Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận triết tư TƯỞNG về GIÁO dục của KHỔNG tử và bài học với VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.44 KB, 28 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Từ xưa đến nay, việc tìm hiểu bản chất, vai trò của con người luôn là
một vấn đề trung tâm trong lịch sử tư tưởng nói chung và lịch sử triết học nói
riêng, trong đó có triết học Trung Quốc cổ đại. Các nhà triết học Trung Quốc
cổ đại thường đi vào nghiên cứu số phận con người và con đường giải phóng,
phát triển cho con người. Do đó, triết học Trung Quốc để lại cho nhân loại
nhiều bài học quý giá về xây dựng và phát triển con người, đặc biệt là tư
tưởng của Khổng Tử.
Trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay, có rất nhiều vấn đề
đang được đặt ra, quan trọng nhất là vấn đề xây dựng và phát triển con người,
bởi con người không chỉ là mục tiêu và động lực của sự nghiệp đổi mới mà
hơn nữa, là chủ thể của sự nghiệp đó. Chính vì vậy, Đảng ta khẳng định, con
người là nguồn lực quan trọng nhất của cách mạng Việt Nam, là yếu tố giữ vai
trò quyết định sự thành bại của sự nghiệp đổi mới và sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ở Việt Nam, Khổng học có lịch sử tồn tại hàng nghìn năm. Trong
những tư tưởng của Khổng học có ảnh hưởng lớn tới con người và xã hội Việt
Nam, thì tư tưởng giáo dục có vị trí rất quan trọng. Khi cánh cửa của nền kinh
tế Tri Thức đang mở ra, hướng nhân loại vào kỷ nguyên khoa học và công
nghệ, khi mà việc học tập thường xuyên, suốt đời trở thành hiện thực, việc
nghiên cứu những quan điểm giáo dục của Khổng Tử là vấn đề hết sức cần
thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn đối với Việt Nam.
I. Triết học Trung Quốc
1. Sơ lược về địa lý, lịch sử, xã hội Trung Quốc cổ, trung đại
Trung Quốc là đất nước có diện tích khoảng 9,6 triệu km2 , chiếm 1/7
lục địa Á- Âu và có 1,3 tỷ dân chiếm 1/5 dân số thế giới. Trung Quốc là một
nước lớn ở Châu Á và trên thế giới, có nền văn hóa phát triển sớm và được coi
là một trung tâm văn minh bậc nhất của nhân loại thời cổ đại. Trong thời kỳ cổtrung đại, đặc điểm lịch sử- xã hội Trung Quốc có thể khái quát như sau:

1



Một là, công xã nông thôn được bảo tồn lâu dài trong suốt thời kỳ lịch sử
cổ - trung đại, với hạt nhân của nó là chế độ đại gia đình phụ quyền (tông pháp)
được xác lập vững chắc. Địa vị của người con trưởng quan trọng nhất trong
nhà, trách nhiệm cũng lớn nhất, được hưởng gia tài, giữ việc hương khói.
Hai là, ở Trung Quốc, nhà nước ra đời trên cơ sở trình độ kỹ thuật còn
non kém (đồ sắt chưa được sử dụng phổ biến); trong xã hội, mức độ phân hóa
giai cấp chưa sâu sắc. Hình thức bóc lột là hình thức cống nạp; tô và thuế
nhập làm một. Mối quan hệ của các thành viên trong xã hội đối với nhà nước
là quan hệ của thần dân đối với vua chứ không phải là mối quan hệ của công
dân đối với nhà nước.
Ba là, ruộng đất công, trên nguyên tắc, toàn bộ đất đai trong toàn quốc
là thuộc quyền sở hữu của nhà vua, mọi người dân chỉ có quyền sử dụng đất.
Chỉ bằng một quyết định, nhà nước có thể tịch thu ruộng đất của bất cứ ai.
Bốn là, cho đến trước khi bị chủ nghĩa thực dân tư bản phương Tây
xâm lược, trên đất nước Trung Quốc chưa hề có một cuộc cách mạng xã hội
theo đúng nghĩa. Trong lòng xã hội, các kết cấu mới – cũ đan xen lẫn nhau,
cùng cộng sinh bên nhau trong suốt quá trình lịch sử. Thế kỷ VIII tr.CN phân
tầng xã hội đã bắt đầu biến đổi sâu sắc, kết cấu giai tầng phức tạp, xung đột
đã gay gắt.
Năm là, Trung Quốc được gọi là một trong những nước có nền văn
minh sớm nhất và rực rỡ nhất trong lịch sử, cho đến năm 1911, lịch sử Trung
Quốc trải qua ba thời kỳ kế tiếp nhau: thời kỳ thượng cổ, cổ đại, trung cổ. Tuy
nhiên, tư tưởng triết học Trung Quốc chỉ nở rộ ở nửa cuối thời kỳ cổ đại (vào
thời Đông Chu) và được duy trì phát triển ít nhiều ở thời kỳ Trung cổ.
2. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm triết học Trung Quốc
2.1. Hoàn cảnh ra đời
Trung Quốc là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Trung
Quốc đất đai rộng lớn, có hai con sông lớn Hoàng Hà và Trường Giang, là
một trong những nước có nền văn minh hình thành sớm nhất và rực rỡ nhất

trong lịch sử. Triết học Trung Quốc suy cho cùng là sự phản ánh xã hội Trung
2


Quốc. Triết học Trung Quốc có mầm mống từ lâu, nhưng thực sự nở rộ vào
khoảng thế kỷ VI đến thế kỷ III tr.CN. Đây là thời kỳ biến đổi dữ dội, chuyển
biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến kiểu phương Đông –
thời kỳ Đông Chu liệt quốc hay Xuân Thu chiến quốc với chiến tranh liên
miên, tàn khốc, trật tự xã hội cũng như luân lý đạo đức sụp đổ, cái cũ đã qua,
cái mới chưa đến, lòng người chao đảo không biết đi về đâu.
Thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc là thời kỳ hai chế độ xã hội chuyển
giao, đấu tranh giai cấp gay gắt, chiến tranh liên miên. Đó là thời kỳ “Bá đạo
lấn át vương đạo”, thời kỳ: Vua không phải đạo vua, tôi không phải đạo tôi,
cha không phải đạo cha, con không phải đạo con. Đạo đế vương mờ tối, người
đời say đắm đường danh lợi, không ai muốn làm điều nghĩa nữa.
Để góp phần cứu vãn tình thế đó, “Bách gia chư tử” ra đời. Nhiều nhà
tư tưởng muốn trình bày quan điểm của mình, phê phán trật tự xã hội cũ, đề ra
mẫu hình xã hội tương lai.
Đây là thời kỳ có một không hai về tự do học thuật, bởi vậy, các trường
phái triết học mọc lên như nấm gặp mưa rào. Nền văn minh Hoa Hạ rộng lớn
đặc sắc đã được đặt nền móng từ đấy với các tư tưởng phong phú và đa dạng,
phức tạp. Nó cũng chứa đựng những mâu thuẫn nhiều khi rất gay gắt. Khái
quát lại có 9 hệ thống triết học chính xuất hiện: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia,
Pháp gia, Âm Dương gia, Danh gia, Nông gia, Tung hoành gia, Tạp gia (có
thuyết còn cho có thêm trường phái Tiểu thuyết gia).
2.2. Đặc điểm
Xuất hiện và phát triển trong điều kiện như vậy, triết học Trung Quốc
có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, triết học Trung Quốc nhấn mạnh mặt thống nhất trong mối
quan hệ giữa con người và vũ trụ. Đây là tư tưởng xuyên suốt nhiều trường

phái, học thuyết khác nhau. Trong những kinh điển chủ yếu của Nho giáo
(Kinh dịch, Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử...) đều nhất quán tư
tưởng “biết đến cùng cái tính của con người thì cũng có thể biết đến cùng cái
3


tính của vạt vật trời đất”. Ngoài ra, các trường phái, học thuyết khác cũng thể
hiện rõ quan điểm này, Trang Chu cho rằng, trời đất với ta cùng sinh, vạn vật
với ta là một...
Thứ hai, triết học Trung Quốc xuất phát từ con người, lấy con người
làm vấn đề trung tâm. Nghiên cứu thế giới cũng chỉ nhằm làm rõ vấn đề con
người. Tuy nhiên con người không được chú ý trên tất cả các mặt mà chỉ chú
ý trên khía cạnh luân lý, đạo đức. Vấn đề bản thể luận trong triết học Trung
Quốc rất mờ nhạt, còn trong triết học phương Tây lại đặt trọng tâm vào
nghiên cứu thế giới, vấn đề con người cũng chỉ được bàn tới nhằm giải thích
thế giới. Do đó, khác với triết học Trung Quốc, trong triết học phương Tây,
vấn đề bản thể luận rất đậm nét.
Về bản chất con người (tính người, Khổng Tử cho gần nhau (giống
nhau), nhưng do tập quán, phong tục mà xa nhau (khác nhau) (“Tính tương
cận, tập tương viễn”); Mạnh Tự cho tính người (nhân tính) vốn thiện; Tuân Tử
cho tính người vốn ác; Cáo Tử cho tính không thiện cũng không bất thiện.
Đổng Trọng Thư đưa ra tính tam phẩm, còn Hàn Dũ đưa ra có tính ba bậc.
Về số phận con người, Nho giáo quy tất cả là do mệnh trời; Tuân Tử
cho rằng con người có thể thắng được trời. Từ đó triết học Trung Quốc hướng
đến mẫu người lý tưởng như sĩ, quân tử, đại trượng phu, thánh nhân.
Thứ ba, triết học Trung Quốc ít tồn tại dưới dạng triết học thuần túy mà
thường được trình bày xen kẽ hoặc ẩn giấu đằng sau với những vấn đề cấu
trúc xã hội, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật. Vì vậy, ở Trung Quốc ít khi có triết
gia và các phần triết học độc lập. Cho nên, nếu ở phương Đông nói chung,
Trung Quốc nói riêng triết học ẩn giấu đằng sau các khoa học khác thì ở

phương Tây ngay từ đầu, triết học đã là một khoc học độc lập, các khoa học
khác lại ẩn giấu ở đằng sau triết học ở vào buổi bình minh của nó.
Thứ tư, về mặt nhận thức, triết học Trung Quốc bàn nhiều về vấn đề
trực giác tâm linh, những vấn đề phi lý tính. Phương pháp nhận thức này, xét
về góc độ nào đó nó phù hợp với đối tượng mà nó đặt ra để nghiên cứu. Nó
4


thường không được trình bày dưới dạng hình thức hệ thống lý luận lôgic như
các tác phẩm triết học hiện đại. Nhìn chung, lý luận nhận thức trong triết học
Trung Quốc là phiến diện, không xem giới tự nhiên là đối tượng nhận thức,
mà chỉ nhận thức chủ yếu về mặt luân lý đạo đức.
Thứ năm, triết học Trung Quốc vừa thống nhất vừa đa dạng. Thống
nhất ở chỗ nó đều nhằm mục đích ổn định xã hội, chấm dứt chiến tranh,
chẳng hạn, Nho gia đưa ra đường lối chính danh, đức trị; Pháp gia đưa ra
đường lối pháp trị; Mặc gia đưa ra đường lối kiêm ái; Đạo gia đường lối vô
vi... Nó đa dạng ở chỗ có rất nhiều trường phái, khuynh hướng tư tưởng, với 9
trường phái và đặc biệt nổi bật hơn cả là 6 trường phái lớn có ảnh hưởng
mạnh mẽ trong đời sống, trong lịch sử xã hội là: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia,
Pháp gia, Âm Dương gia, Danh gia. Mỗi nhà đều có chủ trương, đường lối
riêng của mình.
Trong các trào lưu triết học Trung Quốc cổ đại, thường đan xen các yếu
tố duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình. Cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không gay gắt quyết liệt như ở phương
Tây. Chẳng hạn như:
- Nho giáo về cơ bản là duy tâm, nhưng vẫn có những luận điểm duy
vật, nhất là ở thời kỳ đầu.
- Đạo gia, Mặc gia, Âm Dương ngũ hành gia bên cạnh những luận điểm
duy vật lại có cả những luận điểm duy tâm.
Trong suốt chiều dài hơn 2.000 năm phong kiến Trung Hoa, các học

thuyết cổ đạị thường được các nhà tư tưởng phong kiến kế thừa, tự nhận thuộc
về trường phái đã có nào đó từ thời cổ đại mà không lập ra học thuyết mới
cho nên sự phát triển của triết học Trung Quốc chủ yếu theo hướng từ từ thay
đổi về lượng mà ít thấy có sự nhảy vọt về chất.
Thứ sáu, Phép biện chứng trong triết học Trung Quốc thể hiện trong
học thuyết biến dịch (Kinh dịch); sự tương tác giữa âm dương, ngũ hành;
trong học thuyết Lão Tử. Nhìn chung, biện chứng trong triết học Trung Quốc
5


vẫn còn thô sơ, đơn giản, biện chứng vòng tròn, tuần hoàn khép kín.
Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo là ba dòng chủ đạo, kiến tạo nên hệ tư
tưởng phong kiến Trung Quốc, song trên thực tế, Nho giáo vẫn là dòng chủ
đạo, đóng vai trò trung tâm.
II. Tư tưởng triết học Khổng Tử
1. Tiểu sử Khổng Tử
Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ngày 27 tháng 8
năm 551 trước Công nguyên, vào thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, tại
ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông,
Trung Quốc).
Nhiều sử sách ghi rằng ông sinh trong một gia cảnh nghèo, nhưng thực
tế gia đình ông có ông tổ ba đời vốn thuộc dòng quý tộc sa sút từ nước Tống
dời đến nước Lỗ. Cha của Khổng Khâu, Thúc Lương Ngột (cháu 13 đời của
Vi Tử Diễn, anh của vua Trụ nhà Thương) là quan võ thuộc ấp Trâu, đến 70
tuổi mới lấy Nhan thị mà sinh ra ông.
Năm lên ba, Khâu mồ côi cha, lớn lên, phải làm lụng vất vả để nuôi mẹ,
nhưng rất ham học. Năm 19 tuổi, ông lấy vợ và làm một chức quan nhỏ coi
kho chuyên quản lý kho tàng, xuất nạp tiền lương công bằng chuẩn xác.
Ông cũng từng đảm nhiệm chức quan nhỏ chuyên quản lý nông trường
chăn nuôi, súc vật sinh trưởng rất tốt. Nhờ vậy ông được thăng chức lên làm

quan Tư không, chuyên quản lý việc xây dựng công trình. Năm 22 tuổi, ông
mở lớp dạy học. Học trò gọi ông là Khổng Phu Tử , hay gọi gọn hơn là Khổng
Tử . 'Tử' ngoài ý nghĩa là 'con' ra còn có nghĩa là "Thầy". Do vậy Khổng Tử là
Thầy Khổng.
Trong suốt gần 20 năm, từ năm 34 tuổi, Khổng Tử dẫn học trò đi khắp
các nước trong vùng để truyền bá các tư tưởng và tìm người dùng các tư
tưởng đó. Có nơi ông được trọng dụng nhưng cũng có nơi ông bị coi thường.
Năm 51 tuổi, ông quay lại nước Lỗ và được giao coi thành Trung Đô,
năm sau được thăng chức Đại tư khấu (coi việc hình pháp), kiêm quyền tể

6


tướng. Sau ba tháng, nước Lỗ trở nên thịnh trị. Nhưng rồi bị ly gián, gièm
pha, ông bèn từ chức và lại ra đi một lần nữa.
Năm 68 tuổi, Khổng Tử trở về nước Lỗ, tiếp tục dạy học và bắt tay vào
soạn sách. Có thể nói Khổng Tử là người thầy tư nhân chuyên thu nhận học
trò đầu tiên trong lịch sử giáo dục Trung Quốc.
Trước thời ông, trường học hoàn toàn là của nhà nước. Khổng Tử sáng
lập ra trường học tư, thu nhận nhiều đồ đệ, đưa giáo dục mở rộng cho bình
dân, đem tri thức văn hóa truyền bá cho dân gian, có cống hiến thật to lớn đối
với giáo dục thời cổ đại. Ông mất tháng 4 năm 479 TCN, thọ 73 tuổi.
2. Kinh điển của Nho gia
Theo Hán tự, "nho" bao gồm chữ "nhân" và chữ "nhu" hợp thành, chỉ
những người cần thiết cho xã hội. ."Nho" là tên gọi những học giả, nhà giáo
dục. Họ là những người thấu hiểu sách thánh hiền, được xã hội cần để dạy
bảo người đời đạo lý, góp phần trị nước được gọi là nho sĩ, nhà nho, bậc sĩ.
Trước thời Khổng Tử, chỉ có quan học , không có thầy tự mở trường tư.
Từ khi Khổng Tử mở trường tư dạy học trò, tiếp đó các học trò của ông như
Tăng Tử, Tử Du, Tử Hạ,...cũng tự mở trường dạy học nên đều được gọi là

nho. Từ đó, học phái do Khổng Tử sáng lập được gọi là Nho Gia.
Ông cùng các đệ tử diễn giải các tác phẩm của Chu Công, kế thừa, bổ
sung và phát triển các tri thức đời trước như thế giới quan, nhân sinh quan ở
Kinh Dịch, tri thức văn hóa dân gian ở Kinh Thi, lý luận và biện pháp tổ chức
xã hội ở Kinh Lễ, lịch sử ở Kinh Thư, biên niên sử thời Xuân Thu,... để xây
dựng một hệ thống chính trị, đạo đức, triết học gọi là Nho giáo, thành học
phái là Nho gia.
Các sách kinh điển của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo
nguyên thủy. Sách kinh điển gồm hai bộ: Ngũ Kinh và Tứ Thư. Người sáng
lập Nho gia chính là Khổng Tử, mặc dù ông chỉ thừa nhận là chỉ thuật lại chứ
không sáng tác. (Luận Ngữ- Thuật Nhi 1).
2.1. Tứ Thư
a, Luận Ngữ
7


Luận ngữ (nghĩa đen là bàn nói) là cuốn sách chép các lời đức Khổng
Tử khuyên dạy học trò hoặc các câu chuyện ngài nói với những người đương
thời về nhiều vấn đề (luân lý, triết lý, chánh trị, học thuật) do các môn đệ ngài
sưu tập lại.
Sách được chia làm hai quyển (thượng, hạ) gồm có 20 thiên (mỗi thiên
lâý hai chữ đầu đặt tên). Sách Luận ngữ có thể coi là cuốn sách dạy đạo người
quân tử một cách thực tiễn và mô tả tình tình, cử chỉ, đức độ của đức Khổng
Tử như phác họa ra một cái mẫu mực hoạt động cho người đời sau theo. Với
các nội dung:
- Nhiều câu cách ngôn xác đáng về đạo người quân tử.
- Phẩm cách cao thượng (hồn hậu, thành thực, khiêm cung, khoái hoạt)
của đức Khổng Tử biểu lộ ra trong những chuyện ngài nói với học trò.
- Cảm tình phong phú và lòng ái mỹ của Khổng Tử
- Khoa sư phạm của Khổng Tử. Trong các lời khuyên dạy chuyện trò

với học trò, ông tỏ ra là một ông thầy hiểu thấu tâm lý học trò và khéo làm
cho lời dạy bảo của mình thích hợp với trình độ cảnh ngộ của mỗi người. Có
khi cùng là một câu hỏi mà ông trả lời khác, tùy theo tư chất và chí hướng của
từng người.
b, Đại học
Cuốn nầy là sách của bậc “đại học” cốt dạy cái đạo của người quân tử.
Sách chia làm hai phần:
- Phần trên gọi là Kinh, chép lời đức Khổng Tử, có 1 chương.
- Phần dưới, gọi là Truyện, là lời giảng giải của Tăng tử (là môn đệ của
Khổng tử) có 10 chương.
Mục đích bậc đại học hay cái tôn chỉ của người quân tử, đã tóm ở câu
đầu sách là: “Đại học chi đạo, tại minh chi đức, tại thân dân, tại chỉ ư chi
thiện. Nghĩa là: Cái đạo của người theo bậc đại học là cốt làm sáng cái đức
(đức tốt) của mình, cốt làm mới (ý nói cải hóa) người dân, cốt dừng lại ở cõi
chí thiện. Vậy người quân tử trước phải sửa sang đức tính mình cho hay, rồi lo
8


dạy người khác nên hay, và lấy sự chí thiện làm cứu cánh.
Mục đích đã như vậy, phương pháp phải thế nào? Phải sửa mình trước
(tu thân), rồi mới chỉnh đốn việc nhà (tề gia), cai trị việc nước (trị quốc) và
làm cho cả thiên hạ được bình yên (bình thiên hạ). Cái phương pháp ấy là
tuần tự mà tiến, tự mình đến người ngoài, mà điều cốt yếu nhất là việc sửa
mình, nên trong Đại học có câu:”Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ
tu thân vi bản, nghĩa là: Từ ông vua đến kẻ thường dân, ai nấy đều lấy việc
sửa mình làm gốc”.
Nay muốn sửa mình, phải thực hành theo cách nào? Trước hết phải
cách vật nghĩa là thấu lẽ mọi sự vật; rồi phải trí tri, nghĩa là biết cho đến cùng
cực; phải thành ý: nghĩa là ý phải thành thực; phải chánh tâm, nghĩa là lòng
phải cho ngay thẳng. Bốn điều ấy phải theo thứ tự kể trên mà tiến hành, có

làm được điều trên mới làm được điều dưới. Làm được bốn điều ấy thì thì sẽ
tu được thân, rồi tề được nhà, trị được nước và bình được thiên hạ, mà làm
trọn được cái đạo của người quân tử.
c, Trung Dung
Cuốn này là gồm những lời tâm pháp của đức Khổng Tử do học trò
ngài truyền lại, rồi sau Tử Tư là cháu ngài chép thành sách, gồm có 33
chương.
“Ông Tử Tư dẫn những lời của Khổng Phu tử đã giảng về đạo Trung
Dung. Ngài nói rằng: Trung hòa là cái tính tình tự nhiên của trời đất, mà trung
dung là cái đức hạnh của người ta. Trung là giữa, không lệch về bên nào:
dung là thường, nghĩa là dùng đạo trung làm đạo thường. Đạo trung dung thì
ai ai cũng có thể theo được, thế mà không mấy người chịu theo. Khác nào như
ai cũng ăn uống cả, nhưng ít người ăn mà biết rõ mùi vậy. Chỉ có thánh nhân
mới theo được mà thôi, vì theo đạo ấy cốt phải có ba cái đạt đức là: trí, nhân
và dũng. Trí là để biết rõ các sự lý, nhân là để hiều điều lành mà làm, dũng là
để có cái khí cường kiện mà theo làm điều lành cho đến cùng.
“Ông Tử Tư lại dẫn lời đức Khổng Phu tử nói về chữ thành, “Thành là
9


đạo Trời, học cho đến bậc thành là đạo người”. Đạo người là phải cố gắng hết
sức để cho đến bậc chí thành. Phải học cho rộng, xét hỏi cho kỹ, nghĩ ngợi
cho sâu, biện biệt điều phải trái cho rõ, và dốc lòng làm điều thiện cho đến
cùng. Hể ai làm được như thế thì rồi ngu thành sáng, yếu thành ra mạnh, tức
là dần dần lên đến bậc chí thành. Ở trong thiên hạ duy có bậc chí thành tức là
bậc thánh, thì mới biết rõ cái tính của Trời; biết rõ cái tính của trời thì biết rõ
cái tình của Người; biết rõ cái tình của người, thì biết được cái tính của vạn
vật; biết rõ cái tính của vạn vật thì khả dĩ giúp được sự hóa dục của trời đất và
có công ngang với trời đất vậy …
d, Mạnh Tử

Đó là tên cuốn sách của Mạnh Tử viết ra. Sách gồm có 7 thiên. Các
chương trong mỗi thiên thường có liên lạc với nhau và cùng bàn về một
vấn đề.
Có thể nhận thấy được tư tưởng của Mạnh Tử về các vấn đề sau:
- Về luân lý:
+ Ông xướng lên cái thuyết tính thiện để đánh đổ cái thuyết của người
đương thời (như Cáo Tử) cho rằng tính người không thiện không ác. Theo ý
ông, thì thiên tính người ta vốn thiện, ví như tính nước vốn chảy xuống chỗ
thấp; sở dĩ thành ác là vì làm trái thiên tính đi, ví như ngăn nước cho nó phải
lên chỗ cao vậy.
+ Tính người vốn thiện, nhưng vì tập quán, vì hoàn cảnh vì vật dục làm
sai lạc đi, hư hỏng đi, vậy cần phải có giáo dục để muôi lấy lòng thiện, giữa
lấy bản tính. Mấy điều cốt yếu trong việc giáo dục ấy là: dưỡng tính (giữ lấy
thiện tính), tồn tâm (giữa lấy lòng lành), trì chí (cầm lấy chí hướng cho vững),
dưỡng khí (nuôi lấy khí phách cho mạnh).
+ Ông thường nói đến phẩm cách của người quân tử mà ông gọi là đại
trượng phu hoặc đại nhân: bậc ấy phải có đủ bốn điêù là: nhân, nghĩa, lễ, và trí.
- Về chính trị:
Ông nói bậc làm vua trị dân phải trọng nhân nghĩa chớ đừng trọng tài
10


lợi thì mới tránh được sự biến loạn và việc chiến tranh.
- Ông cũng lưu tâm đến vấn đề kinh tế. Ông nói: Người ta có hằng sản,
rồi mới có hằng tâm, nghĩa là người ta có của cải đủ sống một cách sung túc
thì mới sinh ra có lòng tốt muốn làm điêù thiện. Vậy bổn phận kẻ bề trên là
phải trù tính sao cho tài sản của dân được phong phú rồi mới nghĩ đến điều
dạy dân và bắt dân làm điều hay được. Ông lại chỉ các phương lược mà các
bậc vua chúa phải theo để làm cho việc canh nông, mục súc, công nghệ của
dân được phát đạt.

Mạnh tử không những là một nhà tư tưởng lỗi lạc, lại là một văn gia đại
tài. Văn ông rất hùng hồn, và khúc chiết: ông nói điều gì, cãi lẽ gì, thật là rạch
ròi, góc cạnh. Ông hay nói thí dụ: muốn cho ai hiểu điều gì, muốn bắt ai chịu
phục lẽ gì, ông thường dẫn các thí dụ mượn ở sự vật cho người ta dễ nhận xét.
Ông lại hay dùng thể ngụ ngôn hoặc kể những câu chuyện ngắn để diễn đạt tư
tưởng cho người nghe vui thích và dễ nhận cái thâm ý của ông.
2.2. Ngũ Kinh
a. Kinh Thi
Kinh Thi là tuyển tập thi ca của người Trung Quốc từ thời thượng cổ đến
Xuân Thu, chủ yếu từ thế kỷ XI đến thế kỷ VI TCN. Tương truyền Kinh Thi có
hơn 3000 bài, phần lớn là thơ ca dân gian, một số do sĩ đại phu sáng tác.
Trong 3.000 bài thơ ấy, Khổng Tử lựa lấy 300 bài vừa ca dao ở thôn
quê, vừa nhạc chương ở triều miếu, họp lại thành Kinh Thi. Kinh Thi chia làm
ba phần: phong, nhã, tụng.
- Quốc phong. Quốc có nghĩa là nước: nhà Chu và các chư hầu. Phong
là gió. Ý nói bài hát làm cảm người ta như gió lay động các vật. Quốc phong
là ca dao của dân gian các nước.
- Nhã (nghĩa đen là chính đính) có 2 loại: tiểu nhã là những bài ca dùng
trong yến tiệc ở triều đình, đại nhã là những bài dùng trong những trường hợp
quan trọng như khi thiên tử họp các vua chư hầu hoặc tế ở miếu đường.
- Tụng (là khen) gồm những bài ca khen các vua đời trước và dùng để
11


hát ở miếu đường trong lúc tế tự.
Vậy ta thấy rằng những bài trong Kinh Thi không phải hết thảy của dân
gian. Có những bài do văn nhân sáng tác như: Chính nguyệt, Thập nguyệt,
Tiết nam sơn…, có những bài do hạng quý tộc soạn để phổ vào nhạc, như: Hạ
Vũ, Văn Vương, Xa công, Cát nhật; nhưng dân ca vẫn chiếm phần đông, như:
Quan thư, Đào yêu, Trung cốc, Đại điền…

b. Kinh Thư
Kinh thư hay Thượng thư là bộ sử sớm nhất của Trung Quốc kể từ thượng
cổ đến Đông Chu, do sử quan ghi chép lại. Nội dung Kinh thư ghi lại các truyền
thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để
các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng
tàn bạo như Kiệt, Trụ. Văn chương Kinh thư mang tính cách ngôn ngữ của người
địa vị cao, với sắc thái mỹ cảm đặc thù, nên có sức hấp dẫn đáng kể. Lời văn cổ
khó đọc, khó hiểu ấy lại được đánh giá là "rõ ràng như ánh sáng của nhật nguyệt
soi vào, tách bạch như đường đi của sao Sâm" (lời Tử Hạ). Thể hiện tư tưởng sùng
cổ, đề cao vương quyền của Nho gia.
c. Kinh Lễ
Kinh Lễ khá phức tạp về nội dung cũng như bố cục, đã có trước thời
Xuân Thu. Khổng Tử và học trò đã góp phần sắp xếp , bổ sung, bình luận.
Các nhà nho đời sau tiếp tục hoàn thiện, phần lớn được viết vào thời Hán.
Kinh Lễ ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng
làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không học
Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận ngữ).
Kinh lễ gồm 3 phần: Chu Lễ, Lễ Ký, Nghi Lễ. Đây là cơ sở để các triều
đại sau này chế định các chế lễ ở mỗi thời kỳ.
Nội dung Kinh Lễ nêu lên và vận dụng quan điểm về vũ trụ vào cuộc
sống để quy định mọi cử chỉ, hành vi và bổn phận của con người từ khi sinh
ra cho đến chết, phản ánh tổ chức xã hội Trung Quốc, giữa người với người,
từ vua quan đến thứ dân. Kinh Lễ với những giáo điều phong kiến có phần
12


nghiệt ngã, qua đó thể hiện tư tưởng chính trị, đạo đức, triết học, quan hệ giai
cấp của người Trung Quốc cổ đại.
d. Kinh Dịch
Kinh Dịch là bộ sách độc đáo hiếm thấy trên thế giới, đứng đầu trong

Ngũ Kinh. Sách do nhiều tác giả, nhiều đời biên soạn. Kinh Dịch nói về các
tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái niệm âm
dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ của
bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng hào
trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử
giảng giải rộng thêm Hoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán
truyện và Hào truyện.
Từ nguyên lý về âm dương ngũ hành, sách giải thích ra sự đời, biến đổi,
phát triển, tiêu vong của vạn vật, vạn sự trong vũ trụ. Người Trung Quốc theo
đây mà bói lành dữ trong cuộc sống, dựa vào đó mà hành động cho phù hợp.
e. Kinh Xuân Thu
Kinh Xuân Thu ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng
Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị
nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời
thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói, "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh
Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh
Khổng Tử tâm đắc nhất.
Xuân Thu không chỉ là sử , mà còn là tác phẩm văn học, nghị luận
chính trị, triết học; được hậu thế cho rằng lời lẽ trong sách "vi ngôn đại
nghĩa"- nhỏ nhẹ mà ý nghĩa to lớn. Cách chép sử theo lối biên niên, dùng từ
nghiêm chỉnh, chính xác, sâu sắc, đã được các sử gia sau này noi theo.
3. Quan điểm giáo dục của Khổng Tử
Nho Học đề cao vai trò của văn hoá giáo dục, coi giáo dục học vấn là
con đường quan trọng để thúc đẩy xã hội phát triển và làm nên bản sắc con
người. Mặc dù những quan điểm của Khổng Tử về mục đích, chủ trương, nội
13


dung, phương pháp được Ông đưa ra cách đây 25 thế kỷ nhưng hiện nay nó
vẫn mang ý nghĩa thời sự.

Hạt nhân tư tưởng mà Khổng Tử đề xướng và truyền bá trong các lớp
môn sinh là “NHÂN”, chữ Nhân theo quan niệm của Ông mang một ý nghĩa
rộng lớn, gắn bó chặt chẽ với ĐẠO – Đạo Đức – lòng yêu thương con người,
yêu thương vạn vật. Theo Khổng Tử, gốc của Nhân là hiếu đễ lễ nghĩa, trung
thực vị tha, xã thân cứu người như chính Khổng Tử đã nói: “Theo ta, người
có đức Nhân là: Bản thân mình muốn đứng vững trong cuộc sống thì phải
giúp người khác đứng vững trong cuộc sống. Mọi việc đều có thể từ mình mà
nghĩ đến người khác, có thể nói đó là biện pháp thực hiện điều Nhân”. (Luận
Ngữ-Ung dã). Nhân theo Khổng Tử còn là: “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”.
Để thực hiện được Nhân, Khổng Tử cho rằng con người phải có Lễ. Lễ là các
quy phạm đạo đức hợp thành một hệ thống qui tắc xử thế. Trong suốt cuộc đời
làmThầy của mình, bên cạnh dạy chữ, bao giờ Khổng Tử cũng chú trọng vào
dạy người, ở đây đề cao thuyết Đức trị.
Phần Học thuyết mà nội dung được Khổng Tử áp dụng vào lãnh vực
giáo dục , mang tính nhập thế và tích cực, Ông đề xướng “thuyết Tôn Hiền”.
Những tư tưởng ấy của Khổng Tử trong bối cảnh rối ren của xã hội đương
thời rất khó thực hiện, song đó là những quan điểm có giá trị được thế hệ sau
kế thừa, phát triển và đến nay vẫn còn đáng trân trọng về chủ trương, nội
dung và cả phương pháp giáo dục.
3.1 Mục tiêu giáo dục của Khổng Tử
Mục tiêu giáo dục của Khổng Tử là đào tạo, bồi dưỡng người “Nhân”,
“Quân Tử” để làm quan, điều hòa mâu thuẫn giai cấp, “khôi phục lễ nghĩa”
trong xã hội đầy rối ren. Xét về mặt chính trị về cơ bản có vẻ bảo thủ, ,
nhưng về giáo dục thì mang tính tiến bộ và vượt thời đại.
Theo Khổng Tử, học để làm người Quân Tử với chí khí của bậc Đại
Trượng Phu – hình mẫu của con người trong xã hội phong kiến. Người quân
tử trước hết phải tu dưỡng đạo đức thì mới có thể làm việc lớn (tề gia, trị
14



quốc, bình thiên hạ). Khổng Tử quan niệm: “người quân tử ăn không được
đầy đủ, ở không được yên vui, làm việc siêng năng và thận trọng với lời nói,
tìm người đạo đức để sửa mình; như vậy mới được coi là người ham học”.
Khổng Tử không chỉ quan tâm đến việc nuôi dân, dưỡng dân mà còn quan
tâm đến việc giáo hóa dân. Nuôi dân, dưỡng dân là chăm lo về đời sống vật
chất, giáo dân là lo cho dân về đời sống tinh thần. Với quan điểm này, giáo
dục góp phần làm nên bản chất xã hội của con người. Với mục đích giáo dục
này, Khổng Tử đã thể hiện tư tưởng vượt thời đại :một xã hội muốn phát triển
vững mạnh phải có con người đủ Đức, đủ Tài.
Tuy nhiên, mục đích giáo dục của Khổng Tử còn là nhằm thực hiện
mục đích chính trị của Nho gia, là thể hiện tư tưởng Thân Dân của nhà cầm
quyền. Bởi vì người làm quan có giáo dục sẽ hiểu được chức phận của mình
không làm điều hại dân, ngưòi dân có giáo dục sẽ hiểu được nghĩa vụ và
quyền lợi của mình để thực hiện.
3.2. Chủ trương giáo dục của Khổng Tử
Chủ trương giáo dục theo ông là Bình Dân giáo dục, đây là chủ trương
tiến bộ trong bối cảnh lịch sử bấy giờ.
Trong “Luận ngữ”, Khổng Tử chủ trương “hữu giáo vô loại”, bầt cứ ai
chỉ cần “đem cho thầy một bó nem” là ông đều nhận làm học trò, không phân
biệt giai cấp, quý tiện, sang hèn. Tư tưởng này được học trò, Mạnh Tử kế thừa
và phát huy đường lối bình dân giáo dục của Khổng Tử trên phạm vi quảng
đại, với các hình thức đa dạng. Khác với Khổng Tử, Mạnh Tử chủ trương
hình thành một mạng lưới trường công từ làng đến kinh đô, từ trường hương
học đến trường quốc học, đó là trường, tự, học, hiệu để giáo hóa dân chúng.
Hệ thống trường học mở rộng theo quan niệm của Mạnh Tử là điều kiện, là
biện pháp thiết thực để bình dân giáo dục. “Nếu từ đô ấp đến chỗ châu huyện
đều đặt nhà học, để cho từ con vua trở xuống đến con nhà sĩ và thứ dân đều đi
học cả, thì độ mười năm sau, trên biết bảo dưới, dưới biết cách thờ trên”. Đây
là tư tưởng tiến bộ của Nho gia vì không chỉ biểu hiện tư tưởng thân dân mà
15



còn làm cho dân đổi mới.
3.3. Nội dung giáo dục của Khổng Tử
Nội dung giáo dục luân lý đạo đức của Khổng Tử được thể hiện trong
“Luận ngữ”. “Luận ngữ” chủ trương rèn luyện tính Thiện cho dân bằng
phương pháp “cất nhắc người tốt, dạy dỗ người không tốt thì dân khuyên
nhau làm điều thiện”. Mục đích giáo dục còn thể hiện cho dân không làm
điều ác, không phạm tội. Nếu không giáo hóa dân, để dân phạm tội rồi giết,
như vậy tàn ngược. Với quyết định này, thì trước hết phải dạy cho dân biết
điều thiện, ác để mà thực thi.
Bên cạnh giáo dục đạo đức, chúng ta có thể suy thấy nội dung dạy học
của ông gồm 4 mặt: “những kẻ theo ta ở nước Trần, nước Sái nay đều không
đến trường cùa ta nữa. Môn đức hạnh: thì có Nhan Uyên, Mẫu Tử – Khiên,
Nhiễm Bá – Ngưu, Trọng Cung; khoa ngôn ngữ: thì có Tể Ngã, Tử Cống ;
môn chính trị, thì có Nhiễm Hữu, Qúy Lộ; môn văn học: thì có Tử Du, Tử
Hạ”. Ở đây Khổng Tử chưa hẳn phân ngành để dạy, nhưng trên thực tế thì có
4 nội dung đó, và biết phân biệt ra 4 mặt như vậy mà dạy, “tùy tính chất mà
dạy”, thì quả thật đây là một tiến bộ rất lớn trong lịch sử giáo dục mà đến nay
còn nguyên giá trị. Chính công việc truyền dạy của Ông đã có tác dụng tích
cực rất lớn đối với lịch sử văn hóa.
Nội dung giáo dục của Khổng Tử bao gồm những chủ trương nhắm vào
việc phục vụ quan điểm chính trị, cũng như vào việc cải tạo xã hội đương
thời. Ông tuyệt nhiên không phải dạy “văn học”, dạy “ngôn ngữ”. Khổng Tử
rất coi trọng việc học Kinh Thi, không học Kinh Thi thì không biết gì để nói.
Theo Khổng Tử, Kinh Thi có thể làm cho ta phấn khởi, có thể làm cho ta đoàn
kết, có thể làm cho ta biết căm thù, gần thì để thờ cha mẹ, xa thì thờ vua,
nhưng căn bản là bồi dưỡng đức hạnh, kiến thức, để “thờ cha”, “thờ vua”.
Ngoài ra, nội dung giáo dục của Khổng Tử còn thể hiện trong việc giáo
hóa huấn luyện kỹ năng thực hành cho dân. Khổng Tử cho rằng “Bậc thiện

dạy dân bảy năm thì có thể dùng dân vào việc chiến đấu được”, “đưa dân
16


không được dạy dỗ ra đánh giặc, tức là bỏ dân”. Quan điểm này thể hiện
trong quan niệm của Khổng Tử ít nhiều quý trọng sinh mệnh con người, dù đó
là tính mạng của thứ dân bách tính tầm thường. Nguyễn Hiến Lê cho rằng:
dạy dân tới bảy năm mới đưa ra trận, cổ kim chưa thấy bao giờ. Quả đúng
như vậy! Sau bảy năm người dân được giáo hóa rèn luyện, sẵn sàng xông pha
nơi trận mạc, liều chết với giặc để giữ nước.
3.4. Phương pháp giáo dục của Khổng Tử
Về mặt phương pháp dạy học, Ông có một số quan điểm cá biệt có tính
cách Thực Tiễn Tiến Bộ,vượt thời gian đến nay vẫn còn ý nghĩa thời sự trong
việc dạy học và cách tổ chức thi cử ở nước ta hiện nay. Phương pháp giáo dục
của Khổng Tử thể hiện:
Thứ nhất, học như thế nào?
Theo Khổng Tử người học phải có nhu cầu nhận thức, ham hiểu biết,
khám phá cái mới; phải độc lập suy nghĩ và sáng tạo trong quá trình nhận thức.
Người dạy không chỉ truyền đạt tri thức mà cái cơ bản là dạy năng lực sáng tạo,
dạy phương pháp để người học tự tìm đến tri thức. Ông nói: “kẻ nào không cố
công tìm kiếm, ta chẳng chỉ vẽ. Kẻ nào không bộc lộ tư tưởng của mình, ta
chẳng khai sáng cho. Kẻ nào ta dạy mà không biết hay ta chẳng dạy”. Trong
quá trình học, Khổng Tử bắt học trò phải suy nghĩ, “học không suy nghĩ thì vô
ích. Suy tư mà không học thì kết quả cũng chỉ bằng không” (Luận Ngữ}
Ngoài ra, Khổng Tử còn đề cao việc ứng dụng vào cuộc sống những
điều đã học. Ông nói: “Như có ai đã đọc thuộc hết ba trăm thiên trong Kinh
Thi, được bậc quốc trưởng trao quyền hành chính cho mình, nhưng cai trị
chẳng xuôi; được phái đi sứ đến các nước ở bốn phương, nhưng tự mình
chẳng có tài ứng đối, người ấy dẫu học nhiều cũng trở nên vô ích” (Luận
Ngữ, Tử Lộ)

Thứ hai, thái độ của người học và người dạy:
- Đối với người học:
Theo Khổng Tử, ngoài học Thầy, học trong sách vở còn học cả trong
17


cuộc sống “ba người cùng đi, tất có người làm thầy; lựa cái hay của người này
mà học, xét cái quấy của người kia mà tự sửa mình”, tư tưởng này rất tiến bộ.
Chúng ta có thể học mọi lúc, mọi nơi, mọi người trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Đặc biệt, Khổng Tử coi trọng nguyên tắc làm gương. tập cho mọi người và
những hình thức học tập thường xuyên”.
Trong thời kỳ hội nhập hiện nay, khoa học kỹ thuật công nghệ luôn
luôn thay đổi. Do đó, nếu ta thụ động, không tiếp thu tri thức thì sẽ lạc hậu và
không theo kịp xu hướng phát triển của thời đại. Vì vậy ta phải luôn học tập,
trao dồi kiến thức trong mọi hoàn cảnh.
- Đối với người dạy:
Theo Khổng Tử “học không biết chán, dạy người không mỏi mệt” –
thái độ dạy học ấy rất tiến bộ hợp cho mọi thời đại. Ngoài ra, Khổng Tử đặt
ra rất nhiều yêu cầu khắt khe đòi hỏi sự nỗ lực của người học đi theo hướng
của thầy đã vạch ra. Về đòi hỏi này, thông thường trong khi dạy, Khổng Tử
giảng giải từng bước một, trả lời những câu hỏi từng bước, từ chung chung
đến cụ thể tuỳ theo sự hiểu biết của người học. Chính điều này đã phát huy
được khả năng suy lý của mình như lời bình trong “Lễ ký” viết: “Thầy dạy
chỉ thúc đẩy, chỉ mở lối soi đường nhưng sự không bức bách, không dẫn dắt
đến cùng ấy lại làm cho học trò thư thái và biết nghĩ suy”.
Ngoài ra, Khổng Tử đòi hỏi khả năng phân tích, tổng hợp của người
học để nắm những phần quan trọng nhất của các vấn đề đặt ra. Lời giảng:
“Này, Tứ, sự thông suốt mọi nhẽ của ta chẳng phải ở chỗ ta học nhiều mà ở
chỗ ta để tâm tìm ra đầu mối”, không phải dành riêng cho Tử Cống mà là yêu
cầu đối với tất cả những ai muốn “thông suốt mọi nhẽ như Ông”. Ngoài ra,

Ông còn đòi hỏi sự kết hợp giữa Học và Hành, giữa tri thức và thực tiễn như
đòi hỏi việc vận dụng ba trăm thiên trong Kinh Thi, với việc hành chính và
việc của người đi sứ.
Tất cả những phương pháp giáo dục của Khổng Tử vẫn còn nguyên giá
trị trong việc dạy và học ở nước ta hiện nay.
18


III. Giá trị của tư tưởng giáo dục của Khổng Tử đối với nền giáo
dục Việt Nam hiện nay
Những nội dung giáo dục của Nho giáo nêu trên đã cho thấy việc Nho
giáo đề cao giáo dục đạo đức (dạy đạo làm người) là điều hợp lý và có ý
nghĩa không chỉ trước đây mà còn cho đến ngày nay. Ở đâu và lúc nào, nếu
không chú trọng việc giáo dục đạo đức cho con người là ở đó, khi đó, đạo đức
xã hội có vấn đề, lấy yêu cầu của hiện tại ra mà phê phán người xưa là phi
lịch sử.
Cũng như rất nhiều nhà nho chân chính khác, Hồ Chí Minh rất quan
tâm đến việc giáo dục con người. Kế thừa tư tưởng “học không biết chán, dạy
không biết mỏi” của Khổng giáo, ngay từ thời thanh niên, Người đã từng làm
thày giáo và khi trở thành vị Chủ tịch nước, Người luôn quan tâm đến việc
giáo dục, đào tạo con người. Theo Hồ Chí Minh, mọi người cần phải học, học
để làm việc, học để làm người, làm cán bộ để suốt đời phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh.
Nếu như trước đây Khổng Tử đã từng khuyên nhà cầm quyền phải
chăm lo đời sống vật chất cho dân, phải giáo hóa dân để thực hiện đường lối
“đức trị”, thì ngày nay vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước
phồn vinh, Hồ Chí Minh cũng thường xuyên nhắc nhở mọi người hãy:
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”
(Hồ Chí Minh đã mượn câu nói trên của Quản Trọng để chỉ ra tầm quan

trọng của sự nghiệp giáo dục)
Ở đây, chúng ta thấy có sự tương đồng giữa tư tưởng Nho giáo xưa và
tư tưởng Hồ Chí Minh nay. Trong học thuyết Nho giáo, con người là trung
tâm thì nay, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng tất cả là vì con người.
Hồ Chí Minh đã thấy được tầm quan trọng của việc giáo dục, sự tác
động của các yếu tố xã hội đối với việc hình thành và phát triển nhân cách của
con người. Hơn nữa, Hồ Chí Minh đã vận dụng phương pháp biện chứng khi
19


nhìn nhận về tính người và trong giáo dục con người, Người viết: “Mỗi con
người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải làm cho phần tốt ở trong mỗi
con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ
của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người
phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho
cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập
cho tơi bời”[7, tr.558]. Đó chính là quan điểm giáo dục tiến bộ - phát huy mặt
tốt, mặt mạnh của mỗi cá nhân và loại bỏ dần những mặt tiêu cực, mặt xấu.
Ở Nho giáo, nội dung giáo dục chủ yếu là đạo đức, là đề cao đạo đức của
người cầm quyền, nhấn mạnh tu thân để làm gương, để giáo hóa dân. Hồ Chí
Minh coi đạo đức là gốc của người cách mạng. Người viết: “Làm cách mạng để
cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng
là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian
khổ…Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng , mới hoàn
thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”[5,tr.283]. Do vậy, người cán bộ phải
giữ gìn đạo đức cách mạng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Không chỉ chú trọng giáo dục đạo đức cách mạng, Hồ chí Minh khẳng
định mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục là đào tạo nên những con người vừa
“hồng” vừa “chuyên”[7,tr.510] (có đức và có tài). Người nhấn mạnh mục đích
giáo dục phải gắn liền với nội dung giáo dục; giáo dục phải toàn diện: “Trong

việc giáo dục và học tập phải chú trọng đến các mặt: đạo đức cách mạng, giác
ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất”[6,tr.190].
Ý nghĩa của quan điểm giáo dục của Nho giáo là đã tạo nên tinh thần
hiếu học, đề cao tri thức. Tuy nhiên, tri thức theo Nho giáo chỉ được bó hẹp
trong những lời dạy của bậc thánh nhân được ghi lại trong “Tứ thư” (Sách
Luận Ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung dung) và “Ngũ kinh” (Kinh Thi, Kinh
Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu). Yêu cầu của việc học tập chỉ là
nhớ và thuộc lòng những điều trong đó mà không cần sự vận dụng sáng tạo.
Điều này đã tạo thành lối học theo kiểu “tầm chương trích cú”, lối học chỉ là
20


“thuật” (nói lại, nhắc lại) mà “bất tác” (không sáng tác thêm). Hồ Chí Minh
yêu cầu học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn với thực tiễn.
Hồ Chí Minh là điển hình mẫu mực trong việc lựa chọn, kế thừa những
mặt tích cực trong quan điểm giáo dục, đào tạo con người của Nho giáo.
Những lời dạy của Người đã trở thành phương pháp luận trong chiến lược xây
dựng con người mới “xứng tầm thời đại”, đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện
đất nước của Đáng ta hôm nay.
Nghiên cứu tư tưởng của Khổng Tử nói chung và tư tưởng về giáo dục
của ông nói riêng trên tinh thần “gạt đục khơi trong” chúng ta thấy có những
giá trị hợp lý cho đến ngày nay vẫn còn có nhiều điều rất phù hợp để chúng ta
áp dụng học theo. Như Hồ Chí Minh đã từng nói “tuy Khổng Tử là phong
kiến và tuy trong học thuyết Khổng Tử có nhiều điều không đúng song những
điều hay trong đó thì chúng ta nên học”. Trước hết, Khổng Tử rất coi trọng
giáo dục, ông coi giáo dục là động lực phát triển xã hội. Thông qua giáo dục
ông ước mong ổn định trật tự đẳng cấp danh phận trong xã hội và đó cũng là
biện pháp để đào tạo những mẫu người lý tưởng như quân tử nhằm xây dựng
một xã hội lý tưởng mà ở đó con người sống với nhau bằng đạo đức, bằng
nhân nghĩa. Có lẽ ước mơ này không chỉ riêng Khổng Tử mà còn là ước mơ

ngàn đời của mỗi con người, của toàn thể nhân loại. Bác Hồ chúng ta đã từng
nói “ Học thuyết Khổng Tử là tu dưỡng đạo đức cá nhân, tôn giáo Giê-su có
ưu điểm là lòng nhân ái cao cả, chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp
làm việc biện chứng, chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó
phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê-su, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng
phải có điểm chung đó sao? Họ đều muốn “mưu hạnh phúc cho loài người,
mưu hạnh phúc cho xã hội... . Tôi cố gắng làm làm người học trò nhỏ của các
vị ấy”.
Thứ nhất, Tiếp thu quan điểm giáo dục của Khổng tử có điều trước tiên
mà chúng ta không thể xem thường là cùng với việc khẳng định vai trò của
giáo dục thì Khổng Tử đặc biệt đề cao giáo dục đạo đức, coi đạo đức là nền
21


tảng xã hội. Tư tưởng này được thể hiện qua câu nói “tiên học lễ, hậu học
văn”. Điều này có nghĩa là trước khi giáo dục tri thức thì trước hết phải giáo
dục đạo đức đã. Tư tưởng này lại càng có ý nghĩa biết bao với tình hình nước
ta hiện nay khi mà nền đạo đức con người đang bị xói mòn băng hoại bởi
những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Một thời kỳ nền giáo dục
của chúng ta vẫn xem nhẹ việc giáo dục đạo đức cho học sinh, thể hiện ở chổ
môn GDCD được xem là môn phụ trong hệ thống giáo dục phổ thông. Giáo
viên dạy môn này đều không đúng chuyên nghành đào tạo mà chủ yếu là là bố
trí xen ghép từ nhiều bộ môn khác nhau. Môn GDCD vốn không thi lại còn
thêm phương pháp kiểm tra đánh giá mang tính hình thức, chiếu lệ. Các kỹ
năng sống không được chú trọng giáo dục, lại thêm chương trình giáo dục
mang nặng tính lý thuyết và thiếu đi sự trải nghiệm của cuộc sống nên hậu
quả là không ít người trong nhiều thế hệ học trò thiếu kỹ năng sống, kỹ năng
ứng xử, kỹ năng chung sống,... chưa nói đến rất nhiều thanh thiếu niên, học
sinh, sinh viên “vô đạo”, phạm pháp.
Thứ hai, Một tư tưởng nữa mà chúng ta cần chú ý khi nghiên cứu quan

điểm của ông về giáo dục đó là: từ quan niệm về tính người là thiện (mặc dù
Khổng Tử không trực tiếp nói như vậy nhưng chúng ta cũng hiểu được Khổng
Tử cho rằng bản tính tự nhiên của con người là thiện) nhưng dù thiện hay ác
thì con người đều có thể bằng con đường giáo dục mà cảm hóa. Có thể coi
đây là điểm cốt lõi trong tư tưởng giáo dục của nho giáo, tin vào con người dù
thế nào, thiện hay ác, giàu sang hay nghèo, thông minh hay ngu dốt đến đâu,
dù có lầm đường lạc lối thì đều có thể giáo dục được, đều có thể làm cho họ
thông minh hơn tốt hơn. Mỗi khi mà tin vào sự biến đổi của con người thông
qua giáo dục, có thể đó cũng là một giai đoạn mở đầu cho việc tự ý thức, tự
rèn luyện trở thành phương châm quan trọng trong nền giáo dục chung của
thế giới. Thực tế giáo dục của nước ta có một lỗ hổng rất lớn đó là: giáo dục
theo kiểu áp đặt, bắt buộc, chưa xem việc học là tự giác của con người. Mỗi
khi việc học mà bị bắt buộc thì hiệu quả sẽ không cao lắm chứ chưa nói là
22


làm ảnh hưởng đến sự phát triển năng khiếu của cá nhân. Đặc biệt, trong thời
gian gần đây, ở bậc đại học lại xuất hiện lối đào tạo theo tín chỉ, số lượng mỗi
lớp học rất đông nên cũng xuất hiện một hiện tượng dạy theo kiểu mít tinh giáo viên mắc loa nói một mạch, sinh viên ở dưới thì cứ thoải mái tán gẫu hết
giờ là về. Dạy theo kiểu này thì hiệu quả thấp lắm nếu chúng ta không xem
việc học là tự giác, không gây được niềm say mê, hứng thú cho người học.
Tư tưởng xem đạo đức và giáo dục đạo đức là tiêu chí hàng đầu và cơ
bản nhất trong việc rèn luyện nhân cách con người là tư tưởng có ý nghĩa thời
đại sâu sắc. Phương châm “đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc để” nghĩa là giáo dục
phải xuất phát từ gia đình và lấy gia đình làm trường học đầu tiên để giáo dục.
Khổng Tử quan niệm “tu thân, tề gia, trị quốc bình thiên hạ”, như vậy có
nghĩa là giáo dục chủ yếu ở hai khâu tu thân và tề gia, trong đó gia đình là
trường học đầu tiên để con người rèn luyện và trưởng thành. Do vậy, chúng ta
phải xây dựng kiểu gia đình có cơ cấu phù hợp đảm bảo sự kết dính giữa các
thành viên, xây dựng gia đình trở thành một môi trường mang tính giáo dục

cao, kết hợp giữa gia đình nhà trường và xã hôi trong công tác giáo dục và tổ
chức hoạt động giáo dục trên địa bàn dân cư.
Thứ ba, Trong các phương pháp giáo dục mà Khổng Tử đưa ra, có thể
nói rằng phương pháp nêu gương rất tiến bộ, nó có ý nghĩa đối với nền giáo
dục của nước ta hiện nay. Bằng các tấm gương điển hình trong cuộc sống
hằng ngày chúng ta có thể đưa họ ra làm gương giáo dục, đây là phương pháp
mang tính hiệu quả nhanh nhất. Phương pháp kết hợp giữa học với hành, đây
là phương pháp giúp người học cảm thấy việc học không mơ hồ, không nặng
nề…ngoài ra còn nhiều phương pháp khác mà giúp người học tự tin, chủ động
trong quá trình học, như người dạy chỉ đặt câu hỏi cho người học suy nghĩ,
gợi ý nữa lời cho người học phát triển theo cách hiểu của họ. Có lẽ đây là lý
do mà khi nói về phạm trù “nhân” lại được các học trò ghi lại theo nhiều cách
khác nhau…
Thứ tư, về giáo dục tri thức mặc dù Khổng Tử chưa hề đề cao, thậm chí
23


xem thường tri thức sản xuất và kĩ thuật, cái trí mà ông muốn hướng đến là sự
quanh quẩn trong vòng đạo lý để cũng cố xã hội vương đạo. Tuy nhiên cái hay
của ông là phương pháp biết truy cầu chân lý. Từ tư tưởng đó của ông chúng ta
thấy rằng muốn nâng cao chất lượng giáo dục- đào tạo thì phải đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên, loại bỏ những người không có tâm
huyết với nghề nghiệp. Tiến hành đổi mới một cách liên tục và đồng bộ toàn
diện và triệt để từ Sở đến trường, từng bộ môn đến từng giáo viên.
Thứ năm, về giáo dục lý tưởng thời khổng tử việc giáo hóa bao giờ
cũng gắn với lý tưởng. Cái lý tưởng họ hi sinh phấn đấu “mài chẳng khuyết,
nhuộm chẳng đen” thủy chung son sắt là lý tưởng làm cho xã hội hữu đạo.
Trong xã hội ngày nay lý tưởng đó được thắp sáng dưới ánh sáng của chũ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là lý tưởng cộng sản, lý tưởng
cách mạng, lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cùng với việc giáo dục tri thức

thì chúng ta cần coi trọng việc giáo dục lý tưởng sống cho học sinh, sinh viên
thông qua việc tăng cường giáo dục các môn Mác- Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Thực trạng thanh niên của nước ta hiện nay cho thấy hiện tượng
sống thiếu lý tưởng, thiếu ý chí phấn đấu, mất phương hướng ngày càng một
tăng lên. Cái tinh thần “dạy không mỏi, học không chán” của Khổng Tử cần
phải được thắp sáng trong thời đại chúng ta. Muốn vậy, chúng ta cần biết tôn
trọng thành quả giáo dục là những người được đạo tạo. Những người làm giáo
dục mà không biết tôn trọng thành quả của mình thì đó là phản giáo dục. Giáo
dục chỉ có ý nghĩa khi thành quả giáo dục có điều kiện tốt nhất để đem những
tri thức vào cải tạo thực tiễn, phục vụ cho cuộc sống con người. Khi thành quả
giáo dục có được điều kiện tốt nhất thì có lẽ đó chính là động lực lớn nhất
thúc đẩy sự đam mê của người học.
Thứ sáu, Khổng Tử cũng rất coi trọng việc giáo dục truyền thống, cũng
như vận dụng những giá trị truyền thống, quá khứ vào sự nghiệp của thời hiện
tại và tương lai mà theo cách nói của Khổng Tử đó là “ôn cố nhi tri tân”. Vì
vậy, trong quá trình giáo dục chúng ta cần phải giáo dục truyền thống của dân
24


tộc như truyền thống yêu nước, hiếu học, nhân nghĩa..vv để lấy nó làm bàn
đạp phát triển trong tương lai.
Tóm lại, tư tưởng giáo dục của Khổng Tử không chỉ có giá trị ở xã hội

phong kiến, mà còn có giá trị to lớn trong giai đoạn hiện nay - giai đoạn của
nền kinh tế thị trường, kinh tế tri thức, sự giao lưu mở cửa…việc nghiên cứu,
vận dụng tư tưởng giáo dục của Khổng Tử sẽ có ý nghĩa đối với sự nghiệp
trồng người của nền giáo dục nước ta...

25



×