đồng
quản lý dựa trên sự kết hợp hài hòa giữa các thành tựu của khoa học quản lý
và kinh nghiệm về quản lý tài nguyên rừng của cộng đồng địa phương [15].
Khoa học quản lý sử dụng các biện pháp quản lý tiên tiến khu bảo tồn, kinh
nghiệm quản lý tài nguyên rừng của cộng đồng sẽ là cơ sở để ứng dụng khoa


8

học quản lý cho phù hợp với địa phương.
- Khi giải quyết tốt mối quan hệ giữa khoa học và kiến thức bản địa
không những đảm bảo cho công tác bảo tồn tài nguyên rừng mà còn góp phần
bảo tồn bản sắc văn hoá trong quản lý và sử dụng tài nguyên rừng của cộng
đồng dân cư trong khu vực.
1.2.1.4. Đồng quản lý dựa trên cơ sở phối hợp lợi ích quốc gia và cộng đồng
- Nhà nước tính đến lợi ích mang tính toàn cục khi đặt vấn đề quản lý
một khu bảo tồn nào đó. Với mục tiêu chung là bảo vệ đa dạng sinh học, bảo
vệ môi trường, phòng hộ cho các ngành sản xuất và đời sống xã hội trong khu
vực.
- Đời sống của cộng đồng phụ thuộc trực tiếp vào nguồn tài nguyên
rừng. Lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của người dân là đảm bảo sử dụng
bền vững nguồn tài nguyên cho nhiều thế hệ.

- Các bên quan tâm khác về du lịch, khai khoáng,chế biế n, thủ công mỹ
nghệ lợi ích của họ cũng dựa trên các nguồn tài nguyên vốn có của khu bảo
tồn. Mục tiêu của họ là khai thác một cách bền vững các nguồn tài nguyên
này.[10]
- Mục tiêu của đồng quản lý phải không làm ảnh hưởng quá mức hoặc
làm mất đi lợi ích của các bên liên quan mà phải gắn lợi ích của họ với trách
nhiệm quản lý, bảo vệ các nguồn tài nguyên rừng mà họ đang quan tâm.
1.2.1.5. Đồng quản lý trong bảo tồ n bản sắc văn hoá cộng đồng và xoá đói
giảm nghèo
Với sự phát triển của xã hội, sự hoà nhập về văn hoá cũng càng ngày
càng tăng. Điều này đã làm mai một không ít những bản sắc văn hoá độc đáo
của cộng đồng người địa phương. Những bộ quần áo truyề n thố ng, những
sinh hoạt văn hoá dân gian và cả những tri thức về quản lý và sử dụng tài
nguyên thiên nhiên ngày càng bị mai mô ̣t. Bởi vậy, bảo tồn bản sắc văn hoá,


9

kiến thức bản địa cũng là một trong những chiến lược lâu dài của đất nước.
[12] Đồng quản lý tài nguyên rừng sẽ khuyến khích người dân sử dụng những
kiến thức, sáng kiến và thể chế cộng đồng cho công tác bảo tồn và phát triển.
1.2.2. Cơ sở pháp lý về đồng quản lý
1.2.2.1.Căn cứ pháp luật
Một số Luật có nội dung liên quan đến đồng quản lý:
- Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2001[13] , sửa đổi năm 2004.
- Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng được Quốc hội thông qua ngày 03
tháng 12 năm 2003 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 4 năm 2005;
- Luật Bảo vệ môi trường năm 1993, sửa đổi năm 2005.[18]
- Luật Đất đai năm 2003, sửa đổi năm 2009.
1.2.2.2. Các văn bản dưới luật

- Thông tư số 56/1999/TT-BNN-KL ngày 30 tháng 3 năm 1999 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn [16] về việc hướng dẫn xây dựng quy
ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư thôn, làng, buôn, bản,
ấp.
- Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ngày 11 tháng 1 năm 2001 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý rừng đặc dụng, rừng
phòng hộ và rừng sản xuất là rừng tự nhiên.[17]
- Công ước Đa dạng sinh học mà Việt Nam đã tham gia năm 1994, [19]
trong đó Điều 8 phần (j) ghi rõ “Tuỳ theo luật pháp quốc gia, sự tôn trọng và
duy trì các tri thức, các sáng kiến và các thông lệ của cộng đồng bản xứ và địa
phương, biểu hiện bằng lối sống truyền thống phù hợp với bảo tồn và sử dụng
bền vững đa dạng sinh học, mà khuyến khích áp dụng rộng rãi các tri thức,
các sáng kiến và các thông lệ này, với sự đồng ý và cùng tham gia của những
người sở hữu, cũng như khuyến khích sự chia sẻ công bằng những lợi ích có
được từ các tri thức, các sáng kiến và các thông lệ đó”.


10

- Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg, ngày 14 tháng 8 năm 2006 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý rừng.
- Nghị định số 80/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09 tháng 8 năm
2006 về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Bảo vệ Môi trường;
- Quyết định 192/2003/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2003 của Thủ
tướng Chính phủ ban hành Chiến lược Quản lý hệ thống các khu Bảo tồn
thiên nhiên Việt Nam, trong đó Cát Tiên được xác định là VQG;[20]
- Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg, ngày 14 tháng 8 năm 2006 của Thủ
tướng Chính phủ về ban hành quy chế quản lý rừng;
- Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày 05 tháng 02 năm 2007 của Thủ

tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt
Nam giai đoạn 2006 – 2020;[19]
- Quyết định số 574/QĐ/KL-VP ngày 17/6/2008 của Cục trưởng Cục
Kiểm lâm về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Vườn quốc gia Cát Tiên;[29]
Tóm lại: Chìa khoá thành công trong quản lý tài nguyên rừng là hợp
tác trong quản lý sẽ phát huy được những thế mạnh của các chủ thể, đặc biệt
cộng đồng dân cư là những người trực tiếp tiếp cận với nguồn tài nguyên
rừng. Trên cơ sở đó, hợp tác quản lý sẽ tạo ra một sức mạnh tổng hợp đảm
bảo cho sự thành công trong quản lý bền vững tài nguyên rừng.
1.3. Nghiên cứu đồng quản lý tài nguyên rừng trên thế giới
Chương trin
̀ h ĐQLR đã có mô ̣t ảnh hưởng to lớn. Ta ̣i Ấn đô ̣, hơn
63.000 nhóm đã ghi tên vào chương triǹ h quản lý rừng liên hơ ̣p để tái sinh 14
triê ̣u ha rừng. Ta ̣i Nepal, 9000 nhóm người sử du ̣ng rừng cố gắ ng tái sinh
700.000 ha rừng. Ta ̣i Brazin, nông dân giúp quản lý 2,2 triê ̣u ha khu bảo tồ n
khai khoáng. Phân nửa các quâ ̣n huyê ̣n của Zimbabwe tham gia vào mô hiǹ h


11

lửa tra ̣i qua đó các cô ̣ng đồ ng điạ phương có thể chia sẻ thu nhâ ̣p từ kinh
doanh du lich
̣ những vùng đấ t hoang da.̃ Những chương trình này nói chung
giúp bảo vê ̣ rừng và hỗ trơ ̣ quyề n tiế p cận tài nguyên rừng của người nghèo
nông thôn nhưng chúng thường thiế u cơ sở để cải thiêṇ đáng kể sinh kế của
người nghèo như mong đơ ̣i. Hành đô ̣ng tâ ̣p thể này là nét đă ̣c trưng chính của
những thỏa thuâ ̣n về mă ̣t tổ chức cho đồ ng quản lý. [22]
Đây là những bài học quý giá cho quá trình xây dựng những giải pháp
đồng quản lý bền vững tài nguyên rừng ở Việt Nam.

Ở Canada kể từ khi ký hiệp định Northern Quebec và James Bay năm
1975, việc sắp xếp công tác đồng quản lý ở Canada đã tăng lên nhanh chóng.
Có rất nhiều hình thức sắp xếp công tác đồng quản lý và nhiều ban chính thức
liên quan đến Tuần lộc, cá Vôi trắng, các sản phẩm lâm nghiệp và phi lâm
nghiệp và các loại cá được đặt tên nhưng rất ít. Việc sắp xếp quyền đồng quản
lý đối với chủ đề này là một chủ điểm giữa tỉnh Saskatchewan, công ty quản
lý lâm nghiệp Mistik và các cộng đồng người dân thuộc Hội đồng bộ lạc
Meadow.[24]
Theo Poffenberger. M và MêGan. B, 1993 việc đồng quản lý tài
nguyên thiên nhiên tại VQG Dong Yai - Thái Lan đã có sự phối hợp giữa
người dân với cục Lâm nghiệp Hoàng gia để xây dựng hệ thống quản lý rừng
đảm bảo ổn định về môi trường sinh thái, cũng như phục vụ lợi ích của người
dân trong khu vực.
Theo Wild và Mutebi, 1996 [33]tại VQG Bwindi Impenetrable và
MgaHinga Gorilla thuộc Uganda việc hợp tác quản lý được thực hiện theo
quy ước giữa ban quản lý VQG và cộng đồng dân cư. Trong đó, người dân
được phép khai thác một số lâm sản trên quan điểm khai thác sử dụng bền
vững, đồng thời có nghĩa vụ quản lý bảo vệ tài nguyên rừng. Như vậy, việc


12

hợp tác quản lý tại đây mới chỉ có hai đối tác là ban quản lý VQG và cộng
đồng dân cư tham gia.
Theo Sherry. E., 1999 [32] việc hợp tác quản lý tài nguyên thiên nhiên
tại VQG Vutut được thực hiện trên nguyên tắc: Có sự phối hợp giữa chính
quyền, ban quản lý VQG và cộng đồng dân cư. Đồng quản lý ở đây đã kết
hợp được các mối quan tâm của các bên tham gia và sử dụng kiến thức bản
địa của người dân địa phương vào mục tiêu bảo tồn. Đồng thời, ban quản lý
VQG xây dựng và đưa ra các mô hình đó. Như vậy, việc hợp tác quản lý ở

đây đã giải quyết hài hoà mâu thuẩn giữa Nhà nước và cộng đồng dân cư địa
phương. Đồng thời lợi dụng được kiến thức bản địa vào công tác bảo tồn
hoang dã và bảo tồn các di sản văn hoá.
Theo Oli Krishna Prasad, 1999 [33] việc đồng quản lý tài nguyên thiên
nhiên tại khu bảo tồn Hoàng gia Chitwan ở Nepal, cộng đồng dân cư địa
phương được hưởng từ 30%-50% lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh
du lịch hàng năm thông qua việc đầu tư cho các hoạt động phát triển kinh tếxã hội của cộng đồng. Song, việc đồng quản lý tài nguyên thiên nhiên này
mới chỉ dừng lại ở vùng đệm khu bảo tồn.
Theo Reid. H, 2000 [23]việc hợp tác quản lý tài nguyên thiên nhiên tại
VQG Kruger được thực hiện trên nguyên tắc: Người dân phải xây dựng quy
ước bảo vệ môi trường trong khu vực VQG, đồng thời họ cũng chia sẻ lợi ích
thu được từ du lịch.
Quốc gia đầu tiên trên thế giới đặt nền móng cho phương pháp tham
gia quản lý tài nguyên rừng và khái niệm tham gia quản lý rừng nói chung lần
đầu tiên được biết đến là Ấn Độ vào năm 2004. Đồng quản lý (hay hợp tác
quản lý) bảo vệ rừng được tiến hành trong thời gian này và nhanh chóng lan
rộng tới các quốc gia thuộc các nước châu Phi, châu Mỹ La Tinh và châu Á.


13

Thông qua việc chia sẻ nguồn lợi giữa các nhóm người dân địa phương
với nhà nước, các chương trình dự án cũng đã giúp hoà giải sự tranh chấp
nguồn tài nguyên giữa người dân và nhà nước. Các chương trình đồng quản lý
hoặc hợp tác rừng đã đem lại những kết quả to lớn. Ở Ấn Độ có hơn 63.000
nhóm - tổ tham gia tham gia vào các chương trình trồng mới 14 triệu ha rừng.
Ở Nam Phi, tại VQG Kruger [27] trước đây người dân đã chuyển đi từ
Makuleke, khi chính phủ mới thành lập đã cho phép người dân trở lại vùng
đất truyền thống để sinh sống. Để đạt được quyền sử dụng đất đai cũ, người
dân phải xây dựng quy ước bảo vệ môi trường trong khu vực VQG đồng thời

họ cũng được chia sẻ lợi ích thu được từ du lịch. Từ những kết quả đạt được
về đồng quản lý tài nguyên ở Nam Phi đã trở thành bài học kinh nghiệm cho
các nước đang phát triển khác (Reid, H. 2000) [33].
Năm 1989, [28]nhà nước thực hiện chính sách lâm nghiệp mới đó là
chia rừng và đất rừng làm hai loại: Rừng tư nhân và rừng nhà nước cùng với
hai loại sở hữu rừng tương ứng là sở hữu rừng tư nhân và sở hữu rừng nhà
nước. Trong quyền sở hữu của nhà nước lại được chia theo các quyền sử dụng
khác nhau như rừng cộng đồng theo nhóm người sử dụng, rừng hợp đồng với
các tổ chức, rừng tín ngưỡng, rừng phòng hộ. Nhà nước công nhận quyền
pháp nhân và quyền sử dụng cho các nhóm sử dụng.
1.4. Nghiên cứu đồng quản lý tài nguyên rừng ở Việt Nam
Nguyễn Quốc Dựng, 2004 [5]cho rằng: đồng quản lý khu bảo tồn thiên
nhiên là quá trình tham gia và hiệp thương của nhiều đối tác có mối quan tâm
tới nguồn tài nguyên trong khu bảo tồn, nhằm đạt được một thỏa thuận thống
nhất về quản lý vừa đáp ứng mục tiêu chung là bảo tồn thiên nhiên, vừa đáp
ứng mục tiêu riêng có thể chấp nhận được phù hợp với từng đối tác.
Lần đầu tiên khái niê ̣m đồ ng quản lý được đưa vào Việt Nam năm
1997. Song do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nên khái niêm


14

này vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Qua quá trình thực hiện quản lý rừng tại
các địa phương, khái niệm về đồng quản lý đã được nhiều tổ chức, các tác giả
trong và ngoài nước đưa ra. Trong đó tiêu biểu là khái niệm của IUCN: “Các
khu bảo tồn do Nhà nước thiết lập, nơi quyền ra quyết định, trách nhiệm
quyền và quyền lợi chia sẻ giữa các cơ quan Nhà nước và các bên tham gia,
đặc biệt cộng đồng địa phương sống dựa vào tài nguyên rừng tại các khu bảo
tồn đó”. [30]
Khi nghiên cứu về đồng quản lý năm 2008, [3] một dự án GTZ của

cộng hoà Liên Bang Đức về đồng quản lý đã được triển khai tại Ấp Âu Thọ B
xã Vĩnh Hải huyện Vĩnh Châu tỉnh Sóc Trăng. Mục tiêu tổng thể của dự án
“quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên ven biển tỉnh Sóc Trăng” là bảo vệ và
sử dụng bền vững đất rừng ngập nước ven biển ở đây vì lợi ích của người dân
địa phương. Đến năm 2010 dự án đã tổng kết sau 3 năm hoạt động với báo
cáo tóm tắt: “Đồng quản lý tại Ấp Âu thọ B: một thí nghiệm thí điểm cho
vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng”. Qua báo cáo người ta nhận thấy rằng, mặc dù
quá trình đồng quản lý rừng ngập mặn được bắt đầu chỉ cách đây ba năm,
kinh nghiệm đầu tiên đã cho thấy đồng quản lý là một cách hiệu quả để duy
trì và tăng cường chức năng phòng hộ của đai rừng ngập mặn và đồng thời
cung cấp sinh kế cho cộng đồng địa phương. Trong báo cáo này dự án đã mô
tả chi tiết quá trình đồng quản lý từ lúc bắt đầu đến lúc có được thoả thuận;
liệt kê bài học kinh nghiệm và một vài kinh nghiệm đầu tiên của việc thực
hiện đồng quản lý. Một báo cáo thứ hai, được dự kiến vào cuối năm 2011, sẽ
tập trung vào bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện đồng quản lý, gồm từ
lúc có được thoả thuận đến thực hiện thoả thuận.
Như chúng ta đã biết, tài nguyên rừng ở nước ta trước đây do nhà nước
quản lý và quyết định mọi phương án quản lý và sử dụng. Do vậy, diện tích
rừng ở nước ta trong thời gian qua suy giảm nhanh chóng cả về số lượng lẫn


15

chất lượng, ngay các khu rừng đặc dụng cũng bị xâm phạm nghiêm trọng làm
cho tài nguyên rừng ngày càng cạn kiệt. Đã có một số đề tài, dự án của các tổ
chức nước ngoài và trong nước được thực hiện nhằm quản lý bền vững cho
các khu rừng đặc dụng.
Theo Uirich Apel, Oliver C. Maxwell và các tác giả, 2002 đã nghiên
cứu về đồng quản lý tại khu bảo tồn Pù Luông- Nghệ An [26] cho thấy việc
quy hoạch sử dụng đất, tình hình quản lý tài nguyên rừng còn nhiều vấn đề

bất cập. Đồng thời những nghiên cứu này còn chỉ ra cuộc sống của người dân
địa phương còn phụ thuộc vào rừng, một số thể chế chính sách còn chưa phù
hợp với tình hình thực tế của địa phương. Song các nghiên cứu chưa đánh giá
được đầy đủ tiềm năng và giải pháp thực hiện.
Đòi hỏi của thực tiễn là cần có tiến trình, nguyên tắc và các giải pháp
thích hợp để xây dựng kế hoạch đồng quản lý tài nguyên rừng. Đây là câu trả
lời mà các dự án triển khai trong thời gian gần đây đang lúng túng. Ngày
4/8/2003 hội thảo về “ý tưởng thành lập khu BTTN Phu Xai Leng do cộng
đồng quản lý” được tổ chức tại thành phố Vinh, Nghệ An [30] đã đề xuất một
số vấn đề đồng quản lý khu bảo tồn. Tuy nhiên, hội thảo cũng chưa thống
nhất được các nguyên tắc quản lý và giải quyết triệt để vấn đề.
Khi nghiên cứu về đồ ng quản lý rừng, ở Việt Nam đã có một số dự án
được triển khai thực hiện với mục tiêu xây dựng mô hình đồng quản lý. Điển
hình như: Dự án MOSAIC, 2002 [27] đã triển khai thực hiện tại khu vực sông
Thanh -Quảng Nam, nội dung đồng quản lý mới được bắt đầu và đang trong
thời gian thử nghiệm cho giai đoạn tiếp theo; Dự án về xây dựng mô hình
đồng quản lý giữa khu bảo tồn, cộng đồng dân cư và các tổ chức, cơ quan liên
quan (bao gồm cả tổ chức chính phủ và phi chính phủ) tại khu bảo tồn thiên
nhiên Phong Điền, tỉnh thừa Thiên - Huế. Song các dự án nói trên đều chưa


16

đưa ra được nguyên tắc và các giải pháp thích hợp để xây dựng kế hoạch
đồng quản lý tài nguyên.
Năm 1997 tại VQG Cát Tiên trong khoá tập huấn về “kết hợp bảo tồn
và phát triển” phương pháp đồng quản lý tài nguyên rừng lần đầu tiên được
đưa vào giới thiệu và thảo luận. Sau thời gian đó, đồng quản lý tiếp tục được
giới thiệu trong một số khoá tập huấn về bảo tồn thiên nhiên của các dự án
được triển khai thực hiện. [31]

Hội thảo quốc gia về lâm nghiệp tại Hà Nội năm 2001 đã làm rõ các
yếu tố khuôn khổ pháp lý của rừng cộng đồng, việc thực thi các chính sách hỗ
trợ cho quản lý rừng cộng đồng tại Việt Nam. Trong hội thảo có rất nhiều báo
cáo và các vấn đề thảo luận như “Báo cáo về khuôn khổ pháp lý, chính sách
của Nhà nước và hiện trạng quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam” [25] của các
tác giả Phạm Xuân Phương, Hà Công Tuấn, Vũ Văn Mê, Nguyễn Hồng
Quân; Các báo cáo về sự vận dụng chính sách lâm nghiệp nhà nước ở cấp tỉnh
của các tác giả Sheelagh, Orelly, Vũ Hữu Tuynh, Nguyễn Ngọc Lung, Lê
Ngọc Anh, Nguyễn Hải Nam, Cao Vĩnh Hải,… Cuối cùng hội thảo đi đến kết
luận cộng đồng đang quản lý 15% diện tích rừng của nhà nước, đó là thực tế
mang tính khách quan và ngày càng có một vị trí quan trọng trong hệ thống
quản lý tài nguyên rừng ở Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn một số những vướng
mắc trong khuôn khổ chính sách hưởng lợi từ rừng khi tham gia bảo vệ và
phát triển như không quy định cộng đồng dân cư thôn bản là đối tượng của
chính sách này. Sự vận dụng các chính sách của nhà nước và địa phương đã
có tính sáng tạo, cụ thể là một số tỉnh đã mạnh dạn thí điểm giao đất, giao
rừng và cấp sổ đỏ cho cộng đồng dân cư thôn bản như Sơn La, Thừa Thiên
Huế, Đăk Lăk.
Khi tìm hiể u về vấn đề hưởng lợi của cộng đồng quản lý rừng đã có rấ t
nhiều nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu, đặc biệt là tác giả Nguyễn Bá


17

Ngãi, Nguyễn Ngọc Lung, Bảo Huy. Tác giả Phạm Xuân Phương [30] đã
khảo sát đánh giá tình hình triển khai tính chất hưởng lợi đối với hộ gia đình,
cá nhân, cộng đồng được giao nhận khoán rừng năm 2003.
Việc đồng quản lý tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam là mới, các thể
chế chính sách còn nhiều vấn đề bấc cập, chưa phù hợp với hướng phát triển
của mô hình này. Do vậy, việc tham gia của các bên liên quan còn mang nặng

tính hình thức và chồng chéo về quản lý. Đặc biệt đối với cộng đồng dân cư
sinh sống tại khu vực vùng đệm của các khu bảo tồn và VQG, việc tham gia
vào mô hình còn mang tính thụ động, họ chưa được coi là chủ thể tích cực
trong việc quản lý bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Do đó, nhất thiết cần phải có
những nghiên cứu để xây dựng phương thức đồng quản lý nhằm thu hút người
dân địa phương tự nguyện tham gia đồng quản lý tài nguyên thiên nhiên.
1.5. Hướng nghiên cứu của đề tài
Qua các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước về các vấn
đề liên quan đến đề tài nghiên cứu có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
Các công trình nghiên cứu trên thế giới đã được tiến hành khá đồng bộ
trên nhiều khía cạnh khác nhau, từ việc đưa ra các quan điểm, khái niệm về
đồng quản lý, nghiên cứu về sự hưởng lợi và nghĩa vụ của các bên có liên
quan và các phương thức hợp tác quản lý rừng. Những nghiên cứu này đã tạo
ra cơ sở khoa học cho việc triển khai thực hiện đồng quản lý tài nguyên rừng
ở các nước trên thế giới.
Ở Việt Nam, đồng quản lý rừng là một vấn đề mới, còn đang trong giai
đoạn thử nghiệm và gặp nhiều khó khăn trong thực tiễn do tính phức tạp của
các yếu tố xã hội. Thực hiện đồng quản lý rừng phòng hộ, đặc dụng cần phải
được triển khai thực hiện để có tổng kết đánh giá nhân rộng; các bước tiến
hành về quản lý phải phù hợp với điều kiện và tình hình thực tiễn ở nước ta và
đặc biệt là sự hợp tác nhiệt tình của địa phương.


18

VQG Cát Tiên là một trong những rừng tự nhiên có diện tích rộng nhất
trong cả nước, rất đa dạng về sinh học. Cho đến nay tại đây đã có rất nhiều
nghiên cứu về đa dạng sinh học, thành phần thực vật và động vật ở đây. Tuy
nhiên chưa có nghiên cứu nào có tính hệ thống về đồng quản lý tài nguyên
rừng. Vậy làm sao để quản lý rừng bền vững? Cần có những nguyên tắc và

giải pháp đồng quản lý như thế nào để giải quyết được các mâu thuẫn trong
quản lý tài nguyên rừng tại VQG Cát Tiên. Đây là những yêu cầu, đòi hỏi cần
giải quyết của đề tài trên cở sở phân tích, đánh giá tiề m năng đồ ng quản lý
rừng của VQG Cát Tiên.


19

Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Góp phần bảo vệ và phát triển bền vững rừng của VQG Cát Tiên Đồng Nai thông qua áp dụng phương thức đồng quản lý rừng.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá tiềm năng đồng quản lý rừng tại VQG Cát Tiên - Đồng Nai.
- Thiết lập các nguyên tắc đồng quản lý rừng giữa các bên liên quan
đến bảo vệ và phát triển rừng tại VQG Cát Tiên - Đồng Nai.
- Đề xuất một số giải pháp thực hiện đồng quản lý rừng tại VQG Cát
Tiên - Đồng Nai.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
- Cơ chế chính sách của các cấp có liên quan đến công tác quản lý hệ
thống rừng đặc dụng.
- Những tác động của các bên liên quan đến quản lý rừng tại VQG Cát
Tiên -Đồng Nai.
- Kiến thức bản địa và thể chế của cộng đồng dân cư trong quản lý tài
nguyên thiên nhiên.
- Tài nguyên thiên nhiên tại VQG Cát Tiên - Đồng Nai.
2.3. Giới hạn nghiên cứu
- Về địa bàn nghiên cứu: Do điều kiện về thời gian, nhân lực và kinh

phí của đề tài còn hạn chế nên đối tượng và phạm vi nghiên cứu được giới
hạn cụ thể ở xã Tà Lài huyện Tân Phú tỉnh Đồng Nai, là một trong 36 xã
thuộc vùng đệm vườn quốc gia Cát Tiên.


20

- Về nội dung nghiên cứu: Chỉ tập trung phân tích cơ sở lý luận - thực
tiễn thực hiện đồng quản lý rừng và đánh giá tiềm năng đồng quản lý rừng tại
VQG Cát Tiên và hỗ trợ để các đối tác thiết lập được các nguyên tắc và giải
pháp thực hiện Đồng quản lý.
2.4. Nội dung nghiên cứu
2.4.1. Phân tích tiềm năng quản lý rừng của VQG Cát Tiên - Đồng Nai
1) Hiện trạng TNR và thực trạng quản lý tài nguyên thiên nhiên tại
VQG Cát Tiên - Đồng Nai
- Hiện trạng số, chất lượng các loại rừng
- Trách nhiệm quản lý
- Các chương trình quản lý thuộc BQLR.
- Thực trạng quản lý và mức độ tham gia của cộng đồng trong công
tác quản lý.
2) Sự phụ thuộc của người dân vùng đệm vào nguồn tài nguyên rừng
- Các hình thức khai thác tài nguyên rừng chủ yếu hiện nay của cộng
đồng.
- Đánh giá mức độ phụ thuộc của người dân vào tài nguyên rừng
- Quan điểm của người dân về khai thác tài nguyên và vấn đề bảo vệ
3) Kiến thức và thể chế bản địa trong quản lý rừng
- Những vấn đề chung về kiến thức và thể chế bản địa.
- Kiến thức bản địa, thể chế quản lý rừng và giới trong quản lý rừng tại
xã Tà Lài
4) Phân tích các bên liên quan đến quản lý rừng tại VQG Cát Tiên Đồng Nai

- Vai trò các bên liên quan
- Phân tích mâu thuẫn và khả năng hợp tác giữa các bên liên quan


21

2.4.2. Phân tích tính thực tiễn của một số chính sách hiện hành có liên
quan đến sự tham gia của cộng đồng trong quản lý rừng đặc dụng.
- Những chính sách liên quan đến sự tham gia của cộng đồng trong
quản lý rừng đặc dụng
- Những quy định về chia xẻ quyền lợi giữa cộng đồng tham gia quản
lý rừng đối với VQG Cát Tiên - Đồng Nai.
2.4.3. Thiết lập các nguyên tắc đồng quản lý rừng tại VQG Cát Tiên Đồng Nai.
2.4.4. Đề xuất một số giải pháp thực hiện các nguyên tắc đồng quản lý rừng
tại VQG Cát Tiên - Đồng Nai.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Cách tiếp cận và phương hướng giải quyết vấn đề
- Đề tài bắt đầu từ việc tìm hiểu các thông tin về đồng quản lý rừng và
khảo sát tổng thể khu vực nghiên cứu để chọn ra được địa điểm nghiên cứu
phù hợp nhất với các yêu cầu đặt ra.
- Đồng quản lý là việc quản lý rừng có sự tham gia của các cơ quan, tổ
chức, người dân, cộng đồng xã hội. Cho nên để giải quyết hài hòa mối quan
hệ giữa các bên tham gia thì cần phải tiếp cận từ đa phương.
- Đề tài kế thừa các tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu, đồng
thời tiến hành điều tra thu thập bổ sung các thông tin sơ cấp. Trên cơ sở đánh
giá, phân tích các kết quả này, đề tài đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp
đồng quản lý rừng tại địa phương theo hướng phát triển tài nguyên rừng.
- Triển khai thực hiện các nội dung nghiên cứu vai trò của tác giả là hỗ
trợ còn các đối tác là người thực hiện chính (đồng quản lý trên cơ sở tự
nguyện của các đối tác và chính họ xây dựng và thực hiện sau này).

2.5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Các bước thực hiện nghiên cứu được sơ đồ hoá như sau:


22

Thu thập các tài liệu có liên
quan đến đề tài NC

Khảo sát tổng thể khu vực
nghiên cứu

Phân tích cơ sở khoa học và thực tiễn của đồng
quản lý tài nguyên rừng tại VQG Cát Tiên

Đánh giá tiềm năng đồng quản lý tài nguyên
rừng tại VQG Cát Tiên

Đề xuất nguyên tắc
đồng quản lý

Đề xuất giải pháp
đồng quản lý

Sơ đồ 2.1: Các bước tiến hành nghiên cứu
2.5.2.1. Phương pháp kế thừa tài liệu
- Kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có về đồng quản lý, kể cả các tài
liệu nghiên cứu đã có trên thế giới.
- Kế thừa các tài liệu có sẵn ở các cơ quan và ban, ngành, các cấp từ
trung ương đến địa phương gồm những tài liệu liên quan đến các yếu tố tự

nhiên, kinh tế - xã hội, kinh nghiệm quản lý bảo vệ rừng, những kết quả
nghiên cứu về đồng quản lý ở các địa phương, những tài liệu về tổng kết
chính sách lâm nghiệp trong nước, các văn bản qui phạm pháp luật về vấn đề
liên quan.
- Thu thập số liệu từ Ban quản lý VQG và cán bộ địa phương để nắm
tình hình chung và các số liệu thứ cấp cơ bản.


23

Các tài liệu kế thừa đảm bảo được tính cập nhật (mới nhất), chính
thống (cơ quan, tổ chức có chức năng ban hành) và đảm bảo độ chính xác phù
hợp với yêu cầu của chủ đề nghiên cứu.
2.5.2.2. Thu thập tài liêu, thông tin ngoại nghiệp
* Phương pháp chọn địa điểm nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu là đại diện điển hình của khu vực, thuô ̣c vùng
đệm của VQG, bao gồm các thôn (ấp) phân bố gần rừng, các yếu tố về địa
hình và khả năng tiếp cận với rừng tương đối đồng nhất. Thành phầ n dân tô ̣c
phong phú, trình độ dân trí, thu nhập bình quân điể n hình cho khu vực nghiên
cứu.
- Trên cơ sở các tiêu chí như trên, xã Tà Lài được chọn làm địa điểm
nghiên cứu của đề tài.
* Phương pháp điều tra tiềm năng đồng quản lý trong cộng đồng
Các phương pháp sau được sử dụng để điều tra tiềm năng đồng quản lý
tại cộng đồng:
Phương pháp đánh giá nhanh hay đánh giá nông thôn có sự tham gia
của cộng đồng (Participatory/ Rapid Rural Appraisal – PRA/RRA): Đây là
phương pháp nghiên cứu mang tính định lượng, đánh giá nhu cầu ở cộng
đồng với sự tham gia của nhiều thành phần có liên quan. Phương pháp này
được sử dụng để tìm hiểu và thu thập thông tin tại cộng đồng về những hành

động (hoạt động) của người dân đối với VQG, như:
- Thái độ của người dân đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong
vườn Quốc gia Cát Tiên
- Lôi cuốn người dân cùng tham gia chia sẻ, thảo luận. Đồng thời phân
tích nhận thức, thái độ của của người dân về Vườn Quốc gia Cát Tiên, trên cơ
sở điều kiện thực tế của các hộ gia đình. Bên cạnh đó sẽ đánh giá được nhận


×