Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

chủ nghĩa tượng trưng trong văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.49 KB, 42 trang )

Môn: Tiến trình Văn học
Giảng viên: Th.S Lê Ngọc Phương

1


MỤC LỤC
I.Tổng quan về Chủ nghĩa Tượng trưng(Symbolisme).

3

1. Hoàn cảnh ra đời.

3

2. Nền tảng lý thuyết của Chủ nghĩa Tượng trưng

3

3. Chủ nghĩa Tượng trưng qua các giai đoạn.

7

II. Quan điểm nghệ thuật của Chủ nghĩa Tượng trưng

10

III. Những đặc điểm chủ yếu của Chủ nghĩa Tượng trưng

12


IV. Tác giả - tác phẩm tiêu biểu cho Chủ nghĩa Tượng trưng

14

V. Ảnh hưởng của Chủ nghĩa Tượng trưng đối với Văn học Việt Nam 22
Tổng kết

I.

40

Tổng quan về Chủ nghĩa Tượng trưng(Symbolisme):
1. Hoàn cảnh ra đời:
Chủ nghĩa Tượng trưng nằm trong hệ thống các loại chủ nghĩa

hiện đại thế kỉ XX mặc dù đã manh nha trước đó chứ không phải đợi đến thế
kỉ XX mới xuất hiện. Chủ nghĩa tượng trưng có thể được xem như sự khởi
đầu cho các thiên hướng sáng tác văn học hiện đại sau này. Khi chủ nghĩa
lãng mạn nửa sau thế kỉ XIX bị lấn át trước sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện
thực, Chủ nghĩa Tượng trưng ra đời vào những năm cuối thế kỉ XIX như một
2


thái độ phản kháng sự thống trị tuyệt đối của chủ nghĩa hiện thực và quay
lưng với phái Thi Sơn (Parnasse) sau đó suy thoái trong buối giao thời giữa
hai thế kỉ nhưng lại được tái sinh vào những năm 20 của thế kỉ XX. Trong bối
cảnh xã hội đầy biến động ở Pháp nói riêng và thế giới nói chung, chủ nghĩa
tượng trưng đã làm một cuộc bứt phá ngoạn mục cho nền thơ ca thế giới, nâng
thơ ca lên tầm ám thị với cảm quan mới mẻ về những vùng đất “xa lạ” chưa
được biết đến. Đồng thời, Chủ nghĩa Tượng trưng đã tạo ra những sự thay đổi

về mặt thẩm mỹ, tư duy văn học vừa kế thừa vừa chối bỏ chủ nghĩa lãng mạn;
thời đại mà cái tôi chiến thắng độc tôn trên thi đàn và phát triển mạnh mẽ.
2.

Nền tảng lý thuyết của chủ nghĩa tượng trưng:

2.1 Thuật ngữ “tượng trưng”:
Tượng trưng là một kiểu tư duy nghệ thuật đã có từ thời trung cổ của
phương Đông lẫn phương Tây và nhất là dòng văn học chịu ảnh hưởng sâu
sắc của tôn giáo, đề cao sự huyền bí tâm linh trong thế giới nhận thức của con
người về vũ trụ. Với phương Đông là Đạo giáo, Phật giáo; với phương Tây là
Ki-tô giáo. Theo từ điển của Viện Ngôn ngữ Khoa học Xã hội Nhân văn,
tượng trưng có nghĩa là: mượn vật có hình thể để biểu hiện cho vật không
hình thể. Có rất nhiều cách hiểu về tượng trưng trong văn học nghệ thuật.
Theo nghĩa thông thường nhất, tượng trưng là một loại hình tạo ra nhiều liên
tưởng xa xôi, bất ngờ, có sức ám gợi những hàm nghĩa sâu xa, ám gợi tâm
trạng. Vào cuối thế kỉ XIX, với những sáng tác của Baudelaire, Rimbaul thì
tượng trưng mới thực sự được nâng lên thành chủ nghĩa, xét về thuật ngữ có
khi lại nằm trong hiện tượng thơ “suy đồi” (Décadence) cùng với phái Thi
Sơn (Parnasse). Với Baudelaire ông có cách hiểu riêng về tượng trưng:
“Trong một số trạng thái tâm hồn hầu như có tính chất siêu nhiên, chiều sâu
của cuộc sống bộc lộ toàn vẹn trong một cảnh tượng bày ra trước mắt con
3


người, có thể là hết sức tầm thường. Cảnh tượng này là tượng trưng của sự
sống”. Chỉ đến ngày 18/9/1886, một năm quan trọng đã diễn ra triễn lãm cuối
cùng của các nhà Ấn tượng chủ nghĩa, trong phần phụ lục của tờ Firago:
“Tuyên ngôn của chủ nghĩa tượng trưng đã xuất hiện, được chấp bút bởi nhà
thơ Jean Moréas”.

2.2 Cơ sở tư tưởng của Chủ nghĩa Tượng trưng:
Chủ nghĩa Tượng trưng chịu ảnh hưởng trước tiên và sâu xa của triết học
siêu hình và tôn giáo Đức thế kỉ XVIII. Thuyết thần cảm của người Đức chủ
trương rằng thế giới hữu hình là hình ảnh của thế giới vô hình...Giữa hai thế
giới đó có những điều tương ứng. Người thụ pháp là người nhận biết được
những điều tương ứng đó, và nếu cần, có thể nhờ đó mà có những quyền lực
thiêng liêng (M.Albérès, (1963), Tổng kết văn học thế kỉ XX, Phạm Đình
Khiêm dịch, Viện Đại học Huế). Tuy nhiên, khi được du nhập vào Pháp gặp
phải tư tưởng triết học duy lý khá vững chắc đã được hình thành qua nhiều thế
kỉ từ Montaigne, Decartes, Voltaire, Diderot,...nó nhanh chóng bị gạt sang một
bên chỉ xuất hiện rải rác trong sáng tác của một vài nghệ sĩ lãng mạn. Đến chủ
nghĩa tượng trưng, hầu như mọi giá trị của học thuyết được vực dậy mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, nhà thơ Théophile Gautier mặc dù thuộc trường phái thơ Thi
Sơn nhưng lại tác động ít nhiều về mặt tư tưởng trong thơ Tượng trưng ở
những buổi đầu sơ khai. Chịu sự ảnh hưởng của mĩ học Kant, Gautier đã nêu
lên quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật”; cho rằng nghệ thuật không có giá
trị thực dụng cho nên “những thứ vô dụng mới đẹp, những loại có ích đều
xấu”. Ông phản đối việc công cụ hóa, đạo đức hóa nghệ thuật. Sau đó lại đề
xuất “tính độc lập tuyệt đối của nghệ thuật, không cho phép thơ có mục đích
nào ngoài bản thể của nó, cũng không cho phép thơ có nhiệm vụ nào khác
ngoài việc mang lại mĩ cảm tuyệt đối trong lòng bạn đọc”. Theo ông “Những
4


con chữ rạng rỡ lấp lánh, cộng thêm tiết tấu và âm nhạc, đó chính là thơ”.
Phái Thi Sơn khá chú trọng hình thức, luôn tỉ mẩn phục sức cho ngôn từ mà
gạt bỏ tình cảm cá nhân, lập ý khách quan, miêu tả ngắn gọn, chính xác; chủ
trương nghệ thuật và khoa học không nên tách rời mà “cần hòa tan vào nhau”.
Đó cũng là một trong những nét khác biệt cơ bản giữa dòng thơ của phái
Parnasse và thơ Tượng trưng như Mallarmé đã từng nhận xét: “Các nhà thơ

Parnasse chỉ nắm chắc sự vật rồi biểu hiện tất cả ra, cho nên họ thiếu hẳn sự
kì diệu” trong khi thơ tượng trưng cần sự sáng tạo xuất phát điểm từ tâm linh
của nhân loại.
Với thuyết “thuần văn học” của Edgar Allan Poe được Baudelaire giới
thiệu nhiều nên cũng phần nào gây ảnh hưởng đến Chủ nghĩa Tượng trưng
Pháp. Ông viết: “Chỉ cần chúng ta tự thức tỉnh linh hồn của mình, từ đó chúng
ta liền có thể phát hiện dưới gầm trời không hề có, không thể có một tác phẩm
nào rất mực tôn quý, vô cùng cao thượng so với bài thơ này – một bài thơ tự
nó, vì bài thơ này đúng là một bài thơ, ngoài ra, không có gì khác, một bài thơ
được viết ra chỉ vì thơ mà thôi” (Nguyên lí thơ). Edgar Allan Poe chia thế giới
tinh thẩn ra ba lĩnh vực: “trí lực thuần túy, cảm quan đạo đức và hứng thú”.
Theo ông, trí lực sẽ dẫn đến chân lý, cảm quan đạo đức mang lại đạo nghĩa
riêng chỉ có hứng thú mới đưa con người đến với cái đẹp. Trong sự quan sát
cái đẹp, mỗi người sẽ phát hiện và có khả năng đạt đến sự thăng hoa của
khoái cảm và sự kích động của linh hồn; xem sự thăng hoa và kích động ấy
chính là tình cảm của thơ. Bên cạnh đó, “có lẽ chính từ trong âm nhạc, tình
cảm thơ mới được kích động” làm cho cuộc đấu tranh của linh hồn càng tiến
gần đến sự sáng tạo ra cái đẹp thần thánh. Với Edgar Allan Poe, thơ không lấy
chân thực làm đối tượng mà chỉ lấy tự thân làm mục tiêu.
Mặt khác, có thể nói Chủ nghĩa Tượng trưng chịu ảnh hưởng trực
tiếp từ tư tưởng của Baudelaire. Được xem là người tiên phong cho Chủ nghĩa
5


Tượng trưng, Baudelaire là minh chứng tiêu biểu cho sự có mặt của dòng thơ
đi sâu vào cảm quan của cái tôi huyền bí và đoạn tuyệt với cách nhìn nhận hời
hợt thông thường vể thế giới. Năm 1857, Baudelaire với tập thơ “Những bông
hoa Ác” (Les Fleurs du Mal) đã thay cho lời phát ngôn ông về “cảm giác
tương giao” trong thơ Tượng trưng. Tưởng tượng làm cho con người cảm thấy
hình dáng, màu sắc, âm thanh, hương vị đều có một hàm nghĩa về tinh thần,

phảng phất quan niệm thiên nhân cảm ứng. Cảm giác tương giao không phải
không có ở Chủ nghĩa Lãng mạn và Chủ nghĩa Hiện thực mà nhất là ở một
mảng thơ ca của phương Đông, nhưng chỉ được kết tinh đậm đặc ở Chủ nghĩa
Tượng trưng. Trong “khu rừng Tượng trưng” của “ngôi đền” thiên nhiên mà
mọi vật đều hợp nhất phát ra những âm thanh mơ hồ, vẫy gọi con người qua
lại thì nhà thơ chính là những nhà phiên dịch đi giải thích những quan hệ
thanh âm, sắc màu, hương vi,... bằng trực giác của lý trí thông qua một loạt
những ngôn từ hoa mĩ để giải mã “những phán đoán vĩnh hằng mà nhân loại
hiếu kì đã tiến hành”. Cảm giác tương giao của Baudelaire đã góp phần khám
phá những mối quan hệ tiềm ẩn có tính tượng trưng trong vạn vật, cũng là một
cách nhìn có tác dụng mở rộng tầm chiếm lĩnh của nghệ thuật đối với hiện
thực nhưng cũng không tránh khỏi việc nghệ thuật dần trượt vào con đường
huyền bí, thoát ly khỏi thực tại.
3. Chủ nghĩa Tượng trưng qua các giai đoạn:

Nếu xem Chủ nghĩa Tượng trưng như một tư tưởng nghệ thuật thì Chủ
nghĩa Tượng trưng chỉ hình thành từ giữa thế kỉ XIX ở phương Tây. Chúng ta
có thể chia sự phát triển của chủ nghĩa tượng trưng thành các giai đoạn: định
hình, đỉnh cao và suy thoái,tái sinh.
3.1 Giai đoạn định hình:
6


Chủ nghĩa Tượng trưng bắt đầu từ giữa thế kỉ XIX được đánh dấu
mốc quan trọng với tập thơ “Những bông hoa Ác” (Les Fleurs du Mal) của
Baudelaire. Thời kỳ đầu, Chủ nghĩa Tượng trưng chịu sự công kích, lên án rất
dữ dội vì nó đã tạo nên hiệu ứng gây sốc trong việc tiếp nhận văn học không
theo lối thông thường. Đó là bằng chứng tại sao tập thơ “Những bông hoa Ác”
của Baudelaire năm 1857 bị truy tố vì “xúc phạm đến đạo đức tu hành “ và
“thuần phong mỹ tục” của nước Pháp. Giai đoạn này thơ Tượng trưng còn

chịu ảnh hưởng khá lớn từ Chủ nghĩa Lãng mạn về đề tài là những nỗi buồn,
tuyệt vọng, con người luôn ưu sầu suy tư. Một mặt kế thừa chủ nghĩa lãng
mạn về cái nhìn đi sâu vào nội tâm, mặt khác Chủ nghĩa Tượng trưng khước
từ cách diễn đạt dông dài, lối nói hoa mĩ đến khuôn sáo mà phái Thi Sơn tiếp
nhận từ Chủ nghĩa Lãng mạn. Dù có được xem là những hiện tượng thơ “suy
đồi” đi chăng nữa, thì với cảm quan về vũ trụ một cách nổi loạn cũng như
những chất liệu thơ quái đản, mông lung của Baudelaire là sự tiên báo cho
một trường phái thơ ca độc đáo sắp sửa bùng nổ trên thi đàn thế giới.
3.2 Giai đoạn đỉnh cao và suy thoái:
Tháng 9/1886, Chủ nghĩa Tượng trưng ra đời ở Pháp với bản “Tuyên
ngôn tượng trưng” của Jean Moreas đề xuất một quan niệm thi ca mới nhằm
phản ứng lối thơ thiên về chạm trỗ, trau chuốt ngôn từ của phái Thi sơn
(Parnasse) và cách làm thơ quá dễ dãi của Trường phái Lãng mạn thì thuật
ngữ Chủ nghĩa Tượng trưng (Symbolism) mới chính thức xuất hiện. Cùng với
Mallarmé, Verlaine họ quan niệm: thi ca Tượng trưng biểu hiện trước hết
“những tư tưởng nguyên thuỷ”, nó là kẻ thù của “sự mô tả khách quan”. Hình
tượng tượng trưng là đa nghĩa, bất định, nó ghi nhận sự tồn tại của “khu vực
bí ẩn” (Mallarmé), của “những cái vô hình và những thế lực định mệnh”
(Maeterlinck), thơ “trước hết phải có nhạc tính” do âm nhạc hơn hẳn các
7


nghệ thuật khác trong việc truyền đạt những sắc thái, những bán âm
(Verlaine). Do vậy, ở những tác phẩm tượng trưng biểu tượng vật thể thực
được đan bện chặt với các thủ pháp ấn tượng. Vai trò chủ đạo trong nhận thức
và sáng tác nghệ thuật của chủ nghĩa tượng trưng là trực giác - được đồng
nhất với sự bừng ngộ thần bí, với sự khải thị, với trạng thái kích động cao.
Từ quê hương của nó – nước Pháp – Chủ nghĩa Tượng trưng nhanh
chóng trở thành hình thức thơ ca phổ biến, quyết định diện mạo thơ ca
phương Tây và châu Âu cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX với nhiều màu sắc

khác nhau ở Anh với Oscar Wilde, ở Đức với Rainer Maria Rike, ở Tây Ban
Nha với Rubin Dario, Juan Ramin Jiminez, ở Nga với Bryusov Balmont,
Andrei Belyi, Vlardimir Solovev, ở Mỹ với Erza Pound,...
Đến thời kỳ cuối, thơ Tượng trưng rơi vào hình thức chủ nghĩa, mấp mé
giữa đường ranh nghệ thuật và phi nghệ thuật bằng lối thơ hủ nút, kín mít.
Điều này khiến thơ tượng trưng rơi vào tình trạng phi giao tiếp, có tính chất
loại bỏ sự giao tiếp của người đọc. Ngôn ngữ thơ ca dần dần chỉ đơn thuần
phục vụ cho âm hưởng, âm đã hại ý, ám thị đã biến thành những câu đố thuần
túy, mất hẳn hiệu lực với người đọc. Đến giữa những năm 90, chủ nghĩa
tượng trưng đã thoái trào hẳn. Năm 1891, J.Moreax tuyên bố rời khỏi phái
tượng trưng, nhóm tượng trưng tan rã, thơ tượng trưng chia thành hai hướng:
một hướng theo Mallarme sau dẫn đến Verlaine đỉnh cao của trường phái thơ
tượng trưng sau này ở thế kỉ XX. Hướng thứ hai với những đại diện như
Arthur Rimbaud, Guillaume Appolinaire phát nguồn cho trường phái siêu
thực sau này.
3.3 Giai đoạn tái sinh (Chủ nghĩa Hậu tượng trưng):
Sau chiến tranh Thế giới thứ nhất, Chủ nghĩa Tượng trưng được tái
sinh thành chủ nghĩa Hậu tượng trưng. Ngoài những đặc điểm kế thừa chủa
Chủ nghĩa Tượng trưng, Chủ nghĩa Hậu tượng trưng còn mang trong mình
8


những đặc điểm nghệ thuật mới như chú trọng sự suy nghĩ đầy lí tính mang
màu sắc triết lí trước những vấn đề hồn với xác, sống với chết, bộc lộ da diết
hơn sự trống trải và đau khổ trong nội tâm con người thời đại, những tư tưởng
tình cảm đã hướng ra ngoải xã hội không còn bị gò bó hạn chế trong phạm vi
cá nhân, do cùng lúc xuất hiện ở nhiều nước nên chủ nghĩa tượng trưng hậu kì
có phong cách nghệ thuật là khá khác nhau.
Chủ nghĩa Tượng trưng hậu kì đã xuất hiện nhiều nhà văn, nhà thơ
nổi tiếng thế giới như Paul Valéry -“nhà thơ lớn nhất nước Pháp thế kỉ XX”

với bài thơ trường thiên Nữ thần vận mệnh thanh xuân và Lăng mộ bên biển
cả của ông được truyền đi rộng rãi khắp Châu Âu, T.S.Elio gốc Hoa Kỳ, quốc
tịch Anh được xem là đại biểu lớn nhất của Chủ nghĩa Tượng trưng hậu kì.
Bài thơ trường thiên Hoang mạc của ông được đánh dấu như một cột mốc lớn
của thơ ca hiện đại. Ngoài ra,W.B.Yeasts với kịch thơ Vùng quê của tâm
nguyện cũng khá tiêu biểu cho Chủ nghĩa Hậu tượng trưng ở Anh, đại biểu
cho Chủ nghĩa Hậu tượng trưng ở Ý là E.Montalor với tác phẩm chủ yếu là
Hạnh phúc...
II.

Quan điểm nghệ thuật của Chủ nghĩa Tượng trưng.
Chủ nghĩa Tượng trưng không thuần túy đi theo một quan điểm

nghệ thuật nào trong lịch sử văn học phương Tây trước đó. Hiểu một cách hạn
hẹp, Chủ nghĩa Tượng trưng không theo quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”
quá mức cực đoan như trường phái thơ Thi Sơn đồng thời chối bỏ “nghệ thuật
vị nhân sinh” của chủ nghĩa hiện thực.
Như đã đề cập trước đó ở phần cơ sở tư tưởng, thuyết thần cảm Đức
đã sớm du nhập ở Pháp từ thời Khai sáng nhưng không được đón nhận rộng
rãi. Tồn tại dưới dạng tiềm ẩn, học thuyết này theo thời gian được thế hệ các
nhà thơ sống và sáng tác vào thời điểm bước ngoặt của lịch sử say mê cuồng
9


nhiệt, bắt đầu thời đệ nhị đế chính của Napoléon tiểu đế, sau đảo chính năm
1851. Bất bình trước thực tại đầy cặn bã nhơ nhớp, tầm thường là những quái
thai của xã hội tư sản, một bộ phận những nhà thơ không bị xoáy theo cơn lốc
của chính trị lịch sử đã hướng về một cõi riêng của đời sống bản thể đi sâu
vào sáng tạo thế giới của cá nhân mình. Họ chống lại lối quy phạm truyền
thống, cách nghĩ và cách nhìn thông thường, chủ trương khám phá thế giới ở

một bình diện khác: thế giới của những điều xa lạ, những nơi chưa ai đặt chân
đến. Cách nhìn thế giới trong tính hai mặt trở thành cốt lõi của thơ tượng
trưng chi phối hầu hết quan điểm nghệ thuật của Chủ nghĩa Tượng trưng.
Đối với Charles Baudelaire nói riêng và các nhà thơ Tượng trưng nói
chung, mọi vật trong vũ trụ và con người có mối liên hệ huyền bí, mơ hồ
không thể nhận biết bằng tư duy duy lý. Thơ là sự cố gắng thể hiện một thế
giới mới nằm ẩn giấu đằng sau thế giới hiện thực. Chủ nghĩa Tượng trưng
xem thơ như một thứ siêu cảm giác, không giải thích được. Nó đem lại cho
tinh thần một sức mạnh đặc biệt là khả năng nhìn thế giới không như nó hiện
hữu mà ở chỗ nó lộ ra bằng những loại suy (analogies) bất ngờ giữa những
cảm giác và trong sự tương hợp sâu xa giữa cái có thể nhìn thấy, cảm tính và
cái tinh thần ẩn giấu bên trong thông qua “cảm giác tương giao”.
Trong cuốn Manifeste du Symbolisme năm 1886, Jean Moréas nhà lập
thuyết cho Chủ nghĩa Tượng trưng đã viết: “Điều cốt yếu mà Chủ nghĩa
Tượng trưng đem lại là không bao giờ ám chỉ điều gì như một khái niệm
tuyệt đối”. Ông cho rằng thế giới hữu hình chỉ là phản ánh thế giới tâm linh
và nhà thơ là người giải minh các dấu hiệu. Ta có thể nhận thấy Jean Moréas
đã thể hiện ước muốn về một nghệ thuật mới mẻ, lý tưởng với những đòi hỏi
khắt khe:
Thứ nhất, tính cách biểu trưng cho các sự vật tự nó và các ý niệm nằm
ngoài giới hạn của sự tri giác cảm tính (mà phải bằng trực giác của lý trí).
10


Thứ hai, vươn tới bản chất lý tưởng siêu thời gian của thế giới, cái vẻ
đẹp siêu nghiệm.
Thứ ba, bác bỏ lý tưởng thẩm mỹ: nghệ thuật vị nghệ thuật.
Thứ tư, phản ứng lại phái Thi Sơn.
Thứ năm, gợi ra những sắc thái tế nhị của cảm giác và tâm hồn.
Thứ sáu, mơ ước đạt được cái thực tại tiên thiên ở bên ngoài những hiện

tượng biếu kiến của cuộc đời, vũ trụ.
Là một bản lề phân cách hai thời đại trong lịch sử văn học phương Tây:
thời đại của triết học và tư duy duy lý (từ Phục hưng đến cuối thế kỉ XIX) và
thời đại gắn liền với sự khủng hoảng của triết học duy lý đồng thời nảy sinh
các hình thức tư tưởng phản duy lý từ những năm cuối thế kỷ XIX. Theo đó,
ngôn ngữ thơ Tượng trưng là “hoa thơm, trái ngọt” của các thế hệ nhà thơ
Tượng trưng như một sự cách tân “nổi loạn” chống lại hình thức ngôn từ khuôn
sáo, ước lệ từ nhiều thế kỉ qua. Các nhà thơ Tượng trưng có khát vọng nói
những điều mà ngôn ngữ tường minh không diễn đạt được thúc đẩy họ tìm
kiếm ngôn từ mới. Việc sáng tạo ngôn từ giàu nhạc điệu, thanh âm là một trong
những điều tiên quyết làm nên diện mạo của thi ca Tượng trưng vừa dồn nén
những ẩn ức trong tâm trạng người thi sĩ vừa toát lên thần sắc ảo diệu của thế
giới huyền bí ẩn đằng sau bức màn thực tại.
III. Những đặc điểm chủ yếu của Chủ nghĩa Tượng trưng.
1. Đề tài.

Hệ thống đề tài trong thơ Tượng trưng dưới sự ảnh hưởng của Chủ nghĩa
Lãng mạn vẫn là sự cô đơn của người nghệ sĩ, nỗi buồn, niềm ưu tư,...Bên
cạnh đó, trên bước đường định hình về mặt tư tưởng, phát hiện bản thể chân
nguyên của vũ trụ, đề tài trong thơ Tượng trưng dần đa dạng và vô định bởi
11


thế giới ẩn đằng sau lớp vỏ hiện thực là do trực giác của chủ thể cảm nhận và
sáng tạo nên. Đó có thể là những khoảnh khắc của hiện tượng thiên nhiên bất
chợt giao hòa với tâm trí thi nhân đan xen những tình cảm vụn vặt. Có khi trở
về với các pho lich sử tôn giáo thời Trung cổ qua trang sách những nhà thần
bí học đưa ra các ẩn dụ, tỉ dụ,...Đôi lúc đó là một loạt những hình ảnh bị phân
mảnh được lắp ghép không theo nguyên tắc bình thường; không cụ thể có khi
khó hiểu khác với những gì trong thế giới hiện hữu. Trong bài thơ “Nguyên

âm” (Voyelles) của Athur Rimbaud với những kí tự nguyên âm mã hóa màu
sắc. Athur Rimbaud đã có những liên tưởng hết sức xa lạ để gắn kết mỗi một
màu sắc tương ứng với một chữ cái (nguyên âm); sự xác lập mối quan hệ trên
của Athur Rimbaud không theo bất cứ một logic nào là một minh chứng cho
sự mơ hồ về đối tượng, nội dung trong thơ trượng trưng.

2. Cảm quan về thế giới.

Chủ thể sáng tạo theo Chủ nghĩa Tượng trưng cần phải có cái nhìn thấu
thị, mặc khải với thế giới quan để khám phá tầng sâu bí ẩn, những bản chất bị
che khuất mà khả năng nhận biết bình thường của con người không thể chạm
đến được. Đó là những điều chỉ có kẻ thực thụ sáng tạo mới tiếp cận được,
thay vì quan sát cuộc đời đơn giản nó hướng tới sự tưởng tượng bất thường
mà những người nghệ sĩ thông thường không thể tiếp cận. Thế giới trong cái
nhìn của những nhà thơ Tượng trưng là hệ thống các biểu tượng đa nghĩa, đa
thanh, đa sắc cần được mã hóa bằng các dòng thơ ám thị.
3. Tính nhạc trong thơ.

Trong thơ Tượng trưng thì âm nhạc đóng vai trò quan trọng. Thơ phải
gắn liền với giai điệu; dường như mỗi con chữ đều tự nó ngân vang lên một
12


nốt nhạc được xếp đặt với nhau do cái tài của thi sĩ để trở thành một bản hòa
âm huyền ảo. Như Paul Verlaine đã từng cho rằng: “Âm nhạc trước hết mọi
thứ”. Tính nhạc trong thơ nếu xét trên bình diện phổ quát thì ở thơ cổ điển
phương Đông vẫn có nhưng khi ấy nhạc điệu lệ thuộc vào nhịp của câu thơ
hay số câu, số chữ trong câu của thể thơ quy định. Ví như lục bát Việt Nam
với câu 6, câu 8 mang âm hưởng dặt dìu của điệu ru, thơ thất ngôn bát cú của
Trung Quốc mang giai điệu hào hùng, bi tráng của thời cuộc,...Dường như

tính nhạc và ngôn từ không có sự đan xen mà tồn tại đơn lẻ, rõ ràng dễ hiểu.
Còn với thơ Tượng trưng, tính nhạc phát tiết từ mỗi từ, mỗi câu; nhạc điệu
không phải chịu sự tác động của niêm luật câu thúc mà trong thơ đã sẵn có
hiển hiện qua mỗi kí âm của ngôn ngữ mang sắc thái đa nghĩa, kì diệu.

4. Ngôn từ và phương thức biểu hiện.

Thơ Tượng trưng dùng biểu tượng như là một cấu tạo hình tượng đặc
biệt để chống lại lối miêu tả và biểu lộ tình cảm trực tiếp của chủ nghĩa lãng
mạn. Nói cách khác, Chủ nghĩa Tượng trưng tôn trọng điều bí ẩn của thơ. Thơ
không phải để tả mà chỉ ám gợi trong đó có ám gợi tâm trạng. Thơ tượng
trưng dùng biểu tượng như là một phương tiện biểu hiện, ví dụ Athur
Rimbaud có bài thơ tên là “Con thuyền say”. Một hình ảnh cụ thể là con
thuyền được ghép với trạng thái say của con người đã kích thích và gợi lên
nhiều suy tưởng khám phá về biểu tượng đầy kì lạ này. Biểu tượng được xem
như là một tín hiệu thẩm mỹ, là kiểu hiện tượng hết sức đặc biệt với tính cô
đọng, súc tích và độ nén về mặt ý nghĩa. Baudelaire luôn là người tìm kiếm
những biểu tượng có sức ám ảnh mạnh mẽ đối với thị giác khiến người đọc

13


phải đau đầu khi tiếp nhận nó. Tập thơ “Những bông hoa Ác” của ông có thể
được xem là một minh chứng tiêu biểu.
IV.

Tác giả - tác phẩm tiêu biểu cho Chủ nghĩa Tượng trưng.
1. Charles Baudelaire (1821 – 1867)

Charles Baudelaire được xem như người khởi phát Chủ nghĩa Tượng

trưng, mang đến luồng gió mới cho nghệ thuật thi ca đương thời. Thời trẻ, ông
từng là đồ đệ của V.Hugo, T.Gautier,...và được xem như là nhà thơ ở bản lề
của hai thời đại thơ ca Pháp: thơ của ông vừa là điểm cao nhất của nền thơ
lãng mạn (đề tài chủ nghĩa lãng mạn cũng là đề tài nuôi dưỡng thơ ông), vừa
phủ định nền thơ lãng mạn.
Bắt đầu làm thơ ngay từ khi 18 tuổi, nhưng kiệt tác của ông xuất hiện
khá muộn (1855) với 18 bài thơ trong tập “Những bông hoa Ác” được đăng
trên Tạp chí Hai thế giới.
Tập thơ “Những bông hoa Ác” (Les Fleurs du Mal) gồm tất cả 126 bài thể
hiện đầy đủ mối quan tâm chủ yếu của Baudelaire về tình thế khó khăn của con
người, về hành trình đau đớn của cá nhân trong quá trình tìm kiếm sự hòa hợp
cho những khát vọng thanh cao của tâm hồn nghệ sĩ. Mỗi phần của tập thơ là
một phần của cấu trúc tinh thần phong phú và phức tạp, ở đó tác giả sử dụng
những biểu tượng được chọn lọc phù hợp nhất cho sự thể hiện.
Tập thơ có hai phần: phần I Chán chường và lý tưởng (Spleen et idéal) mở
ra một loạt những bài thơ về cái đẹp, nghệ thuật và người nghệ sĩ. Baudelaire
đã đưa vào hình ảnh thơ tất cả mọi trải nghiệm của cảm giác, cảm xúc và kết
thúc phần I tập hợp những bài thơ đau khổ, ở đó cá nhân bị cầm tù trong chính
nó với niềm tin chắc chắn về sự chịu đựng dường như không tránh khỏi. Phần
II Cảnh Paris (Tableaux parisiens) nói về đời sống của thành phố mà

14


Baudelaire trong vai trò là người lữ khách qua đó đang tìm kiếm sự giải thoát
nỗi khổ cá nhân, sự chịu đựng và trạng thái bị xa lánh.
Baudelaire không phải là người lập thuyết của chủ nghĩa tượng trưng, ông
không viết tuyên ngôn, nhưng bài thơ “Tương hợp” trong tập thơ “Những bông
hoa Ác” lại có ý nghĩa tuyên ngôn thực sự, ở đó có những ý tưởng khởi thủy
cho một nguồn thơ hoàn toàn mới mẻ:

Thiên nhiên là một ngôi đền mà những trụ cột sống động
Đôi khi thốt ra những ngôn từ lộn xộn
Con người đi ngang, xuyên qua những khu rừng biểu tượng
Vẫn quan sát mình bằng cặp mắt thân quen
Như những tiếng vọng dài từ rất xa hòa lẫn
Giữa cảnh bao trùm tăm tối thẳm sâu,
Mênh mông như đêm đen và như ánh sáng
Hương thơm, sắc màu và âm thanh tương hợp với nhau...
2. Stéphane Mallarmé (1842-1898)

Sau Baudelaire, nhà thơ có sức ảnh hưởng trong dòng thơ Tượng trưng có
thể nói đến là Stéphane Mallarmé. Ông từng là thành viên của phái Thi Sơn
(Parnasse) sau đó tách ra cùng với Jean Moreás đưa thuật ngữ “tượng trưng”
lên thành chủ nghĩa. Mallarmé được xem là một trong số những bậc thầy phát
ngôn cho Chủ nghĩa Tượng trưng về tư tưởng, quan điểm nghệ thuật. Theo
ông, “...Thơ viết ra phải để cho người ta nhẩm đoán từng điểm một, đó là ám
thị, là mộng tưởng. Đó là sự vận dụng hoàn mĩ của tính kì diệu...” và ông kết
luận: “Thơ mãi mãi là một câu đố, đó chính là mục đích của thơ văn.” Bài thơ
“Tiếng thở than” của Mallarmé đã thể hiện đúng tinh thần của thơ ca tượng
trưng
Hồn tôi hướng tới vầng trán em, ôi em gái dịu dàng
Nơi đang mơ một mùa thu rải những vết hoe vàng
Và hướng tới vùng trời lang thang của đôi mắt em huyền diệu
Vươn tới không trung, cũng như trong khu vườn rầu rĩ
15


Vươn lên, chung thủy, một tia nước trắng rì rào
Tới không trung nao nức của tháng Mười xanh xao tinh khiết
Đang soi mình trong bồn lớn nỗi ưu tư khôn xiết

Và bỏ lại, trên nước đọng nơi sắc vàng hung hấp hối
Đám lá bay lang thang theo gió xói thành luồng
Kéo lê thê một tia nằng mặt trời vàng.
(Đặng Thị Hạnh dịch)
3. Paul Verlaine (1844-1896)

Paul Verlaine được mệnh danh là một trong những nhà thơ lớn nhất của
Pháp thế kỷ XIX. Từng chịu ảnh hưởng của phái Thi Sơn (Parnasse) sau đó
cũng như Mallarmé, Paul Verlaine tách khỏi phái và sáng tác theo tinh thần của
Chủ nghĩa Tượng trưng. Các nhà thơ phái thơ Tượng trưng gọi Verlaine là ông
tổ của mình, còn nghệ thuật thi ca gọi tập thơ Romances sans paroles của ông
là tuyên ngôn. Năm 1894, ông được bầu là "Ông hoàng của các nhà thơ". Tuy
vậy sự ảnh hưởng của Verlaine không chỉ giới hạn trong phạm vi một trường
phái thơ. Verlaine là người sáng tạo một nghệ thuật thơ mới, phục hồi mối liên
hệ với thơ ca dân gian, giữ gìn truyền thống nghệ thuật của thơ ca Pháp mà sau
đấy được các nhà thơ lớn của Pháp trong thế kỷ XX tiếp tục. “Ánh hoàng hôn
thần bí” (Crépuscule du soir mystique) được xem là những bài thơ tiêu biểu
trong dòng thơ tượng trưng của Verlaine:
Kỷ Niệm nào về lại với Hoàng Hôn
Đỏ lung linh chân trời tây cháy bỏng
Niềm Hy Vọng trong lửa hồng lui bóng
Và lớn dần như một bức bình phong
Bức bình phong mầu nhiệm mấy lần hoa
-Hoa tuy-líp, huệ tây và cẩm chướng –
16


Hoa vương vấn bên giậu đau gỗ mục
Toả mùi hương bệnh hoạn giữa chiều buồn,
Hương hoa nồng như độc dược toả lan

- Hoa tường vi, xác pháo với cúc đồng –
Nhận chìm tôi hồn trí lẫn giác quan,
Tôi thấy mình trong cơn ngất hư hoang,
Kỷ niệm nào với hoàng hôn lại đến.
(Vĩnh An Nguyễn Văn Sơn dịch)

4. Arthur Rimbaud (1854-1891)

Arthur Rimbaud là một trong những người chú trọng nhiều nhất đến
năng lực đặc biệt của người làm thơ. Xuất hiện trong lịch sử thơ Pháp như
một thiên thần nổi loạn, phỉ báng cay độc những đường mòn cũ và dự báo
những viễn tượng của thơ hiện đại, Rimbaud đã đưa ra những định nghĩa mới
về người nghệ sĩ: nhà thơ – “người thấu thị”, nhà thơ – “tên ăn trộm lửa
thiêng”. Khước bác tư duy logic trong thơ, Rimbaud lấy ảo giác
(halluncination) làm chất liệu của sáng tạo. Ông tin rằng, nhà thơ là người có
khả năng thay đổi cách nhìn, cách cảm để làm nổi lên trong thơ một thế giới
mới dữ dội, sáng chói, trinh nguyên và trọn vẹn. Mặc dù sống một cuộc đời
ngắn ngủi chỉ mới 37 tuổi (thời gian sáng tác lại càng ngắn) nhưng Arthur
Rimbaud đã đánh dấu một mốc mới trong sự phát triển của thơ ca Pháp. Ông
là người có công trong việc làm giàu ngôn ngữ, hình tượng cũng như thể loại
thơ ca… Nửa cuối thế kỷ XX Arthur Rimbaud trở thành một hiện tượng văn
hóa đại chúng. Bài thơ “Nguyên âm” như là minh chứng cho sự độc đáo trong
cảm quan của Arthur Rimbaud về mối liên hệ giữa sắc màu và kí tự:
17


Nguyên âm
A đen, E trắng, I đỏ, U lục
O xanh: nguyên âm, nảy sinh tiềm tàng
A, bụng lông đen loài ruồi sặc sỡ

Vo ve quanh mùi hôi thúi hung hăng
E, vẻ trong trắng của lều và hơi.
Mũi băng chĩa, vua trắng, dù run rẩy,
I, màu đỏ tía, máu phun, môi cười
Trong giận dữ hoặc ngất ngây sám hối,
U, chu kỳ, chấn động của biển xanh,
Niềm yên ả bãi chăn thú, sóng gợn,
Thuật luyện đan in lên vầng trán chăm
O, hồi kèn cuối cùng vang điệu lạ,
Niềm im lặng của thế giới, thiên thần.
Hỡi Omega, tia Mắt Nàng tím ngát!
Arthur Rimbaud đã tự hào: “Tôi phát minh ra sắc màu của những
nguyên âm! A đen, E trắng, I đỏ, O xanh, U lục. Tôi điều chỉnh hình thể và
vận động của từng phụ âm và với những nhịp điệu của bản năng, tôi nghĩ
mình phát minh một ngôn từ thi ca một ngày nào đó có thể đạt tới mọi ý
nghĩa. Tôi chừa ra việc dịch thuật. Trước tiên là một cuộc nghiên cứu. Tôi viết
nên những niềm im lặng, những bóng đêm, tôi ghi lại cái không thể diễn đạt
được, tôi cố định những cơn choáng váng”.

18


5. Paul Valery (1871-1945)

Paul Valéry là một nhà thơ, triết gia, nhà văn Pháp, giáo sư Thi ca học
tại Collège de France. Ông là đại diện lớn cuối cùng của Chủ nghĩa Tượng
trưng Pháp ở thời kỳ Hậu tượng trưng. Valéry chiụ ảnh hưởng sâu sắc
Stephane Mallarmé về mặt tư tưởng và chất thơ nên có nhiều nhận định cho
rằng thơ của ông rất gần với thơ của Mallarmé. Một số người phàn nàn thơ
Valéry khó hiểu như những hình bóng chập chờn, lờ mờ. Paul Valéry trả lời :

"Theo ý tôi, ánh sáng hiếm hoi trên khắp thế giới – đặc biệt trong thế giới tư
tưởng và văn chương – người ta thấy nó ít ỏi như kim cương so sánh với toàn
khối đất đá của hành tinh". Bên cạnh đó, Valéry đã từng so sánh thơ với
truyện: “Thơ đối lập với thể mô tả và kể lể biến cố. Nhà thơ phải tạo ra một
vũ trụ thơ, ý nghĩa không phải là yếu tố chính đối với nhà thơ, trong khi đối
với nhà viết truyện thì ý nghĩa là chính yếu. Nghĩa là làm thơ để cảm chứ
không phải để phân tích. Hiệu quả của lời thơ phải tự nhiên như hiệu quả
thẩm mỹ khác. Thơ là nghệ thuật của ngôn ngữ”. Có một học giả Pháp nhận
định : "Valéry đã khai sinh cho thơ triết lý, thơ đa cảm của phái lãng mạn,
cũng như thơ vô tình của phái Thi Sơn. Sau 900 năm lịch sử văn hoá Pháp,
Paul Valéry đã quan niệm thơ rất độc đáo, khác với tất cả những người đi
trước và phần đông lớp đi sau". “Những bước chân” (Les pas) và “Nghĩa
trang trên biển” là một trong những bài thơ có thể kể đến của Valéry:

Những bước chân
Anh im lặng mới nghe chân em bước
Những bước đi nhè nhẹ, thiên thần
Những bước đi lặng lẽ, giá băng
Đến với lòng anh mong chờ đằng đẵng
19


Bóng thần tiên, dáng người trong trắng
Bước ngập ngừng, êm dịu làm sao!
Trời đất hỡi! Những ân huệ em trao
Đang đến trên đôi chân trần, anh đoán!
Nếu từ làn môi em tươi thắm
Chuẩn bị trao cho một chất men nồng
Những nụ hôn nồng cháy ở nơi em
Để thoả nỗi lòng anh luôn khao khát

Thì hãy khoan tỏ tình nồng thắm
Cái vị ngọt ngào thực thực, hư hư
Bởi bấy lâu anh sống được vì chờ
Tim anh đập chỉ là chân em bước
(Nguồn: 100 bài thơ Pháp, NXB Giáo dục, 1997
Phạm Nguyên Phẩm dịch)

Nghĩa trang trên biển...
Huyền diệu thay! Tia sáng dội chan hòa
Biến bọt biển thành kim cương lóng lánh
Chợt cảm nhận trong hồn tôi an định
Ánh tà dương trên vực thẳm vô biên
Ôi, công trình sáng tạo cõi thượng thiên
Thời gian lấp lánh, mộng thành tri-thức

20


Đền trí tuệ chốn kho tàng báu vật
Vùng bình tâm, nơi trầm tĩnh, khiêm cung
Suối ưu phiền, Thiên Nhãn đó canh chừng
Một màn lửa hồng che bao giấc ngủ
Ôi, yên lặng... Lâu đài hồn trú ngụ
Chứa đầy tràn lên mái ngói ngàn vàng!
Một làn hơi nối lại Miếu Thời Gian
Trong giây phút tôi nghe mình bay bổng
Đắm đuối nhìn chân trời ôm biển rộng
Tôi hiến dâng Thượng Đế lễ cuối cùng
Ánh hào quang như sóng gợn lung linh
Trên cao đỉnh gieo hững hờ khinh thị

Như trái chín tan mềm trong khẩu vị
Để ngọt bùi biến đổi lúc có, không
Trong miệng tôi nghe trái chín lịm dần
Tôi ngửi thấy tương lai mùi khói nhạt
Rồi trời xanh hát mừng hồn siêu thoát
Đã sang bờ theo tiếng vọng xa bay
....
(David Lý Lãng Nhân dịch)
V. Vị trí của Chủ nghĩa Tượng trưng trong văn học Việt Nam:
* Phân biệt Chủ nghĩa Tượng trưng và Chủ nghĩa Siêu thực.
Chủ nghĩa Tượng trưng là một trào lưu nghệ thuật và là một quan
điểm triết học - mỹ học xuất hiện ở Phương Tây cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ
21


XX, bao gồm nhiều hiện tượng văn học - nghệ thuật như: thơ, kịch, tiểu
thuyết, hội hoạ … Chủ nghĩa tượng trưng quan niệm nghệ thuật không phải
phản ánh thế giới thực tại, thế giới của hiện tượng mà là một thế giới siêu
tưởng, một thế giới mơ hồ của sự tương hợp giữa ánh sáng, sắc màu, âm
thanh, mùi hương và nhạc điệu. Chủ thể tiếp nhận Chủ nghĩa Tượng trưng
cùng một lúc có thể cảm ứng tổng hòa thế giới âm thanh, sắc màu, mùi hương
bằng tất cả các giác quan tương ứng. Người sáng tác xem thế giới hữu hình
chỉ là hình ảnh, là cái bóng, là biểu trưng cho một thế giới mà ta không thấy
được. Họ quan niệm chính cái không nhìn thấy đó mới là bản thể của thế giới.
Chủ nghĩa Siêu thực là trào lưu văn nghệ xuất hiện vào khoảng sau
chiến tranh thế giới thứ nhất ở Pháp do Andre Breton và P.Soupault đề xướng
với sự tham gia của L.Aragon và P.Eluard. Quan điểm và thi pháp của họ
chống lại sự sùng bái các trào lưu văn học hiện thực và lãng mạn thế kỷ 19,
đưa ra một phương pháp sáng tác mà họ gọi là “lối viết tự động”, tức là ghi lại
những ảo giác tự phát theo “trạng thái của những người bị thôi miên”... nói

tóm lại, là theo chủ quan của người nghệ sĩ thoát ly mọi liên hệ với thực tế xã
hội. Họ chủ trương “giải phóng” thơ khỏi những qui cách, lề lối gò bó trước
đó mà họ cho là khuôn sáo, hàn lâm, chủ trương dùng những từ ngữ kiểu
cách, kỳ lạ, âm luật và cú pháp thất thường. Đề tài của họ là những mơ tưởng
huyền ảo quái dị, là sự đau khổ nhớ nhung quá khứ, là tình yêu. Họ cho rằng
chỉ với lối sáng tác ấy người ta mới đạt đến một hiện thực cao hơn hiện thực
tầm thường hằng ngày, một “siêu hiện thực”, chữ mà A.Breton đặt ra. (Bách
khoa toàn thư Việt Nam).
1. Sự tiếp nhận Chủ nghĩa Tượng trưng trong văn học Viêt Nam
1.1 Bối cảnh tiếp nhận.
22


Vào những năm 60-70 của thế kỷ XIX, Pháp đã chào đón sự xuất hiện
của trào lưu Chủ nghĩa Tượng trưng. Chủ nghĩa Tượng trưng không chỉ gieo
mầm, nở hoa kết trái trên mảnh đất văn học mà còn mở rộng địa hạt sang các
lĩnh vực như sân khấu, hội họa, âm nhạc, trở thành hiện tượng văn hóa trên
toàn Châu Âu. Bước sang thế kỷ XX, chủ nghĩa tượng trưng đã lan tỏa, tìm
được một vị thế của mình trong thơ ca hiện đại phương Đông trong đó có Việt
Nam.
Ảnh hưởng là một quy luật phổ biến trong giao lưu văn hóa. Trong
văn học, việc tiếp nhận và tiếp biến những yếu tố bên ngoài là điều không thể
thiếu để phát triển. Chính vì vậy, văn học Việt Nam cũng không tránh khỏi sự
ảnh hưởng này, đặc biệt trong thơ ca. Trào lưu Thơ Mới Việt Nam 1932-1945
đã chịu sự ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng sau gần nửa thế kỷ ra đời và
được nuôi dưỡng tại phương Tây. Bằng quan niệm mới về nghệ thuật, Chủ
nghĩa Tượng trưng “mở ra một thế giới cho tư duy thơ”, giúp chúng ta đi sâu
vào cõi vô tận, khám phá những gì mơ hồ, huyền bí nhất trong thiên nhiên,
tạo vật và lòng người. Một số nhà thơ tiêu biểu cho Chủ nghĩa Tượng trưng
như: Bích Khê, Xuân Diệu, Đinh Hùng....

1.2 Cách thức tiếp nhận.
Phong trào Thơ Mới là nơi gặp gỡ, kết tinh văn hóa Đông - Tây. Các
nhà thơ thông qua trường học, sách báo, dịch thuật đã tiếp xúc, làm quen với
các trào lưu văn học hiện đại vốn đã phát triển hoàn chỉnh ở phương Tây. Vì
thế, trong lúc phôi thai cho đến khi những đứa con tinh thần của họ chào đời,
mầm sống ấy được nuôi dưỡng bằng nhiều nguồn dưỡng chất. Theo GS.
Hoàng Nhân, nó “không phải chỉ chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạng
Pháp đầu thế kỷ XIX mà còn chịu ảnh hưởng tổng hợp của các khuynh hướng
văn học cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX như chủ nghĩa tượng trưng, nghệ
23


thuật vị nghệ thuật, chủ nghĩa ấn tượng, chủ nghĩa siêu thực. Như vậy chỉ hơn
một thập kỷ, Thơ mới đã đi trọn con đường hơn một trăm năm thơ Pháp”.
Mỗi nhà thơ chịu sự ảnh hưởng của Chủ nghĩa Tượng trưng ở mỗi
phương diện khác nhau, phù hợp với quan điểm thẩm mỹ của mình. Và ngay
trong mỗi nhà thơ, tính chất lãng mạn và tượng trưng luôn giao thoa cùng
nhau. Nhiều nhà nghiên cứu đã thừa nhận rằng bản thân phong trào Thơ mới
không tự nhiên xuất hiện mà đó là sự ảnh hưởng của những tác động khách
quan đến tiến trình văn học. Bản thân những tác giả của Thơ mới lúc bấy giờ
cũng đã thừa nhận ảnh hưởng của thơ ca Pháp, đặc biệt chủ nghĩa tượng
trưng. Nhà phê bình Hoài Thanh cũng chỉ ra “sự ám ảnh” của Baudelaire –
một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của trường phái Chủ nghĩa Tượng
trưng Pháp đối với nhiều tài năng của Thơ mới, Xuân Diệu đã học được của
Baudelaire “một nghệ thuật tinh vi”. Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên “đều chịu
rất nặng ảnh hưởng Baudelaire”. Chế Lan Viên phải thừa nhận “tôi yêu
Baudelaire từ bé, yêu tác giả Ác Hoa (Fleurs du Mal) từ tuổi hoa niên cho đến
bây giờ”. Huy Cận chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ cả Baudelaire (Pháp) và
Edgar Allan Poe (nhà thơ Mỹ), người được coi là “mở đầu cho chủ nghĩa
tượng trưng”, đặc biệt là thủ pháp tương phản và cách sử dụng âm thanh, nhạc

điệu trong thơ.
Như vậy, Chủ nghĩa Tượng trưng đối với Thơ Mới không chỉ góp phần
làm sáng tỏ những giá trị mới mà còn có tính chất cách tân cho thơ ca hiện
đại. Văn học Việt Nam đã tiếp cận với Chủ nghĩa Tượng trưng như vậy.
2. Sự ảnh hưởng của Chủ nghĩa Tượng trưng với văn học Việt Nam.
Khi Chủ nghĩa Tượng trưng du nhập vào Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn
trong tư tưởng của các nhà văn, nhà thơ mà chủ yếu là các tác giả của phong
trào Thơ mới.Trong số đó có những người từ lâu thai nghén một ý định đổi
mới, cách tân chính những sáng tác của mình (Bích Khê), thì nay gặp được
24


một loạt những tác phẩm và các tên tuổi lớn của Chủ nghĩa Biểu tượng như đã
mở ra một hướng đi rõ ràng cho mình. Cũng có người tìm đến với “tượng
trưng” như một cuộc dạo chơi (Hàn Mặc Tử), và cũng có người đến với nó
trong sự thử nghiệm dù rằng còn vướng nặng nợ với chủ nghĩa lãng mạn chưa
thể buông ra (Xuân Diệu). Nhưng hơn hết là từ chủ nghĩa tượng trưng ấy đã
tạo nhiều điều kiện cho các tác giả Việt Nam, mà chủ yếu là các nhà thơ có
thêm bước tiến trong sáng tác của mình, từ đó để lại những tên tuổi tiêu biểu
cho khuynh hướng tượng trưng ở Việt Nam như Bích Khê và Đinh Hùng.
Các yêu tố chính mà ta có thể xem đó là thi pháp của chủ nghĩa tượng trưng,
khi đến Việt Nam, các nhà thơ hầu như đã tiếp thu và vận dụng một cách linh
hoạt vào sáng tác của mình để có thể nói lên những ý nghĩ độc đáo, mới lạ.
2.1 Tạo dựng những biểu tượng

Đinh Hùng là một tên tuổi khá quen thuộc của thi đàn. Ông viết rất nhiều
thơ. Những biểu tượng trong thơ ông luôn mang một đặc điểm chung là Đẹp.
Ông luôn ngợi ca về vẻ đẹp của cả con người và thiên nhiên, những vẻ đẹp ấy
không chỉ làm cho tâm hồn nhà thơ rung động tới mức muốn viết lên những
vần thơ để ca ngợi nó – công việc quen thuộc mà các nhà thơ khác vẫn thường

làm, mà cái đẹp ở đây còn có một sức mạnh hết sức ghê gớm. Nó khiến nhà
thơ yêu cuồng nhiệt, muốn tan chảy vào đó, hòa vào đó. Đó là vẻ đẹp dù
không cần đến chất men cũng khiến người ngắm phải say và điên đảo.
Trước hết, có thể đề cập đến biểu tượng người kĩ nữ:
Ta thường có những buổi sầu ghê gớm
Ở bên em-ôi biển sắc rừng hương!
Em rực rỡ như một ngàn hoa sớm
Em đến đây như đến tự thiên đường


25


×