Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Giải quyết việc làm cho lao động thanh niên nông thôn ở huyện quốc oai, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (961.14 KB, 131 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------------

KIỀU THANH NGA

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG THANH NIÊN
NÔNG THÔN Ở HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60.62.01.15

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Văn Hoan

Hà Nội, 2014


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm là một nhu cầu cơ bản của người lao động. Vì vậy, nó là một
trong những vấn đề xã hội có tính toàn cầu và là mối quan tâm lớn của tất cả
các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Ở nước
ta, vấn đề việc làm cho người lao động được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan
tâm. Bước vào thập niên đầu của thế kỷ XXI, Đại hội đại biểu toàn quốc lần


thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: ''Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát
huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội,
đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân''.
Tạo điều kiện cho người lao động có việc làm, một mặt nhằm phát huy
vai trò của nguồn lực lao động - một nguồn lực có tiềm năng to lớn và hiện
thực nhất của nước ta trong phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác, đó là hướng
cơ bản để xóa đói, giảm nghèo bền vững, có hiệu quả và là cơ sở để cải thiện,
nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội, tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ tiếp tục sự nghiệp đổi mới đất
nước.
Trong điều kiện của nước ta hiện nay, theo thống kê của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, thanh niên chiếm 47% tổng số lao động cả nước. Do
đó, nhu cầu việc làm cho thanh niên đang ngày càng gia tăng. Vì vậy, Đảng,
Nhà nước ta rất quan tâm đến giải quyết việc làm cho thanh niên và đã đề ra
nhiều chủ trương, chính sách, chương trình, dự án nhằm giải quyết việc làm
cho thanh niên.
Thanh niên "là rường cột" của quốc gia, tương lai của đất nước, đồng
thời là lực lượng lao động, đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế
- xã hội và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ưu điểm nổi


2

bật của thanh niên ngày nay là năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, mạnh
dạn thoát khỏi tư duy cũ, nhạy bén với cái mới, tích cực tham gia vào quá
trình đổi mới, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư vốn, chất xám để
phát triển sản xuất, kinh doanh, cố gắng vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc
hậu. Nhưng số lượng thanh niên có cơ hội tìm được việc làm phù hợp để thể
hiện tài năng và sức trẻ chiếm tỷ lệ còn thấp. Hiện vẫn còn nhiều thanh niên
không có việc làm hay chưa tìm được việc làm phù hợp.
Trên địa bàn huyện Quốc Oai, thanh niên nói chung, thanh niên nông

thôn nói riêng là nguồn nhân lực quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế
- xã hội, chiếm trên 90% tổng số thanh niên và hơn 60% lực lượng lao động
trong nông nghiệp. Thời gian qua các cấp bộ đoàn trong huyện đã triển khai
nhiều mô hình, nhiều hoạt động giúp thanh niên chọn nghề, lựa chọn việc
làm; tạo điều kiện hỗ trợ thanh niên vay vốn làm ăn, nâng cao thu nhập và
làm giàu…làm tiền đề vững chắc, để chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn một
cách bền vững và toàn diện. Các làng nghề không ngừng phát triển thị trường,
mở rộng quy mô sản xuất để tăng cơ hội tạo thêm việc làm mới cho LĐTN
nông thôn. Chính quyền, đoàn thể các địa phương quan tâm hỗ trợ vốn, giống
cây trồng, vật nuôi để TN nông thôn lập nghiệp và phát triển kinh tế gia đình.
Vấn đề đặt ra là thực trạng việc làm của lao động thanh niên nông thôn
như thế nào? Làm thế nào để giải quyết tốt việc làm cho thanh niên? nhằm
góp phần vào tiến trình xây dựng nông thôn mới, giúp cho thanh niên nông
thôn lập thân, lập nghiệp. Do đó, thất nghiệp hoặc thiếu việc làm đối với lao
động thanh niên nông thôn là vấn đề cần đặc biệt quan tâm. Xuát phát từ thực
tế trên, em lựa chọn vấn đề “ “Giải quyết việc làm cho lao động thanh niên
nông thôn ở huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm
cho lao động nói chung, cho thanh niên nông thôn nói riêng, trong thời gian
qua đã có nhiều công trình khoa học của các tác giả quan tâm nghiên cứu theo


3

nhiều cách tiếp cận về vấn đề này như: Nghiên cứu về vai trò và tiềm năng
nguồn lao động trong phát triển kinh tế - xã hội; hiện trạng lao động và việc
làm, phương hướng chủ yếu sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm
có hiệu quả ở Việt Nam. Đề cập đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giải
quyết việc làm, thực trạng giải quyết việc làm ở nông thôn, đồng thời đưa ra

những giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Nghiên
cứu về vấn đề việc làm, thất nghiệp và vai trò của tài chính đối với giải quyết
việc làm cho lao động của nước ta. Thực trạng và định hướng sử dụng các
công cụ tài chính để giải quyết việc làm ở Việt Nam và kinh nghiệm về giải
quyết việc làm của một số nước.
Tại huyện Quốc Oai, Hà Nội, mặc dù cấp ủy và chính quyền địa
phương đã rất quan tâm và có nhiều chủ trương nhằm giải quyết việc làm cho lao
động nhưng chưa có những công trình nghiên cứu khoa học của tỉnh về vấn đề
này. Đến nay, chỉ mới cớ một số ít luận văn thạc sĩ có liên quan đến chủ đề này.
Như vậy, chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào đã công bố
mà tác giả biết trùng với đề tài này. Đồng thời, qua các công trình nêu trên
cho thấy, một số khía cạnh và lĩnh vực đã được đề cập, nghiên cứu, nhưng
chưa phải hoàn toàn đầy đủ, mà chủ yếu là nghiên cứu về những vấn đề chung
hoặc của địa phương khác, chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể vào địa
bàn huyện. Trong khi đó, do đặc điểm và nội dung nghiên cứu về giải quyết
việc làm cho thanh niên nông thôn trên một địa bàn cụ thể như huyện Quốc
Oai lại đòi hỏi cần xem xét tới sự thống nhất biện chứng giữa cái chung, cái
riêng và cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ thêm những căn cứ khoa học và thực
tiễn về giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn tại huyện Quốc Oai
trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát


4

Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề giải quyết việc làm
cho lao động thanh niên nông thôn, phân tích thực trạng và đề xuất những giải
pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho lao động thanh niên nông thôn
trên địa bàn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội

3.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hoá và làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về giải quyết việc làm cho lao động thanh niên nông thôn.
- Đánh giá đúng thực trạng giải quyết việc làm. Phân tích các nhân tố
tác động đến giải quyết việc làm cho lao động thanh niên nông thôn ở huyện
Quốc Oai, thành phố Hà Nội
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho cho
lao động thanh niên nông thôn ở huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tạo việc làm, giải quyết việc làm
cho lao động thanh niên nông thôn ở huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
+ Phạm vi về nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu việc làm của lao động thanh niên nông thôn
trong giai đoạn hiện nay và một số nhân tố chủ yếu tác động đến giải quyết
việc làm. Từ đó đưa ra các giải pháp giúp giải quyết việc làm lao động thanh
niên nông thôn ở huyện Quốc Oai.
+ Phạm vi về không gian
Đề tài nghiên cứu giải quyết việc làm cho lao động thanh niên nông
thôn trên địa bàn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội
+ Phạm vi về thời gian


5

Số liệu phản ánh về tình hình cơ bản của huyện và kết quả giải quyết
việc làm giải quyết việc làm cho lao động thanh niên nông thôn được thu thập
từ năm 2010 - 2012. Số liệu khảo sát, điều tra năm 2013.



6

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIẾN VỀ VIỆC LÀM – GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG THANH NIÊN NÔNG THÔN
1.1. Cơ sở lý luận về việc làm - giải quyết việc làm cho lao động thanh
niên nông thôn
1.1.1. Khái niệm về việc làm và giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn
1.1.1.1. Thanh niên và vai trò của thanh niên trong phát triển kinh tế - xã hội.
- Thanh niên và những đặc trưng cơ bản của thanh niên:
Theo Liên Hợp Quốc, lứa tuổi từ 15 - 34 tuổi là thuộc cơ cấu lao động
trẻ, còn thanh niên thường chỉ tính trong độ tuổi từ 15 - 24 tuổi, ở độ tuổi này
thanh niên bao gồm những người rời ghế nhà trường sớm nhất từ 15 tuổi, khi
kết thúc bậc học trung học phổ thông cơ sở và muộn nhất khi kết thúc việc
đào tạo nghề nghiệp lúc 24 tuổi.
Các nước trên thế giới có những quy định về độ tuổi của thanh niên
khác nhau, riêng Việt Nam theo Luật Thanh niên ban hành năm 2005, tại điều
1 quy định ''Thanh niên là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi'',
tương đương với độ tuổi đoàn viên được quy định trong Điều lệ Đoàn.
- Vị trí và vai trò của thanh niên trong phát triển kinh tế - xã hội:
Thanh niên là ''rường cột nước nhà '', ''chủ nhân đất nước '' như Bác
Hồ thường nhắc nhở. Vì vậy, trong bối cảnh sự nghiệp đổi mới của đất nước
đang bước vào một giai đoạn có tính bước ngoặt nhằm đạt tới mục tiêu về cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, cần
phải có một cách nhìn, một sự nhận thức mới và hành động đúng đắn về
những động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, phải hết sức coi
trọng nguồn lực lao động thanh niên, quan tâm đến tất cả các mặt: số lượng,
chất lượng, cơ cấu và tổ chức quản lý, sử dụng có hiệu quả lực lượng lao



7

động thanh niên của các ngành, các cấp ở các địa phương. Thanh niên đã và
đang là lực lượng lao động đông đảo có mặt trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt
động của đất nước để lao động sáng tạo - sản xuất kinh doanh một cách trực
tiếp và gián tiếp tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất và tinh thần cho xã
hội. Bởi vậy, thanh niên có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng đới với sự phát
triển đất nước.
1.1.1.2. Khái niệm việc làm và việc làm cho thanh niên nông thôn
- Khái niệm việc làm
Việc làm là một trong những vấn đề có tính chất toàn cầu, là mối quan
tâm của hầu hết các quốc gia, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của
một đất nước. Tạo thêm nhiều việc làm là một trong những biện pháp quan
trọng để tăng thu nhập từng bước ổn định và nâng cao đời sống nhân dân,
đảm bảo phát triển bền vững. Đặc biệt là đối với Việt Nam, tốc độ tăng dân
số, tăng nguồn lực lao động cao, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo việc
làm bị hạn chế, do khả năng cung về vốn và tư liệu sản xuất còn thấp.
Về bản chất, việc làm là một quá trình tích cực, sáng tạo của chủ thể có
mối quan hệ với hoạt động sống của mình cả về với ý nghĩa, nội dung và mục
đích đặt ra. Do đó, tuỳ thuộc vào từng thời điểm, không gian và từng chủ thể
mà có cách tiếp cận vấn đề và đưa ra những khái niệm về việc làm không
giống nhau.
Nhà khoa học nổi tiếng trong kinh tế lao động người Nga Kotlia A, đã
đưa ra khái niệm việc làm như là một phạm trù kinh tế nói chung tồn tại ở
mọi hình thái xã hội, đồng thời là một phạm trù tái sản xuất xã hội, không thể
đồng nhất với lao động và sử dụng sức lao động. Nó định rõ đặc tính dân số
hoạt động kinh tế so với những yếu tố sản xuất vật chất thể hiện quan hệ giữa
con người về việc tham gia của họ vào trong quá trình sản xuất xã hội.



8

Các nhà khoa học kinh tế Anh lại cho rằng ''việc làm theo nghĩa rộng là
toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa là tất cả những gì quan hệ
đến cách kiếm sống của một con người, kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu
chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế'' [6]. Theo quan điểm
này thì tất cả những hoạt động tạo ra thu nhập mà không cần phân biệt được
pháp luật thừa nhận hay ngăn cấm đều được gọi là việc làm.
Các nhà kinh tế Sônhin và Grincốp của Liên Xô lại cho rằng, việc làm
là sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có
ích trong khu vực xã hội hoá của sản xuất, trong học tập, trong công việc nội
trợ, trong kinh tế phụ của các nông trang viên'' [6]. Theo khái niệm này thì
những người đang đi học, đang tham gia hoạt động trong các lực lượng vũ
trang, những người nội trợ đều coi là người có việc làm.
Ngày nay, ở Liên Bang Nga khái niệm này được quy định rõ ràng trong
Bộ Luật Việc làm của dân cư Liên bang Nga như sau: ''việc làm là hoạt động
của công dân nhằm thoả mãn những nhu cầu xã hội và của cá nhân, đem đến
cho họ thu nhập và không bị pháp luật Liên bang ngăn cấm'' [6].
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), khái niệm việc làm chỉ đề cập
đến trong mối quan hệ với lực lượng lao động. Khi đó, việc làm được phân
thành hai loại: Có trả công (những ngươi làm thuê, học việc...) và không được
trả công nhưng vẫn có thu nhập (những người như giới chủ làm kinh tế gia
đình...). Vì vậy, ''việc làm có thể được định nghĩa như một tình trạng trong đó
có sự trả công bằng tiền hoặc hiện vật, do có một sự tham gia tích cực, có tính
chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất'' [6]. Theo khái niệm này, người
có việc làm là người làm việc gì đó để được trả công, lợi nhuận, được thanh
toán bằng tiền hoặc hiện vật, hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính chất
tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập của gia đình (không được nhận tiền
công hay hiện vật). Khái niệm này đã được chính thức nêu ra tại Hội nghị

quốc tế và lao động lần thứ 13 của các nhà thống kê lao động (ILO. 1993) và


9

đã được áp dụng ở nhiều nước. Tuy nhiên, quan niệm này mang nghĩa rất
rộng, bao trùm mọi hoạt động lao động của con người. Trong thời đại ngày
nay, với quan niệm trên, có rất nhiều người sẽ thuộc diện có việc làm, bao
gồm: những hoạt động mang tính hợp pháp và những hoạt động mang tính phi
pháp hay là những hoạt động lao động của con người vi phạm pháp luật hoặc
bị cho là vi phạm đạo đức xã hội và bị ngăn cấm ở một số nước. Ví dụ, việc
buôn bán heroin, mại dâm,... ở các nước như Hà Lan, Côlômbia thì không
cấm, nhưng những hoạt động này bị cấm ở các nước khác, đặc biệt là các
nước Châu Á như: Việt Nam, Trung Quốc... Do vậy, khái niệm trên chỉ mang
tính khái quát, là cơ sở nghiên cứu vấn đề chung cho các nước trên thế giới.
Ở Việt Nam trước đây, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu
bao cấp, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận,
trân trọng là người làm việc trong thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc
doanh, tập thể). Trong cơ chế đó, xã hội không thừa nhận việc làm ở các
thành phần kinh tế khác và cũng không thừa nhận có thất nghiệp... Từ khi
Đảng ta khởi xương và lãnh đạo tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế đất
nước đến nay, quan niệm về việc làm đã được nhìn nhận đúng đắn và khoa
học. Điều 13, Chương II Bộ luật Lao động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam chỉ rõ: ''Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị
pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm'' [28].
Theo đó, những hoạt động được gọi là việc làm phải thoả mãn hai tiêu
chí cơ bản:
Thứ nhất, phải là hoạt động có ích và phải tạo ra thu nhập một cách
trực tiếp cho cá nhân người lao động hoặc tạo ra thu nhập gián tiếp cho gia
đình và xã hội.

Thứ hai, hoạt động không bị pháp luật ngăn cấm. Điều này chỉ rõ tính
pháp lý của việc làm, được pháp luật bảo hộ.
Quan niệm mới về việc làm như Bộ luật lao động quy định cho thấy đã
có sự thay đổi căn bản trong nhận thức về việc làm và giải quyết việc làm. Từ


10

chỗ việc làm phải là người nằm trong guồng máy biên chế của Nhà nước và
giải quyết việc làm là trách nhiệm của Nhà nước nay đã chuyển sang nhận
thức mới: ''Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật
cấm đều được thừa nhận là việc làm''. Bởi vì, lao động tạo ra nguồn thu nhập
không chỉ trong thành phần kinh tế nhà nước mà còn ở cả trong thành phần
kinh tế tư nhân, cá thể và hộ gia đình... Với khái niệm đó, nó đã xóa bỏ sự
phân biệt đối xử đối xử đối với lao động giữa các thành phần kinh tế, động
viên mọi tổ chức, mọi cá nhân và toàn xã hội tạo ra nhiều việc làm cho người
lao động. Điều đó được Bộ luật lao động quy định rõ ràng: ''Giải quyết việc
làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm
là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và của toàn xã hội". [28].
- Khái niệm việc làm cho thanh niên nông thôn
Xuất phát từ khái niệm việc làm "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn
thu nhập không bị pháp Luật cấm đều được thừa nhận là việc làm'', cho thấy
nội hàm và ngoại diên của khái niệm này hết sức rộng lớn. Do đó, việc làm
cho thanh niên nông thôn cũng không thể nằm ngoài quan niệm chung về việc
làm, mà phải lấy nó làm cơ sở đề xuất khái niệm việc làm cho thanh niên
nông thôn bằng cách kết hợp với các định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt về
Thanh niên - còn trẻ, đang trưởng thành, có tính cách thanh niên và định
nghĩa về Việc làm - hành động cụ thể, công ăn việc làm để sinh sống. Từ đó,
nêu ra khái niệm Việc làm cho thanh niên nông thôn là những hoạt động lao
động đem lại thu nhập, không bị pháp luật cấm, phù hợp với năng lực, thể

chất và tinh thần của thanh niên.
Với tư cách là một lực lượng lao động đặc thù về thể chất và tâm lý,
việc làm cho thanh niên nông thôn nhấn mạnh đến sự phù hợp của công việc
với đặc điểm cả về thể chất, tinh thần và tâm lý của lao động trẻ, trong đớ có
tinh đến xu hướng phát triển của đới tượng này trong điều kiện mới của thời đại.


11

Trong khi nói tới khái niệm việc làm, cần đề cập tới một số khái niệm
có liên quan đến lĩnh vực này như: khái niệm nghề, người trong độ tuổi lao
động, lực lượng lao động xã hội, thất nghiệp, người thiếu việc làm.
- ''Nghề là một dạng xác định của hoạt động lao động trong hệ thống
phân công lao động xã hội; là tổng hợp những kiến thức và kỹ năng lao động
mà con người tiếp thu được do kết quả của đào tạo chuyên môn và tích luỹ
trong công việc'' [41] . Nghề có những đặc trưng cơ bản đó là công việc
chuyên làm; là phương tiện sinh sống cửa con người; nghề bao gồm cả lao
động trí óc và lao động chân tay; phù hợp với yêu cầu và có ích cho xã hội.
Khi mô tả về nghê thường đề cập đến các yếu tố: đối tượng lao động,
công cụ lao động, quá trình công nghệ, tổ chức lao động, yêu cầu tâm, sinh lý
đối với người hành nghề. Trình độ nghề là thước đo mức độ phức tạp về kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo của lao động phản ánh đặc điểm, tính chất và yêu cầu
về trình độ kỹ thuật, trình độ tổ chức sản xuất, tổ chức lao động trong mỗi
thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, muốn có việc làm phải có nghề,
muốn có thu nhập cao phải giỏi nghề.
- ''Người trong độ tuổi lao động'' là những người có quyền lợi và nghĩa
vụ về lao động theo quy định của pháp luật. Pháp luật mỗi nước quy định
người trong độ tuổi lao động khác nhau. Pháp luật Việt Nam quy định ''người
trong độ tuổi lao động là những người từ 15 đến 60 tuổi (đối với nam) và từ
15 đến 55 tuổi (đối với nữ)'' [28]. Người trong độ tuổi lao động được chia

thành hai nhóm: những người thuộc lực lượng lao động xã hội và những
người ngoài lực lượng lao động xã hội.
- Lực lượng lao động xã hội là những người trong độ tuổi lao động,
đang làm việc hoặc đang có nhu cầu tìm việc làm. Những người ngoài lực
lượng lao động xã hội là những người trong độ tuổi lao động nhưng bị ốm
đau, tàn tật, mất sức lao động và những người không có nhu cầu tìm việc làm.


12

- Thất nghiệp là một trong những vấn đề trọng tâm của kinh tế học hiện
đại. Thất nghiệp gia tăng sẽ gây lãng phí nguồn nhân lực, làm chậm tốc độ
tăng trưởng kinh tế, đe dọa sự tăng trưởng bền vững và ảnh hưởng tiêu cực về
mặt xã hội. Tổ chức Lao động Quốc tế ILO đã xây dựng một định nghĩa
chung cho tất cả các nước, tạo tiền đề vững chắc cho sự so sánh. Theo đó, thất
nghiệp được tính bằng số người đang tìm việc tích cực trong vòng 4 tuần qua
và có thể nhận một việc làm ngay lập tức (trong vòng 2 tuần). Nhóm này cũng
bao gồm các sinh viên chính quy đang tìm việc làm một cách tích cực và có
thể tiếp nhận một việc làm. Định nghĩa này được dùng trong hầu hết các cuộc
điều tra mẫu với mức độ tin cậy là 95%.
Việt Nam quan niệm về thất nghiệp một cách cụ thể hơn. Theo đó
người thất nghiệp là những người từ 15 tuổi trở lên mà trong tuần nghiên cứu
thoả mãn đồng thời cả ba tiêu chuẩn: hiện không làm việc, đang tìm kiếm
việc làm và sẵn sàng làm việc. Người thất nghiệp là những người trong tuần
nghiên cứu không làm việc, nhưng đã có những bước cụ thể để tìm việc làm
và sẵn sàng làm việc. Nhóm này bao gồm cả những người hiện không làm
việc, sẵn sàng/có nhu cầu làm việc, nhưng hiện không tìm việc do: giãn việc,
thời tiết xấu, công việc chờ thời vụ, đang chuẩn bị để bắt đầu công việc mới,
hoặc các hoạt động kinh doanh sau tuần nghiên cứu, bận việc gia đình, ốm
đau tạm thời, tin rằng không tìm được việc làm do hạn chế về sức khỏe, trình

độ chuyên môn không phù hợp.
- Người thiếu việc làm là những người có việc làm nhưng do nguyên
nhân khách quan ngoài ý muốn của người lao động, họ phải lâm việc không
hết thời gian theo luật định, hoặc làm những công việc có thu nhập thấp,
không đủ sống ở mức tối thiểu và muốn tìm thêm việc làm bổ sung.
1.1.1.3. Khái niệm giải quyết việc làm và giải quyết việc làm cho thanh niên
nông thôn
- Khái niệm giải quyết việc làm


13

Việc làm là một dạng hoạt động kinh tế - xã hội, hoạt động đó không
chỉ là kết quả của hành vi kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất một
cách giản đơn mà là một quá trình vận động, phát triển không ngừng. Trong
quá trình đó cả sức lao động và tư liệu sản xuất tuy mức độ khác nhau nhưng
đều không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Do đó, muốn có sự
kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất diễn ra hợp lý, hiệu quả và không
ngừng phát triển thì cần phải tạo ra cho được sự phù hợp cả về số lượng và
chất lượng giữa sức lao động với tư liệu sản xuất và một môi trường với
những điều kiện kinh tế: xã hội thuận lợi, đảm bảo cho hoạt động lao động
liên tục diễn ra. Vì vậy, giải quyết việc làm có thể hiểu theo nghĩa rộng là
tổng thể những cơ chế, chính sách, giải pháp về kinh tế - xã hội của Nhà
nước, các đoàn thể chính trị - xã hội, cộng đồng và bản thân người lao động
tác động đến các mặt có liên quan và tạo điều kiện đảm bảo cho mọi người có
khả năng lao động đều có việc làm đầy đủ, hợp lý.
Như vậy, nội dung của giải quyết việc làm bao gồm toàn bộ những vấn
đề liên quan đến việc phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. Quá
trình đó diễn ra từ giáo dục, đào tạo, phổ cập nghề nghiệp, chuẩn bị cho người
lao động bước vào cuộc đời lao động, cho đến tự do lao động, tái sản xuất sức

lao động và hưởng thụ xứng đáng nguồn thu nhập do quá trình lao động của
mình làm ra.
Giải quyết việc làm theo nghĩa hẹp chủ yếu hướng vào đối tượng thất
nghiệp và thiếu việc làm nhằm tạo ra chỗ làm việc cho người lao động, duy
trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp.
- Khái niệm giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn
Giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn là tổng thể các mô hình,
phương thức, biện pháp tạo ra chỗ làm việc trong các lĩnh vục sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ ở cả nông thôn và đô thị gắn với đào tạo nghề phù hợp với lứa


14

tuổi, trình độ, học vấn, sức khoẻ của thanh niên và thu hút họ vào làm việc
nhằm đem lại thu nhập mà không bị pháp luật cấm. Ở độ tuổi từ 16 đến 30,
thanh niên đang trong giai đoạn phát triển, từng bước hoàn thiện về thể chất,
tâm lý và nhân cách. Thanh niên có thể được đào tạo nghề hoặc chưa qua đào
tạo, do đó trình độ và tay nghề cũng chưa ổn định. Giải quyết việc làm cho
lao động thanh niên phải quan tâm đến sự phù hợp này, phải tính đến khả
năng phát triển của thanh niên trong tương lai cả về thể chất, trí tuệ và tâm lý.
Bộ Luật Lao động đã dành riêng Chương XI, mục I để quy định về ''lao
động chưa thành niên''. Điều 119 của Bộ luật này chỉ rõ: ''Người lao động
chưa thành niên là ngươi dưới 18 tuổi''. Như vậy, một bộ phận thanh niên từ
16 đến dưới 18 tuổi được xếp vào đối tượng lao động chưa thành niên. Điều
121 của Bộ luật này nhấn mạnh:
Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng lao dộng chưa thành niên
vào những công việc phù hợp với sức khoẻ để bảo đảm sự phát triển thể lực,
trí lực, nhân cách và có trách nhiệm quan tâm chăm sóc người lao động chưa
thành niên về các mặt sức khoẻ, lao động, tiền lương, học tập trong quá trình
lao động. Cấm sử dụng lao động chưa thành niên làm những công việc nặng

nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục do Bộ Lao
động, Thương binh & Xã hội và Bộ Y tế ban hành [28].
Giải quyết việc lâm cho thanh niên phải tính đến yếu tố gia nhập thị
trường lao động thường xuyên, liên tục của lực lượng lao động thanh niên
hàng năm. Vấn đề này nếu không được tính toán đầy đủ, cộng với một tỷ lệ
lao động thất nghiệp do mất việc làm và một lượng lao động chưa tìm được
việc làm sẽ tạo áp lực lớn về giải quyết việc làm cho người lao động đối với
nhà nuớc và xã hội.
Trong giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn, vấn đề tự tìm việc
làm và tự tạo việc làm sẽ khó khăn hơn các đối tượng lao động khác. Nguyên
nhân chủ yếu là thanh niên đang trong giai đoạn phát triển, muốn khẳng định
bản thân, nhưng tâm lý chưa ổn định, chưa tự chủ về bản thân mà cần có sự


15

định hướng nghề nghiệp từ phía gia đình, nhà trường, Đoàn Thanh niên, Hội
Liên hiệp Thanh niên. Thêm vào đó, thanh niên còn thiếu kỹ năng lao động,
thiếu kinh nghiệm, thiếu vốn... nên trong giai đoạn đầu của thời kỳ này, thanh
niên khó có khả năng tự tạo việc làm ổn định cho bản thân.
Giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn phải gắn với đào tạo, bồi
dưỡng cập nhật thường xuyên, liên tục, góp phần phát triển nguồn nhân lực có
chất lượng phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bất kỳ
lĩnh vực nào, người lao động cũng phải trải qua quá trình đào tạo, bồi dưỡng,
đào tạo lại để phù hợp với yêu cầu công việc. Với lao động thanh niên, điều
này càng cấp thiết và có ý nghĩa hơn. Do đó, đào tạo nghề, nâng cao tay nghề
và kỹ năng lao động gắn với giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn là
xu hướng tích cực trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2. Đặc điểm của thanh niên và vai trò của giải quyết việc làm cho thanh
niên nông thôn

1.1.2.1. Đặc điểm của thanh niên
Theo N. O'Higgins, thanh niên là lứa tuổi đang trong thời gian chuyển
tiếp giữa thời thiếu niên và trưởng thành. Tuy nhiên, theo cơ cấu lứa tuổi của
dân số các nước trên thế giới có những quy định khác nhau về độ tuổi thanh
niên, thông thường từ 15 đến 24, 25, 29 hoặc 34 tuổi. Theo Liên hợp quốc lứa
tuổi 15-34 là thuộc cơ cấu lao động trẻ. Thanh niên thường tính trong độ tuổi
15-24 hàm ý ở độ tuổi này thanh niên gồm những người rời ghế nhà trường
sớm nhất từ 15 tuổi (kết thúc trung học PTCS khi 15 tuổi) và kết thúc việc
đào tạo nghề nghiệp ở bậc đại học lúc 24 tuổi. Nhiều nước quy định ở độ tuổi
15-24, riêng Việt Nam quy định ở độ tuổi 15 - 30 theo Luật Thanh niên năm
2006 [32]. Trong phạm vi nghiên cúu của luận văn này xem xét thanh niên có
hộ khẩu thường trú ở huyện Thanh Chương là lực lượng tham gia thị trường
lao động (trong lứa tuổi 15-30), có thể chia ra làm các nhóm:


16

- Nhóm thanh niên sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông cơ sở hoặc
trung học phổ thông, không có điều kiện học lên, tham gia ngay vào thị
trường lao động. Dó là lao động phổ thông, chưa có nghề;
- Nhóm thanh niên sau khi tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng,
trung cấp chuyên nghiệp & dạy nghề sẵn sàng tham gia vào thị trường lao
động. Đó là lao động có chuyên môn kỹ thuật (có nghề).
- Nhóm thanh niên bị mất việc làm hoặc thất nghiệp đang có nhu cầu
việc làm, sẵn sàng tham gia hoặc trở lại thị trường lao động.
Thanh niên là lực lượng lao động có tiềm năng rất lớn. Tiềm năng lao
động thanh niên thể hiện ở thể chất, trí tuệ và tinh thần của từng cá nhân và
cộng đồng thanh niên đang độ sung sức và phát triển nhanh. Tiềm năng đó
phụ thuộc vào các nhân tố bên trong và bên ngoài rất đa dạng, tác động qua
lại đan xen nhau, có thể mô tả bằng sơ đồ sau:


Tiềm năng lao động cá nhân của thanh niên

- Sức khoẻ
- Hình thể

Điều kiện sống
và làm việc

- Giới tính
- Lứa tuổi

- Trí tuệ
- Tinh thần

- Điều kiện ăn ở
- Điều kiện việc
làm
- Khí hậu, thời
tiết

Trình độ nghề
nghiệp

Sơ đồ 1.1: Sơ đồ hình thành tiềm năng lao động cá nhân của thanh niên
nông thôn

Những nhân tố bên ngoài

Những nhân tố bên trong


Thể lực, trí lực,
tâm lực


17

Yế tố trình độ nghề nghiệp của thanh niên rất quan trọng khi tham gia
thị trường lao động, thậm chí có vai trò quyết định về năng lực cạnh tranh của
họ và phải thông qua đào tạo, tích luỹ kinh nghiệm trong cuộc sống và làm
việc, thể hiện ở sơ đồ sau:

TRÌNH ĐỘ NGHỀ NGHIỆP

Kiến thức nghề nghiệp

Trình độ thực tế

Kỹ năng thực tế, Kinh
nghiệm làm việc
Thâm niên làm
việc

Trình độ về nhận thức

Cấp trình độ và
ngành đào tạo

Kỹ năng thích ứng
nghề nghiệp, công việc


Sơ đồ 1.2: Sơ đồ về trình độ nghề nghiệp của lao động thanh niên
nông thôn
Trình độ nghề nghiệp được biểu hiện về mặt hình thức là trình độ đạt
được qua đào tạo nghề nghiệp; về mặt nội dung là trình độ nghề nghiệp thực
tế ở năng suất, hiệu quả làm việc.
Lao động thanh niên có nhiều tiềm năng, tuy nhiên thanh niên đang
trong độ tuổi phát triển, chưa đến độ tuổi của lao động trưởng thành, nên lao
động thanh niên có một số hạn chế:


18

- Lao động mới tăng thêm thường 100% là ở tuổi thanh niên, nhưng
chủ yếu là lao động phải thông chưa qua đào tạo nghề;
- Số lao động thanh niên qua đào tạo, khi tham gia thị trường lao động
phải có khoảng thời gian nhất định để làm quen, thích nghi với công việc và
vẫn phải tiếp tục được đào tạo;
- Kinh nghiệm tích luỹ trong thực tế còn hạn chế. Chính vì những đặc
điểm nêu trên, việc làm có vai trò rất lớn đối với thanh niên. Việc làm cho lao
động xã hội nói chung, cho thanh niên nói riêng là vấn đề toàn cầu và
cũng là vấn đề xã hội bức xúc, gay gắt nhất của nhiều quốc gia, trong đó
có Việt Nam.
1.1.2.2. Vai trò của giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn trong phát
triển kinh tế - xã hội
- Giải quyết việc làm là một trong những chính sách kinh tế - xã hội cơ
bản của mọi quốc gia nhằm góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội. Chính sách việc làm vừa có ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có ý
nghĩa về mặt chính trị, xã hội và giáo dục con người. Việc hoạch định và thực
thi không tốt chính sách việc làm sẽ dẫn đến những hậu quả, những thiệt hại

trực tiếp và gián tiếp cả về kinh tế, chính trị, xã hội cho đất nước.
- Giải quyết việc làm đảm bảo cho thanh niên được tham gia vào các
hoạt động kinh tế, kết nối họ vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và dịch
vụ, tạo khả năng cho họ nhận được những khoản thu nhập thiết yếu để tái sản
xuất sức lao động của chính bản thân mình và nuôi sống gia đình. Do đó, cần
tạo nhiều việc làm và những điều kiện cần thiết cho thanh niên dễ dàng lựa
chọn công việc phủ hợp để đạt năng suất lao động cao, có cơ hội nhận được
thu nhập lớn hơn.
- Thông qua giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn, các doanh
nghiệp, công ty, người sử dụng lao động thu hút được sức lao động trẻ cần


19

thiết theo yêu cầu của khối lượng công việc và yêu cầu về chất lượng lao
động. Tuy vậy, không phải lúc nào cũng sẵn có lực lượng lao động thanh niên
cần thiết trong một khu vực, vì vậy thông qua giải quyết việc làm sẽ cung cấp
đầy đủ thông tin về nơi nào đang dư thừa, nơi nào khan hiếm lao động thanh
niên và việc thanh niên cần phải trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng
nghề nghiệp gì để có thể kiếm được việc làm.
- Giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn một cách có quy hoạch,
kế hoạch sẽ giúp cho doanh nghiệp hay người sử dụng lao động thanh niên
nói chung và cho chính lao động thanh niên chủ động trong triển khai kế
hoạch hoạt động của họ. Thực tế, những năm vừa qua cho thấy, lao động trẻ
có tay nghề cao, có óc sáng tạo, năng động, biết thích ứng nhanh với môi
trường mới thì không bao giờ thiếu việc làm. Mặt khác, giải quyết việc làm
cho thanh niên nông thôn sẽ tạo ra môi trường làm việc thuận lợi, thể hiện sự
quan tâm nhất định về thoả mãn nhu cầu cần thiết và đảm bảo quan hệ qua lại
trong tập thể lao động cũng như giữa chủ doanh nghiệp với lao động trẻ.
- Giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn còn đảm bảo việc phân

chia, sắp xếp lại lao động trẻ hoạt động kinh tế thường xuyên trong trường
hợp tái cấu trúc, sắp xếp lại các doanh nghiệp. Ở Việt Nam, đang trong quá
trình cổ phần hoá, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước đã làm cho một bộ
phận lao động trẻ mất việc làm. Đồng thời, cũng cho phép thành lập nhiều
doanh nghiệp mới, đã giải quyết nhiều chỗ việc làm mới cho thanh niên. Tỷ
trọng lao động trẻ trong các thành phần kinh tế, các ngành nghề và các khu
vực đang thay đổi theo hướng hợp lý, thích ứng và phù hợp.
Tóm lại, giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn một cách có quy
hoạch, kế hoạch hợp lý sẽ có tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội
nói chung và bản thân thanh niên nói riêng. Nhưng, cần có sự tổ chức quản lý
tốt, sắp xếp và giải quyết hợp lý. Nếu không làm được như vậy thì giải quyết
việc làm cho thanh niên nông thôn sẽ làm nảy sinh ở thanh niên tính y lại,


20

trông chờ vào sự sắp xếp, bố trí công việc của Nhà nước, đây là thói quen đã
ăn sâu vào tiềm thức của nhiều thế hệ người Việt Nam.
1.1.3. Chủ thể và nội dung giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn
1.1.3.l. Chủ thể và nội dung cơ bản về giải quyết việc làm cho thanh niên
nông thôn
Chủ thể và nội dung giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn rất
phong phú và đa dạng, nhưng chủ yếu nhất là hệ thống chính trị và bản thân
lao động thanh niên. Cụ thể là:
- Đảng, Nhà nước hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, ban
hành và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, các chương trình, dự án
hỗ trợ, thúc đẩy giải quyết việc lâm cho thanh niên
- Nhà nước tạo khung khổ pháp lý, cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ
trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế tham gia giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn và đặc biệt coi trọng

thúc đẩy thanh niên tự tạo việc làm
- Các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội, nhất là Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh, Hội LHTN và Hội Doanh nhân trẻ tích cực, chủ động tham gia một
cách có hiệu quả vào việc hoạch định và tổ chức thực hiện các chương trình,
dự án giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn
- Bản thân lao động thanh niên cùng với gia đình năng động, sáng tạo
tổ chức khởi nghiệp tự tạo việc làm
Với vai trò chủ thể và quán triệt những nội dung cơ bản đó trong giải
quyết việc làm cho thanh niên nông thôn, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ
trương mang tính chiến lược về phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thế hệ
trẻ Việt Nam, đặt con người vào vị trí trung tâm, khơi dậy mọi tiềm năng của
mỗi cá nhân và cả cộng đồng dân tộc. Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế
với phát triển văn hóa, xã hội, coi phát triển kinh tế vừa là cơ sở, tiền đề,


21

phương tiện cho thực hiện các chính sách an sinh, tạo cơ sở cho sự ổn định
chính trị, xã hội vừa tạo động lực nền tảng cho sự tăng tưởng, phát triển kinh
tế - xã hội bền vững. Do đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều Nghị quyết và
Chính sách quan trọng, tạo điều kiện cho thanh niên khởi nghiệp và lập
nghiệp bền vững.
Cụ thể là:
- Quyết định số 70/2003/QĐ-TTg ngày 29/4/2003 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt về Chiến lược phát triển thanh niên đến năm 2010, trong đó
vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn là một nhiệm vụ trọng tâm
- Chỉ thị số 06/2005/TTg của Thủ tướng về phát huy vai trò thanh niên
tham gia phát triển kinh tế - xã hội.
- Quốc hội đã ban hành Luật Thanh niên theo 53/2005.QH11 ngày
29/11/2005 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã có

hẳn một chương nêu về vấn đề việc làm cho thanh niên nông thôn, trong đó
quy định rất rõ các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của thanh niên. Đồng thời,
các cơ quan liên quan đã và đang phối hợp với Trung ương Đoàn soạn thảo
các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Thanh niên để luật này ngày câng đi
vào cuộc sống.
- Đề án Hỗ trợ thanh niên học nghề và việc làm giai đoạn 2008 - 2015
theo Quyết định số 103/2008/QĐ-TTg ngày 21/7/2008 của Thủ tướng Chính phủ.
- Quyết định số 2474/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2011 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai
đoạn 2011 2020, trong đó vấn đề tư vấn nghề nghiệp và việc làm, giảm tỷ lệ
thất nghiệp trong thanh niên đô thị và giảm tỷ lệ thiếu việc làm trong thanh
niên nông thôn là những vấn đề trọng tâm của Chiến lược.
- Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01 tháng 6 năm 2012 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI về một số vấn đề về chính sách an sinh xã


22

hội giai đoạn 2012 - 2020, ở phần nhiệm vụ và giải pháp Nghị quyết đã nêu rõ
vấn đề về việc làm, thu nhập và giảm nghèo, đồng thời đã đặt nhiệm vụ này là
nhiệm vụ đầu tiên của vấn đề đảm bảo an sinh xã hội. Nghị quyết nhấn mạnh:
''Xây dựng và triển khai Luật Việc làm '' (đến nay Luật Việc làm đã có dự
thảo lần 2 và đang tiếp tục được Bộ Lao động Thương binh và Xã hội lấy ý
kiến rộng rãi trong nhân dân đặc biệt là các đối tượng chịu sự điều chỉnh của
Luật để tiếp thu, chỉnh sửa trình Quốc hội).
- Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 15NQ/TW ngày 01 tháng 6 năm 20l2 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020 (Ban hành
kèm theo Nghị quyết số 70/NQ-CP ngày 01 tháng 11 năm 2012 của Chính phủ).
- Chỉ thị 19-CT/TW ngày 05 tháng 11 năm 2012 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dạy nghề

cho lao động nông thôn.
- Quyết định 52/2012/QĐ-TTg ngày 16 tháng 11 năm 2012 của Thủ
tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho
người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp.
- Chỉ thị 31/CT-TTg ngày 28 tháng 11 năm 2012 của Thủ tướng Chính
phủ về việc thực hiện công tác đào tạo nghề, giải quyết việc lâm cho con liệt
sĩ, con thương binh nặng, con bệnh binh nặng.
Trong thập niên đầu thế kỷ XXI, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành
nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp về giải quyết việc làm cho người lao
động nói chung, thanh niên nói riêng và đã thu được những kết quả đáng
khích lệ. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2001 2010 và Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến năm 2010 của Chính
phủ đã cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề phát triển
thanh niên, trong đó vấn đề việc làm và dạy nghề, nâng cao trình độ chuyên


23

môn, nghiệp vụ, năng lực khoa học công nghệ; giảm thiêu tình trạng thất
nghiệp, thiếu việc làm, nâng cao thu nhập cho họ là những mục tiêu quan
trọng nhất. Thủ tướng chính phủ đã ban hành nhiều chỉ thị về việc thanh niên
tham gia thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu các
Bộ, ngành có liên quan lập kế hoạch với những mục tiêu, nhiệm vụ nhằm sử
dụng tiềm năng của thanh niên, nhấn mạnh sự cần thiết thu hút thanh niên
tham gia một số chương trình, dự án trọng điểm quốc gia, các dự án quan
trọng của Trung ương và địa phương.
Đáp lại sự quan tâm đó, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh các cấp đã phát huy
vai trò xung kích của tuổi trẻ trong việc tuyên truyền, vận động và tổ chức lực
lượng lao động trẻ tích cực tham gia phong trào thi đua lao động xây dựng đất
nước và giáo dục rèn luyện thanh niên. Các tổ chức Đoàn phối hợp với ngành
giáo dục, lãnh đạo các trường, các ban ngành liên quan để đẩy mạnh việc

hướng nghiệp, tư vấn nghề cho sinh viên, học sinh, giúp họ tự đánh giá và
chọn được nghề phù hợp với năng lực của bản thân. Nhiều sinh viên đã chủ
động tìm kiếm, tự tạo việc làm ngay khi còn đang học tập. Công tác hướng
nghiệp, tư vấn nghề nghiệp thông qua các chương trình dự án do Đoàn thanh
niên đảm nhận đã tận dụng được nguồn vốn, nguyên liệu tại chỗ đế giải quyết
việc làm tại chỗ, giúp thanh niên nhận thức rõ hơn vấn đề lựa chọn nghề và
hạn chế mức độ thanh niên nông thôn di chuyên quá lớn vào các đô thị gây
nên sự quá tải về nhiều mặt, nhất là tắc nghẽn giao thông. Nhiều đơn vị côn tổ
chức các hoạt động để khuyến khích thanh niên tự tạo việc làm như chương
trình "khởi sự doanh nghiệp'', tổ chức các diễn đàn trao đổi giữa người lao
động với các doanh nghiệp, tư vấn cho thanh niên lập các dự án phát triển
kinh tế tự tạo việc làm,.. Ngoài ra các trung tâm dạy nghề, dịch vụ việc làm
thanh niên dã giúp cho nhiêu lao động trẻ hiểu rõ hơn chủ trương, chính sách,
chế độ, tiêu chuẩn về lao động, việc làm của Việt Nam, pháp luật lao động,


24

phong tục tập quán của các nước nơi họ đi xuất khẩu lao động; hướng nghiệp
cho lao động trẻ cách thức tìm việc làm phù hợp với trình độ, kỹ năng giao
tiếp, nhằm giúp lao động trẻ có kiến thức ban đầu trên con đường lập thân, lập nghiệp.
Hệ thống chính trị đã tạo thuận lợi cho thanh niên tìm việc làm và tự
tạo việc làm, từng bước cải thiện thu nhập, ổn định cuộc sống, tạo nhận thức
mới về lao động - việc làm và hình thành nhiều mô hình tạo việc làm có hiệu
quả, điển hình như việc thực hiện các chương trình dạy nghề cho thanh niên
nông thôn, cho thanh niên dân tộc, bộ đội xuất ngũ.
Tuy vậy, thị trường lao động của nước ta còn thiếu nhiều yếu tố và còn
kém phát triển, phát triển chưa rộng khắp giữa các vùng, địa phương, hẹ
thống thông tin thị trường lao động chưa hoàn thiện, các trung tâm giới thiệu
việc làm chưa đáp ứng được yêu cầu. Chất lượng lao động qua đào tạo còn

thấp, chưa gắn kết giữa đào tạo với sử dụng,... đã trực tiếp tác động đến vấn
đề giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn.
1.1.3.2. Nội dung giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn
- Nghiên cứu và hoàn thiện các chính sách về lao động - việc làm, nhất
là đối với thanh niên
Nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giải
quyết một cách căn bản tình trạng thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở
nông thôn, nhất là đối với lao động trẻ, cần bổ sung, hoàn thiện các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật Thanh niên, tạo đầy đủ hành lang pháp lý cho các
chương trình hành động của thanh niên đi vào cuộc sống đạt hiệu quả cao. Bổ
sung hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích thanh niên tự tạo việc
làm, tự lập nghiệp vươn lên làm giàu chính đáng. Xây dựng và hoàn thiện chính
sách phát triển thị trương lao động, chú trọng các chính sách ưu đãi đối với thanh
niên có trình độ cao, thanh niên nông thôn đến các khu công nghiệp, khu chế
xuất, các doanh nghiệp, thanh niên tàn tật, thanh niên dân tộc và nữ thanh niên.


×