Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

tư tưởng ngoại giao hồ chí minhtrong thời kì kháng chiến chống pháp (1946 1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.5 KB, 39 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA ĐÔNG PHƯƠNG HỌC
-----------------

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: NGHIỆP VỤ NGOẠI GIAO
ĐỀ TÀI:
TƯ TƯỞNG NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH
TRONG THỜI KÌ KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1946-1954)
-------------

Cán bộ giảng dạy :
Nhóm sinh viên thực hiện:

\


Tháng 11

\


1. Lý do chọn đề tài

Việt Nam là một trong những nước Đông Nam Á phải chịu sự thống trị nặng nề của các cường
quốc khác trên thế giới. Để có được một nước Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ như hôm nay nhân dân
ta đã phải chiến đấu kiên cường, đánh đổi mồ hôi xương máu. Đặc biệt là trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, lúc này đây nước ta còn non trẻ phải chịu nhiều muôn vàn khó khăn, không thể
thực hiện cuộc chiến tranh với quy mô cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương hòa
hoãn, nhân nhượng để củng cố quân đội, nâng cao khả năng chiến đấu. Nắm vững nguyên lý của chủ


nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, am hiểu sâu sắc truyền thống kinh
nghiệm đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc: “Cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc”, hay “Giặc
đến nhà, đàn bà cũng đánh”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định đúng vai trò quyết định của nhân dân
trong cuộc vận động cách mạng giành lại chính quyền cũng như trong chiến tranh giải phóng dân tộc,
bảo vệ Tổ quốc. “Sau vấn đề phòng thủ, ngoại giao là một vấn đề cần yếu cho một nước độc lập”1. Bên
cạnh đó dù ngoại giao có vai trò quan trọng nhưng Hồ Chí Minh cho rằng cần phài có sự liên kết chặt
chẽ với các hoạt động chính trị, quân sự…Với đường lối đối ngoại độc lập, hòa bình, hữu nghị; với
phương pháp và phong cách ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt, hoạt động đối ngoại của Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong những năm 1946-1954 đã góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc đấu
tranh bảo vệ chính quyền cách mạng, đưa con thuyền Việt Nam vượt mọi thác ghềnh, giành thắng lợi
huy hoàng trong cuộc kháng chiến, xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để tìm hiểu rõ hơn về những chính sách trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh cùng những kết
quả, thành tựu hay mặt hạn chế mà tư tưởng đem lại, nhóm em đã quyết định chọn đề tài “Tư tưởng
ngoại giao Hồ Chí Minh thời kì kháng chiến chống Pháp (1946-1954)”

1 Theo Đảng Cộng Sản Việt

\

Nam 2000-Văn kiện Đảng toàn tập.


2. Ý nghĩa thực tiễn

Ngày nay với việc thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh vào trong đường lối đối ngoại, các chính
sách ngoại giao đã giúp Việt Nam ngày càng phát triển hơn không những về mặt kinh tế mà còn về văn
hóa, xã hội, chính trị, quân sự…Giúp Việt Nam gia nhập thêm vào các tổ chức hợp tác quốc tế, đa
phương hóa các mối quan hệ với các nước trên thế giới, chủ động hội nhập kinh tế, là đối tác tin cậy
với bạn bè quốc tế. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được ắt hẳn cũng gặp phải không ít khó
khăn và thách thức bởi tình hình thế giới luôn nảy sinh những vấn đề mới, không ngừng tiếp thu cái

mới để phát triển. Điều này dẫn đến việc nước ta không thể theo kịp guồng quay đổi mới này, gây ra
những ứ đọng, khủng hoảng trong chính sách phát triển đất nước. Hay những vấn đề như chỉ hội nhập
kinh tế quốc tế để phát triển nhanh vượt bậc hay cả những lĩnh vực khác, phương thức tập hợp lực
lượng, quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ hay hội nhập quốc tế…Có thể nói tư tưởng
đối ngoại, phương pháp, phong cách nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh là một trong các nhân tố đảm
bảo thắng lợi của chúng ta trong công tác đối ngoại. Vì vậy, việc nghiên cứu toàn diện hơn về vấn đề
này có ý nghĩa thực tiễn, ý nghĩa lý luận hết sức quan trọng.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu lý luận để có thể đưa ra được những kết quả chính xác
nhất cho mục tiêu nghiên cứu, luận nhằm giúp đề tài nhìn nhận được vấn đề vừa cụ thể, vừa toàn diện,
đảm bảo được độ tin cậy của kết quả nghiên cứu.
Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận:
Phương pháp phân tích – tổng hợp tài liệu là một trong những phương pháp chủ đạo của đề tài.
Thông qua khai thác thông tin từ các nguồn tài liệu, các vấn đề cơ bản thuộc nội dung mục tiêu nghiên
cứu sẽ được kiểm chứng và làm rõ.
Nghiên cứu sử dụng các tài liệu, bài báo, nghiên cứu, các nguồn cơ sở trực tuyến về Tư tưởng
Hồ Chí Minh, lịch sử ngoại giao Việt Nam ở các thời kỳ.
Bằng phương pháp này, đề tài đã phân tích, tổng hợp, chọn lọc các tài liệu tham khảo chuyên
ngành, luận văn, các đề tài nghiên cứu … để rút ra được những thông tin cần thiết có thể áp dụng cũng
như các lý thuyết nền tảng để có thể thực hiện đề tài.

\


4. Đối tượng nghiên cứu

Trong đề tài lần này, Tư tưởng Hồ Chí Minh là đối tượng nghiên cứu.
5. Mục tiêu chọn đề tài

Mục tiêu nghiên cứu đề tài mà nhóm đề ra là tìm hiểu rõ hơn về quá trình thực hiện ngoại giao

và cách thức ngoại giao của Hồ Chí Minh với các nhà lãnh đạo nước ngoài khác; hiểu rõ hơn về sự
nghiệp và cuộc đời của Người; có thêm những hiểu biết sâu sắc về đường lối ngoại giao của Hồ Chí
Minh với các thế lực thù địch trong và ngoài nước thời kỳ này, cùng với sự góp phần của ngoại giao đối
với những chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta. Qua đó, nhóm có thể rút ra được phương thức ngoại giao
vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
hiện nay của nước ta.

\


NỘI DUNG
1.1.

PHẦN 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TƯ TƯỞNG NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH
Đặc điểm hình thành tư tưởng, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh
Cuộc đời hoạt động cứu nước của Hồ Chí Minh là những năm tháng hoạt động cách mạng và
hoạt động quốc tế liên tục. Bắt đầu đi tìm đường cứu nước là bắt đầu hoạt động quốc tế, đến khi về
nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Người hoạt động ngoại giao không mệt mỏi cho đến lúc đi xa.
Nghiên cứu quá trình hoạt động quốc tế và ngoại giao của Hồ Chí Minh, chúng ta có thể nhận ra
những đặc điểm sau đây.

1.1.1. Trên chặng đường dài đi tìm chân lý, Người đã đi qua rất nhiều nước khắp các châu lục Âu, Mỹ, Á,

Phi.
Đó là các nước có nền văn hóa, trình độ phát triển và chế độ chính trị khác nhau. Người học tập
tiếng của các nước đó ngay cả tại những nước mà Người chỉ lưu hành lại thời gian ngắn như Đức, Ý,
Thái Lan,... Ngôn ngữ là công cụ để quan hệ quốc tế, để kết bạn, trước hết là để nghiên cứu. Những bài
viết nghiên cứu của Người về những quốc gia này chứng tỏ sự hiểu biết đều dựa trên cơ sở nghiên cứu
có chiều sâu của Người. Quá trình quan sát, nghiên cứu đã giúp Người hiểu thế giới, hiểu các nước lớn,
các nước nghèo, từng bước hình thành nhân sinh quan và thế giới quan rộng lớn. Quá trình tìm tòi

nghiên cứu dẫn Người đến việc viết báo và viết sách; viết để tố cáo chủ nghĩa thực dân, để tuyên truyền
cách mạng. Giáo sư Trần Thu Hà viết: " Có thể thấy ở Hồ Chí Minh một con ong thiêng liêng vĩ đại
biết tìm hút nhụy của các văn hóa Đông Tây, làm ra mật Việt Nam-Hồ Chí Minh."
1.1.2. Hoạt động quốc tế ở nước ngoài hơn ba mươi năm với nhiều cương vị khác nhau, Người có những

tiếp xúc rộng rãi.
Thời kỳ đầu, với tư cách là người thanh niên yêu nước đi tìm tòi học hỏi, Người tiếp xúc với
tầng lớp lao động, dân nghèo, những người cùng cảnh ngộ. Người cũng tiếp xúc với các tổ chức cách
mạng, các nhà cách mạng. Người rất chú ý gặp gỡ các nhà trí thức, văn nghệ sĩ. Tại Pháp, sau chiến
tranh thế giới thứ nhất, Người hoạt động với tư cách nhà cách mạng yêu nước có xu hướng xã hội. Ở
đây, Người quen biết rất rộng rãi, đặc biệt là với các chính khách và trí thức có tên tuổi. Từ đó, Người
đã phát triển và có thêm nhiều mối quan hệ quốc tế không chỉ ở Pháp mà còn ở Liên Xô, Trung Quốc,...
Hơn ba mươi năm hoạt động quốc tế với nhiều cương vị khác nhau, tiếp xúc rộng rãi với mọi
giới, đặc biệt là với các nhân vật quốc tế có kiến thức, trí tuệ tầm cỡ, Hồ Chí Minh đã vun đắp trí tuệ,
bản lĩnh, phong cách để trở thành một nhà văn hóa lớn, một lãnh tụ cách mạng, một nhà ngoại giao lỗi
lạc. Các tổ chức, nhân vật mà Người tiếp xúc, quan hệ kết bạn, phần lớn đều trở thành bạn bè cách
mạng của Việt Nam, của nước Việt Nam chiến đấu vì độc lập tự do. Nói ngoại giao là tìm bạn, liên kết
đồng minh thì Hồ Chí Minh bắt đầu ngoại giao từ rất sớm, ngay từ khi trở thành chiến sĩ cách mạng.
\


1.1.3. Một đặc điểm lớn trong hoạt động quốc tế và ngoại giao của Hồ Chí Minh là hầu như suót đời,

Người luôn ở vị thế khó khăn, sự nghiệp Người theo đuổi – cách mạng Việt Nam – cũng luôn gian
truân chống kẻ thù mạnh.
Hồ Chí Minh hoạt động quốc tế và làm ngạoi giao sáu mươi năm thì hơn ba mươi năm ở cương
vị chiến sĩ cách mạng và gần ba mươi năm là lãnh tụ cách mạng, lãnh đạo dân tộc và quốc gia. Trong
những năm hạot động ở Quốc tế Cộng sản, Người tìm chỗ dựa và phục tùng sự chỉ đạo của Quốc tế.
Lúc này trong Quốc tế, trào lưu khuynh tả với các quan điểm đấu tranh giai cấp đè nặng. Hồ Chí Minh
rất khó khăn trong việc tranh thủ Quốc tế Cộng sản ủng hộ đường lối cách mạng giải phóng dân tộc mà

Người tìm tòi. Người thường bị phê phán là dân tộc chủ nghĩa. Người gặp khó khăn lớn ngay cả với
ban lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương.
Từ năm 1934, sau vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông, trở về Nga, Người phải trải quan
những năm tháng cam go cay đắng. Hai thời kỳ sống ở Trung Quốc, phần lớn thời gian phải hoạt động
trong vùng dưới quyền kiểm soát của Quốc dân Đảng Trung Hoa, phải luôn tính toán cách thức che
chắn cho trong trào ở Hoa Nam.
Thời kỳ về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, mối quan tâm về quốc tế là tranh thủ sự ủng hộ
và công nhận của Đồng minh, giành thế hợp pháp cho mặt trận Việt Minh. Vì mục đích ấy, hai lần vượt
biên, một lần bị cầm tù, một lần chỉ tranh thủ được sự công nhận và hợp tác nhỏ của lực lượng Đồng
minh ở địa phương.
Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, hòa bình chỉ được một thời gian ngắn, Việt Nam bước vào cuộc kháng
chiến chống Mỹ. Trên mặt trận ngoại giao, ngạoi giao non trẻ Việt Nam phải đối chọi với nền ngoại
giao nhà nghề của đế quốc hùng mạnh nhất.
Từ sự nhiên nhận những đặc điểm hoạt động quốc tế của Hồ Chí Minh, chúng ta có thể thấy
được sự hình thành và phát triển của tư tưởng nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh gắn liền với cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người. Và tư tưởng, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh là sản phẩm của
tinh thần yêu nước mãnh liệt, bản lĩnh cách mạng kiên cường, trí tuệ uyên bác, kết tinh của truyền
thống văn hóa và ngoại giao Việt Nam, hòa quyện với văn háo nhiều dân tộc phương Đông và phương
Tây, cũng như kinh nghiệm ngoại giao thế giới cận đại, hiện đại phục vụ sự nghiệp cứu nước, bảo vệ
đất nước của nhân dân Việt Nam.
1.2.
Những vấn đề tư tưởng, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh
1.2.1. Nội dung tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh
1.2.1.1. Đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Xử lý đúng quan hệ dân tộc và quốc tế
Tất cả các nhà cách mạng, các chiến sĩ yêu nước đều phấn đấu vì độc lập dân tộc và đều trân
trọng lợi ích dân tộc. Hồ Chí Minh, về đối nội, đã giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa dân tộc với
giai cấp. Điều này xuyên suốt từ “Đường Kách Mệnh” năm 1927, “Chính cương vắn tắt”, “Sách lược
vắn tắt” đầu năm 1930 đến Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 năm 1941.
\



Cũng với tinh thần đó, về đối ngoại Người luôn nghiên cứu tìm tòi xử lý mối quan hệ giữa dân
tộc và quốc tế trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích dân tộc mà nhưng mà vẫn gắn Việt Nam với thế giới,
cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới nhưng không hoàn toàn phụ thuộc vào
cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam liên quan mật thiết với cách mạng Pháp nhưng không phụ
thuộc vào cách mạng Pháp. Ngươi cũng rất từng dự đoán để có thể cách mạng Việt Nam thành công
trước Cách mạng Pháp. Từ khi tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp
và hoạt động của Quốc tế Cộng sản, người vẫn luôn nghiễn ngẫm con đường cách mạng của Việt Nam.
Người luôn tuân thủ sự chỉ đạo và phân công của Quốc tế Cộng sản, coi cách mạng Việt Nam nằm
trong phạm trù cách mạng vô sản thế giới nhưng người luôn khẳng định cách mạng Việt Nam là giải
phóng dân tộc. Khi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, rồi tên Đảng Cộng Sản Việt Nam và cương
lĩnh đầu tiên hội nghị hợp nhất của Đảng đầu năm 1930 không được Quốc tế Cộng sản chấp nhận
người vẫn kiên trì quan điểm của mình chờ đợi và đấu tranh suốt 15 cho đến khi đường lối cách mạng
giải phóng dân tộc chính thức trở thành đường lối của cách mạng Việt Nam.
Từ khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh luôn gắn viện trợ giúp đỡ của quốc tế, của anh em
bầu bạn nhưng người luôn đề cao tinh thần tự lực, tự cường. Người luôn đặt lợi ích của Việt Nam lên
trên hết nhưng Người luôn kiên quyết chống tư tưởng dân tộc vị kỷ, dân tộc hẹp hòi. Thậm chí với cả
nước thù địch. Người cũng tính đến lợi ích của họ, ứng xử độ lượng.
Trên chặng đường dài hoạt động quốc tế và ngoại giao. Người gặp không ít khó khăn cản trở, có
khi rất nặng nề nhưng Người vẫn thản nhiên nín nhịn, vì lợi ích lớn, cốt “ biến việc lớn thành việc
nhỏ”… Suy nghĩ của Người, trước hết và trên hết vẫn là lợi ích của dân tộc…
1.2.1.2. Tìm bạn Tìm đồng minh vận dụng đại đoàn kết trong quan hệ quốc tế tranh thủ ngay cả
những người trong hàng ngũ đối phương
Từ lúc xuất dương bước chân vào con đường cứu nước, lúc mới hơn 20 tuổi, Hồ Chí Minh đã
sớm tìm bạn và liên kết bạn bè lúc ở Mỹ (1912 – 1913) Người đã kết bạn trong các tổ chức chính trị ,
xã hội, không đơn thuần là bạn nghề nghiệp. Tiếp đó đi bất cứ đâu, ở cương vị nào, Người cũng kết
bạn, tham gia các tổ chức gần gũi với mục đích của Người. Có lẽ ở Pháp, Nga và Trung Quốc là những
nơi người trực tiếp tham gia các tổ chức cách mạng và có những quan hệ rộng rãi nhất với nhiều người
mà sau này trở thành những người bạn lớn của Người và của cách mạng Việt Nam, của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa.

Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã tính việc tìm kiếm đồng minh. Năm 1924, chỉ sau một thời gian
ngắn đến Nga, người đã nghĩ đến “Để có thể thắng lợi một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương…
phải được nước Nga ủng hộ, các Xô viết sẽ cung cấp vũ khí, tiền bạc và các kỹ thuật viên, các binh sĩ,
\


các thủy thủ bản xứ được đào tạo trước đó ở Mátxcơva… “ Người và Đảng ta kiên trì phấn đấu cho
mục tiêu này. Sau cách mạng tháng Tám, trong tình thế từ phía bị bao vây, Người trăn trở “nhưng nếu
tình hình biến chuyển tới một điểm cao bắt buộc phải tìm kiếm cho được đồng minh, nếu như chẳng
tìm được ai, nếu không thế thì Việt Nam sẽ phải đi tới một mình”. Sau bốn năm chiến đấu trong phòng
vay, mùa xuân 1950, thời cơ đến, Người đi nước cờ quyết định thiết lập quan hệ đồng minh với Liên
Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa tạo bước ngoặt cho kháng chiến chống thực dân pháp.
Đi vào kháng chiến chống Mỹ, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, hàng ngũ đồng minh của Việt Nam càng
mở rộng, các nước dân tộc chủ nghĩa, các phong trào giải phóng, phong trào nhân dân thế giới rộng lớn
cho đến một số nước phát triển đều ủng hộ Việt Nam. Hồ Chí Minh rất coi trọng phong trào nhân dân
Mỹ và gọi “Mặt trận số 1 chống Đế quốc Mỹ là Việt Nam. Mặt trận số 2 ở ngay tại nước Mỹ”. Hồ Chí
Minh rất linh hoạt và khéo léo trong việc tìm đồng minh theo đúng phương châm “Làm cho nước mình
ít kẻ thủ và nhiều bạn đồng minh”.
1.2.2. Phong cách, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh.
1.2.2.1. Chính Nghĩa dân tộc, thiện chí hòa bình, ý chí quyết thắng và thế tất Thắng là sức mạnh
của ngoại giao Hồ Chí Minh
Ngoại giao Hồ Chí Minh trước hết dựa vào chính nghĩa dân tộc và thiện chí hòa bình để tấn
công địch, tranh thủ bạn bè, xây dựng hậu phương quốc tế. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Hồ
Chí Minh luôn nắm vững mục tiêu hòa bình, lấy thiện chí hòa bình làm vũ khí mạnh mẽ chống lại hành
động và tội ác chiến tranh của kẻ thù xâm lược. Người không bỏ lỡ cơ hội nào để mưu tìm lại hòa bình.
Mùa xuân năm 1946, Người chấp nhận một số điều khoản ngặt nghèo, ký hiệp định sơ bộ 6/3/1946 để
có hòa bình. Mùa thu đó, dù vận nước gập ghềnh, Người vẫn đi Pháp và lưu tại đây hơn 4 tháng để tìm
kiếm hòa bình. Với Mỹ Người Luôn tỏ ý Việt Nam sẵn sàng rải thảm đỏ để Đế Quốc Mỹ rút và “hoan
tống họ một cách lịch sử”. Đầu năm 1967 Việt Nam đòi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc để có thể bắt
đầu nói chuyện. Suốt thời gian tiến hành cuộc đàm phán Paris, Việt Nam đưa nhiều đề nghị hòa bình

nhằm tìm kiếm giải pháp kết thúc chiến tranh. Chính những đề nghị hợp lý và đầy thiện chí đưa ra giúp
Việt Nam tranh thủ mạnh mẽ dư luận thế giới và tác động vào nội bộ nước Mỹ. Các nước đế quốc
thường dùng đe dọa và mua chuộc. Chúng ta không dùng đe dọa và mua chuộc. Ngoại giao Hồ Chí
Minh dùng nhân tố gì để tiếng công, kiềm chế, răn đe đối phương. Ngày 8 tháng 2 năm 1946, Pháp
chuẩn bị tiến quân ra Bắc, tiếp tướng pháp Salan, Hồ Chí Minh nói: “Máu sẽ chảy và sẽ rất là điều bất
hạnh. Dù cả thế giới chống lại chúng tôi thì chúng tôi cũng không thể chấp nhận trở thành những người
nô lệ”. Ngoại giao Hồ Chí Minh tấn công đối phương bằng ý chí kiên cường và thế quyết thắng, tất
thắng. Khi kháng chiến toàn quốc, Người gửi lời kêu gọi tới chính phủ và nhân dân Pháp: “Nước Việt
\


2.2.

Nam có thể bị tàn phá nhưng nước Việt Nam sẽ lại hùng mạnh hơn sau cuộc tàn phá đó còn nước Pháp
chắc chắn sẽ mất hết và sẽ biến khỏi cõi Á Châu ”. Một cái nhìn sâu xa và chính xác! Việt Nam kiên
quyết chống Mỹ xâm lược. Mỹ mạnh hơn Việt Nam gấp bội nhưng Việt Nam biểu thị quyết đánh và
quyết thắng. Mọi người đều thuộc câu nói nổi tiếng của Hồ Chí Minh: “Chiến tranh có thể kéo dài 5
năm 10 năm 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn
phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do…”. Câu nói toát lên
ý chí quyết đánh, quyết thắng và tất thắng của nhân dân Việt Nam.
Nhờ dựa trên thế mạnh chính nghĩa, thiện chí hòa bình và thế tất thắng của nhân dân ta mà tại
cuộc đàm phán Paris, Việt Nam đã kiên trì mục tiêu, làm thất bại chính sách đàm phán trên thế mạnh
của Mỹ, đưa đến thắng lợi của hiệp định Paris.
Nước cờ quyết định và thời điểm quyết định, sách lược sáng tạo có khi mạnh bạo đến hết cỡ là đỉnh
điểm của nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh
Sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta trong thế kỉ 20 luôn ở trong tình thế khó khăn về đối nội và
đối ngoại. Con đường cứu nước của Hồ Chí Minh cũng luôn gập ghềnh và chông gai. Chính vào những
thời điểm khó khăn ấy, Hồ Chí Minh đi những nước cờ thần kỳ có ý nghĩa xoay chuyển tình thế.
Một việc mà sách báo viết còn ít. Tháng 8 năm 1942, Người đi làm ngoại giao lần đầu tiên với
tư cách nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam và bị bắt. Đến tháng 10 năm 1943 được trả tự do nhưng

chưa thể về nước nắm được ý đồ của Trương Phát Khuê – Tổng tư lệnh Đệ tứ chiến lhu của Tưởng muốn lợi dụng Người để cải tổ đồng minh hội, tổ chức tay sai của chúng đang rệu rã và bất lực. Người
nhận lời tham gia Ban trù bị Đại hội cải tổ. Với tư cách đó, người lái Đại hội Đại biểu cách mạng đồng
minh thành Đại hội Đại biểu các tổ chức cách mạng hải ngoại, có nhiều đại biểu Việt Minh tham gia.
Với một nước cờ nhỏ, người biến đại hội của tổ chức tay sai Tưởng thành nơi tập hợp mọi lực lượng
cách mạng ở Hoa Nam, tạo thế hợp pháp cho các tổ chức đoàn thể của ta, tạo thuận lợi để ứng xử với
quân Tưởng khi chúng thực hiện kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”. Riêng với Người thì từ vị thế một
người mới ra tù người trở thành khách quý của Bộ Tư lệnh Đệ tứ chiến khu, có quan hệ với nhiều
tướng lĩnh ở đây tạo điều kiện thuận lợi và an toàn để người về nước vào tháng 10 năm 1944.
Sau Cách mạng tháng Tám, thù trong giặc ngoài xâu xé. Phản động Quốc dân Đàng và Đồng
minh hội bị dựa vào thế lực Tưởng phá họa, âm mưu lật đổ, Pháp mở rộng chiến tranh ở miền Nam,
chuẩn bị tiến ra Bắc. Tình thế hiểm nghèo. Dùng nước cờ gì đây? Người và Ban thường vụ Trung
Ương Đảng dũng cảm chấp nhận “giải pháp đau đớn”: Giải tán Đảng Cộng sản; đổi Quân đội quốc gia
thành Vệ quốc đoàn, rồi người lợi dụng vai trò tướng Tưởng, nhân nhượng với chúng một số ghế trong
chính phủ và Quốc hội nhưng buộc chúng phải ủng hộ kháng chiến chống Pháp, ủng hộ Cuộc tổng
\


2.3.

tuyển cử, đình chỉ công kích lẫn nhau. Nước cờ thần tình này, Bộ Tư lệnh Tưởng cũng đồng tình, phái
tay sai Tưởng lùi bước; vị thế của chính phủ Trung Ương được đề cao, Pháp yên tâm đi vào thương
lượng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ở đây Hồ Chí Minh đã vận dụng chính sách lược đến hết mức
để “ứng vạn biến”, nhưng vẫn giữ được nguyên tắc bảo vệ độc lập dân tộc và chính quyền cách mạng.
Về sách lược ngoại giao, Hồ Chí Minh đã vận dụng thế nào? Như trên đã nói” trong đấu tranh
với kẻ thù, so sánh lực lượng thường không thuận cho ta. Điều đó đòi hỏi phải luôn tính toán sách lược
mềm dẻo. Lịch sử ngoại giao Việt Nam đã ghi lại nhiều sách lược. Nghệ thuật ngoại giao và đàm phán
là nghệ thuật thỏa hiệp, mà thỏa hiệp là vận dụng sách lược. Tính toán sách lược sao cho phù hợp với
thế trận và so sánh lực lượng, đối phương có thể chấp nhận được mà ta có thể bảo vệ được lợi ích cơ
bản. Mỗi sách lược là một nước cờ nhằm vượt qua khó khăn, củng cố thế trận của ta, công phá thế trận
đối phương.

Lấy chính sách và hoạt động đối nội phục vụ công tác đội ngoại là một quan tâm lớn của ngoại giao
Hồ Chí Minh
Thời kỳ sau cách mạng tháng Tám, thế nước còn chông chênh, thực lực còn có hạn. Nước ta
chưa được quốc tế công nhận, Hồ Chí Minh vận dụng nhiều chính sách, biện pháp cả đối nội và đối
ngoại để đề cao vị trí quốc tế của Việt Nam Dân chủ Công hòa, tranh thủ sự công nhận của quốc tế, ít
nhất là trên thực tế, tạo thuận lợi trong việc giao dịch với đồng minh và “vừa đánh vừa đàm” với Pháp.
Với Tuyên ngôn độc lập, người khẳng định với thể giới chủ quyền của Việt Nam: Nước Việt
Nam thực sự để trở thành một nước tự do, độc lập, khẳng định thế hợp pháp của Nhà nước Việt Nam,
hình thành từ cuộc đấu tranh kiên cường của nhân dân Việt Nam, đứng bên cạnh Đồng minh, chống
phát xít Nhật.
Sau này, đi vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Người vẫn gắn đối nội và đối ngoại như vậy.
Năm 1960, cách mạng miền Nam bước sang giai đoạn mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương
quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Về đối nội, lập mặt trận để
đoàn kết rộng rãi nhân dân miền Nam chống Mỹ và tay sai. Về đối ngoại, lập mặt trận có ý nghĩa lớn
với hiệp định Geneve, miền Nam Việt Nam là một thực thể Đảng lao động hoặc Mặt trận Tổ quốc
không thể đứng ra công khai lãnh đạo cách mạng miền Nam, mặt trận giải phóng tiêu biểu cho quyền
tự quyết của nhân dân miền Nam đấu tranh chống Mỹ - Diệm phá hiệp định Gieneve để tiến tới hòa
bình thống nhất tổ quốc.
Bài học gắn đối nội và đối ngoại này vẫn còn giá trị lớn trong cả tình hình hiện nay. Trong thời
đại thông tin bùng nổ, bất kỳ một chính sách, một hoạt động đối nội nào của ta cũng đều được dư luận
thế giới quan tâm.
\


\


PHẦN 2: TƯ TƯỞNG NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN
CHỐNG PHÁP (1946-1954)
2.1. Tình hình chung của quan hệ ngoại giao Việt Nam – Pháp trước năm 1946

2.1.1. Phương thức đối ngoại của ngoại giao Việt Nam trước năm 1946
2.1.1.1. Đối với các nước Đồng minh
Vấn đề quan hệ với Đồng minh, Đảng chủ trương lợi dụng sự mâu thuẫn của Trung Quốc – Mỹ
và Anh – Pháp, ký hiệp ước với các nước Đồng minh, để họ thừa nhận nên độc lập của dân tộc ta. Đặt
vấn đề tranh thủ cho Việt Nam có quyền cử đại biểu đi dự các hội nghị quốc tế. Đảng chỉ rõ: “Ta cũng
phải mềm dẻo dùng ngoại giao để tránh những sự việc xảy ra có hại đến công cuộc đánh Nhật chung”. 2
Chính quyền Tưởng Giới Thạch đứng trong lực lượng Đồng minh, trước sau cũng sẽ đổ bộ vào
Đông Dương. Hiểu rõ sâu sắc về bản chất và thực trạng của quân Tưởng nên Hồ Chí Minh nắm chắc
tuyên bố Chính phủ Trùng Khánh về ủng hộ Việt Nam giành độc lập. Do đó, ngay từ những năm chiến
tranh chưa kết thúc, trong quan hệ với Tưởng, từ chủ trương đến hoạt động cụ thể, Hồ Chí Minh và
Đảng ta luôn tỏ thái độ thân thiện, hợp tác. Mặt trận Việt Minh không ở thế đối lập với quân Tưởng mà
tranh thủ được nhiều thiện cảm và ủng hộ của Tưởng, cũng như vẫn giữ được đường lối độc lập của
mình.
Thông qua các mối quan hệ với chính quyền Tưởng Giới Thạch, Hồ Chí Minh chủ động mở
đường cho quan hệ của cách mạng Việt Nam với các nước Đồng Minh, trước hết là Mỹ, lúc này đang
có vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế.
Sau chuyến đi Côn Minh đến Cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh tiếp tục duy trì mối quan hệ
giữa Việt Minh với Đồng minh qua nhóm sĩ quan Mỹ hoạt động tại căn cứ địa Việt Bắc. Theo thỏa
thuận, phía Mỹ giúp Việt Minh một số thuốc men, vũ khí và giúp huấn luyện kĩ thuật quân sự, điện đài,
…Việt Minh giúp Đồng minh cứu các phi công Mỹ bị Nhật bắn rơi và thông báo về tình hình các hoạt
động quân sự của Nhật ở Đông Dương.
Đặt quan hệ với Mỹ, mục đích của Hồ Chí Minh lúc này là tranh thủ sự ủng hộ của Đồng minh
đối với nền độc lập dân tộc của Việt Nam, hợp tác trong điều kiện có thể để đánh Nhật ở Đông Dương.
Đồng thời thông qua Mỹ nói lên tiếng nói dân tộc Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, giành cho Việt Nam
một vị trí trong quan hệ quốc tế.
Trong khi tỏ thái độ thiện chí, sẵn sàng hợp tác vì cuộc đấu tranh chống phát xít, Hồ Chí Minh
vẫn luôn căn cứ vào hành động thực tế của Mỹ để nhìn nhận thực chất chính sách của Mỹ đằng sau

2 Văn kiện Đảng 1930 – 1945. T.III, Sđd, tr.533-534.


\


những lời tuyên bố. Chính vì vậy, Người nhanh chóng phát hiện ra thái độ hai mặt của Mỹ đối với Pháp
về vấn đề Đông Dương.
Trong mối quan hệ với Mỹ, với Đồng minh, quan điểm của Hồ Chí Minh hoàn toàn nhất quán.
Trước sau, Người vẫn nhằm mục tiêu độc lập dân tộc. Trong khả năng cho phép, Người tranh thủ đến
tối đa những điều kiện thuận lợi và sự hỗ trợ bên ngoài. Song bao giờ Người cũng cho rằng yếu tố
quyết định vẫn là lực lượng của nhân dân ta. Quan hệ với Mỹ lúc này không tiến triển được là do sự
thay đổi của Mỹ trong thái độ đối với Pháp về Đông Dương. Song những hoạt động của Hồ Chí Minh
đã gây được nhiều thiện cảm của các sĩ quan Mỹ có quan hệ trực tiếp với Người và Việt Minh. Thiện
cảm này còn giữ được cho đến sau khi ta giành chính quyền.
Hồ Chí Minh cũng thông qua Mỹ để đặt vấn đề thương lượng với Pháp, tạo điều kiện thuận lợi
cho nền độc lập của Việt Nam.
2.1.1.2. Đối với Pháp
Từ sau khi Nhật vào Đông Dương đến hết năm 1942, Pháp cấu kết với Nhật để cùng thống trị
Đông Dương. Trong chủ trương của Đảng ta thời gian đó, Pháp cùng với Nhật là kẻ thù của cách mạng.
Đầu năm 1943, phe dân chủ đã chuyển sang thế phản công ở các mặt trận: Liên Xô, Châu Âu và
Thái Bình Dương. Tại Đông Dương, sự lấn át của Nhật đối với Pháp ngày càng rõ rệt, mâu thuẫn Pháp
– Nhật ngày càng căng thẳng. Căn cứ vào tình hình cụ thể đó, Đảng Cộng sản Đông Dương coi Nhật là
kẻ thù chủ yếu, phát xít Pháp là tay sai của phát xít Nhật, đề ra chủ trương vận động thành lập Mặt trận
dân chủ chống Nhật ở Đông Dương.
Thái độ của phe ta là không tán thành việc phái Đờ Gôn thành lập một chính phủ thuộc địa để
tiếp tục chính sách đế quốc của Pháp ở Đông Dương. Nếu điều đó vẫn xảy ra thì Đảng vẫn phải lãnh
đạo quần chúng đấu tranh để Chính phủ ấy thực hiện những chính sách tiến bộ (liên minh với Liên Xô,
chống phát xít, ủng hộ Trung Quốc kháng chiến, thực hiện các quyền tự do dân chủ của nhân dân). Chủ
trương liên minh với phái Đờ Gôn để thành lập Mặt trận dân chủ chống phát xít ở Đông Dương đã
được Mặt trận Việt Minh tích cực thực hiện, cả ở trong nước và hải ngoại.
Báo chí của Đảng đã dành nhiều bài nói về chủ trương liên minh với Pháp để chống Nhật.
Tháng 11/1944, một cuộc tiếp xúc bí mật giữa đại diện của ta với một số đại biểu người Pháp thuộc

phái kháng chiến được tổ chức để bàn về việc lập Mặt trận dân chủ chống phát xít.
Theo đúng như dự đoán của Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh, việc Nhật – Pháp đánh nhau đã
diễn ra. Cuộc đảo chính kết thúc bằng sự thất bại nhanh chóng của Pháp. Sau sự kiện này, Đảng ta đã
không coi Pháp là kẻ thù trước mắt của cách mạng nữa. Đảng chủ trương tán thành cuộc kháng chiến

\


của nhân dân Pháp và nhắc lại khả năng hợp tác thành lập Mặt trận dân chủ chống Nhật ở Đông
Dương.
Có thể nói rằng chủ trương của Đảng cũng như chính sách của Mặt trận Việt Minh về liên minh
chống Nhật là tích cực và thiện chí, có lợi cho cả hai bên Pháp – Việt. Nhưng ý thức trông chờ ở Đồng
minh và lập trường thực dân đã khiến Chính phủ Pháp không chú ý đúng mức đến khả năng này. Trong
thời gian Nhật – Pháp bắn nhau, Hồ Chí Minh đang ở Côn Minh. Hồ Chí Minh nói rõ lập trường của
Việt Minh là chỉ chống Nhật, phía Pháp được gọi là “người trung lập”3.
Việc chủ động gửi bản yêu cầu và đề xuất vấn đề nói chuyện với Pháp là hoạt động cụ thể đầu
tiên của Hồ Chí Minh để thực hiện chủ trương hợp tác với Pháp thông qua Mỹ.
Người gửi Chính phủ Pháp một bản yêu cầu gồm 5 điểm, đòi hỏi phải công khai và đưa vào quy
chế của Đông Dương trong tương lai:
Thực hiện phổ thông đầu phiếu để bầu ra một Nghị viện quản lý đất nước do một Toàn quyền người
Pháp làm chủ tịch cho đến khi Việt Nam hoàn toàn độc lập. Toàn quyền sẽ lập một nội các hay đoàn cố
vấn được Nghị viện chấp nhận.
Độc lập phải được ban bố cho đất nước trong vòng ít nhất là 5 năm, nhưng không được quá 10 năm.
Các nguồn lợi thiên nhiên của đất nước phải được trả lại cho nhân dân trong nước với một sự đền bù
thích đáng.
Mọi quyền tự do mà Liên Hiệp Quốc đề ra được bảo đảm thi hành cho người Đông Dương.
Cấm chỉ việc buôn bán thuốc phiện4.
Trong bản yêu cầu, hai điểm đầu tiên nói về thể chế chính trị của Đông Dương. Thể chế mà Hồ
Chí Minh yêu cầu có thể coi là chế độ tự trị để tiến tới độc lập hoàn toàn trong thời hạn 5 – 10 năm.
Thể chế ấy có một điểm chung là còn chấp nhận Toàn quyền người Pháp. Sở dĩ Hồ Chí Minh đưa ra

yêu cầu khiêm tốn như vậy là vì:


Lúc này nhiệm vụ trước mắt, quan trọng nhất của cách mạng Việt Nam là tập trung lực lượng chống



Nhật.
Mặc dù cao trào kháng Nhật lên mạnh. Mặt trận Việt Minh phát triển rộng rãi, song thực lực quân sự
của ta còn rất nhỏ bé, thiếu thốn, nhiều hạn chế. Việt Minh cũng chưa có vị trí nào trong quan hệ quốc

tế.
• Chính phủ Pháp ngày càng thể hiện rõ quyết tâm khôi phục “chủ quyền” ở Đông Dương, Mỹ tuy chưa
công khai ủng hộ Pháp về vấn đề này, nhưng cũng không còn ngăn cản Pháp quyết liệt như trước. Bên
cạnh đó, Anh vẫn tiếp tục tích cực ủng hộ Pháp.
3 Sác lơ Phen, Sđd, tr. 76-77
4 Hồ Chí Minh – Biên niên tiểu sử.

\




Chính quyền Tưởng ngày càng bộc lộ chính sách chống cộng cũng như tham vọng đối với Việt Nam.
Đồng thời các đảng phái tay sai của Tưởng lại bắt đầu lôi kéo Pháp.
Trong hoàn cảnh ấy, bản yêu cầu mà Hồ Chí Minh gửi phía Pháp chính là nhằm tiếp tục thúc
đẩy việc thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về hợp tác với Pháp để chống Nhật. Mặt khác,
điều đó còn nhằm lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp với Tưởng. Để có được sự hợp tác giữa hai bên, cần
phải chấp nhận sự thỏa hiệp, nhân nhượng từ mỗi bên. Đồng thời lại phải có những điểm chung đáp
ứng yêu cầu, lập trường của cả hai bên. Bản yêu cầu của Hồ Chí Minh đã thể hiện được tinh thần ấy.

Việc chấp nhận chức danh Toàn quyền và đưa ra một thời hạn tự trị trước khi hoàn toàn độc lập trong
bản yêu cầu này tương tự với việc yêu cầu đại diện Việt Minh ở hải ngoại đưa ra với lãnh sự Pháp tại
Côn Minh hồi tháng 4/1944. Tinh thần đó cũng phù hợp với quan điểm của những người đứng đầu của
các nước Đồng minh như Mỹ, Anh về trao trả độc lập cho các dân tộc chỉ khi họ đã “sẵn sàng”, đủ trình
độ để tự quản lý đất nước.
Trong hoàn cảnh quốc tế lúc ấy, yêu cầu mà Hồ Chí Minh đưa ra có thể có tác dụng thuyết phục,
gây thiện cảm đối với nhiều phía. Đối với Pháp, ở điểm này, việc làm của Hồ Chí Minh là một cố gắng
ngoại giao mở ra khả năng thực tế để đàm phán.
Hồ Chí Minh đã theo dõi sát sao và kịp thời nắm bắt tin tức về sự chuyển biến mau lẹ của tình
hình trong những ngày chiến tranh kết thúc. Do đó Người đã có những ý kiến đúng đắn về việc triệu
tập Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng và Đại hội quốc dân để kịp thời quyết định vận mệnh của dân
tộc trong thời điểm thuận lợi nhất. Nghị quyết về đối ngoại nói chung và ngoại giao nói riêng trong Hội
nghị đại biểu toàn quốc của Đảng (13 – 15/8/1945) thể hiện tư tưởng, chỉ đạo sáng suốt của Hồ Chí
Minh về những vấn đề này. Nghị quyết không chỉ đề ra chủ trương cụ thể mà còn dự đoán những khả
năng phát triển của các mối quan hệ quốc tế trong thời gian tiếp theo.
Tinh thần cơ bản của chính sách đối ngoại của Hồ Chí Minh thể hiện trong Nghị quyết là “Thân
thiện với các nước coi trọng nên độc lập của Việt Nam”. Chủ trương này sẽ mở ra khả năng rộng lớn
cho Việt Nam tương lai trong quan hệ quốc tế. Trong hoàn cảnh cụ thể lúc đó, quan điểm thêm bạn bớt
thù, sách lược phân hóa kẻ thù, tranh thủ đồng minh vẫn tiếp tục được Người vận dụng.
Nghị quyết khẳng định sự cần thiết phải lợi dụng mâu thuẫn giữa Anh – Pháp và Mỹ - Tưởng về
vấn đề Đông Dương. Đảng ta chủ trương tránh trường hợp một mình đối phó với nhiều lực lượng Đồng
minh kéo vào nước ta, đồng thời cũng chỉ ra thái độ cần thiết của ta đối với Đồng minh là tránh xung
đột, giao thiệp thân thiện.
Như vậy, trước khi giành chính quyền, khi Pháp chưa có hành động cụ thể dùng vũ lực xâm
lược. Hồ Chí Minh và Đảng ta đã chủ trương quan hệ với Pháp cũng gần giống như với các lực lượng
\


Đồng minh sẽ vào nước ta. Để chống lại âm mưu Pháp quay lại thống trị nước ta, Người đã chủ trương
không đối đầu ngay với Pháp, mà giải quyết bằng phương pháp hòa bình, kết hợp áp lực ngoại giao từ

phía các lực lượng tiến bộ, dân chủ, có vai trò quan trọng (Liên Xô, Mỹ) với áp lực chính trị của nhân
dân ta để phản đối Pháp xâm lược.
Nhìn chung, phương thức đối ngoại của ngoại giao Việt Nam thời kỳ này tập trung vào nhiệm vụ
cách mạng là giành độc lập, ủng hộ Liên Xô và các lực lượng dân chủ, chống phát xít; ý thức về xây
dựng mối quan hệ thân thiện, hòa bình, hữu nghị với các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập giữa các dân
tộc luôn được củng cố.
Cách giải quyết mối quan hệ với Pháp thời gian này đã thể hiện những tinh thần cơ bản ấy, Hồ
Chí Minh và Đảng ta phân biệt rõ những người Pháp theo phát xít với những người Pháp chống phát
xít để có thái độ thích hợp. Khi thực dân Pháp không còn vai trò thống trị ở Đông Dương, Hồ Chí Minh
và Đảng ta đã chủ động đặt vấn đề hợp tác với Pháp chống phát xít Nhật và giải quyết mối quan hệ
giữa hai bên bằng trao đổi, thương lượng. Vì những lý do thuộc phía Pháp, chủ trương đó chưa thực
hiện được. Tuy nhiên, nó đã tạo ra những cơ sở nhất định cho mối quan hệ Việt – Pháp ở giai đoạn sau.
2.1.2. Bản tuyên ngôn độc lập thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà
2.1.2.1. Nội dung bản tuyên ngôn độc lập
Bản tuyên ngôn độc lập của Việt Nam được Hồ Chí Minh soạn thảo, và đọc trước công chúng
tại vườn hoa Ba Đình (nay là quảng trường Ba Đình) ngày 2 tháng 9 năm 1945. Đây được nhiều người
xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ ba của lịch sử Việt Nam, sau bài thơ thần Nam Quốc Sơn Hà của Lý
Thường Kiệt ở thế kỷ X và Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi viết năm 1428.
Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp từ giữa thế kỷ 19. Trong Chiến tranh thế giới
thứ hai, Đế quốc Nhật Bản đã thay Pháp chiếm đóng Việt Nam từ năm 1940. Khi Nhật Bản đầu hàng
quân Đồng Minh giữa năm 1945, Việt Nam có cơ hội lớn lấy lại độc lập.
Sáng ngày 26 tháng 8 năm 1945, tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã triệu tập và chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong số các
quyết định của cuộc họp này, Thường vụ nhất trí chuẩn bị Tuyên ngôn độc lập và tổ chức mít tinh lớn ở
Hà Nội để Chính phủ Lâm thời ra mắt nhân dân, cũng là ngày nước Việt Nam chính thức công bố
quyền độc lập và thiết lập chính thể Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 30 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh mời một số người đến góp ý cho bản Tuyên ngôn độc
lập do Người soạn thảo. Ngày 31 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh bổ sung thêm cho dự thảo Tuyên
ngôn độc lập. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập trong cuộc mít tinh


\


trước hàng chục vạn quần chúng, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa.


Nội dung bản tuyên ngôn gồm ba phần:
Phần 1: Cơ sở pháp lý của bản tuyên ngôn.
Phần 2: Cơ sở thực tiễn của bản tuyên ngôn.
Phần 3: Lời tuyên bố độc lập.



Toàn văn bản tuyên ngôn:
“Hỡi đồng bào cả nước,
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có
thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc”.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý
nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta
sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp
đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để
ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.

Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước
thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta
xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên
bần cùng.

\


Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng
tàn nhẫn.
Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng
Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng
xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu
năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ
chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo hộ" được ta, trái lại, trong 5 năm,
chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật.
Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi
thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau
cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu
cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.
Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa
của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập

nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần
100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi
thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa.
Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân
Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước
Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.
Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở
các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt
Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc
đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải
được độc lập!
\


Vì những lẽ trên, chúng tôi, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh
trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập.
Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy.”
Bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 đã khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày
này là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Tư tưởng độc lập cho dân tộc, tự do, dân chủ cho nhân
dân, quyền của con người mà bản Tuyên ngôn Độc lập đã nêu vẫn còn nguyên giá trị. Hiện nay trong
công cuộc đổi mới, chúng ta đang phấn đấu để xây dựng “Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân”, thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, cũng chính là thực hiện và phát triển
những tư tưởng của bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945.
2.1.2.2 Sự thay đổi chính sách của Việt Nam đối với Pháp

Khoảng thời gian 1945-1946, đây là thời kì ngoại giao Việt Nam giữ vững và củng cố cách
mạng chính quyền vì giặc ngoài, thù trong, nạn đói chưa qua và kho tàng trống rỗng. Nhân dân Việt
Nam giành chính quyền lúc phát xít Nhật đầu hàng, chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc. Việt Nam
có thuận lợi nhất định là đứng trên tư thế một nhà nước có chủ quyền để tiếp đón quân Đồng minh vào
giải giáp quân đội Nhật, song Việt Nam lại đứng trước tình hình quốc tế và quốc nội phức tạp. Các
nước lớn điều chỉnh chiến lược theo hướng bất lợi cho Việt Nam. Liên Xô tập trung củng cố Đông Âu,
không quan tâm đến Châu Á. Mỹ thì xác lập vai trò lãnh đạo thế giới, có nhu cầu lôi kéo Pháp nên dần
dần nhân nhượng Pháp, Anh trong vấn đề thuộc địa. Anh, Pháp đặt nhiệm vụ khôi phục thuộc địa thành
ưu tiên cấp bách. Trung Quốc đổ vào Việt Nam với mưu đồ “diệt Cộng, cầm Hồ” bán miền Bắc Đông
Dương cho Pháp. Vậy nên tình thế của Việt Nam lúc đó rất khó khăn, ở miền Bắc, 200.000 ngàn quân
Tưởng đổ vào nước ta và miền Nam 26 ngàn quân Anh, Ấn vào giải giáp quân Nhật, nhưng thực tế là
mở đường cho quân Pháp vào đánh chiếm miền Nam. Ta giành chính quyền lúc ngân khố trống rỗng,
nạn đói giết chết hai triệu người vẫn đang hoành hành. Việt Nam lúc được nhận xét “Không đồng minh,
không tiền, không vũ khí”.
Trước tình hình ngàn cân treo sợi tóc ấy, Hồ Chí Minh và Ban thường vụ, một mặt lo củng cố
chính quyền, khuyến khích sản xuất, giảm tô miễn thuế, chống đói…mặt khác vận dụng ngoại giao để
bảo vệ chính quyền. Những nét lớn về đường lối đối ngoại thời kì này được xác định tại Hội nghị toàn
quốc Tân Trào ngày 14 và 15-8-1945 và thông cáo về chính sách đối ngoại của Việt Nam dân chủ cộng
hòa ngày 3-10-1945: “Kẻ thù trước mắt dân tộc ta là thực dân phản động Pháp,” “Mục đích của chúng

\


ta lúc này là tự do, độc lập. Ý chí của chúng ta lúc này là dân chủ, hòa bình” 5. Chính sách cụ thể đối
với từng đối tượng, với các nước lớn, với Pháp, với các nước láng giềng, với các nước tiểu dân tộc
được nêu rõ trong ngày 3-10-1945. Mặt trận ngoại giao thời kì này tập trung vào các nhiệm vụ công tác
đề cao chủ quyền và sức mạnh của chính quyền cách mạng. Sau khi Chính phủ lâm thời ra mắt quốc
dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời cựu hoảng Bảo Đại tham gia chính quyền với cương vị cố vấn.
Người tiếp tục đưa thêm vào bộ máy chính quyền nhiều vị nguyên là Thượng thư triều Nguyễn, nhiều
vị khác nguyên là Bộ trưởng trong chính phủ Trần Trọng Kim, chính phủ cuối cùng của chế độ cũ.

Trong những tháng cuối của năm 1945-1946, chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư, công hàm đến những
người đứng đầu chính phủ các nước lớn Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc và chủ tịch đại hội đồng Liên
hiệp quốc thông báo sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, khẳng định thế hợp pháp của nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tố cáo thực dân Pháp trở lại xâm lược Đông Dương.
Ngay sau khi Pháp nổ súng, gây hấn ở Nam Bộ (23-9-1945), Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã xác định, Pháp là kẻ thù chính, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Thế nhưng, Hồ Chí
Minh luôn nhấn mạnh quan điểm của chúng ta là đấu tranh cho độc lập dân tộc, cụ thể là kiên quyết
“đấu tranh với bọn phản động Pháp”, đồng thời không muốn phá vỡ quan hệ gắn bó vốn có giữa hai
dân tộc Việt - Pháp. Do đó, Đảng ta chủ trương, phải liên lạc mật thiết với Đảng Cộng sản Pháp để thực
hiện sự hành động chung giữa ta và các đồng chí Pháp. Ta tranh thủ đàm phán sớm với Pháp lúc này là
có lợi, vì tình hình chính trị ở Pháp đang có biến động. Ngày 20-1-1946, Chính phủ Đờ Gôn đổ, Chính
phủ liên hiệp ba đảng: Cộng sản, Xã hội, Cộng hòa bình dân lên cầm quyền, chủ trương thương lượng
với Việt Nam. Vì thế, sau 5 tháng đánh Pháp ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ và hòa hoãn với quân Tưởng ở
miền Bắc, nay quân Pháp lại thay thế quân Tưởng tiếp quản từ vĩ tuyến 16 trở ra (theo Hiệp định Trùng
Khánh), Ban Thường vụ Trung ương Đảng ta ra chỉ thị “Tình hình và chủ trương”. Chỉ thị vạch rõ:
“Muốn cứu vãn quyền lợi chung của đế quốc, chống phong trào cách mạng vô sản và cách mạng thuộc
địa, Anh, Pháp, Mỹ và Tàu Tưởng đã tạm dẹp mâu thuẫn nội bộ ở Đông Dương, do đó hiệp ước Hoa –
Pháp không phải chuyện riêng của Tàu Tưởng và Pháp, nó là chuyện chung của 4 đế quốc và tay sai
của chúng ở thuộc địa”1. Do đó, Ban Thường vụ Trung ương khẳng định: “Nếu Pháp giữ chủ trương
cho Đông Dương tự trị theo bản tuyên ngôn ngày 24 - 3 -1945 thì nhất định đánh và rất có thể đánh lâu
dài theo lối du kích. Nhưng nếu Pháp công nhận Đông Dương tự chủ thì có thể hòa, hòa để phá tan âm
mưu của bọn Tàu trắng, bọn phản động Việt Nam và bọn phát xít xứ Pháp còn sót lại, chúng định hãm
ta vào tình thế cô lập, buộc ta phải đánh với nhiều kẻ thù một lúc để thực lực của ta tiêu hao”. Do đó,

5 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,

\


hòa với Pháp, ta có thể phá tan được âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động, bảo toàn lực

lượng, có thời gian chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
Ngày 28-2, Pháp và Tưởng đã kí hiệp ước Hoa- Pháp tại Trùng Khánh. Theo Hiệp ước, Trung
Hoa chính thức trao cho Pháp quyền quản lý Bắc Đông Dương và giải giáp quân đội Nhật. Ngược lại,
Pháp trả cho Trung Hoa một số tô giới Thượng Hải, Hán Khẩu, Quảng Châu, Thiên Tân, đất mướn
Quảng Châu Loan, bán lại đường sắt Vân Nam, mở cửa Hải Phòng thành cảng tự do, miễn thuế hàng
hóa Tưởng vận chuyển qua Bắc và lót tay cho Tưởng một số tiền lớn. Hiệp ước Hoa-Pháp là một bất
lợi cho ta. Trước đó ta lợi dụng mâu thuẫn giữa hai thể lực này để tránh đụng độ với hai thế lực này,
vậy mà giờ chúng lại bắt tay với nhau. Trước tình thế này, chúng ta buộc phải đưa ra những chính sách
đối ngoại mới, linh hoạt và phù hợp để đối phó với Tưởng và Pháp 6. Phân tích tình hình thế trận, Hồ
Chí Minh và Ban thường vụ Trung ương Đảng đã quyết định chọn giải pháp hòa hoãn, dàn xếp với
Pháp.
Từ cuối năm 1945 đến đầu năm 1946 giữa đại diện chính phủ Pháp và Việt Nam đã có những
cuộc gặp gỡ. Tháng 11-1945 đại diện chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tiếp xúc với phía Pháp nêu
rõ lập trường của Việt Nam là sẽ có những nhượng bộ đối với Pháp về phương diện kinh tế - văn hóa
nhưng yêu cầu Pháp chấm dứt ngay chiến sự ở miền Nam, thừa nhận nền độc lập toàn vẹn của Việt
Nam và tạo không khí thuận lợi cho việc đàm phán. Ngày 25-2-1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có cuộc
gặp gỡ với Xanhtơni. Người nêu rõ lập trường của Việt Nam trong quan hệ Việt – Pháp là độc lập và
hợp tác. Lập trường của Xanhtơni chỉ coi Việt Nam là một nước tự trị nằm trong khối Liên hiệp Pháp.
Đây là lập trường đối lập cơ bản giữa chính phủ ta và chính phủ Pháp. Sau nhiều lần thương lượng,
chiều ngày 6-3-1946 tại ngôi nhà số 38 Lý Thái Tổ (Hà Nội) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt chính
phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa kí với Xanhtơni bản Hiệp định Sơ bộ, đặt cơ sở cho việc đàm phám
giữa hai bên để đi đến một hiệp định chính thức. Hiệp định Sơ bộ được kí kết đã tránh được một cuộc
chiến đấu bất lợi phải cùng một lúc chiến đấu với nhiều kẻ thù, tạo thêm cơ sở pháp lý đuổi 20 vạn
quân Trung Hoa Dân Quốc về nước. Mặt khác, hiệp định này đã mở đầu cho việc tiếp tục đàm phán
giữa chính phủ hai nước Việt Nam và Pháp, tạo ra thời gian hòa bình để ta tiếp tục củng cố chính quyền
và xây dựng lực lượng cách mạng. Hiệp định được kèm theo một phụ khoản 7, thực chất là một hiệp
định về các vấn đề quân sự, gồm bốn điều, quy định lực lượng tiếp phòng thay thế quân Trung Hoa
gồm 15000 quân Pháp và 10000 quân Việt Nam, đặt dưới quyền tư lệnh của Pháp. Hiệp định sơ bộ 6-31946 kết thúc sáu tháng tiếp xúc, thương lượng giữa Việt Nam và Pháp, đánh dấu một mốc son của
6 Chính sách đối ngoại Việt Nam, NXB thế giới, tr.58
7Accord annexe


\


ngoại giao Việt Nam thời kì đáng nhớ. Với hiệp định sơ bộ, Việt Nam đã biến thỏa thuận áp đặt PhápHoa thành một thỏa thuận tay ba, làm thất bại cuộc mua bán lộng quyền của hai nước lớn, biến cuộc đổ
quân cậy thế của Pháp thành một cuộc hành quân có thỏa thuận của một chính phủ có quyền có chủ
quyền. Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 cùng các hoạt động ngoại giao tiếp theo đã đem lại cho chúng ta một
thời kì tương đối hòa bình để có thêm thời gian củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng. Tạm hòa
hoãn với Pháp, Việt Nam đã đẩy 20 vạn quân Tưởng cũng như các thế lực tay sai ra khỏi đất nước. Đây
cũng là văn bản pháp lí đầu tiên mà Việt Nam dân chủ Cộng hòa kí với nước ngoài, ký với tư cách là
một nhà nước có chủ quyền, mở ra khuôn khổ giao tiếp và thương lượng bình đẳng giữa Việt Nam với
Pháp, tạo nên cơ sở pháp lý cho đấu tranh ngoại giao tiếp theo. Hiệp định sơ bộ được ký kết, thắng lợi
của ta là đã buộc chính phủ Pháp phải công nhận quyền tự chủ và thống nhất đất nước của Việt Nam.
Tuy Pháp vẫn chưa công nhận nền độc lập hoàn toàn của nhân dân ta nhưng hòa với Pháp, ta “Tránh
tình trạng bất lợi, phải cô lập chiến đấu cùng một lúc với nhiều lực lượng phản động... Bảo toàn được
lực lượng, giành giây phút nghỉ ngơi và củng cố vị trí đã chiếm được, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng,
bổ sung cán bộ, bồi dưỡng và củng cố phong trào... chuẩn bị đầy đủ, nhằm cơ hội tốt tiến lên giai đoạn
cách mạng mới”8
Ngày 23/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp đại sứ Pháp Đácgiăngliơ ở vịnh Hạ Long và thoả
thuận họp hội nghị ở Đà Lạt, tạo điều kiện đàm phán chính thức ở Pari. Ngày 16-4-1946, phái đoàn
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang thăm Pháp. Ngày 19-4-1946, đoàn
đại biểu Chính phủ Việt Nam (Nguyễn Tường Tam -Trưởng đoàn) và đoàn đại biểu nước Pháp (Mắc
Ăngđơre) họp Hội nghị trù bị ở Đà Lạt để chuẩn bị cho Hội nghị chính thức ở Pari. Tuy nhiên, ngày 115-1946, Hội nghị trù bị Đà Lạt kết thúc mà không đi đến thỏa thuận nào. Ngày 25-4-1946, phái đoàn
Quốc hội Việt Nam do Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang thăm nước Pháp để thắt chặt tình thân thiện giữa
hai dân tộc Việt - Pháp và làm cho nhân dân Pháp hiểu rõ hơn cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc
Việt Nam. Ngày 31-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Hà Nội sang thăm nước Pháp với tư cách là
thượng khách. Phái đoàn Chính phủ ta do Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang Pháp dự Hội nghị chính thức.
Ngày 6-7-1946, Cuộc đàm phán chính thức giữa hai bên chính phủ Việt Nam và Pháp bắt đầu khai mại
tại Fontainebleau (cách thủ đô Pari 60km). Chữ ký Hiệp định sơ bộ chưa ráo mực, Pháp đã tìm mọi
cách phá hoại. Trước sức ép của dư luận Pháp, sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam và đường

lối đối ngoại đúng đắn của Hồ Chí Minh, Chính phủ Pháp buộc phải chấp nhận đàm phán chính thức
với Việt Nam và mời Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm nước Pháp với tư cách là thượng khách. Nhưng

8 Văn kiện Quân sự của Đảng, Nxb QĐND, H,1976, T.2, tr. 39,40

\


để đến được hội nghị chính thức, Pháp còn bày ra chuyện họp hội nghị trù bị mà Hiệp định sơ bộ
không quy định.
Hội nghị trù bị họp ở Đà Lạt từ ngày 19-4-1946 đến ngày 10-5-1946 không thành công do phía
Pháp vẫn giữ lập trường chia cắt nước ta, lập liên bang Đông Dương, không chịu ngừng bắn, trưng cầu
dân ý ở Nam Bộ, âm mưu tách Nam Bộ ra khỏi nước ta. Song, mặc những bất đồng, ngày 31-5-1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Chính phủ ta do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu vẫn sang thăm
và đàm phán với Pháp. Cuộc đàm phán được tổ chức vào tháng 7 -1946 ở lâu đài Fontainebleau. Tuy
nhiên, tại cuộc đàm phán này, thái độ ngang ngược của đoàn Pháp khiến Hội nghị hoàn toàn tan vỡ.
Trước tình hình đó, có hai khả năng đặt ra: hoặc là ra về; hoặc là nhân nhượng thêm một bước nữa, tiếp
tục giữ mối quan hệ hòa hoãn, dù chỉ rất mong manh với Chính phủ Pháp, tranh thủ sự đồng tình, ủng
hộ của nhân dân Pháp và thế giới. Giữa hai con đường ấy, Hồ chí Minh đã chọn con đường thứ hai. Sau
những trăn trở, cân nhắc, Người đã đi một nước cờ táo bạo: ngày 14-9-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
ký với Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại Mu-tê bản Tạm ước Việt Pháp, gồm 14 điều khoản, có hiệu
lực từ ngày 30-10-1946. Đây là một quyết định đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khai thác được
những khả năng ít ỏi nhất đạt được sự hòa hoãn với Pháp trong khi con đường gần như bế tắc. Tạm ước
là một bước nhân nhượng cần thiết để cứu vãn thêm nền hòa bình Việt Nam, điều tối quan trọng với ta
lúc ấy. Ký tạm ước 14-9 là một biện pháp ứng phó thời cuộc, nhưng có ý nghĩa chính trị và chiến lược
quan trọng bảo tồn hiệp định Sơ Bộ, cứu vãn hội nghị Fontainebleau, kéo dài thời gian hòa bình, mở ra
khả năng nối lại đàm phán chính thức. Đồng thời, việc ký tạm ước cũng đáp ứng được nguyện vọng
quốc dân, đề cao uy tín của chính phủ. Nhờ đó, ta kéo dài hòa hoãn với Pháp thêm 3 tháng nữa, một
khoảng thời gian cực kỳ quý giá để chuẩn bị cho một cuộc đụng đầu không cân sức, không thể tránh
khỏi với thực dân Pháp. Suốt ba tháng thăm nước Pháp, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giữ thái độ, lời lẽ,

cách ứng xử hòa dịu, ôn tồn, nhẫn nại. Khi tình thế đòi hỏi, Người nhẫn nại vượt qua nghi thức, nhẫn
nhịn để được việc, để có hòa bình. Chuyến thăm Pháp của chủ tịch nước Việt Nam là hoạt động đối
ngoại quan trọng nhất của ta trong thời kì 1945-1946. Trong mấy tháng liền, người nêu cao chính nghĩa
dân tộc và thiện chí hòa hoãn của Việt Nam ngay tại Paris- thủ đô đối phương và cũng là trung tâm
chính trị hàng đầu Châu Âu. Người luôn bày tỏ những tình cảm hữu nghị và thân thiện với nhân dân
Pháp. Người đề cao lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của Pháp, đề cao đạo lý trong quan hệ giữa hai
nước. Tạm ước 14-9 là sự nhân nhượng cuối cùng của dân tộc ta. Đây cũng là giải pháp đối ngoại tối
ưu để bảo vệ thành quả cách mạng tranh thủ thêm thời gian chuẩn bị thực lực cho cuộc kháng chiến
chống Pháp.

\


2.2. Nội dung tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
(1946-1954)
Trải qua nhiều thử thách, gian lao, chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định lại tư tưởng của mình, định
hướng lại hướng đi cho Đảng Cộng sản Việt Nam, hình thành nên đường lối đối ngoại chỉ áp dụng
riêng cho ngoại giao Việt Nam, và mang đậm phong cách Hồ Chí Minh. Nội dung chính của chính sách
ngoại giao mới của Người bao gồm những nội dung chính sau đây:
2.2.1. “Ngoại giao là phải có thực lực”
Kể từ sau khi nhân dân giành được chính quyền vào tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh: “Về chính trị, quân sự, kinh tế, nội chính ngoại giao của ta là tự lực cánh sinh”.
Người đã nhắc nhở nhân dân Việt Nam không nên quá ỷ y vào sự chi viện của Liên Xô và Trung Quốc
mà làm ngơ, không nỗ lực chiến đấu để giành độc lập về cho dân tộc một cách trọn vẹn. Tức là, nhân
dân Việt Nam phải dựa trên thực lực dân tộc mình để tranh thủ hợp tác với quốc tế và kết hợp sức mạnh
thời đại với sức mạnh dân tộc tạo thành sức mạnh tổng hợp của quốc gia.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh ngoại giao là một trong ba mặt trận đấu tranh của dân tộc.
Ngoại giao, chính trị và quân sự phải kết hợp với nhau mới tạo nên một sức mạnh tổng hợp. Một mặt
trận nào là chủ yếu, điều đó phụ thuộc vào thực tiễn cách mạng của từng thời kỳ. Người nói: “Thực lực
là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng; chiêng có, tiếng mới lớn.” Thực lực ở đây không phải là sức mạnh

quân sự hay sức mạnh của bản thân mỗi dân tộc 9, mà đó là sức mạnh tổng hợp kết hợp với sức mạnh
thời đại. Có nghĩ là ta phải lợi dụng sự ủng hộ của đồng minh, tạo mối quan hệ tốt đẹp với các nước
lớn, hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng có cùng mục tiêu.
Để tranh thủ sự ủng hộ của đồng minh, mở rộng quan hệ quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh không
ngần ngại bày tỏ quan điểm của Người đối với các nước đồng minh, mở rộng hợp tác, hữu nghị với các
nước đứng đầu như Anh, Trung Quốc, Mỹ, Liên Xô. Người đã thực hiện nhiều chính sách bày tỏ mong
muốn hợp tác hữu nghị của mình như “Chính sách mở của và hợp tác” 10 . Trả lời phỏng vấn báo Mỹ
Tribune (thángg 4/1949) về chương trình kiến thiết Việt Nam sau chiến tranh 11, Chủ tịch Hồ Chí Minh
bày tỏ “Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân thiện với nhân dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay công
9 Sức mạnh của dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp các yêu tố vật chất, tinh thần, truyền thống và hiện đại, là sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân, chính nghĩ dân tộc, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lê-nin.
Yếu tố quyết định để phát huy sức mạnh dân tộc là giữ vững tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường. Đồng thơi, Đảng
ta khẳng định: “Đoàn kết là một nghĩa lớn.”

10 Mời các nhà đầu tư và công nghệ nước ngoài vào hoạt động kinh doanh ở Việt Nam
11 Ngày 22 tháng 6 năm 1947

\


×