Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Giới thiêu chủ nghĩa cô điên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.78 KB, 21 trang )

Dẫn nhập:
Chủ nghĩa cổ điển là tên gọi một khuynh hướng nghệ thuật được phát triển
đến đỉnh cao ở châu Âu vào thế kỉ XVII, nó được xem là một phong cách nghệ
thuật và một lý thuyết mỹ học. Tên gọi khuynh hướng này ra đời muộn hơn khi các
nhà Ánh Sáng (TK XVIII) muốn dùng làm mẫu mực, trước hết là về mặt sử dụng
ngôn ngữ để đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Khái niệm Cổ điển (tiếng Pháp) :
Classique liên quan đến từ Classicus mang nghĩa là “người công dân quý phái, giàu
có, đáng kính trọng” và được sử dụng theo hai nghĩa. Nghĩa rộng có nghĩa là mẫu
mực. Nghĩa hẹp thường được gọi một cách hoàn chỉnh là chủ nghĩa cổ điển để chỉ
khuynh hướng văn học ở châu Âu này
Chủ nghĩa cổ điển được hình thành trong hoạt động nghệ thuật và hoạt động
lý luận của một số nhà văn Italia thế kỉ XVI muốn nêu lên và biện giải các quy luật
cơ bản và các nhiệm vụ nghệ thuật của văn nghệ cổ đại Hy La và của văn nghệ
Phục Hưng, xây dựng lý luận nghệ thuật, ngôn ngữ văn học dân tộc và một nền sân
khấu kịch mới
Chủ nghĩa cổ điển mang những đặc tính như tinh thần duy lý; tinh thần khai
sáng; coi trọng tri thức hiểu biết; đề cao bổn phận hơn cảm xúc cá nhân; coi trọng
chuẩn mực về hình thức và nội dung, tính chất khuôn mẫu;tính chất quy phạm hóa
của xu hướng sáng tác, đạt tới hình thức hài hòa toàn thiện, hoành tráng, trong
sáng, thanh nhã; tính cân bằng của bố cục…
Văn học của chủ nghĩa cổ điển đã đạt được những thành tưu lớn trên nhiều
thể loại gắn liền với nhiều tên tuổi của các nhà văn lớn như: Corney, Raxin, Molie,
La Phôngten, Boalô…
1.Bối cảnh lịch sử Pháp và sự hình thành chủ nghĩa cổ điển:
1.1.Bối cảnh lịch sử Pháp:
Cuối thế kỉ thứ XVI, nước Pháp nghèo nàn bị chia cắt bởi các lãnh chúa
phong kiến. Chiến tranh phong kiến và tôn giáo liên tiếp xảy ra, nước Pháp bị tàn
phá nặng nề, thành thị lẫn nông thôn đều hoang tàn xơ xác, đói kém va bệnh tật lan
tràn khắp nơi. Tài chính kiệt quệ. Quan lại địa phương và thị dân giành quyền tự
trị, nông dân nghèo đói nổi dậy ở nhiều nơi… Chế độ phong kiến cát cứ trở thành
chướng ngại ngăn trở việc thống nhất đất nước Pháp. Bên cạnh đó, giai cấp tư sản




hình thành từ đầu thế kỉ XVI đang dần phát triển nhờ hình thức kinh doanh tư bản.
Chế độ phong kiến cát cứ cản trở quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa, nên giai cấp
này dựa vào nhà nước phong kiến để tiếp tục phát triển kinh doanh; còn nhà nước
phong kiến lại muốn dựa vào khả năng kinh tế của giai cấp tư sản để tồn tại, vì thế
hình thành thế quân bình tạm thời giữa quý tộc và tư sản, tạo ra một Nhà nước
quân chủ chuyên chế giữ vai trò trung gian - cố gắng dung hoà bảo vệ quyền lợi
của cả quý tộc và tư sản.
Sự hình thành của chế độ quân chủ chuyên chế đã trải qua một chặng đường
dài kể từ triều đại Louis XI (1461 – 1483) đến các triểu đại vua Charles VII (1483
– 1493), Luois XII ( 1498 – 1515) và Francois I ( 1515 – 1547).
Triều đại Francois I đánh dấu một bước phát triển mới của nền quân chủ
chuyên chế Pháp, thể hiện ở chỗ nó bắt đầu thủ tiêu các thể chế của thời Trung cổ,
tập trung mọi quyền hành vào tay nhà vua và bộ máy quan liêu. Một giai đoạn mới
quan trọng khác là thời kỳ trị vì của Henry IV (1594-1610). Cống hiến lớn nhất của
ông vua này là đã thực hiện được sự hòa hợp dân tộc, thông qua sự hòa hợp của
các tín đồ đạo Tin Lành và đạo Gia Tô bằng việc ban bố sắc lệnh Nantes (1578) về
tự do tín ngưỡng. Ngoài ra dưới thời cai trị của ông, kinh tế, thương mại, và công
nghiệp rất phát triển.
Vua Louis XIII (1610-1624) lên kế vị lúc còn nhỏ, đã được Hồng Y tể tướng
Richelieu phụ chính và năm 1624 lên cầm quyền. Tất cả quyền lực của nước Pháp
tập trung vào tay Richelieu. Chính vị tể tướng này đã xây dựng chế độ quân chủ
chuyên chế đến mức hoàn hảo.
Vua Louis XIV lên kế vị mới 15 tuổi, Mazarin, đồ đệ của Richelieu tiếp tục
làm tể tướng, cùng với hoàng hậu Autriche nắm hết quyền hành. Thời kỳ đầu của
triều đại Louis XIV đã trải qua một cuộc khủng hoảng sâu sắc: đó là loạn La
Fronde. Sau ki phong trào La Fronde bị dập tắt, nền quân chủ chuyên chế Pháp
bước vào thời kỳ phát triển rực rỡ nhất. Louis XIV trực tiếp cầm quyền, tự xưng là
vua Mặt Trời, cho xây cung điện Versailles. Vua tuyên bố: Nhà nước chính là ta

(LEùtat cest moi) và tập trung mọi quyền lực vào tay mình. Các hình thức kinh
doanh của tư bản chủ nghĩa được tích cực bảo hộ, khuyến khích phát triển nhằm
thu lợi cho công quỹ, tăng cường quân đội.


Chaplin – cánh tay phải đắc lực của nhà vua đã lập ra viện hàn lâm về nghệ
thuật và khoa học, bảo trợ các nhà nghệ sỹ, tổ chức sinh hoạt văn nghệ ở cung
đình, biến cung điện Verseilles thành trung tâm văn hoá quốc gia. Tất cả nhằm đề
cao cá nhân vua Louis XIV, thúc đẩy văn hoá, củng cố quốc phòng, nâng cao địa vị
nước Pháp.


Nhờ sự ra đời của viện hàn lâm, đưa các nhà nghệ sỹ về dưới quyền
quản lý của nhà vua nên văn học thời bấy giờ được quản lý rất chặt chẽ
và có tính thống nhất. Hầu hết các sáng tác có nội dung “chúa sáng tôi
hiền là chủ đạo.”

Sự lộng lẫy của triều đình Louis XIV trở thành niềm tự hào cho nước Pháp.
Người ta cho rằng triều đại Louis XIV là thời kì thịnh trị nhất trong lịch sử Pháp.
Nhưng thực chất, triều đình thường tổ chức những ngày hội huy hoàng bằng sự
cung phụng của nhân dân bần cùng và trong triều đại này lại xảy ra mâu thẫun ở
khắp nơi: chính quyền phong kiến tập trung mâu thuẫn với phong kiến cát cứ, giai
cấp quý tộc phong kiến với giai cấp tư sản và nhân dân lao động (đẳng cấp ba).
=> Đó cũng chính là thời điểm đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa cổ điển trong văn
học và sau đó lan rộng ra nhiều nước trên thế giới. Chủ nghĩa cổ điển có thể được
xem như một phong trào văn học nảy sinh từ một chế độ chính trị xã hội nhất định.
1.2.Quá trình hình thành chủ nghĩa cổ điển Pháp:
_ Ảnh hưởng từ hoàn cảnh xã hội (cơ sở xã hội):
Sự ra đời của nhà nước quân chủ chuyên chế Pháp vào cuối thế kỉ XVI đầu
thế kỉ XVII cùng với những mâu thuẫn xã hội giữa giai cấp tư sản với giai cấp

phong kiến tập quyền trung ương và phong kiến cát cứ đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến
sự ra đời của chủ nghĩa cổ điển. Chủ nghĩa cổ điển được xem như một sản phẩm
đặc thù của nhà nuớc quân chủ chuyên chế khi gắng liền với sự hình thành và phát
triển của chế độ này. Vì chủ nghĩa cổ điển phản ánh những vấn đề chính trị lớn của
thời đại và tư tưởng thống nhất quốc gia, đồng thời cũng đề cao tính trang nhã,
sang trọng, quý phái (tính quý tộc) nên cũng có thể xem như chủ nghĩa cổ điển là
một “công cụ” phục vụ cho mục đích cố gắng điều hoà căng thẳng giữa giai cấp tư
sản và tầng lớp quý tộc.
_Ảnh hưởng từ triết học Gassendy và triết học Descartes (cơ sở tư tưởng):


Chủ nghĩa triết học duy cảm tiêu biểu là Gassendy và chủ nghĩa triết học duy
lý mà đứng đầu là Dascartes đều ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVII, dù mỗi học thuyết
có tư tưởng và cống hiến riêng, nhưng đều có ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần cả
thời đại nói chung và sự hình thành chủ nghĩa cổ điển nói riêng.
Gassendy xem trọng cảm giác của con người, đề cao tình cảm, hướng tới tự
do, thoải mái, tuân theo quy luật của tự nhiên, không bị ràng buộc trong sự gò bó
của giai cấp thống trị và giáo lý đức tin. Các nhà văn chịu ảnh hưởng của ttư tưởng
triết học Gassendy là Moliere, La Fontain và La Brue.
Trái với Gassensy, Descartes lại đề cao lý trí, xem lý trí, tư duy là giá trị tồn
tại của một con người. Ông cho rằng lý trí là thứ quan trọng hơn cả, nhờ có lý trí,
con người có thể lý giải được mọi sự vật và sẽ làm chủ được thế giới tự nhiên.
Nhưng triết học của Descartes vẫn có hạn chế, vì ông vừa theo chủ nghĩa duy lý,
vừa theo chủ nghĩa duy tâm (nhị nguyên luận). Nhà văn sáng tác theo tư tưởng của
ông, điển hình có Corneille.
=> Văn học Pháp thế kỉ XVII vốn tồn tại ba dòng văn học: Văn học đài các của
tầng lớp quý tộc thất thế, văn học hiện thực chống lại kiểu văn học đài các, và cuối
cùng là văn học chủ nghĩa cổ điển. Nhưng với quan điểm Mỹ học và tư tưởng tiến
bộ cùng với những đóng góp nghệ thuật không hề nhỏ, văn học cổ điển vượt lên
hai dòng văn học còn lại, phát triển rực rỡ và tiêu biểu cho cả một thời đại.



2.Sự phát triển của chủ nghĩa cổ điển:
2.1. Các giai đoạn phát triển:
Sự phát triển của chủ nghĩa cổ điển đi song hành cùng với quá trình tồn tại,
hưng thịnh rồi suy vong của nhà nước quân chủ chuyên chế.
+ Giai đoạn 1: (1610 – 1660) Là giai đoạn ra đời của chủ nghĩa cổ điển.
Nước Pháp đi vào thời kì tập trung thống nhất quyền lực đồng thời thống nhất cả
nhiều mặt bao gồm ngôn ngữ và văn phạm. Nhân vật chính trong các tác phẩm
thường là những người anh hùng mang vẻ đẹp lý trí, chiến thắng những tình cảm
tầm thường để hoàn thành nghĩa vụ với đất nước. Thể loại bi kịch anh hùng phát
triển mạnh. Tác giả lớn của giai đoạn này là Blaise Pascal.
+ Giai đoạn 2: (1621 – 1695) Là thời kì thịnh mãn của chủ nghĩa cổ điển,
những thể loại trước đây bị cho là hạ đẳng lại phát triển mạnh mẽ và được đón
nhận nồng nhiệt như hài kịch của Moliere và truyện thơ của La Fontain. Bi kịch
vẫn phát triển nhưng bi kịch về tình yêu và cuộc đời những người phụ nữ thay thế
cho bi kịch anh hùnh ở giai đoạn trước như Andromaque của Racine. Nội dung thể
hiện của các tác phẩm giai đoạn này là sự phê phán mặt xấu của tầng lớp quý tộc sa
đoạ và tư sản ham mê đồng tiền. Phạm vi phản ánh được mở rộng, không còn bó
buộc trong phạm vi cung đình nữa.
+ Giai đoạn 3: (từ năm 1660 trở đi) Là thời kì văn học cổ điển phát triển
toàn diện nhưng cũng dần đi vào giai đoạn lụi tàn cùng với sự suy vong của nhà
nước quân chủ chuyên chế.
Trong quá trình phát triển, chủ nghĩa cổ điển đóng góp vào thành công của
văn học Pháp thế kỉ XVII bốn thành tựu đỉnh cao là: thơ châm biếm của Boileau,
bi kịch của Racine, hài kịch Moliere và thơ ngụ ngôn của La Fontain.
2.2. Đặc trưng thẩm mỹ trong sáng tác của chủn ghĩa cổ điển:
Với tác phẩm lý luận văn học viết bằng thơ của Boileau - Nghệ thuật thơ
được xem là bộ luật thơ của chủ nghĩa cổ điển, Boileau như là nhà lập pháp cho
phương thức sáng tác và trào lưu văn học này. Từ đó có thể rút ra ba nguyên lý là:



Mang tinh thần duy lý: Đây là một trong những nguyên lý mỹ học quan
trọng của chủ nghĩa cổ điển. Chủ nghĩa cổ điển tập trung cao độ vào việc


nhấn mạnh vai trò của lý trí con người hơn là tình cảm cá nhân con người,
những cái cao cả, anh hùng, tráng lệ được đề cao và những cái vấn đề nhặt
nhạnh xung quanh cuộc sống tầm thường, đời sống, cảm xúc riêng tư cá
nhân bị hạ thấp và không có giá trị trong xã hội. Nhân vật trong tác phẩm
được đặt trong hoàn cảnh mà phải chọn lựa giữa tuân theo lý trí hay nghe
theo một yếu tố nào đó đang mâu thuẫn với lý trí, thường là tình cảm, tình
yêu. Lý trí của con người là giá trị, nó không bị thiên lệch bởi những dục
vọng cá nhân tầm thường mà hướng tới cái cao cả. Thế nên, có thể nói, tinh
thần duy lý đề cao, đánh thức ý thức về nghĩa vụ và lương tri của người công
dân đối với đất nước, dân tộc và lợi ích chung của cộng đồng.


Mang tính mô phỏng tự nhiên: tức là nói về những điều có thực hoặc những
điều giống như thực trong đời sống. Tự nhiên trong chủ nghĩa cổ điển là tự
nhiên đẹp, nói về đời sống cung đình. Sự mô phỏng được đóng khung trong
lối sống chốn cung đình, nơi thành thị. Từ ngữ được chọn lọc kĩ càng và sử
dụng một cách khéo léo, sang trọng. Cổ xúy cho những tác phẩm nói về cái
cao cả và vĩ đại, đề cao đạo đức và lí trí con người.



Học tập cổ đại: : chủ nghĩa cổ điển học tập theo những mẫu mực của các
tác phẩm thời cổ đại, mong muốn tạo nên các tác phẩm có hình thức hoàn
mỹ, đẹp đẽ và tráng lệ nhưng vẫn hài hoà, cấu trúc tác phẩm chặt chẽ mà lại

khách quan, ngôn từ trau chuốt trang nhã. Các đề tài sáng tác cũng được lấy
chất liệu từ các câu chuyện lịch sử hay các tác phẩm của thời cổ đại. Tuy
nhiên, quy tắc này cũng tuân theo nội dung của quy tắc thứ nhất – tôn sùng
lý trí, nên chất liệu khai thác phải phù hợp với tâm lý, với tinh thần duy lý
của con người thời bấy giờ.

Ngoài ba nguyên tắc trên, chủ nghĩa cổ điển còn tuân theo quy tắc tam duy
nhất: duy nhất về không gian: câu chuyện chỉ ra ở một địa điểm nhất định; duy
nhất về thời gian: câu chuyện diễn ra không được vượt quá hai mươi bốn giờ;
duy nhất về hành động: chỉ xoay quanh, giải quyết một xung đột duy nhất và
xung đột ấy dẫn dắt toàn bộ câu chuyện. Tuy nhiên, quy tắc này sau không còn
là yếu tố quan trọng nhất trong sáng tác nữa, vì nó hạn chế đáng kể khả năng
sáng tạo của người nghệ sỹ, khiến tác phẩm có nguy cơ đi vào hướng “phi cá
thể.”


Văn chương, nghệ thuật cổ điển lấy mỹ học thanh tao làm mẫu mực trong
sáng tác. Những tác phẩm đều có tính hoành tráng về cả hình thức và nội dung. Lý
tưởng hóa con người và tôn sùng lý trí cá nhân: nội dung của chủ nghĩa cổ điển
hướng tới việc khẳng định nhân cách của con người là quan trọng và quyết định
mọi giá trị bằng tư duy lý trí, cũng như đề cao giáo dục, luân lí, đạo đức phong
kiến.
Chủ nghĩa cổ điển rất rạch ròi trong việc phân chia các thể loại văn học của
mình thành hai nhóm thể loại chính: nhóm thể loại thượng đẳng bao gồm bi kịch;
sử thi; tụng ca với các đề tài xoay quanh các nhân vật quí tộc thượng lưu, quân
vương, các nhân vật to lớn trong thần thoại, các tu sĩ gắn với các thiết chế đạo đức
và xã hội, cuộc đấu tranh giữa lý trí đạo đức và dục vọng của bản thân như các bi
kịch của Corneille… và nhóm thể loại hạ đẳng bao gồm hài kịch, trào phúng, thơ
ngụ ngôn nói về các đề tài về cuộc sống đời thường của con người, qua đó miêu tả
chân thật cuộc sống con người cá nhân đương thời, mang yếu tố hiện thực, đại diện

cho nhóm này như các thơ ngụ ngôn của La Fontain, hài kịch của Moliere … .


3.Các tác giả và tác phẩm tiêu biểu:
3.1. Tác giả Cornay và vở bi kịch Lơ – xít:
Tác giả Cornay (1606 -1684): ông là người đại diện xuất sắc nhất của nền bi
kịch cổ điển Pháp năm mươi năm đầu của thế kỷ XVII. Sinh ra ở thành phố Lu-ăng
xứ Nôc măng –đi trong một gia đình công chức khá giả. Ông là con thứ hai trong
số 8 anh chị em. Ông học tại một trường địa phương sau khi tốt nghiệp luật thì trở
thành một luật sư nghề nghiệp này thì có vẻ như không thích hợp với ông. Sau đó
ông chuyển sang ngành pháp quan và năm 1626 ông giữ hai chức vụ: Biện lý
hoàng gia một ở ngành nông lâm và một ở ngành hải quân quốc gia. Ông giữ hai
chức vụ này cho đến năm 1650, chuyển sang viết văn dưới sự bảo trợ của
Richelieu.
Ông bắt đầu sự nghiệp bằng vở hài kịch Mê-li-tơ (1692), kịch thơ, người đàn
bà góa, người hầu gái… trong các vở kịch đầu tay của Cornay, chưa bộc lộ hết tài
năng của ông.Tuy nhiên khi chuyển sang thể loại bi kịch ông thành công nhiều
hơn. Các tác phẩm bi kịch nổi tiếng của ông như: Lơ –xít (1636 ), Oraxinna , người
nói dối… Trong các nhà soạn kịch bi kịch thì Cornay là người đề ra nhiều quan
niệm lí luận kịch ngược chiều với chủ nghĩa cổ điển hơn cả, và ông được biết đến
như là nhà bi kịch của các anh hùng. Ngoài ra ông còn là một nhà thơ trữ tình lớn.
Vở bi kịch “Lơ-xít”:
Lơ-xít là kiệt tác đầu tiên của Cornay, vở kịch nổi tiếng đầu tiên của phong
cách cổ điển chủ nghĩa được dựng diễn trên sân khấu Pháp. Nhân vật chính của vở
kịch là Rô –dri-gơ, được quân Mô-rơ đặt cho danh hiệu là “Lơ-xít” xuất xứ trực
tiếp của vở kịch này là vở thời niên thiếu của Ghi-Len đơ Caxto –rô. Cornay đã
lược bỏ đáng kể vở bi kịch của Tây Ban Nha, chuyển trọng tâm từ những biến cố
bên ngoài sang những cảm xúc nội tâm của các nhân vật tập trung trong cuộc đấu
tranh giữa tình yêu và nghĩa vụ.
Vở Lơ –xít miêu tả xung đột sau đây: hiệp sĩ trẻ tuổi và anh dũng người Tây

Ban Nha là Rô-dri-gơ trong một cuộc đấu kiếm giết chết hầu tước Gooc-max, cha
của Simen –người yêu chàng. Gooc –max đã sỉ nhục người bố của chàng một cách
tàn nhẫn. Tuy rằng Rô-dri-gơ hoàn thành nghĩa vụ của mình trong khi bảo vệ danh
dự được cho cha nhưng việc chết hầu tước Goo-max đã vô tình tạo nên một hố sâu
ngăn cách chàng và Simen. Cuộc hôn nhân của hai người trở nên vô vọng vì rằng
Simen không thể lấy người giết cha mình làm chồng và hơn hết nàng muốn trả thù



cho cha. Nàng đòi vua xử tử Gô-đri-gơ nàng không thể thù ghét người yêu trái lại
nàng càng yêu chàng hơn.
Trong mọi hành động của mình Rô-đri-gơ đều tuân theo nguyên tắc danh dự.
Đối với chàng danh dự là biểu tượng của giá trị cá nhân và xã hội của con người.
Cần phải bảo vệ danh dự bảo vệ nó là cao thượng còn từ bỏ nó là hèn nhát. Rô-đrigơ và Simen càng đè nén được sự yếu mềm của trái tim mình thì họ càng tỏ ra
xứng đáng với tình yêu của nhau.
Xung đột vở kịch sẽ không giải quyết được nếu không có sự can thiệp của
sưc mạnh thứ ba đó là vua Đông Phéc –năng hiện thân của ý niệm chính quyền
quốc gia, an ninh. Nhà vua lên án sự tùy tiện phong kiến, lên án giải quyết các vấn
đề bằng việc đấu kiếm và cho rằng máu chỉ có thể chảy khi chiến đấu bảo vệ tổ
quôc chống lại quân thù.
Rô-đri-gơ sau khi đã chặn được sự xâm lăng của người Mô-rơ trở thành
người cứu nước và nhà vua đã gả Simen để thưởng công cho chàng .
Qua vở kịch Cornay đã khẳng định sự chiến thắng oanh liệt của lý trí đối với
dục vọng của cá nhân .Xung đột bi kịch nảy sinh từ mâu thuẩn không thể hòa giải
được giữa cái chung và cái riêng ,xã hội và cá nhân ,lí trí và tình cảm .


3.2. Racine và vở bi kịch “Andromaque”:
Racine (1639 – 1699) tên thật là Jean Baptisete Racine, thường được biết tới
với tên Jean Racine. Ông sing ngày 22 tháng 12 năm 1639 ở La Ferté Milon trong

một gia đình quý tộc nhỏ. Mẹ mất vào năm Racine 4 tuổi, ông về ở với ông bà cho
tới năm 1649 thì theo bà vào tu viện Port Royal. Tại đây, ông được nhận sự giáo
dục khắc khổ theo nguyên tắc của giáo phái Jeansenis và được tiếp xúc với văn học
Hy Lạp… từ đó đã tạo nên những cơ sở và ảnh hưởng ban đầu chi phối cuộc đời và
sự nghiệp sáng tác sau này của Racine.
Ban đầu, Racine thiên về sáng tác thơ hơn kịch. Với bài thơ “Tiên nữ sông
Seine” (1660) và nhận được khản viện trợ đầu tiên của triều đình, tiếp đó là sự
thành công của hai tập thơ “Đức vua bình phục” và “Vinh quang của các thi thần”
vào năm 1663. Sau khi kết thân với nhà thơ Boileau, ông chuyển hẳn sang viết
kịch với hai vở đầu tay là “Người thàng Thebes” (1664) và “Alexandre Đại đế”
(1665). Nhưng phải đến vở “Andromaque” (1667), với sự thành công vang dội của
nó, thì tên tuổi và tài năng của ông mới được khẳng định một cách vững chắc.
Các vở kịch khác của Racin: hài kịch “Les Plaideurs” (1668), “Britannicus”
(1669), “Berenice” (1670), “Bajzet” (1672),... “Esther” (1689), “Athalie” (1691).
Racine được chọn làm thư kí riêng cho nhà vua rồi làm nhà viết sử cho triều
đình, đến năm 1696 thì thăng làm giám quan.
Racine qua đời ngày 21 tháng 4 năm 1699, và được an tang tại tu vện Port
Royal theo nguyện vọng của ông.
Jean Racine là nhà thơ, nhà viết kịch tài ba của Pháp thế kỉ XVII, là người
có công đưa kịch cổ điển đạt đến đỉnh cao về nghệ thuật xây dựng nhân vật và khai
thác về khía cạnh phân tích tâm lý nhân vật một cách tinh tế với một thể loại kịch
hoàn toàn khác với Cornay – bi kịch tình yêu và bi kịch về những người phụ nữ.
• Vở bi kịch “Andromaque”:
Đây là vở bi kịch đánh dấu buớc ngoặt cả trong sự nghiệp sáng tác kịch của
Racin và nền bi kịch Pháp thế kỉ XVII, bằng cách khai thác về đê1 tài tình yêu và
bi kịch về cuộc đời người phụ nữ yếu đuối đa cảm, khác hẳn với thể loại kịch anh
hùng của Cornay.
Sơ lược về tác phẩm “Andromaque”:
Sau chiến thắng thành Troie, các tù binh và chiến lợi phẩm được chia cho
các anh hùng bằng cách bắt thăm, và chiếu theo kết quả cuộc bắt thăm đó, người

goá phụ của Ecto là Andromaque cùng con trai Axtyanax bị chia về cho Vua của


Epia là Piaruyx. Toàn người dân Hy Lạp đều cho rằng phải giết chết con trai của
Andromaque đi, vì sợ sau này khôn lớn, đứa trẻ sẽ báo thù cho cha mình, nhưng vì
yêu say đắm Andromaque nên Piaruyx đã không làm như vậy mà còn hứa sẽ bảo
vệ nó an toàn nếu Andromaque đồng ý lấy mình.
Andromaque bị chia cắt với con, nàng đau khổ và mong muốn sao có thể
bảo vệ con an toàn, để đứa trẻ có thể bình an lớn lên. Nhưng trước lời hứa hẹn của
Piaruyx, nàng vẫn kiên trinh không chấp nhận, bởi lẽ, Piaruyx chính là người giết
cha nàng, là một trong những người tiêu diệt thành Troie, khiến chồng nàng, Ecto
chết thảm.
Trước đó, Piaruyx vốn đã hứa hôn với Ecmion, công chúa xứ Xpac ( thuộc
Hy Lạp) và cũng đã đón nàng về xứ Epia của mình với lễ của Hoàng Hậu. Vì say
mê Ăngđrômac mà Piaruyx lạnh nhạt với Ecmion. Mênêlax, cha nàng thấy việc
hôn nhân của con gái mãi chậm trễ nên đã phái Orext, người vốn một mực si tình
với Ecmion, đến Epia truyền ý của Hy Lạp là muốn Piaruyx phải giết bé Axtyanax,
đồng thời hỏi Piaruyx chuyện Ecmion. Mặc khác, Orext còn có ý định nếu Piaruyx
không còn mặn mà với Ecmion nữa thì chàng sẽ cướp nàng đi và đưa về Xpac.
Ecmion sau khi gặp được Orext, biết được ý định của chàng thì từ chối, bởi
lẽ, nàng yêu Piaruyx và không cam lòng trước sự lạnh nhạt quay lưng của Piaruyx.
Nàng muốn ở lại hoàng triều Epia để trả thù sự phản bội.
Sau nhiều sự cố gắng chân thành mà không được Andromaque hồi đáp tình
cảm, Piaruyx quyết định quay lại với Ecmion, muốn cùng nàng kết hôn. Nhưng
trước sự gây áp lực của người Hy Lạp, vì để bảo vệ cho con trai, Andromaque cuối
cùng cũng nhận lời Piaruyx. Thế là, Piaruyx lại quay lưng với Ecmion, tổ chức hôn
lễ cho mình cùng Andromaque.
Lòng thù hận dâng trào, Ecmion lợi dụng sự si tình của Orext, khiến chàng
đi giết chết Piaruyx ngay trong buổi hôn lễ của Nhà vua cùng Andromaque.
Trong buổi lễ, Piaruyx tuyên bố bảo hộ Axtyanax, ai là kẻ thù của bé thì

cũng là kẻ thù của mình. Lời ấy được dân chúng tán thành nhưng lại khiến người
Hy Lạp tức giận, họ xông lên tấn công hòng giết kẻ phản bội lại mình. Piaruyx bị
giết chết, Andromaque chỉ huy dân chúng đánh trả người Hy Lạp.


Tỉnh lại sau cơn mất lí trí vì bị phụ bạc, Ecmion nghe Orext báo tin Piaruyx
đã chết, nàng nặng lời oán Orext giết Piaruyx rồi chạy đến đền thần, trông thấy thi
hài Piaruyx, nàng liền rút dao tự tử.
Orext phát hiện ra Ecmion chưa từng yêu mình và rằng nàng chỉ lợi dụng
mìng thì đau khổ đến cuồng loạn, ngất đi và được bạn mình là Philat cứu.
*Vợ kịch “Andromaque” được tác giả lấy cảm hứng từ tác phẩm Eneide của
nhà thơ La Mã cổ đại Virgil và tinh thần anh hùng trong tác phẩm sử thi của
Homer. Trong vở kịch này, chủ nghĩa duy lý của Descartes có phần mờ nhạt, trái
lại, chủ nghĩa duy cảm của Gassendy lại được thể hiện rõ ràng hơn, thông qua việc
các nhân vật tuân theo lý lẽ con tim hướng tình yêu của mình.


3.3. Molière và hài kịch “Lão hà tiện”:



Molière (1622-1673) tên thật là Jean Baptiste Poquelin, là nhà thơ, nhà viết
kịch, nghệ sĩ người Pháp. Ông là người sáng lập nền hài kịch dân tộc Pháp, ông
còn là nhà dàn cảnh, nhà đạo diễn người sáng tạo ra thể loại kịch cổ điển, có thể
được xem là một bậc thầy của thể loại kịch nghệ Châu Âu.
Có thể nói Molière có công rất lớn trong sự kế tục và phát huy mạnh mẽ
kịch hề dân gian Pháp. Chỉ từ Molière thì hài kịch Pháp mới chính thức ra đời và
trở thành vũ khí đấu tranh. Molière là người đã làm cho hài kịch Pháp đứng ngang
hàng với các thể loại sáng tác khác.
Sự nghiệp văn học: chia làm 4 giai đoạn:

+ 1645-1658: Sáng tác chủ yếu là kịch hề, nhưng hầu như bị thất lạc hết, chỉ
còn lại “thằng ngốc”.
+ 1659-1663: Là giai đoạn trưởng thành. Một số vở kịch tiêu biểu: “trường
học làm vợ”, “trường học làm chồng”…
+1664-1666: Giai đoạn hài kịch Molière đã đến đỉnh cao. Tiêu biểu là những
vở kịch: “anh ghét đời”, “tactuyp”
+ 1667-1673: Giai đoạn chuyển hướng (Molière đã đoạn tuyệt với bi kịch và
chuyển hẳn sang hài kịch), với một số tác phẩm vở kịch “lão hà tiện”, “trưởng giả
học làm sang”…
Vở hài kịch “Lão hà tiện”:
Vở hài kịch “Lão hà tiện” được tác giả vay mượn cốt truyện từ vở kịch “Cái
niêu” của nhà viết kịch La Mã – Paute. Từ câu chuyện đơn giản về một người
nghèo bỗng nhiên có được một cái niêu chứa đầy vàng tìm mọi cách giấu diếm số
của ấy, Moliere lại khắc hoạ nên con người hà tiện của lão Harpagon và kể về
những hành động bộc lộ thói keo kiệt, bủn xỉn, tham tài của lão:
Harpagon là một người đàn ông góa vợ có một con trai là Cléante cùng một
con gái là Elise. Vốn là một người khá giả, lão lại vờ như mình túng thiếu, keo kiệt
dè xẻng mọi chi tiêu, soi mói từng đồng cắt. Lão lại có một vạn Êquy trong tay, vì
thế, lão luôn đề phòng mọi người xung quanh, kể cả con ruột, sợ họ sẽ dòm ngó tài
sản cùng số vàng của lão. Harpagon chắt chiu hà khắc với chi tiêu khiến gia đình
lão phải sống túng quẫn, anh con trai Cléan te còn phải đi vay mượn tứ phía, còn
lão lại mang tiền mình có bí mật đi cho vay lấy lãi nặng. Thói hà tiện của
Harpagon bị người người chê cười mà lão cứ lại không hay biết.
Cléante yêu một cô gái dịu hiền, xinh đẹp tên Mariane, còn Elise cũng tâm
đầu ý hợp với chàng trai tên Valère (anh này đã xin vào làm quản gia cho


Harpagon để tiện bề lấy lòng lão nhằm khiến lão cho phép chuyện hai người). ả hai
vừa định nói với Harpagon thì lão đã báo hôn sự hai người đã được lão xếp đặt.
Cléante sẽ cưới một goá phụ giàu có, Elise gả cho quý ngài Anseime với lí do quý

ông này không cần của hồi môn. Còn lão sẽ kết hôn với Mariane, cô gái hiếu thảo
vâng lời mẹ buộc mình đồng ý lấy lão.
Cléante nhờ người gíup mình tìm nơi vay tiền, nhưng đối phuơng yêu cầu
gặp mặt trực tiếp, anh đến nơi gặp mặt lại không ngờ người cho vay lại là cha
mình. Harpagon cũng không ngờ con trai mình lại đi vay tiền bên ngoài. Hai người
bắt đầu xung đột gay gắt hơn.
Lễ đính hôn của Elise, Harpagon mời cô Mariane đến nhà lão. Mariane và
Cléante gặp mặt nhau và Harpagon biết chuyện Cléante yêu người lão vừa lòng và
sắp lấy làm vợ. Vì thế xung đột giữa hai cha con trở nên dữ dội hơn, cả hai bây giờ
là tình địch của nhau và không ai đồng ý nhượng bộ, dẫn đến nhờ bác cả Jacquest
phân xử. Trong lúc hai người giằng co cùng với sự phân xử không hiệu quả của
bác cả Jacquest thì đầy tớ riêng của Cléante là Flèche nhân đó trộm đi cái tráp
đựng vàng của Harpagon.
Harpagon mất vàng liền phát cuồng kêu đòi người ta phải trả vàng lại cho
lão. Lão mang chuyện trình lên Toà và còn muốn kiện cả Toà nếu không tìm được
cái tráp đựng vàng về cho lão. Bác cả Jacquest vốn không thích Valère, liền bảo
rằng anh trộm. Valère bị đòi lên chất vấn, anh tưởng chuyện tình mình bị bại lộ liền
thú nhận mình cùng Elise yêu nhau đã lâu. Và nhờ đó, anh cùng Mariane mới nhận
ra là anh em của nhau và đều là con của quý ông Anseime bị thất lạc nhiều năm về
trước.
Harpagon vẫn không màn những chuyện xảy ra, lão vẫn một mực mong
muốn tìm số vàng kia về. Cléante lấy đó làm điều kiện trao đổi, nếu lão đồng ý từ
bỏ Mariane thì sẽ trả cái tráp vàng lại cho lão. Cuối cùng, Anseime phải hứa chi
tiền cho đám cưới, đồng thời may cho lão một bộ đồ mới dự tiệc thì lão mới cho
hai đôi tình nhân kết hôn. Kết thúc, mọi người vui vẻ đi báo tin mừng còn
Harpagon thì đi xem cái tráp vàng yêu quý của lão.
* Hài kịch “Lão hà tiện” vẫn tuân thủ quy tắc “đề cao lí tính” của chủ nghĩa
cổ điển. Điều này dễ thấy nhất qua việc lão Harpagon luôn lí trí trong việc tính
toán làm sao để có lợi nhất cho lão. Từ việc suy tính gả con gái cho một quý ông
hơn 50 tuổi vì ông này không cần của hồi môn, hay việc sắp xếp cho con trai lấy

một bà goá vì bà này rất giàu – lão luôn suy tính làm sao để kiếm tiền và giữ tiền;


cho đến việc lão luôn nghi kị tất cả mọi người, tìm mọi cách bảo vệ cái tráp vàng
của lão.
Quy tắc mô phỏng tự nhiên của “Lão hà tiện” thể hiện qua việc đi sâu vào
miêu tả tính cách hà tiện của Harpagon.
Quy tắc mô phỏng học tập cổ đại: tác phẩm “Lão hà tiện” không phải do
Moliere sáng tác một mình, mà là mượn cốt truyện “Cái nồi” của nhà hài kịch La
Mã cổ đại Plaute. Khác với nguyên tác chủ yếu mô tả tâm trạng lo sợ thấp thỏm
của người đột nhiên có một số tiền lớn, Hài kịch “Lão hà tiện” của Moliere lại đi
sâu, khắc hoạ tính tham lam, keo kiệt, quý tiền hơn mạnh của nhân vật chính.
3.4. La Fontaine và truyện thơ ngụ ngôn:
La Fontaine (1621- 1695): Jean De La Fontaine sinh ngày 7 – 7 – 1621 tại
vùng Champagne. Ông xuất thân trong một gia đình tư sản trung lưu. Mẹ mất sớm,
ông thừa huởng sự giáo dục đầy tự do và sâu rộng của người cha. Từ bé ông đã
sống giữa thiên nhiên, yêu cảnh rừng núi và thú rừng hoang dã. Sau khi học xong ở
Paris, ông trở về quê nối nghiệp cha và sống với những người dân lao động nghèo
khổ.
La Fontaine sáng tác nhiều tác phẩm với những thể loại khác nhau như:
Truyện thơ (1665), tiểu thuyết (Xise, 1664 – 1674), kịch, nhưng ông nổi tiếng nhất
với
tập
Ngụ
ngôn
(1666

1694)
gồm
12

quyển.
Văn phong La Fontaine giàu chất thơ, dí dỏm và hàm súc đa nghĩa. Thơ ngụ ngôn
của ông tiêu biểu cho bút pháp nhẹ nhàng linh hoạt, uyên bác, hài hước nhưng
cũng đầy mơ mộng. Thơ của ông mang tính dân tộc sâu sắc, là biểu tượng của nền
văn hoá Pháp.


Truyện thơ Ngụ ngôn (1666 – 1694):
Thơ ngụ ngôn của La Fontaine là một công trình phong phú mà ông phải
mất 28 năm để hoàn thành, gồm 238 truyện được in trong 12 quyển.
Trong quá trình viết nên những bài thơ ngụ ngôn của mình, La Fontaine không tự
nghĩ cốt truyện mà là sáng tác dựa trên những cốt truyện có sẵn từ các nguồn cổ
điển khác nhau.
_ Nguồn từ văn học cổ điển Hy – La, mà điển hình là La Fontaine lấy cảm
hứng từ những câu chuyện ngụ ngôn của nha thơ ngụ ngôn Hy Lạp Edov.


_ Nguồn từ văn học trung cổ Pháp.
_ Nguồn từ những câu chuyện kể phương Đông, đa phần của Ấn Độ.
*Mặc dù dựa trên các nguồn có sẵn khác nhau nhưng mỗi câu chuyện kể của
La Fontain đều là sự trau chuốt tỉ mỉ và tài hoa, mang dấu ấn đặc trưng của riêng
ông: thể thơ linh hoạt nhẹ nhàng, ý thơ hàm súc đa nghĩa, giọng thơ dí dởm hài
hước tạo nên thế giới mơ mộng mà chứa đựng những bài học sâu sắc. Bằng việc
hướng con người tới phóng khoáng, thoải mái, gần gũi với thiên nhiên, La Fontain
đã tuân theo chủ nghĩa duy cảm của Gassendy.
4.Văn học cổ điển ở Việt Nam:
Ở Việt Nam, chủ nghĩa cổ điển như một phong cách nghệ thuật, một khuynh
hướng mĩ thuật chua bao giờ xuất hiện. Văn học cổ điển ta nói đến ở văn học Việt
Nam là theo nghĩa rộng có nghĩa là mẫu mực. Cụ thể nó là một tên gọi chung cho
giai đoạn văn học phát triển rực rỡ với nhiều tác phẩm đạt đến trình độ mẫu mực từ

đầu thế kỉ XIX trở về trước . Từ trong di sản của các tác giả trung đại, cũng xuất
hiện nhiều quan niệm về thơ ca, có thể phát huy mặt tích cực trong thi pháp biểu
hiện.
Thời đại suy yếu của phong kiến Trung Hoa là từ sau thời Tống Nho, ở Việt
Nam là từ thế kỷ XVI… Từ cơ sở xã hội đến ý thức hệ và quan niệm văn học nghệ
thuật đều trở nên lạc hậu, tất yếu dẫn đến sự thoái hóa trong khuynh hướng cổ điển
cả về nội dung lẫn hình thức, từ việc xây dựng nhân vật lý tưởng đến thi pháp biểu
hiện. Nhìn một cách tổng quát, với các tính chất giáo huấn, lý tưởng hóa và qui
phạm, khuynh hướng cổ điển trong văn học cổ phương Đông cũng có một số yếu
tố tương đồng với chủ nghĩa cổ điển phương Tây đều xem xét nhân vật lý tưởng là
người đặt lý trí lên trên tình cảm, coi nhẹ lợi ích riêng tư, tận trung phục vụ chế độ
và lễ giáo phong kiến, coi nhẹ việc cá thể hóa tính cách và đặc biệt là sự thiếu dân
chủ về đề tài và thể loại, và ngay cả những thể loại được tôn sùng vẫn có những
quy phạm nghiêm ngặt… Tuy nhiên, ở phương Đông và Việt Nam, quan hệ sản
xuất tư bản ra đời và phát triển chậm, không diễn ra thế quân bình giữa hai giai cấp
phong kiến và tư sản.
Tiêu biểu cho văn học Việt Nam với những tác phẩm mẫu mực là các tác gia
như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm…


-

Nguyễn Trãi

Văn học nửa đầu thế kỉ XV mang âm điệu anh hùng là âm điệu chủ đạo.
Tiêu biểu là tác gia Nguyễn Trãi – ngôi sao sáng nhất của bầu trời văn học lúc
đương thời, những sáng tác của ông đã trở thành mẫu mực của nền văn học Đại
Việt
Là một trí thức dân tộc có ý thức cao về nền văn hóa của nước Đại Việt,
Nguyễn Trãi đã rất coi trọng văn học dùng ngôn ngữ dân tộc. Trong sự nghiệp sáng

tác của Nguyễn Trãi, thơ Nôm giữ một vị trí rất đặc biệt(254 bài). “Quốc âm thi
tập” cho thấy thơ Nôm Nguyễn Trãi mang âm điệu riêng :vừa sinh động vừa hàm
súc, vừa chân thực lại vừa mĩ lệ, lại nhiều khi gân guốc độc đáo vì ông có tâm hồn
phong phú; là lời than của một người đau xót vì lý tưởng không thực hiện được, lo
lắng vì việc đời ngày càng rối ren. Nguyễn Trãi quan niệm rằng : văn nghệ không
thể tách rời những yêu cầu của cuộc sống, ông dùng ngòi bút như một vũ khí, giúp
cho người đời nhìn hiện thực một cách phong phú hơn, sâu sắc hơn. Những bài thơ
của ông đều có kết cấu niêm luật chặt chẽ, hoàn chỉnh, vững chắc.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi trước hết là ở chỗ dùng ngòi bút mà
chiến đấu cho Tổ quốc, cho nhân dân. Ông viết để đánh giặc, ông viết để xây dựng
đất nước, ông viết để phê phán những mặt tiêu cực của triều đình, ông viết để tự tu
dưỡng, để giữ vững phẩm chất trong những cơn bỉ cực.Những bài văn chữ Hán có
tính chiến đấu cao và nội dung yêu nước sâu sắc viết trong thời gian kháng chiến
được tập hợp lại thành “Quân trung từ mệnh tập”. Nó có sức mạnh như những đạo
quân, như những đợt tiến công mãnh liệt vào kẻ thù. Đó là tác phẩm phải nói đến
trước hết khi tìm hiểu Nguyễn Trãi. Nhân nghĩa là một nguyên lý mà Nguyễn Trãi
coi như bất di bất dịch: là bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân, chống xâm lược,
chống bóc lột
“Bình ngô đại cáo” là tác phẩm phản ánh đầy đủ và tập trung hơn cả sự diễn
biến của cuộc kháng chiến chống quân Minh. Sau khi nêu cao tính chất chính nghĩa
cuả quân ta và vạch tội giặc,Nguyễn Trãi đã kể lại các giai đoạn của cuộc kháng
chiến. “Bình ngô đại cáo” nêu cao chiến lược “mưu phạt tâm công”. “Bình ngô đại
cáo” trình bày từ chỗ yếu đến chỗ mạnh của nghĩa quân, từ chỗ gieo neo gian khổ
đến chỗ phấn khởi thành công của cuộc kháng chiến. Bình ngô đại cáo nói lên ý
chí bất khuất và chủ nghĩa anh hùng của nhân dân ta. Đó là một bản tuyên ngôn


độc lập và giá trị của “Bình ngô đại cáo” không phải chí là ở chỗ phản ánh cuộc
kháng chiến mà là ở chỗ phát biểu được chủ nghĩa yêu nước của nhân dân ta
Ngoài mục đích chiến đấu, thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi cũng bộc lộ tâm lộ

tâm sự của mình – một con người có khí phách hào hùng, có tầm vóc cao cả của
thời đại.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi là một cống hiến to lớn cho sự phát
triển của văn học nước ta. Thơ văn Nguyễn Trãi đúc kết được những truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, là tấm gương phản chiếu ánh hào quang rực rỡ nhất của thế kỉ
XV

-

Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bỉnh Khiêm là tác gia tiêu biểu tỏ niềm ưu ái sâu sắc của mình với
đất nước, con người. Cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của ông phần nào thể hiện
được điều đó.
Nguyễn Bỉnh Khiêm sống trong thời loạn lạc, tư tưởng triết học ở ông là tấm
gương phản chiếu một xã hội đầy biến động, là đại diện cho tâm lý chung của
người đời. Quan niệm vũ trụ và nhân sinh trong tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm
một mặt chịu ảnh hưởng của tư tưởng Lão –Trang và Phậ giáo, nhưng là một nhà
Nho, tư tưởng triết học ấy chủ yếu bắt nguồn từ Kinh Dịch và Lý học (bao gồm cả
Nho, Phật, Lão). Mặt khác, vì ẩn dật ở nơi thôn dã, ít nhiều Nguyễn Bỉnh Khiêm
cũng tiếp thu được triết lý thực tiễn và kinh nghiệm thực tiễn của nhân dân.
Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phản ánh được sự bế tắc của các triều đại
phong kiến không sao thoát khỏi cái vòng lẩn quẩn hết hưng lại vong.
Niềm ưu ái trong thơ ông cũng dành những tình cảm trong sáng, cao đẹp
hướng về dân chúng. Kế thừa truyền thống của những nhà ái quốc vĩ đại như Trần
Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi… Ông hiểu rằng “bền nước, yên dân là việc đầu mối”,
nước trước hết là dân, muốn lo việc nước thì phải dựa vào dân, phải được lòng dân


Nguyễn Bỉnh Khiêm nêu cao nhân nghĩa, hòa bình, vạch trần sự vô lý của

cảnh tàn sát do bọn phong kiến gây ra, tố cáo dã tâm của những kẻ thích theo đuổi
chiến tranh làm cho nhân dân khổ sở, điêu đứng. Nguyễn Bỉnh Khiêm tha thiết
mong cho loạn lạc nhanh chóng chấm dứt để dân được yên ổn làm ăn
Tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm phần lớn được viết trong bối cảnh nông
thôn, khi nhà thơ ở ẩn. Tập thơ Nôm “Bạch Vân am thi tập” ngoài tình cảm với con
người, nhà thơ còn miêu tả thiên nhiên thôn quê và lòng tha thiết của ông đối với
cuộc sống ẩn cư
Nguyễn Bỉnh Khiêm có những đức tính tốt đẹp của thuộc về truyền thống tốt
đẹp của dân tộc và ông đã thể hiện trong thơ ca của mình. Niềm ưu ái sâu sắc với
đất nước, con người; thái độ dũng cảm phê phán những tệ lậu của chế độ phong
kiến; đức tính liêm khiết, giản dị; phong thái an nhiên kết hợp với nỗi chân tình. Từ
đó, thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm đã kế thừa và phát huy những truyền thống của
văn học từ đời trước để lại, là những áng thơ văn mẫu mực của văn học dân tộc
-

Nguyễn Du

Nguyễn Du cũng là một trong số những tác gia tiêu biểu sáng tác theo tinh
thần nhân đạo chủ nghĩa thể hiện tư tưởng của người tài tử : suy nghĩ về thân phận
mình, suy nghĩ về số mệnh của những người tài sắc, suy nghĩ về số mệnh của
những người cùng khổ…Tư tưởng Nguyễn Du chịu ảnh hưởng Nho giáo, Lão
Trang, Phật giáo. Nguyễn Du là tập đại thành tư tưởng đương thời Nho giáo đã tạo
ra hình tượng người tráng sĩ cùng đường và con người cô trung độc tỉnh rất thú vị.
tư tưởng Thiền Lão đã đưa Nguyễn Du đến cái tâm ngộ đạo và những bài thơ thiên
nhiên tuyệt đẹp. “Truyện Kiều” là một trong những mẫu mực của thi ca, là niềm tự
hào dân tộc. Tác phẩm đặt ra vấn đề “tài mệnh tương đố”, “hồng nhan bạc phận” từ
đó đặt ra vấn đề người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đô thị phong kiến mà đồng
tiền đã bắt đầu khẳng định thế lực của nó. Nghệ thuật bậc thầy trong việc xây dựng
tính cách , miêu tả tâm lý nhân vật. Thời gian và không gian đã trở thành phương
tiện nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật và tình huống truyện. dùng thiên nhiên

để dự cảm về số phận con người là một thủ pháp đặc biệt trong Truyện Kiều mà
khó có tác phẩm nào sánh được


Nhìn chung, văn học Việt Nam thời kì trung đại đã trở thành một bộ phận
quan trọng và không thể thiếu trong nền văn học của một quốc gia độc lập, trở
thành chuẩn mực cho những sáng tác của văn học giai đoạn sau này.

Kết luận:
Nhìn chung chủ nghĩa cổ điển là giai đoạn phát triển quan trọng của lịch sử
văn học châu Âu, đặc biệt là văn học Pháp. Nó gắn liền và đưa văn học lên đến
bước đường phát triển mới. Nó tiếp tục một cách xứng đáng chủ nghĩa nhân văn
thời Phục hưng và chuẩn bị cho nền văn học Ánh sáng của giai cấp tư sản đầu TK
XVIII chứ không hài hòa trong cái chung .


Tài liệu tham khảo:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.

Đặng Anh Đào (Chủ biên),Văn học phương Tây, Nxb Giáo dục Việt Nam,
2007.
Lê Huy Bắc – Lê Nguyên Cẩn - Nguyễn Linh Chi, Giáo trình văn học
phương Tây, Nxb Giáo dục Việt Nam. (bản tái bản lần thứ nhất)

Tuấn Đô, Kiệt tác sân khấu thế giới – Môlie – Lão hà tiện, Nxb Sân khấu Hà
Nội, 2006.
Đinh Gia Khánh (chủ biên) ,Văn học Việt Nam(TK X – nửa đầu TK XVIII),
NXB Giáo Dục,2008.
Đoàn Lê Giang , Văn học Việt Nam (đầu TK XVIII – cuối TK XIX) ,TP
HCM,2008.
Nguyễn Dữ , Truyền kì mạn lục.
Nhiều tác giả, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam TK XVIII nửa đầu TK
XIX,NXB Văn học Hà tái bản.
Đào Duy Anh phiên âm và chú giải, Truyện Kiều,NXB Văn học.

Tài liệu online:
/> /> />%C3%A1p
/> /> />


×