Chương 1
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.1. Đặt vấn đề
Trải qua các giai đoạn lịch sử tiến hoá dài, nhận thức của con người về rừng
ngày càng tốt hơn, rừng cần được quản lý tốt để cung cấp ổn định lâu dài cho con
người các lợi ích kinh tế, các lợi ích môi trường và các lợi ích xã hội. Vấn đề mà
toàn thế giới và từng quốc gia đều có sự quan tâm đặc biệt là làm thế nào để quản
lý rừng cho tốt để đảm bảo bền vững việc cung cấp tối ưu về 3 mặt kinh tế, xã hội
và môi trường, trong đó các giá trị môi trường của rừng đối với con người là không
thể thay thế được. Một định nghĩa về QLBVR có thể được sử dụng như sau:
"QLBVR là quá trình quản lý những lâm phận ổn định nhằm đạt được một hoặc
nhiều hơn những mục tiêu quản lý đề ra một cách rõ ràng như đảm bảo sản xuất
liên tục những sản phẩm và dịch vụ rừng mong muốn mà không làm giảm đáng kể
những giá trị di truyền và năng suất tương lai và không gây ra những tác động
không mong muốn đối với môi trường tự nhiên và xã hội" (ITTO, 2002).
Sự xuống cấp của tài nguyên thiên nhiên và môi trường đang là một vấn đề
toàn cầu. Tác động của chúng ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ lên đời sống của
người dân ở các cấp độ khác nhau, từ khu vực cho đến từng cộng đồng và từng
nông hộ. Thật vậy, hầu hết người nghèo ở mọi nơi đều có cuộc sống phụ thuộc vào
tài nguyên thiên nhiên và các tiến trình chức năng của hệ sinh thái. Người dân
trong các cộng đồng địa phương vừa là tác nhân, vừa là nạn nhân của sự xuống cấp
cơ sở tài nguyên mà họ phụ thuộc, điều này đặc biệt đúng đối với người nghèo
trong các cộng đồng đang có sự chuyển đổi từ nền kinh tế tự túc tự cấp sang nền
kinh tế hàng hóa. Chính vì thế, kinh tế hộ và cuộc sống của họ có thể bị ảnh hưởng
bởi bất kỳ một biến động nào từ tài nguyên thiên nhiên. Sự phụ thuộc đời sống
người dân vào tài nguyên rừng cũng đồng nghĩa với việc quản lý tài nguyên rừng
cần phải có sự tham gia của cộng đồng .
1
Từ trước tới nay, việc xây dựng các khu rừng đặc dụng và rừng phòng hộ
cũng như xây dựng kế hoạch quản lý và hoạt động vẫn thường sử dụng cách tiếp
cận từ trên xuống, chưa quan tâm đến người dân sống trong và gần các khu rừng
này. Điều này đã đặt người dân vào vai trò là người ngoài cuộc trong công tác bảo
tồn thiên nhiên. Tiềm năng to lớn của người dân về lực lượng, về những hiểu biết
và kinh nghiệm lâu đời trong quản lý, sử dụng tài nguyên chưa được khai thác ứng
dụng. Trong khi đó, bảo tồn thiên nhiên thường mâu thuẫn với những lợi ích của
người dân vốn sinh sống phụ thuộc rất nhiều vào tài nguyên rừng. Nhiều nơi, thay
vì tham gia quản lý bảo vệ tài nguyên, người dân đã đối đầu với lực lượng quản lý
bảo vệ rừng của chính quyền.
Để giảm các áp lực đối với các khu rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, chia sẻ
gánh nặng đối với chính quyền các cấp trong tình trạng trên thì việc tham gia của
người dân trong công tác quản lý và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên là rất cần thiết.
Sự tham gia của người dân không chỉ dừng lại ở mức thụ động, mà cần phải nâng
cao hơn nữa, như được chuyển giao quyền lực, chủ động tham gia, tiến tới đồng
quản lý tài nguyên rừng. Từ đó mới đánh giá đúng đắn vai trò của người dân trong
công tác bảo tồn tài nguyên thiên nhiên về quản lý, sử dụng và chia sẻ lợi ích. Trên
cơ sở đó, người dân mới thực sự tự nguyện tham gia vào công tác bảo tồn, cũng
như những hiểu biết và kinh nghiệm của họ mới được ứng dụng ngay trên mảnh đất
hàng ngày mà họ đang sinh sống. Xu hướng này cũng rất phù hợp với tinh thần của
Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ về ban hành quy chế
dân chủ ở cấp xã và chiến lược bảo tồn thiên nhiên đến năm 2010.
1.2. Vấn đề nghiên cứu
Từ các bối cảnh lịch sử ra đời của LNXH, việc nghiên cứu về lâm nghiệp có
sự tham gia ở từng giai đoạn thời điểm, địa phương, tổ chức lâm nghiệp nhất định,
có sự tồn tại khách quan và chủ quan. Do đó, việc nghiên cứu LNXH không thể
dừng lại ở tại một thời điểm, một đơn vị địa phương nào mà nó luôn là đề tài mới,
mang tính nóng bỏng của các đơn vị hay địa phương có rừng trong mọi thời điểm
khác nhau.
2
Hoà Thắng là xã trung du nằm ven biển của huyện Bắc Bình, với tổng diện
tích tự nhiên 23.653,45 ha. Bao gồm 11.216 ha đất lâm nghiệp: Đối tượng rừng
phòng hộ 7.743 ha, rừng sản xuất 3.473 ha, đất nông nghiệp và phi nông nghiệp
12.437,45 ha (thổ cư, quốc phòng, cơ quan, trường học, ) nằm trong vùng có chế
độ khí hậu mang tính đặc trưng của vùng Duyên Hải Trung bộ. Việc phát triển
LNXH tại đây có những thuận lợi sau (BQL Lê Hồng Phong, 2006):
- Các chương trình, dự án hỗ trợ đầu tư cho lâm nghiệp trong vùng ngày
càng nhiều, như: Dự án PAM 4304, 327, 661 bằng vốn ngân sách của địa phương.
- Các tổ chức, cá nhân đã tham gia thuê, nhận khoán đất lâm nghiệp để
trồng, chăm sóc và bảo vệ trên địa bàn 1.422,93 ha, gồm 9 công ty và 64 hộ.
- Diện tích đất hoang hóa, không sản xuất nông nghiệp cần cải tạo bằng
phương pháp trồng lại rừng còn gần 10.000 ha.
- Các khu vực giao khoán bảo vệ rừng được thành lập từng nhóm hộ 3 – 5
người, có trang bị các công cụ hỗ trợ, được sự giám sát chỉ đạo của cán bộ quản lý
bảo vệ rừng của BQL rừng phòng hộ và xây dựng nhà ở kiên cố.
- Chính quyền địa phương (xã, huyện, tỉnh) đã có quan tâm tới việc hỗ trợ
giống cây trồng phân tán hàng năm theo chương trình 661, sự nghiệp lâm nghiệp
bằng vốn ngân sách tỉnh, huyện.
- Rừng phát triển tốt so với các thời điểm trước đây, đây là nguồn lợi lâu dài
của chủ rừng, vì thế họ sẽ quan tâm và có biện pháp quản lý tốt. Có diện tích đất
lâm nghiệp rộng lớn, chưa khai thác hết tiềm năng, đây là diện tích có khả năng xây
dựng và tạo lập các mô hình trang trại nông lâm nghiệp.
Với các lý do đó và để làm sáng tỏ thêm các vấn đề nêu trên, việc thực hiện
đề tài: “Nghiên cứu đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý rừng
bền vững tại xã Hòa Thắng, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận" là một yêu cầu
nhằm đánh giá tình hình quản lý bảo vệ rừng thực tại của địa phương và đưa ra giải
pháp quản lý bảo vệ rừng bền vững trong tương lai.
3
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: (i) các tổ chức, cá nhân đang tham gia
hoạt động sản xuất lâm nghiệp trên lâm phận quản lý của BQL rừng phòng hộ Lê
Hồng Phong, và (ii) tài nguyên rừng và đất rừng trong lâm phận của BQL.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: Để đề tài mang tính chất tập trung, đề tài được thực hiện
trong phạm vi xã Hòa Thắng. Đây là xã có diện tích đất lâm nghiệp nằm trong
lâm phần BQL rừng phòng hộ Lê Hồng Phong nhiều nhất, có người dân sống gần
rừng và tham gia vào nghề rừng nhiều nhất so với các xã khác.
+ Về thời gian: Nghiên cứu được bắt đầu từ tháng 8 năm 2010 đến hết
tháng 10 năm 2011. Chỉ thu thập các số liệu liên quan từ năm 2004 đến hết năm
2010 (năm 2011 chưa hết năm nên chưa có cơ sở thu thập).
4
Chương 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Tổng quan về các vấn đề nghiên cứu
2.1.1. Sơ lược về sự hình thành và phát triển LNXH tại Việt Nam
Từ những năm 1970 trở lại đây, ở một số nước trong khu vực châu Á đã bắt
đầu xuất hiện những xu thế mới trong việc quản lý và sử dụng tài nguyên rừng, đó
là [25]:
- Xu thế phi tập trung hoá trong việc quản lý sử dụng tài nguyên rừng thông
qua việc phân cấp trong quản lý, sử dụng, cho phép nhiều thành phần kinh tế tham
gia vào quản lý tài nguyên rừng, vai trò của người dân và cộng đồng địa phương
được nâng cao.
- Xu thế chuyển từ khai thác, lợi dụng gỗ sang sử dụng tổng hợp, đa dạng
hoá sản phẩm theo phương thức sử dụng tổng hợp tài nguyên rừng .
- Xu thế phát triển từ đơn ngành lâm nghiệp sang phát triển đa ngành theo
hướng phát triển nông thôn tổng hợp .
- Xu thế quốc tế hoá trong việc phối hợp, liên kết các hoạt động lâm nghiệp.
Theo FAO (1978): ”LNXH là tất cả những hình thức hoạt động mà trong đó
người dân địa phương liên kết chặt chẽ với hoạt động lâm nghiệp”. Chúng ta nên
hiểu rộng ra LNXH là một nghề mà tất cả hoạt động liên quan chặt chẽ đến mọi
cộng đồng, đa thành phần trong việc quản lý và bảo vệ rừng. Trong đó việc huy
động người dân địa phương tham gia trồng rừng, bảo vệ rừng, yêu nghề rừng là
một tác nhân thành công của mô hình lâm nghiệp xã hội [25].
LNXH được hình thành mang một số đặc điểm sau: (1) Phi tập trung hóa,
phân cấp trong quản lý tài nguyên rừng; (2) Người dân chủ động tham gia vào các
hoạt động phát triển, quản lý tài nguyên rừng; (3) Sử dụng tổng hợp các sản phẩm
5
từ rừng; (4) Phát triển lâm nghiệp đa ngành theo hướng phát triển nông thôn tổng
hợp; (5) Các hoạt động lâm nghiệp xã hội mang tính quốc tế hóa [25].
Các đối tượng Lâm nghiệp xã hội có sự tham gia của nhiều thành phần xã
hội: (1) Cộng đồng địa phương, bao gồm: cá nhân và hộ gia đình nông dân, chủ
trang trại nông lâm nghiệp, các nhóm có cùng sở thích, cộng đồng thôn bản, hợp
tác xã nông nghiệp, trường học, xí nghiệp, các tổ chức quần chúng: hội phụ nữ, hội
nông dân, quân đội; (2) Tổ chức chính phủ và phi chính phủ, Lâm trường quốc
doanh, Hạt kiểm lâm, Trung tâm và các trạm khuyền lâm nông, Các dự án phát
triển lâm nghiệp và nông thôn, Ngân hàng và hệ thống tín dụng [20].
Ở Việt Nam có hai hình thức quản lý rừng cộng đồng phù hợp với định
nghĩa của FAO như sau [28]:
- Thứ nhất là quản lý rừng cộng đồng
Đây là hình thức mà mọi thành viên của cộng đồng tham gia quản lý và ăn
chia sản phẩm hoặc hưởng lợi từ những khu rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở
hữu của cộng đồng hoặc thuộc quyền sử dụng chung của cộng đồng. Trên thực tế,
mặc nhiên cộng đồng đang tự tổ chức quản lý sử dụng và hưởng lợi từ những khu
rừng đó. Như vậy, thực chất “quản lý rừng cộng đồng” là cộng đồng dân cư thôn
quản lý rừng thuộc quyền sở hữu hoặc thuộc quyền sử dụng chung của cộng đồng,
được hình thành chủ yếu thông qua chính sách giao đất, giao rừng cho cộng đồng
dân cư thôn.
- Thứ hai là quản lý rừng dựa vào cộng đồng
Đây là hình thức cộng đồng tham gia quản lý các khu rừng không thuộc
quyền quản lý, sử dụng, sở hữu chung của họ mà thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở
hữu của các thành phần kinh tế khác nhưng có quan hệ trực tiếp đến đời sống, đến
việc làm, thu hoạch sản phẩm, thu nhập hay các lợi ích khác của cộng đồng (thuỷ
lợi nhỏ, nước sinh hoạt…). Hình thức này có thể chia thành hai đối tượng:
Rừng của hộ gia đình, cá nhân là thành viên trong cộng đồng. Cộng đồng
tham gia quản lý với tính chất hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, chia sẻ lợi ích cùng nhau
6
trên cơ sở tự nguyện (tạo thêm sức mạnh để bảo vệ rừng, hỗ trợ hoặc đổi công cho
nhau trong các hoạt động lâm nghiệp…).
Rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của các tổ chức nhà nước (các
ban quản lý rừng phòng hộ, đặc dụng, các lâm trường, công ty lâm nghiệp nhà
nước, các trạm trại…) và các tổ chức tư nhân khác. Cộng đồng tham gia các hoạt
động lâm nghiệp như bảo vệ, khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh, phục hồi rừng, trồng
rừng với tư cách là người làm thuê thông qua các hợp đồng khoán và hưởng lợi
theo các cam kết trong hợp đồng.
Bản thân thuật ngữ “cộng đồng” cũng đã được hiểu theo nhiều nghĩa khác
nhau. Trong các tài liệu liên quan đến quản lý TNTN, cộng đồng thường được
hiểu là “một nhóm người chia sẻ những lợi ích, mối quan tâm, hay các mối liên hệ
chức năng hay đạo đức” (Pomeroy và Carlos, 1996; dẫn theo R. Sarou [13]). Bên
cạnh đó, cũng có những cách hiểu khác nhau về cách tiếp cận “quản lý TNR dựa
vào cộng đồng”. Chính vì thế, việc xây dựng một lý thuyết chung dựa trên các
công trình nghiên cứu hành động đã được nhiều tổ chức quốc tế quan tâm phát
triển trong hơn một thập kỷ qua. Cơ sở của việc thiết kế các hệ thống quản lý tài
nguyên, trong đó có quản lý rừng dựa vào cộng đồng là sự xem xét các định chế
quản lý của con người có phù hợp với các hệ thống tự nhiên sinh học của môi
trường hay không. Trong đề tài, chúng tôi sử dụng khái niệm quản lý TNR dựa
vào cộng đồng theo ý nghĩa này để xây dựng khung phân tích.
Từ thời kỳ đổi mới 1986 đến nay, nghề rừng nước ta đã có những chuyển
biến đáng kể về định hướng chiến lược và chính sách phát triển lâm nghiệp. Từ
những văn bản và qui phạm pháp luật đã ban hành cũng như trên thực tế đã thể hiện
rõ những quyết tâm chuyển đổi lâm nghiệp từ một ngành kinh tế có nhiệm vụ khai
thác tài nguyên rừng là chính sang xây dựng ngành lâm nghiệp với nhiệm vụ cơ
bản là xây dựng và phát triển vốn rừng; đẩy mạnh sản xuất lâm sản và phát triển
các dịch vụ lâm nghiệp trên cơ sở vốn rừng và tài nguyên rừng được quản lý một
cách bền vững.
7
Trên thực tế, các cơ quan nhà nước ở cấp Trung ương đã ban hành hàng
trăm văn bản qui phạm pháp luật liên quan đến chính sách lâm nghiệp (CSLN). Từ
năm 1993 đến nay, Chính phủ đã liên tục hoạch định và tổ chức thực thi 2 chương
trình quốc gia lớn về khôi phục và phát triển rừng, đó là: Chương trình 327 và Dự
án 661, với mục tiêu quyết tâm nâng cao độ che phủ rừng của toàn quốc đạt trên
43% vào năm 2010 [35], [37]. Gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định về phê duyệt Chiến lược Phát triển lâm nghiệp đến năm 2020. Về tổng thể,
nước ta đã hình thành một hệ thống chính sách lâm nghiệp được trình bày ở các
Nghị quyết của Đảng và các văn bản qui phạm pháp luật của nhà nước.
Đẩy mạnh phát triển lâm nghiệp xã hội là cách lựa chọn hợp lý để xây dựng
hệ thống chính sách phát triển lâm nghiệp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Cần
khẳng định “xã hội hoá lâm nghiệp, có chính sách bảo đảm cho người làm rừng
sống được bằng nghề rừng, kết hợp lâm nghiệp với nông nghiệp” là phương hướng
cơ bản để xây dựng hệ thống CSLN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, vì: Phát
triển lâm nghiệp xã hội phù hợp với thực tiễn cơ cấu dân số, phân bố dân cư và
trình độ kinh tế -xã hội, phù hợp với ý kiến, nguyện vọng của gần 30 triệu cư dân
sống ở vùng gần rừng; Có khả năng sử dụng và phát huy được mọi nguồn lực của
người dân; Trên thực tế đã được nhân dân, nhất là nhân dân sống gần rừng đón
nhận, thực hiện và đã xây dựng được những mô hình quản lý rừng có hiệu quả, có
tác động tích cực đến PTLNBV (Trần Đức Viên, 2005 [21]).
+ Tuy vậy, cần nhận rõ những điểm yếu kém về phát triển rừng và lâm
nghiệp bền vững ở nước ta trong giai đoạn mới, đó là: (1) Nhận thức của xã hội về
vai trò, lợi ích của rừng và nghề rừng còn rất khác nhau; (2) Sự tham gia của người
dân trong quá trình phát triển lâm nghiệp còn thấp.Vai trò và tác động của rừng và
nghề rừng đối với xoá đói giảm nghèo, phát triển nông thôn miền núi còn thấp;
Trình độ xã hội hoá lâm nghiệp chưa đạt được các mục tiêu mong muốn; (3) Tốc
độ tăng trưởng và đóng góp của ngành lâm nghiệp còn rất thấp; (4) Cơ cấu rừng và
cơ cấu kinh tế lâm nghiệp chưa phù hợp với yêu cầu của đất nước và chuyển dịch
cơ cấu lâm nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá đất nước đang còn chậm [25].
8
+ Thực trạng yếu kém: Mặc dù độ che phủ rừng đang dần dần tăng lên,
nhưng chất lượng rừng chưa có những cải thiện rõ rệt. Sức sản xuất, năng lực
phòng hộ của rừng tự nhiên và rừng trồng còn quá thấp; Công tác quản lý, bảo vệ
tài nguyên rừng còn nhiêu bất cập. Hiệu lực của công tác quản lý nhà nước về tài
nguyên rừng chưa cao. Càng xuống cấp dưới, càng đi vào những vùng lãnh thổ có
nhiều rừng, các yếu kém về quản lý nhà nước đối với rừng càng bộc lộ rõ ràng [25].
2.1.2. Các vấn đề liên quan đến quản lý rừng có sự tham gia và đồng
quản lý rừng
Quản lý rừng có sự tham gia đã được nhiều tác giả nghiên cứu, nhưng có lẽ
vấn đề quan trọng nhất có thể là những cách hiểu khác nhau về khái niệm “tham
gia” (Chambers, 1991; dẫn theo Bùi Việt Hải, 2007 [7]). Đây là một khái niệm
được diễn dịch một cách rất mềm dẻo. Trong những ý kiến thảo luận về sự tham
gia trong quản lý tài nguyên thiên nhiên (TNTN), cần phân biệt giữa các mức độ
và loại hình tham gia. Có hai trường hợp cực đoan có thể xẩy ra liên quan đến
khái niệm này: (1) Sự tham gia có thể được xem là một phương thức hay phương
tiện để tạo điều kiện thực hiện một biện pháp quản lý đã được các cơ quan bên
ngoài ấn định trước; (2) Sự tham gia được xem là mục đích; phát huy sự tham gia
là một phương thức phát huy nội lực của các cộng đồng địa phương để bảo vệ cơ
sở tài nguyên của họ. Trong thực tế, mức độ và hình thức tham gia bị chi phối bởi
bối cảnh xã hội, nhưng điều quan trọng khi đánh giá mức độ tham gia là ý nghĩa
cơ bản của nó: người dân phải tham gia vào các quyết định chi phối đến đời sống
của họ (Bùi Việt Hải, 2007 [7]).
Việc sử dụng phổ biến cụm từ “sự tham gia” phản ánh những quan điểm
khác nhau về mục tiêu và phương thức. Trong nhiều trường hợp, “sự tham gia” ít
khi được định nghĩa rõ ràng và do đó trở nên ít có ý nghĩa khi thực thi các hoạt
động quản lý rừng. Sự suy diễn phong phú các nội dung khác nhau về sự tham gia
đã dẫn tới những định nghĩa phức tạp về các “kiểu tham gia”
. Nói chung, sự phân
biệt các kiểu tham gia dựa trên mức độ kiểm soát tiến trình lập quyết định về tài
9
nguyên giữa những người trong cuộc (hay đối tượng hưởng lợi) và người ngoài
cuộc (hay người khởi xướng) [7].
(1) Sự tham gia thường được hiểu ở cấp độ cơ bản và đơn giản nhất, đó là sự
cung cấp thông tin tham vấn khi một cơ quan hay tổ chức tiến hành để lấy ý kiến
của các thành viên trong một cộng đồng trước khi đưa ra các quyết định hay triển
khai các hoạt động có ảnh hưởng đến người dân địa phương.
(2) Ở một mức cao hơn, sự tham gia được hiểu là việc tham gia vào thực thi
các hoạt động khác nhau, một số nông dân được hợp đồng trồng rừng hay giao
khoán quản lý bảo vệ rừng (QLBVR). Một lần nữa, ở đây, người dân không có
quyền quyết định trồng rừng như thế nào, hoặc QLBVR ra sao, mặc dù họ có thể có
quyền ký hay không ký các hợp đồng này; ở đây, sự tham gia dừng lại ở mức độ
đóng góp sức lao động.
(3) Cao hơn nữa, sự tham gia được thể hiện ở mức độ người dân tham gia
vào việc lập kế hoạch cùng với các cơ quan phát triển từ bên ngoài, đóng góp nhân
lực và kinh phí cho các hoạt động phát triển ở địa phương vì lợi ích của mình và
giám sát tiến trình. Nhiều hoạt động của chương trình 145/TTg đã được thực hiện
thành công theo hướng này.
(4) Sau cùng, ở mức cao nhất, sự tham gia thường được hiểu như là một
chuẩn mực, trong đó người dân chủ động, tích cực đưa ra các phương án phát triển.
Trong trường hợp này, các cơ quan bên ngoài tham gia vào hoạt động của cộng
đồng mà không phải là các cộng đồng tham gia vào công việc của họ.
Bốn cấp độ trên đây của cách tiếp cận “có sự tham gia” có thể được vận
dụng trong từng tình huống cụ thể. Do đó, ý tưởng cho rằng mọi sự tham gia đều
đồng nghĩa với “tốt” và mọi hoạt động thiếu sự tham gia đều đồng nghĩa với
“không tốt” có vẻ cực đoan. Tuy nhiên, trong thực tế, nó có thể ẩn dấu một cách
thức làm cho các hoạt động dựa trên sự điều khiển được tiến hành thuận lợi và dễ
được chấp nhận.
10
Mặc dù sự phân loại các ý tưởng có vẻ đơn giản về sự tham gia, có thể hữu
ích cho việc tìm hiểu bản chất của vấn đề, nó cũng có một số nhược điểm gây trở
ngại cho việc phát triển các hệ thống quản lý rừng có sự tham gia (Pimbert, Gujja
và Shah, 1996; dẫn theo Hoàng Hữu Cải, 2001). Thứ nhất, nó giả định rằng mức độ
tham gia có thể được xác định ngay từ đầu khi lập kế hoạch, tiến hành thiết kế hệ
thống giám sát và đánh giá có sự tham gia, và giữ bất biến trong tiến trình đó. Thứ
hai, nó phân biệt một cách giản đơn “người trong” và “người ngoài”. Điều này làm
lu mờ một thực tế là các thành viên ở cả hai nhóm cũng có những mức độ tham gia
khác nhau. Khi xem xét tất cả các thành viên của cộng đồng là người trong cuộc,
các dự án dễ có xu hướng đồng nhất, người có nhiều đất với người không có đất,
phụ nữ và nam giới, nông dân khá giàu và nông dân nghèo. Đối với việc giám sát,
điều này có nghĩa là khi sự tham gia được giả định là chỉ báo của sự phát triển. Thứ
ba, vì sự phân loại ít nhiều mang tính chất phán đoán, nhiều tác giả đã đưa ra các
thuật ngữ như tham gia bắt buộc hay sự tham gia được điều khiển. Tuy nhiên trong
thực tế, không phải mọi người đều mong muốn, có thể và cam kết sẽ tham gia như
nhau trong một tiến trình. Trong thực tế, bối cảnh chính sách và xã hội địa phương
có ảnh hưởng rất lớn đến mức độ và hình thức tham gia của các nhóm nông dân
khác nhau. Do đó, khả năng đạt được sự tham gia hoàn toàn trong tiến trình lập kế
hoạch, giám sát và đánh giá chỉ là một tình trạng phi thực tế (Hoàng Hữu Cải,
2001) [2].
Trong sự phát triển của lý thuyết về sự tham gia trong quản lý môi trường
và TNTN, cần nhấn mạnh một xu thế: bản thân các vấn đề về quản lý TNTN nói
chung và TNR nói riêng là một tiến trình xã hội (Myint, 2003; dẫn theo Nguyễn
Thị Kim Tài, 2006 [18]). Tuy nhiên, hành động của con người trong các cộng
đồng ở trong hay gần rừng bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên của các hệ sinh
thái đồng thời các quy luật do con người tạo ra. Do đó, để phân tích tương tác
giữa cộng đồng với môi trường và tài nguyên theo các khía cạnh định chế - môi
trường, cần xem môi trường và cộng đồng như là tác nhân hành động hơn là nhân
tố trong quản lý tài nguyên.
11
Trong bối cảnh của quản lý và bảo tồn TNR có sự tham gia, nhiều câu hỏi
quan trọng được đặt ra chung quanh các vấn đề “ai tham gia” và họ tham gia như
thế nào? Việc phân tích sự tham gia trước hết được bắt đầu bằng cách xác định
những “người tham gia”, những “cá nhân” hay “nhóm liên quan” nào tham gia vào
hệ thống quản lý và bảo tồn TNR? Vai trò của họ là gì? Những người này tham gia
với động cơ nào? Liệu các mối quan tâm nào của họ sẽ được lưu ý và hệ thống
quản lý có sự tham gia có giúp giải quyết các mối quan tâm của họ ra sao? Sự tham
gia thực tế xảy ra ở địa phương như thế nào? Không phải tất cả các câu hỏi này đều
có câu trả lời rõ ràng. Tuy nhiên, nếu các bên tham gia không xem xét chúng một
cách thận trọng, sự tham gia sẽ mất đi ý nghĩa của nó (Bùi Việt Hải, 2007 [7]).
Sự thừa nhận vai trò của người dân địa phương được thể hiện trong chính
sách giao đất lâm nghiệp và giao khoán quản lý bảo vệ rừng. Các chính sách này
giải quyết một vấn đề rất cơ bản của quản lý bền vững: một khi quyền sử dụng đất
và quyền tiếp cận tài nguyên rừng của người dân được xác lập, các hệ thống quản
lý rừng bền vững dựa trên cơ sở cộng đồng địa phương được quan tâm phát triển.
Tuy nhiên, trong tiến trình triển khai thực hiện còn nhiều vấn đề cần phải được
nghiên cứu cụ thể (dẫn theo R. Sarou, 2004 [10]) như sau:
(1) Mối quan hệ giữa các cộng đồng và môi trường tài nguyên mà họ đang
phụ thuộc cần phải được xem xét ở nhiều góc độ, không gian và thời gian khác
nhau. Rừng và các giá trị văn hóa của từng dân tộc sinh sống trong vùng thường
gắn bó chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, việc bảo vệ rừng mang lại các lợi ích ở một
phạm vi không gian rộng lớn hơn. Do đó, kết hợp giữa các hoạt động bảo tồn tài
nguyên và phát triển đời sống người dân là một vấn đề phức tạp.
(2) Các hệ thống quản lý và phát triển rừng được đặt trên cơ sở nâng cao
nhận thức của người dân. Điều này đòi hỏi những hoạt động trao đổi thảo luận với
cộng đồng làm cho họ thấy được những giá trị đích thực của rừng, những truyền
thống tốt đẹp của từng dân tộc gắn bó với tài nguyên rừng và những vấn đề bức
bách đang đặt ra cho cộng đồng để họ cùng nhau suy nghĩ và bàn bạc giải quyết
vấn đề quản lý bảo vệ rừng.
12
(3) Sự tham gia tích cực và chủ động của các cộng đồng không phải tự nhiên
mà có. Để góp phần tham gia phát triển nông thôn một cách nhanh chóng và có
hiệu quả, các nhà nghiên cứu, cán bộ khuyến nông-khuyến lâm và các cơ quan
quản lý tài nguyên rừng ở địa phương đã và đang hoạt động rất tích cực trong việc
tìm hiểu các giải pháp tốt nhất và phù hợp nhất cho từng địa phương mà họ đang
công tác, nhằm giúp người dân ổn định cuộc sống của họ, đồng thời tự nâng cao
kiến thức và năng lực của các bên liên quan (nhà nghiên cứu và cán bộ khuyến
nông khuyến lâm và cán bộ quản lý). Nói cách khác, tiến trình thúc đẩy sự tham gia
của người dân đòi hỏi phải tạo ra một môi trường học tập để các bên tham gia cùng
có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm và ý kiến của mình với nhau.
Tuy nhiên, không phải tất cả các chương trình hay dự án liên quan đến sự
tham gia đều thành công, và lâm nghiệp xã hội nói chung hay lâm nghiệp cộng
đồng nói riêng không phải là một thứ thuốc bách bệnh (Bùi Việt Hải, 2007 [7]).
Một nghiên cứu của Viên Ngọc Nam (1996) [11] về vai trò của nông hộ trong sự
tham gia quản lý tài nguyên rừng ngập mặn tại huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí
Minh cho thấy rằng, đây là một trường hợp điển hình trong đó một chương trình
tái tạo rừng rộng lớn đã được thực hiện, nhằm khôi phục hệ sinh thái rừng ngập
mặn sau chiến tranh. Nhưng trong giai đoạn về sau, việc bảo vệ khu rừng này đã
gặp không ít khó khăn. Vì những năm trước nay, rừng được bảo vệ bởi những đơn
vị của nhà nước, người dân địa phương không được huy động để tham gia dù một
phần vào trong những hoạt động lâm nghiệp và họ không hiểu về những lợi ích
của tài nguyên rừng ngập mặn đối với đời sống của họ. Người dân sống trong khu
vực rừng ngập mặn vẫn thường chặt phá rừng trái phép. Từ đó, các mâu thuẫn xảy
ra giữa người dân địa phương và những tổ chức quốc doanh. Đây là lý do chính
dẫn đến rừng ngập mặn Cần Giờ vẫn còn bị phá huỷ.
Từ các phân tích quản lý rừng có sự tham gia chúng ta có thể đưa ra khái
niệm về đồng quản lý như sau :
13
Có nhiều khái niệm về đồng quản lý nhưng các khái niệm đều tập trung vào
việc chia sẻ quyền lực nhị nguyên giữa nhà nước và những người sử dụng tài
nguyên địa phương (hoặc bản địa) và phạm vi của các thoả thuận có thể xảy ra
( Pinkerton, 1989; Berkes et al,1991; Berkes, 1994).Chúng bao gồm: hệ thống tài
nguyên được xác định rõ và bối cảnh với quy mô nhỏ, lợi ích được chia sẻ bởi một
bộ phận của các thực thể xã hội, quyền sở hữu rõ ràng, tiếp cận các biện pháp quản
lý thích nghi, cam kết một quá trình lâu dài và có xây dựng thể chế; có sự đào tạo
nguồn lực ; sự hiện diện của các lãnh đạo chủ chốt hoặc các nhà quản lý, sự cởi mở
của người tham gia để nắm lấy đa số kiến thức và môi trường chính sách hỗ trợ
(Armitage et al, 2009).
2.2. Hoạt động LNXH và vận dụng đồng quản lý tại Việt Nam
2.2.1. Một số mô hình hoạt động LNXH ở nước ta
+ Mô hình bảo vệ tài nguyên rừng tại Vườn quốc gia Cát Bà
Ban Quản lý Vườn thông qua các dự án đã giúp đỡ kinh phí cho nhân dân
sống trong khu vực của Vườn, đặc biệt là xã Việt Hải. Việc giao đất, giao rừng cho
đối tượng khuyến khích cũng được thực hiện. Ban Quản lý khoán rừng cho dân để
làm kinh tế. Nhân dân được khuyến khích trồng rừng làm kinh tế, trồng các loại
cây ăn quả. Đồng thời, với số tiền mà Vườn thu được từ khách du lịch đã hỗ trợ
một phần cho xã.
Ban Quản lý Vườn kết hợp với các dự án tổ chức các đợt tuyên truyền, mời
quần chúng nhân dân đến tham dự để giải thích cho người dân hiểu về giá trị của
tài nguyên rừng, biển, việc bảo tồn và khai thác bền vững những giá trị tài nguyên
này. Phương thức tuyên truyền là thông qua hình ảnh, các buổi chiếu phim và giao
lưu. Tại xã Việt Hải, thông qua các đợt tuyên truyền, cán bộ đã hướng dẫn phát
triển du lịch tại xã. Người dân làm các dịch vụ ăn, uống, nghỉ trọ, hướng dẫn du
lịch. Các hoạt động này diễn ra rất tốt và hiệu quả. Điều này tác động mạnh mẽ đến
đời sống nhân dân của xã. Qua những hoạt động này mà một phần đời sống của
nhân dân được nâng cao.
14
Các tổ bảo vệ nhân dân cũng được thành lập, kết hợp làm việc với Hạt Kiểm
lâm, thường xuyên đi tuần tra canh gác với Hạt kiểm lâm của Vườn, đạt được hiệu
quả cao. Những người trong tổ bảo vệ được hưởng một phần lương, tuy nhiên điều
này phụ thuộc vào kinh phí nhà nước cấp cho Vườn (phối hợp quản lý và bảo tồn,
WB, 6-2002).
+ Phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở các vùng đệm
Các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên được thiết lập ở các vùng
hoang vu, hẻo lánh nên các vùng đệm của vườn quốc gia và các khu bảo tồn thiên
nhiên nói chung đất rộng, người thưa. Nhiều xã ở vùng đệm có diện tích đất nông,
lâm nghiệp bình quân mỗi hộ hơn một ha. Đất đai tại các vùng đệm của Vườn quốc
gia Pù Mát (Nghệ An), Cúc Phương (khu vực thuộc tỉnh Hòa Bình), Tam Đảo (khu
vực thuộc tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên), Chư Mom Rây (Kon Tum), Kon Ka
Kinh (Gia Lai), Chư Yang Sinh (Đắk Lắk), Nam Cát Tiên (Bình Phước, Lâm
Đồng, Đồng Nai), đều khá màu mỡ (CPSE, 1998).
Hiện nay, nguồn tài chính cho các vùng đệm được cấp từ: các dự án xây
dựng vùng đệm đã được duyệt dự án đầu tư, nguồn kinh phí của dự án ODA, các
chương trình quốc gia, chương trình của địa phương và nguồn ngân sách cấp xã ở
các vùng đệm. Trong đó, nguồn vốn của các dự án vùng đệm là nguồn đầu tư trực
tiếp, được xây dựng với mục tiêu đáp ứng cả yêu cầu bảo tồn và phát triển. Ngân
sách cấp xã của vùng đệm giống như ở các xã khác để đảm bảo cho các hoạt động
như: chi phí thường xuyên cho UBND xã, giáo dục, y tế Hiện nay, ngân sách cấp
xã chủ yếu để trả lương cho bộ máy quản lý ở xã, nguồn chi thường xuyên này có
ảnh hưởng trực tiếp đến các VQG, khu BTTN về việc đảm bảo an ninh, thừa hành
pháp luật trong bảo vệ rừng ở vùng đệm và vùng lõi (CPSE, 1998 - 1999).
Về lâm nghiệp, vườn rừng của các hộ và các bản đang phát triển và khá đa
dạng. Riêng năm 2001, phối hợp với các đoàn thể Hội Nông dân, Hội Phụ nữ,
Đoàn Thanh niên, Vườn quốc gia Pù Mát đã thiết lập được 2.164 ha vườn hộ và
vườn rừng. Ở Hà Giang, vườn rừng thường là chè - bạch đàn hoặc chè - mỡ. Ở Bắc
Giang, vườn rừng ở trên đỉnh đồi bao gồm các loại cây đa dụng như trám, dẻ, tre,
15
Ở Lào Cai, vườn rừng thường là các loại cây lấy gỗ, bên dưới trồng song, mây và
các loại cây làm thuốc như thảo quả, cam thảo; thỉnh thoảng đã có hộ trồng các cây
thuốc quý như sâm, hoàng liên, (CPSE, 1998- 1999). Nhiều vườn cây ăn quả, cây
đặc sản cũng được hỗ trợ phát triển để đảm bảo thu nhập bền vững cho các gia đình
(CPSE, 2002).
Về nông nghiệp, nhiều ruộng bậc thang đã được xây dựng. Đồng bào đã
chấm dứt tình trạng đốt rừng làm nương rẫy, đời sống được cải thiện. Hội Nông
dân đã tích cực vận động nhân dân phòng dịch bệnh, nên gia súc ít bị chết bệnh
hơn, các giống lợn siêu nạc bắt đầu phát triển. Tại vùng đệm của Vườn quốc gia Pù
Mát, việc chăn thả trâu bò có quản lý đang phát triển theo sự quản lý các dòng họ
và từng bước giải quyết được mâu thuẫn giữa phát triển đàn gia súc và bảo vệ rừng
(CPSE, 1998).
+ Cộng đồng tham gia bảo tồn đa dạng sinh học
Cân bằng sinh thái rừng được cộng đồng bảo vệ bao gồm toàn bộ các khâu
duy trì và phát triển giống; cung cấp thức ăn, nơi cư trú; duy trì mối tương tác và
phụ thuộc lẫn nhau giữa các sinh vật.
Các cộng đồng tham gia phục hồi tài nguyên rừng theo nhiều hình thức và
khá đa dạng. Nhiều cộng đồng đã kết hợp chăm sóc cây rừng, nâng cao độ phì của
đất rừng để phát triển nông nghiệp. Ở các xã của huyện Sa Pa (tỉnh Lào Cai) trong
vùng đệm của Vườn quốc gia Hoàng Liên Sơn - Sa Pa, đồng bào Mông, Dao đã
chăm sóc cây rừng, bón phân cho đất rừng và trồng thảo quả dưới tán cây rừng
(CPSE, 2002). Đồng bào nhiều nơi cũng tự nhân giống nhiều loại cây rừng để phục
vụ đời sống của họ, ví dụ đồng bào ở xã Lục Sơn, Lục Nam, Bắc Giang đã nhân
giống các loại dẻ, trám trong Khu Bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử (CPSE, 2002 -
2003). Ngoài ra, việc bảo tồn các loài hoang dã cũng giúp cho cải thiện chất lượng
các loài thuần dưỡng.
Nhìn chung, cộng đồng đã tham gia bảo vệ rừng một cách tự nguyện nhằm
thực hiện tốt chính sách của Nhà nước và bảo vệ quyền lợi thiết thực của mình.
16
Đây là một nguyên nhân đã góp phần quan trọng làm cho Việt Nam hiện nay là
một trong mười nước có mức đa dạng sinh học cao trên thế giới. Tuy nhiên, vẫn
còn một số yếu tố hạn chế sự tham gia của cộng đồng trong công tác bảo vệ rừng:
(1) Cộng đồng rất ít được tham gia vào lập kế hoạch tu bổ, giám sát các công trình
thi công trong vườn quốc gia; (2) Sự hỗ trợ của các ngành, các cấp để cộng đồng
bảo vệ vườn quốc gia còn hạn chế, ví dụ việc ngăn cấm bán các loại sản vật quý
hiếm của rừng ở các khu vực xung quanh các vườn quốc gia nhiều nơi không được
thực hiện; (3) Công nghệ và dụng cụ bảo vệ rừng của cộng đồng còn thiếu, nếu xảy
ra hiện tượng cháy rừng thì cộng đồng chỉ có một công cụ duy nhất dùng để dập
lửa là cành cây; (4) Giao thông là một vấn đề bức xúc trong vùng đệm (CPSE,
2001).
2.2.2. Thực hiện đồng quản lý ở nước ta
Khái niệm đồng quản lý tài nguyên lần đầu tiên được đưa vào Việt Nam
năm 1997 tại khoá tập huấn về “Kết hợp bảo tồn và phát triển” (Integrated
Conservation and Developmnet - ICD) tổ chức tại Vườn quốc gia Cát Tiên, do Quỹ
Quốc tế về bảo tồn thiên nhiên tài trợ. Sau đó, khái niệm này lại được giới thiệu
trong một số các khoá tập huấn về bảo tồn thiên nhiên của các dự án được các tổ
chức quốc tế tài trợ như: dự án LINC (Bảo tồn liên kết Hinnamno và Phong Nha -
Kẻ Bàng), dự án PARC (Bảo tồn thiên nhiên trên quan điểm sinh thái nhân văn).
Tại các khoá tập huấn này, đồng quản lý tài nguyên mới dừng lại ở khái niệm và lý
thuyết cơ bản.
Tuy chưa có những nghiên cứu đầy đủ, nhưng trong thực tế cho thấy, đồng
quản lý các khu rừng là một trong những xu hướng phù hợp với điều kiện tự nhiên
và xã hội về quản lý tài nguyên rừng ở nước ta. Một số dự án với nội dung đồng
quản lý đang bắt đầu triển khai ở một số vùng. Dự án quản lý vùng chiến lược kết
hợp với bảo tồn thiên nhiên (MOSAIC) do USAID/WWF tài trợ triển khai ở phía
tây tỉnh Quảng Nam, trong đó có nội dung thử nghiệm đồng quản lý khu bảo tồn
thiên nhiên Sông Thanh, đang trong thời gian thử nghiệm cho giai đoạn tiếp theo.
Một dự án nhỏ khác về đồng quản lý khu bảo tồn thiên nhiên Phong Điền, tỉnh
17
Thừa Thiên - Huế, đang trong giai đoạn khởi động. Gần đây, cơ quan hợp tác phát
triển quốc tế của Nhật Bản (JICA) cũng hợp tác với Vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà
trong dự án “Nâng cao năng lực quản lý tài nguyên rừng dựa trên cộng đồng, 2010-
2014”. Mục tiêu của tất cả những dự án này đều nhằm vào việc xây dựng mô hình
đồng quản lý khu bảo tồn giữa cộng đồng dân cư và các tổ chức, cơ quan liên quan
(bao gồm cả tổ chức chính phủ và phi chính phủ).
Tuy nhiên, các dự án trên cũng đều đang lúng túng vì chưa đưa ra được tiến
trình, nguyên tắc và các giải pháp thích hợp để xây dựng kế hoạch đồng quản lý tài
nguyên. Ngày 4/8/2003, một hội thảo về “ý tưởng thành lập khu bảo tồn thiên
nhiên Phu Xai Lai Leng do cộng đồng quản lý” được tổ chức tại thành phố Vinh,
Nghệ An. Hội thảo đề xuất một số vấn đề đồng quản lý khu bảo tồn. Song, hội thảo
cũng chưa thống nhất được các nguyên tắc đồng quản lý và giải quyết triệt để vấn
đề này [20].
Đặc biệt là mô hình Đồng quản lý rừng ngập mặn ở tỉnh Sóc Trăng với hơn
300 hộ, chủ yếu là đồng bào Khmer ở ấp Âu Thọ B, xã Vĩnh Hải, huyện Vĩnh Châu
đã đem lại hiệu quả thiết thực, đó là việc người dân được thoải mái vào rừng phòng
hộ ven biển kiếm củi và khai thác các nguồn lợi từ rừng phục vụ cho cuộc sống chứ
không lén lút như trước đây. Điều đặc biệt là những người vào rừng được cấp thẻ.
Đây là một nội dung chính trong việc đồng quản lý rừng thuộc dự án "Quản lý
nguồn tài nguyên thiên nhiên ven biển tỉnh Sóc Trăng" do tổ chức Hợp tác Kỹ thuật
của Cộng hòa Liên Bang Đức (GTZ) tài trợ.
Việc đồng quản lý này đã mang lại nhiều kết quả khả quan trong việc trồng,
bảo vệ rừng ngập mặn ven biển, đồng thời bảo đảm cuộc sống người dân ven rừng.
Vào năm 1990, rừng tại đây gần như không còn nhiều. Sóng biển lấn đất từng
ngày, nhiều nhà trôi theo dòng nước. Năm 2007, Dự án GTZ được thực hiện ở đây,
giờ rừng đã xanh trở lại.
Theo mô hình "đồng quản lý" của GTZ, rừng ở ấp Âu Thọ B hiện được phân
thành 4 khu để quản lý. Trong đó, khu phòng hộ là rừng đước có 12 ha, được xác
lập nhằm để bảo vệ tốt cho các loài thủy sản có nơi trú ngụ, sinh sản tự nhiên, duy
18
trì tính đa dạng của hệ sinh thái rừng ngập mặn. Khu phục hồi bên trong là một
phần của đai rừng, nơi có mật độ thưa, đang được trồng thêm rừng để ngăn cản
sóng và làm nơi trú ẩn của sinh vật biển, có diện tích 22 ha. Khu phục hồi bên
ngoài rừng có diện tích trên 26 ha, là khu rừng mới trồng, có bề rộng 90 m tính từ
đai rừng lớn trở ra biển, được xác lập nhằm tăng cường bề rộng đai rừng, để ngăn
cản sóng biển và che chở cho các loài sinh vật biển. Khu sử dụng bền vững có diện
tích 34 ha, là phần đai rừng bên trong, nơi có nhiều cây rừng đã phát triển rậm rạp,
có thể cung cấp tài nguyên cho con người, nếu được sử dụng bền vững.
Về lợi ích của việc trồng rừng do dự án GTZ mang lại, ông Nguyễn Chí
Công, Phó Chủ tịch UBND huyện Vĩnh Châu (Sóc Trăng) cho biết: Mô hình
"Đồng quản lý" tại ấp Âu Thọ B giúp người dân chuyển biến rất tốt về hành vi
cùng phối hợp bảo vệ môi trường, ý thức tự giác cao trong việc đồng quản lý, sử
dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên mà Dự án đã triển khai. Riêng tại huyện Vĩnh
Châu hiện có trên 3.500 ha rừng và đất rừng ngập mặn ven biển, việc triển khai mô
hình đồng quản lý sẽ bảo vệ và phát triển được vốn rừng góp phần mang lại hiệu
quả rất lớn cả về kinh tế, xã hội, môi trường cho người dân địa phương và trong
khu vực (Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2010).
Đồng quản lý rừng là mô hình phát triển bền vững. Mô hình này cho thấy
không mới nhưng chưa được triển khai rộng ở các tỉnh có rừng. Trước đây, việc
bảo vệ quản lý rừng chỉ tập trung vào việc giao khoán, cấm khai thác, cấm vào
rừng với mọi hình thức. Kết quả rừng vẫn bị tàn phá mà đời sống người dân ven
biển vẫn bấp bênh.
Như vậy, ở Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Thuận nói riêng, đồng quản lý
rừng đặc dụng hay phòng hộ là nhu cầu thực tiễn cần thiết trong công tác bảo tồn
thiên nhiên. Các dự án đang và sẽ thực hiện rất cần hệ thống hoá cơ sở lý luận và
các bước tiến hành về đồng quản lý phù hợp với điều kiện và tình hình thực tiễn ở
nước ta.
19
Chương 3
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung: Đánh giá thực trạng quản lý rừng và định hướng giải pháp
quản lý rừng có sự tham gia theo nguyên tắc đồng quản lý tại xã Hòa Thắng –
huyện Bắc Bình – tỉnh Bình Thuận.
Mục tiêu cụ thể:
- Tìm hiểu và đánh giá thực trạng quản lý bảo vệ và sử dụng tài nguyên rừng
có sự tham gia tại tại xã Hòa thắng – huyện Bắc Bình – tỉnh Bình Thuận.
- Xác định các đặc điểm tự nhiên và xã hội thúc đẩy hoặc cản trở các hoạt
động liên quan đến tài nguyên rừng tại xã Hòa Thắng – huyện Bắc Bình – tỉnh Bình
Thuận.
- Đề xuất những giải pháp quản lý rừng có sự tham gia của cộng đồng tại xã
Hòa Thắng – huyện Bắc Bình – tỉnh Bình Thuận.
3.2. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đã đưa ra ở trên, một số nội dung mà
đề tài cần thực hiện là:
(1) Thực trạng quản lý rừng có sự tham gia tại xã Hòa Thắng – huyện Bắc
Bình – tỉnh Bình Thuận giai đoạn từ năm 2004 - 2010.
+ Thực trạng tài nguyên rừng.
+ Thực trạng công tác quản lý bảo vệ rừng của BQL rừng phòng hộ.
+ Thực trạng công tác quản lý rừng có sự tham gia.
(2) Tình hình sử dụng rừng, đất rừng của tổ chức, cá nhân trong lâm phận
quản lý của BQL rừng phòng hộ Lê Hồng Phong giai đoạn 2004 - 2010.
+ Thống kê diện tích đất rừng đã giao, thuê, khoán để sản xuất lâm nghiệp.
20
+ Hiệu quả sử dụng đất rừng giao thuê, khoán (thống kê diện tích đã sử
dụng đúng mục đích, chưa sử dụng, sử dụng sai mục đích, )
(3) Nghiên cứu đặc điểm tổ chức cộng đồng và hoạt động của họ liên quan
đến tài nguyên rừng.
+ Đặc điểm tổ chức và luật lệ cộng đồng liên quan đến tài nguyên rừng.
+ Đặc điểm các hoạt động của cộng đồng có ảnh hưởng đến tài nguyên rừng.
(4) Nghiên cứu những yếu tố thúc đẩy hoặc cản trở cộng đồng tham gia vào
quản lý rừng.
+ Những yếu tố thúc đẩy cộng đồng tham gia vào quản lý tài nguyên rừng
+ Những yếu tố cản trở cộng đồng tham gia vào bảo tồn tài nguyên rừng .
(5) Nghiên cứu những giải pháp quản lý rừng có sự tham gia tại tại xã Hòa
Thắng – Huyện Bắc Bình – Bình Thuận.
+ Những giải pháp tổ chức và quản lý thúc đẩy các bên tham gia đồng quản
lý tài nguyên rừng.
+ Những giải pháp kinh tế thúc đẩy cộng đồng tham gia đồng quản lý tài
nguyên rừng.
+ Những giải pháp xã hội thúc đẩy cộng đồng tham gia đồng quản lý tài
nguyên rừng.
+ Những giải pháp kỹ thuật thúc đẩy cộng đồng tham gia đồng quản lý tài
nguyên rừng.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Tiêu chí chọn xã và cách lấy mẫu
- Có địa bàn quản lý hành chính nằm trong BQL rừng phòng hộ, là nơi có
tính đa dạng sinh học cao cần phải bảo tồn, nơi có diện tích rừng nhiều nhất.
- Người dân trong xã có các hoạt động phụ thuộc vào tài nguyên của BQL
rừng phòng hộ như: đất canh tác nông nghiệp, lâm sản gỗ và ngoài gỗ, động vật và
các tài nguyên khác.
21
- Có nhiều dân cư sinh sống hoặc có các dân tộc ít người đại diện cho các xã
xung quanh khu vực rừng phòng hộ.
Trên cơ sở đó, xã là Hòa Thắng trong số 6 xã trong khu vực đã được chọn
làm địa điểm nghiên cứu trong đề tài này. Nhưng trong xã Hòa Thắng có 3 thôn,
trong đó có 2 thôn Hồng Thắng và Hồng Chính chuyên làm nghề đánh bắt cá ven
biển và làm vườn không ảnh hưởng đến tài nguyên rừng, chỉ còn lại thôn Hồng
Lâm người dân sống gần rừng và ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp đến rừng . Nên ta
chỉ rút mẫu tại Hồng Lâm để có cơ sở chính xác cho đề tài này.
Dung lượng mẫu quan sát (đơn vị hộ gia đình):
222
22
SuNd
SuN
n
+
=
Trong đó:
. n: số hộ cần điều tra, N: tổng số hộ hiện có
. u: hệ số tin cậy của phân bố chuẩn (u = 1,96)
. d: sai số mẫu (5%)
. S
2
: phương sai mẫu (0,25)
Với tổng số hộ (N) là 1773 hộ, do đó n tính được khoảng 93 hộ.
3.3.2. Phương pháp thu thập dữ liệu
3.3.2.1. Thu thập tài liệu thứ cấp
+ Những tài liệu khí hậu thuỷ văn, kết quả điều tra đất, thực vật, động vật,
tài liệu thống kê tài nguyên rừng, tài nguyên đất đai, dân số và lao động, chính
sách kinh tế - xã hội, tài liệu về lịch sử làng ,xã, …
+ Những tài liệu tổng kết về thực hiện chính sách của Nhà nước có liên
quan như chính sách giao đất, khoán rừng; Luật Bảo vệ và phát triển rừng, quy
hoạch và kế hoạch quản lý bảo vệ rừng tại địa phương trong tỉnh, huyện, v.v.
+ Những kết quả nghiên cứu liên quan đến quản lý rừng ở địa phương (báo
cáo hàng năm).
22
+ Tài liệu thống kê diện tích rừng nhận khoán, cho thuê, giao tại địa
phương.
+ Tài liệu thống kê kết quả giao khoán, cho thuê rừng tại BQL rừng phòng
hộ Lê Hồng Phong.
+ Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 ở xã Hòa Thắng.
+ Kết quả điều tra tình hình dân sinh kinh tế ở xã Hòa Thắng năm 2010
+ Tài liệu tổng kết chương trình 661/TTG của BQL rừng phòng hộ Lê
Hồng Phong.
3.3.2.2. Thu thập số liệu sơ cấp
(1) Phỏng vấn
+ Những chủ đề phỏng vấn tập trung vào:
- Đặc điểm tài nguyên rừng và thực trạng quản lý tài nguyên rừng.
- Lịch sử thành lập thôn, xã. Tổ chức và luật lệ cộng đồng, các hoạt động
của cộng đồng liên quan đến tài nguyên rừng.
- Những yếu tố thúc đẩy và yếu tố cản trở cộng đồng tham gia vào bảo tồn
tài nguyên rừng.
- Những giải pháp kinh tế, xã hội và kỹ thuật thúc đẩy cộng đồng tham gia
quản lý rừng.
+ Công cụ để thực hiện phỏng vấn:
Công cụ điều tra chủ yếu là bảng câu hỏi phỏng vấn, trong đó phần lớn là
những câu hỏi định hướng và số ít hơn là những câu hỏi bán định hướng. Bảng
câu hỏi được in ra và ghi chép (khi phỏng vấn) cho từng hộ gia đình.
(2) Thảo luận nhóm có trọng tâm
Với những chủ đề cần có các thông tin chuyên sâu, để tài sử dụng thêm
phương pháp thảo luận có trọng tâm, mỗi nhóm chỉ một vấn đề nào đó và chỉ
những người liên quan đến vấn đề này (gọi là người trong cuộc) mới được tham
dự. Các vấn đề trọng tâm được đặt ra từ trước hoặc phát sinh từ chính vấn đề mở
23
ra từ bảng câu hỏi mà chưa rõ. Cụ thể, đề tài đã thực hiện thảo luận nhóm với các
chủ đề sau:
- Thảo luận nhóm quan tâm về thuận lợi và khó khăn.
- Thảo luận nhóm về tình hình săn bắt và sử dụng động vật rừng
- Thảo luận nhóm về tình hình khai thác và sử dụng gỗ, LSNG
- Thảo luận nhóm về tình hình đồng tham gia quản lý rừng
(3) Các công cụ trong đánh giá nông thôn có sự tham gia
Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRA) được áp dụng để
kiểm tra kết quả và xác định những yếu tố quan trọng nhất đang thúc đẩy hay cản
trở cộng đồng tham gia quản lý rừng, lựa chọn những giải pháp ưu tiên, đề xuất
những kiến nghị lôi cuốn cộng đồng quản lý rứng. PRA được thực hiện sau
nghiên cứu RRA thông qua một số cuộc thảo luận với nhóm người dân, cán bộ
thôn, xã ở địa bàn nghiên cứu. Một số công cụ PRA hỗ trợ được lựa chọn trong
quá trình khảo sát như sau:
- Sử dụng sơ đồ VENN (Venn digram) để tìm ra và miêu tả các mối quan
hệ bên trong và ngoài cộng đồng , kể cả các ảnh hưởng đến khả năng quyết định
và ảnh hưởng từ bên ngoài của các nhóm tổ chức tại địa phương, tập trung vào
các mối liên kết giữa các nhóm hành động liên quan đến việc thực hiện các hoạt
động cụ thể liên quan đến tài nguyên rừng.
- Phân tích SWOT để xác định điểm mạnh và điểm yếu tập trung vào các
yếu tố bên trong của người dân địa phương liên quan đến tài nguyên rừng, trong
khi cơ hội và cản trở phản ánh ảnh hưởng môi trường bên ngoài tác động tổ chức
của đơn vị BQL rừng, cộng đồng dân cư địa phương hay các hoạt động liên quan.
- Thảo luận nhóm: Tập trung thành các nhóm người già sống lâu năm trong
thôn, nhóm nông dân, nhóm cán bộ xã, thôn, nhóm nhận khoán đất rừng, nhóm
tham gia trồng rừng, bảo vệ rừng, Tập trung giải quyết các câu hỏi : Họ cần
đóng góp gì ? Họ có lợi ích gì ? Họ cần phải làm gì để đảm bảo giải pháp quản lý
rừng được bền vững ? các giải pháp đó sẽ mang lại lợi ích gì về lâu dài ?
24
- Lược sử thôn bản: Được sử dụng để tìm hiểu quá trình hình thành các
thôn, quá trình di cư, chuyển đổi các hình thái tổ chức sản xuất, diễn biến của
hoạt động sử dụng rừng và đất rừng, sự thay đổi về quan điểm, kiến thức của
người dân và các nguyên nhân thay đổi này ở địa phương.
3.3.3. Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu
Toàn bộ thông tin và số liệu được lưu giữ trong phần mềm Excel 2003.
Thông tin được xác định cho từng đơn vị điều tra (hộ gia đình) với mỗi hộ là một
hàng (trong bảng Excel). Các số liệu điều tra được sắp thành các cột với mỗi cột
là một chỉ tiêu điều tra cụ thể. Như vậy, một câu hỏi có bao nhiêu ý thì sẽ có bấy
nhiêu cột (trong bảng Excel). Trong các bảng Excel, thông tin được ghi dưới dạng
mã hoá (nếu là định tính) hoặc số liệu nguyên thủy (nếu là định lượng). Các cột
cũng được sắp xếp theo từng chủ đề điều tra như đã được xác định trong phần nội
dung, ví dụ: thông tin chung, thông tin về thu nhập và đầu tư, về xã hội v.v
Trong quá trình xử lý tài liệu, đề tài tiến hành chỉnh lý và sắp xếp các
thông tin được thu thập theo thứ tự ưu tiên, mức độ quan trọng của vấn đề, phân
tích các ý kiến, quan điểm để lựa chọn và tìm giải pháp. Đồng thời phải định
lượng một số vấn đề hay chỉ tiêu có thể thực hiện được và liên hệ với các số liệu
thứ cấp. Những thông tin thu thập được gồm có thông tin định tính và thông tin
định lượng, các thông tin này đều có giá trị quan trọng như nhau khi sử dụng
trong phân tích. Toàn bộ quá trình chỉnh lý, tổng hợp và phân tích số liệu được
thực hiện bằng phương pháp thống kê thực nghiệm với sự hỗ trợ của các phần
mềm Excel 2003 và SPSS 15.0.
Số liệu phân tích để đánh giá về các mặt như sau:
+ Phân tích và đánh giá các thông tin về điều kiện tự nhiên như tài nguyên
đất và tài nguyên rừng bằng cách thống kê sắp xếp (sử dụng số liệu có sẵn).
+ Phân tích và đánh giá các thông tin về sử dụng tài nguyên đất và tài
nguyên rừng bằng phương pháp thống kê theo hộ hoặc tỷ lệ số hộ từ số liệu điều
tra thực tế.
25