Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170 KB, 33 trang )

KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
-----------------

TIỂU LUẬN

NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
VIỆT NAM
GVHD: ThS Nguyễn Thị Quỳnh Trang

1

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH- 2017


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Trải qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt với sự tàn phá nặng nề về mặt kinh tế,
Đảng và nhà nước ta đã sáng suốt lèo lái con thuyền dân tộc để vực dậy nền kinh tế
nước nhà. Hiện nay, Nước Cộng hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đang đi trên con
đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa và từng bước
khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế.
Kinh tế giữ một vai trò hết sức quan trọng, quyết định vận mệnh cũng như sự
phát triển của một quốc gia. Với tốc độ phát triển kinh tế chóng mặt hiện nay của thế


giới, thì chúng ta phải tự đặt cho bản thân, cho thế hệ tương lai của đất nước một câu
hỏi: Làm sao để tiến độ phát triển của nước nhà theo kịp với khu vực và thế giới?
Trả lời cho câu hỏi này, nhóm tác giả xin khẳng định, cái cốt lõi cần quan tâm
nhất là vấn đề nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là nguồn lực con người luôn được xem
là một yếu tố tạo nên sự thành công của mọi tổ chức, quốc gia và vùng lãnh thổ. Là
nguồn lực quan trọng nhất, quyết định năng suất, chất lượng hiệu quả sử dụng các2
nguồn lực khác trong hệ thống nguồn lực của doanh nghiệp. Trong bối cảnh cạnh tranh
kinh tế toàn cầu và hội nhập kinh tế quốc tế, tất cả các nước đều coi nguồn nhân lực là


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
công cụ quan trọng nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm, năng lực cạnh
tranh doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh quốc gia. Kinh tế nước ta muốn phát triển
một cách bền vững thì đòi hỏi bài toán nguồn nhân lực phải được giải quyết một cách
ổn thỏa cả về chất và lượng. Nguồn nhân lực là điều kiện tiên quyết, quyết định sự tồn
tại và phát triển nền kinh tế của một quốc gia.
Chúng ta đã biết nguồn nhân lực giữ một vị trí hết sức quan trọng. Vì vậy chúng
ta cần phải hướng nguồn nhân lực đó phát triển theo hướng tích cực. Để làm được điều
này, chúng ta phải xét đến các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực, điều chỉnh chúng
sao cho bài toán nguồn nhân lực của chúng ta đáp ứng được yêu cầu mà xã hội đã đặt
ra. Vậy những yếu tố đó là gì, đặc điểm của các yếu tố ra làm sao và làm cách nào để
điều hòa các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực, để trả lời, nhóm tác giả đã quyết
định chọn đề tài nghiên cứu “NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG
NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM”

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ nguồn lực con người của

một quốc gia, vùng lãnh thổ có khả năng huy động, quản lý để tham gia vào quá trình
phát triển kinh tế xã hội. Theo nghĩa hẹp và về mặt tâm lý học, đó là toàn bộ tri thức,
hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo, trí tuệ, năng lực và tài năng của con người để phục vụ cho
các hoạt động làm phát triển xã hội.
1.1.2. Khái niệm chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực là một khái niệm tổng hợp, bao gồm những nét đặc
trưng về trạng thái thể lực, trí lực và tâm lực. Nó thể hiện trạng thái nhất định của
nguồn nhân lực với tư cách vừa là một khách thể vật chất đặc biệt, vừa là chủ thể của
mọi hoạt động kinh tế và các quan hệ xã hội.
1.2. Phân loại nguồn nhân lực
1.2.1. Căn cứ vào khả năng và mức độ tham gia hoạt động kinh tế

3


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
Một là, nguồn nhân lực có sẵn trong dân cư bao gồm toàn bộ những người nằm
trong độ tuổi lao động, có khả năng và nhu cầu lao động không kể đến trạng thái có
làm việc hay không làm việc.
Độ tuổi người lao động là giới hạn về những điều kiện cơ thể, tâm sinh lý xã
hội mà con người tham gia vào quá trình lao động. Giới hạn độ tuổi lao động được quy
định tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của từng nước và trong từng thời kỳ. Tại
Điều 6 và Điều 145 của Bộ Luật lao động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
quy định độ tuổi lao động của nam từ 15 – 60 tuổi và nữ là 15 -55 tuổi.
Bộ phận nguồn nhân lực này được gọi là nguồn lao động. Như vậy có một số
người được tính vào nguồn nhân lực nhưng lại không phải là nguồn lao động. Đó là
những người trong độ tuổi lao động không có việc làm nhưng không có nhu cầu làm
việc.
Hai là, nguồn nhân lực tham gia làm việc trong thị trường lao động có giao kết
hợp đồng lao động, kể cả trong hay ngoài độ tuổi lao động. Bộ phận này của nguồn

nhân lực được gọi là lực lượng lao động, hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế.
Ba là, nguồn nhân lực dự trữ bao gồm những người trong độ tuổi lao động có nhu
cầu nhưng chưa tham gia làm việc, không có giao kết hợp đồng lao động. Đó là những
người làm nội trợ, thất nghiệp,…
1.2.2. Căn cứ vào vị trí của từng bộ phận nguồn nhân lực
Một là, nguồn nhân lực chính: Đây là nguồn nhân lực có năng lực lao động lớn
nhất, đảm đương chủ yếu các quá trình hoạt động kinh tế-xã hội của đất nước. Đây
chính là nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động.
Hai là, nguồn nhân lực phụ: Đây là bộ phận nguồn nhân lực tùy theo sức của
mình có thể tham gia vào các hoạt động kinh tế với thời gian nhất định. Đây là bộ phận
dân cư nằm ngoài độ tuổi lao động.
Ba là, nguồn nhân lực bổ sung: Đây là bộ phận nguồn nhân lực được bổ sung từ
các nguồn khác, sẵn sang tham gia làm việc như: số người trong độ tuổi lao động tốt
nghiệp ra trường, số người hết hạn nghĩa vụ quân sự, số người lao động ở nước ngoài4
trở về,…
1.3. Tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
1.3.1. Về thể lực
Thể lực là tình trạng sức khoẻ của con người, biểu hiện ở sự phát triển bình thường,
có khả năng lao động. Tình trạng sức khỏe của người lao động được phản ánh bằng
một hệ thống chỉ tiêu cơ bản về sức khỏe như: Chiều cao, cân nặng, tuổi thọ, chỉ tiêu
về tình trạng bệnh tật (các giác quan nội khoa, ngoại khoa, thần kinh, tai, mũi,
họng…); Các chỉ tiêu về cơ sở vật chất, các điều kiện bảo vệ và chăm sóc sức khỏe,
các chỉ tiêu về tỷ lệ sinh tử, suy dinh dưỡng, tỷ lệ biến động tự nhiên, cơ cấu giới tính
của quốc gia, khu vực. Thể lực của con người chịu ảnh hưởng của mức sống vật chất,
sự chăm sóc sức khỏe và rèn luyện của từng cá nhân cụ thể. Một cơ thể khỏe mạnh,
thích nghi với môi trường sống thì năng lượng do nó sinh ra sẽ đáp ứng yêu cầu của
một hoạt động cụ thể nào đó. Thể lực có ý nghĩa quan trọng quyết định năng lực hoạt

động của con người. Phải có thể lực con người mới có thể phát triển trí tuệ và quan hệ
của mình trong xã hội .
1.3.2. Về trí lực
Trí lực được xác định bởi tri thức chung về khoa học, trình độ kiến thức chuyên
môn, kỹ năng kinh nghiệm làm việc và khả năng tư duy xét đoán của mỗi con người.
Trí lực của người lao động thường được đánh giá theo các tiêu chí: trình độ học vấn,
trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng mềm, năng lực ngoại ngữ, tin học,... Trí lực
thực tế là một hệ thống thông tin đã được xử lí và lưu giữ lại trong bộ nhớ của mỗi cá
nhân con người, được thực hiện qua nhiều kênh khác nhau. Nó được hình thành và
phát triển thông qua giáo dục và đào tạo cũng như quá trình lao động sản xuất.
1.3.3. Về tâm lực
Tâm lực là những giá trị chuẩn mực đạo đức, phẩm chất tốt đẹp và sự hoàn thiện
nhân cách của con người, được biểu hiện trong thực tiễn lao động sản xuất và sáng tạo
cá nhân. Đạo đức, phẩm chất là những đặc điểm quan trọng trong yếu tố xã hội của
nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ những tình cảm, tập quán phong cách, thói quen,
quan niệm, truyền thống, các hình thái tư tưởng, đạo đức và nghệ thuật,…, gắn liền với
truyền thống văn hóa. Một nền văn hóa với bản sắc riêng luôn là sức mạnh nội tại của

5

một dân tộc. Kinh nghiệm thành công trong phát triển kinh tế của Nhật Bản và các


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
nước Châu Á là tiếp thu kỹ thuật phương Tây trên cơ sở khai thác và phát huy giá trị
tốt đẹp của nền văn hóa dân tộc để đổi mới và phát triển.
Các yếu tố này có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại, là tiền đề phát triển của nhau.
Muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải nâng cao ba mặt: thể lực, trí lực và
tâm lực. Tuy nhiên mỗi yếu tố trên lại liên quan đến một lĩnh vực rất rộng lớn. Thể lực
và tình trạng sức khỏe gắn với dinh dưỡng, y tế và chăm sóc sức khỏe. Trí lực gắn với

lĩnh vực giáo dục và đào tạo, còn đạo đức phẩm chất chịu ảnh hưởng của truyền thống
văn hóa dân tộc, nền tảng văn hóa và thể chế chính trị,… Do vậy, để đánh giá chất
lượng nguồn nhân lực thường xem xét trên ba mặt: sức khoẻ, trình độ văn hóa và
chuyên môn kỹ thuật, năng lực phẩm chất của người lao động.
1.4. Nhân tố ảnh hưởng chất lượng nguồn nhân lực
1.4.1. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
Tăng trưởng là nhân tố kinh tế quan trọng tác động đến chất lượng nguồn nhân
lực trên nhiều phương diện. Tăng trưởng kinh tế không chỉ trực tiếp góp phần cải thiện
đời sống nhân dân mà còn tăng tiết kiệm và đầu tư trong nước, tạo được nhiều việc
làm mới với mức thu nhập cao. Ngoài ra, nhờ thành tựu tăng trưởng, thu ngân sách
tăng nên đảm bảo nhu cầu chi thường xuyên cho các chương trình mục tiêu quốc gia,
chi cho phát triển giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa,… tác động tích cực hơn đến chất
lượng nguồn nhân lực.
Sự phát triển kinh tế với cơ cấu biến đổi theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và
dịch vụ, giảm nông nghiệp dẫn đến sự phân bổ lao động trong các lĩnh vực hoạt động
đòi hỏi người lao động phải được đào tạo, có khả năng tự học hỏi, thích ứng với nền
sản xuất mới.
Bên cạnh mặt tích cực quá trình tăng trưởng kinh tế cũng có một số ảnh hưởng
tiêu cực đến chất lượng nguồn nhân lực. Tăng trưởng kinh tế thường gắn liền với quá
trình đô thị hóa, thay đổi trong lối sống. Các nghiên cứu cho thấy quá trình đô thị hóa
gắn liền với mức ô nhiễm môi trường tăng cao, tỷ lệ tai nạn gia tăng đáng kể gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân. Do thu nhập tăng lên và sự thay đổi6
trong lối sống nên ở các đô thị tồn tại phổ biến đồng thời mô hình bệnh tật của nước
nghèo và của mức sống cao. Hiện tượng này được gọi bằng thuật ngữ “gánh nặng gấp


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
đôi”, ám chỉ những khó khăn mà người dân và hệ thống y tế xã hội ở các nước đang
phát triển vấp phải.
1.4.2. Giáo dục và đào tạo

Trong các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực thì mức độ phát triển
của giáo dục đào tạo là yếu tố quan trọng nhất vì nó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến
trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng lao động thực hành của người lao
động, mà còn gián tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe và tuổi thọ của người dân:
Thứ nhất, giáo dục góp phần vào tăng trưởng. Từ những năm 1970, với lý thuyết
về tỷ suất lợi nhuận, các nhà nghiên cứu đã xác định được tỷ lệ hoàn trả của giáo dục
sau đầu tư. Giáo dục góp phần vào tăng trưởng kinh tế thông qua tăng năng suất lao
động của mỗi cá nhân nhờ nâng cao trình độ và quan điểm của họ lẫn tích lũy kiến
thức. Vai trò của giáo dục có thể được đánh giá qua tác động của nó đối với năng suất
lao động được tính toán so sánh bằng sự khác biệt giữa sản phẩm của một cá nhân làm
ra trong cùng một đơn vị thời gian trước và sau khi cá nhân đó được học một khóa đào
tạo với chi phí cho khóa đào tạo đó. Kết quả này được gọi tỷ suất lợi nhuận xã hội khi
đầu tư vào giáo dục. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh tỷ suất lợi nhuận của giáo dục
rất cao ở những nước có thu nhập vừa và thấp.
Thứ hai, giáo dục và đào tạo góp phần cải thiện sức khỏe và nâng cao tuổi thọ
của người dân. Giáo dục cung cấp trình độ văn hóa cơ bản là điều kiện để tiếp thu tri
thức, góp phần chống suy dinh dưỡng, cải thiện sức khỏe. Giáo dục cơ bản phát triển
năng lực học tập, giải thích thông tin và thích nghi tri thức vào điều kiện, môi trường
sống của mỗi người. Đó là nền tảng cho việc học tập suốt đời đóng góp vào việc chống
suy dinh dưỡng, cải thiện sức khỏe trẻ em và người lớn, đồng thời nó cũng giúp giảm
tỷ lệ chết và nâng cao tuổi thọ.
Thứ ba, trong bối cảnh thay đổi công nghệ nhanh, giáo dục giữ vai trò chủ yếu
trong tiếp thu và vận dụng tri thức. Các nước đang phát triển có thể tham gia vào
hưởng lợi của tiến bộ công nghệ hay không phụ thuộc vào điều kiện tiên quyết là giáo
dục. Giáo dục cơ bản là nền tảng để tạo ra một xã hội học vấn, nhưng chưa đủ để các

7

quốc gia cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Giáo dục đại học mới có khả năng đào
tạo những người có khả năng theo dõi các khuynh hướng công nghệ, đánh giá được sự



KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
thích ứng của chúng đối với những triển vọng của đất nước và giúp xây dựng triển
khai một chiến lược phát triển công nghệ quốc gia thích hợp. Những khám phá khoa
học và các phát minh không chỉ đòi hỏi nguồn tài chính dồi dào mà còn cần lực lượng
lao động có chất lượng cao với năng lực tinh vi của con người và sự nhạy bén kinh
doanh để thắng lợi trong cạnh tranh.
1.4.3. Dân số
Phát triển nguồn nhân lực liên quan mật thiết đến vấn đề dân số, dân số là nhân tố
ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng lao động của mỗi quốc gia. Số lượng lao động phụ
thuộc chặt chẽ vào tốc độ gia tăng dân số, quy mô dân số, chất lượng dân cư...Song tốc
độ và quy mô gia tăng dân số, đặc biệt là tốc độ gia tăng dân số phụ thuộc rất lớn vào
điều kiện kinh tế, môi trường sống (bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã
hội), trình độ dân trí, khả năng nhận thức của các thành viên trong xã hội, chính sách
kinh tế, chính sách xã hội, chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân, chính sách an sinh
xã hội, pháp luật, phong tục, tập quán, tâm lý, sự phát triển của khoa học công nghệ,
nhất là trong lĩnh vực y học,..của mỗi quốc gia.
1.4.4. Tình trạng dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe
Dinh dưỡng thấp và sức khỏe yếu dẫn đến giảm năng suất lao động. Một bà mẹ
suy dinh dưỡng trong thời kì mang thai, sự thiếu thốn lương thực thực phẩm trong giai
đoạn sơ sinh và vào lúc trẻ còn nhỏ là đều dẫn tới các bệnh tật cũng như sự khiếm
khuyết trong quá trình phát triển về thể trạng và thần kinh của trẻ. Do đó năng suất lao
động trong tương lai sẽ bị hạn chế. Hơn nữa sự suy dinh dưỡng và bệnh tật ở người lớn
làm suy giảm năng lượng, tính sáng tạo, sáng kiến, khả năng học tập và làm việc của
họ. Các nước đang phát triển thường mắc kẹt trong vòng luẩn quẩn của nghèo đói, suy
dinh dưỡng và năng suất lao động thấp.
Tình trạng suy dinh dưỡng thường là vấn đề của người nghèo. Nguyên nhân
không chỉ do thu nhập thấp mà còn vì trình độ học vấn thấp, không có khả năng tiếp
cận và thu nhận thông tin cần thiết để thực hiện dinh dưỡng hợp lý.

Ngoài vấn đề dinh dưỡng, sự phát triển của hệ thống y tế và khả năng tiếp cận8
của người dân có ảnh hưởng quan trọng đến việc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe. Do
thành tựu tăng trưởng và phát triển kinh tế, quy mô và năng lực của mạng lưới y tế


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
tăng lên cùng với tiến bộ của khoa học công nghệ trong y học đã góp phần nâng cao
sức khỏe, thể hiện ở tuổi thọ bình quân ngày càng tăng cao. Tuy nhiên như người ta
thường nói hệ thống y tế là xã hội thu nhỏ, điều đó có nghĩa là khả năng tiếp cận tiếp
cận của người dân với dịch vụ y tế, đặc biệt là dịch vụ y tế chất lượng cao là không
đồng đều.
1.4.5. Trình độ khoa học công nghệ
Trình độ khoa học công nghệ phản ánh quá trình tiếp thu thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ để nâng cao năng suất lao động, nâng cao tiềm lực phát
triển quốc gia, đặc biệt giúp các quốc gia đang phát triển có cơ hội rút ngắn khoảng
cách nhanh hơn với thế giới. Muốn có trình độ khoa học công nghệ cao, đầu tiên phải
có nguồn nhân lực có chất lượng cao, và ngược lại, trình độ khoa học công nghệ tác
động đến chất lượng nguồn nhân lực. Khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức có
tác động làm thay đổi quá trình tổ chức, trình độ chuyên môn và là động lực thúc đẩy
người lao động không ngừng học hỏi, tự đào tạo, tự trao dồi kiến thức. Trong một nền
công nghiệp hiện đại với dây chuyền tự động hóa ngày càng cao, người lao động
không thể chỉ có tay nghề như lao động thủ công, mà đòi hỏi họ phải tự mình trang bị
kỹ năng, kiến thức để cạnh tranh với lao động khác trong quá trình tuyển dụng, từ đó,
làm cho mặt bằng chung về lao động của xã hội nâng lên, chất lượng nguồn nhân lực
cũng nâng cao. Ngược lại, nếu như trình độ khoa học công nghệ của một quốc gia còn
thấp thì đa số người lao động chỉ dừng lại ở việc trang bị kiến thức phổ thông, đủ để
đáp ứng cho nền sản xuất thủ công, tiểu công nghiệp, điều này sẽ làm cho chất lượng
nguồn nhân lực không thể cải thiện và tiến bộ, làm cho xã hội khó phát triển.
1.4.6. Hệ thống chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần đến hệ thống các chính sách vĩ mô

của Nhà nước như: Chính sách y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân, chính sách sử
dụng, phân bổ và thu hút nhân tài, chính sách văn hóa - xã hội, chính sách bảo hiểm xã
hội, chính sách tiền lương,..đều có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển nguồn
nhân lực. Chúng ta biết rằng, nếu trình độ y tế cao, chính sách chăm sóc sức khỏe tốt

9

sẽ tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao thể trạng và chất lượng nguồn nhân lực. Không

thể có một cơ thể khỏe mạnh, cường tráng, tâm hồn trong sáng, tinh thần thoải mái,
phát triển hài hòa trên nền tảng một nền y tế yếu kém, chính sách chăm sóc sức khỏe


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
nhân dân, chính sách văn hóa - xã hội, đời sống văn hóa tinh thần không được quan
tâm, đầu tư thỏa đáng. Mặt khác, việc sử dụng, phân bổ, trọng dụng và thu hút nhân
tài, nguồn nhân lực chất lượng cao hợp lý dựa trên cơ sở năng lực là động lực để người
lao động phấn đấu, cống hiến trong quá trình lao động. Khi mà cơ hội thăng tiến rộng
mở trên tiêu chí phẩm chất đạo đức và tài năng thực sự của bản thân người lao động là
nền móng bền vững để người lao động phát huy tối đa sự sáng tạo trong công việc, là
bệ phóng để họ khẳng định tài năng và chuyên tâm lao động, sản xuất cống hiến cho
xã hội. Bên cạnh đó, chính sách về tiền lương, bảo hiểm xã hội và các chính sách an
sinh xã hội phù hợp sẽ là động lực thôi thúc tinh thần sáng tạo, ý thức trách nhiệm,
tính kỷ luật hay lao động sản xuất của nguồn nhân lực.

10


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
CHƯƠNG 2: NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG

NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM
Một trong các mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm, giai đoạn
2016-2020 thể hiện trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng là: “Thực hiện
đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực
chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội”. Vấn đề đặt ra là cần đánh
giá thực trạng công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay ra
sao để có giải pháp hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Nhân lực là nhân tố quyết định nhất đối với sự
phát triển của mỗi quốc gia. Vấn đề nguồn nhân lực thực chất là vấn đề con người.
Xây dựng nguồn nhân lực Việt Nam tức là xây dựng con người Việt Nam có đủ tầm
vóc, tố chất, tiêu chuẩn, tài đức, đủ sức đảm đương công việc được giao.
2.1. Thực trạng sự ảnh hưởng của các nhân tố đến chất lượng nguồn nhân lực
Việt Nam hiện nay
2.1.1. Trình độ phát triển kinh tế- xã hội của đất nước
Theo báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2016 của Tổng cục thống kê, Tổng
sản phẩm trong nước (GDP) năm 2016 ước tính tăng 6,21% so với năm 2015. Mức
tăng trưởng năm nay tuy thấp hơn mức tăng 6,68% của năm 2015 và không đạt mục
tiêu tăng trưởng 6,7% đề ra, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới không thuận, giá cả
và thương mại toàn cầu giảm, trong nước gặp nhiều khó khăn do thời tiết, môi trường
biển diễn biến phức tạp thì đạt được mức tăng trưởng trên là một thành công, khẳng
định tính đúng đắn, kịp thời, hiệu quả của các biện pháp, giải pháp được Chính phủ
ban hành, chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương cùng thực hiện. Cũng
theo báo cáo này, GDP bình quân đầu người năm 2016 đạt 2215 USD, tăng 106 USD
so với năm 2015. Cho thấy kinh tế đất nước vẫn tăng trưởng tốt, thu nhập người dân
dần được nâng cao, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, cải thiện chất lượng nguồn
nhân lực.

11
Trong năm 2016, tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở
lại hoạt động (gia nhập và gia nhập lại thị trường) của cả nước là 136.789 doanh

nghiệp, trong đó: có 110.100 doanh nghiệp thành lập mới và 26.689 doanh nghiệp


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
quay trở lại hoạt động. Việc này đã giải quyết việc làm cho khoảng 1.641 nghìn người
trong cả năm 20161. Trong quý I năm 2017, cả nước có 26.478 doanh nghiệp đăng ký
thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 271,2 nghìn tỷ đồng, tăng 11,4% về số doanh
nghiệp và tăng 45,8% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2016 2, điều nay mang lại
những yếu tố tích cực cho việc giải quyết việc làm năm 2017.
Các khoản chi phát triển và chi thường xuyên cho các hoạt động giáo dục, y tế,
văn hóa,... tăng theo mỗi thời kì, cụ thể là:
Chi đầu tư phát triển cho giáo dục - đào tạo, dạy nghề dự toán năm 2014 là
28.984 tỉ đồng, năm 2015 là 33.756 tỉ đồng. Ngân sách chi thường xuyên dự toán cho
lĩnh vực này là 174.480 tỉ đồng (năm 2014) tăng lên 184.070 tỉ đồng (năm 2015) và
năm 2016 là 195.604 tỉ đồng3. Cho thấy giáo dục luôn là mối quan tâm hàng đầu, đầu
tư cho giáo dục tạo điều kiện góp phần nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên
môn kỹ thuật, khả năng ngoại ngữ tin học của người học, từ đó nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực về mặt trí lực.
Chi thường xuyên dự toán cho phát triển y tế năm 2015 là 14.830 tỷ đồng, năm
2016 là 18.637 tỷ đồng3. Nguồn vốn này sẽ cải tiến trang thiết bị y tế, nâng cao chất
lượng và số lượng cơ sở khám chữa bệnh. Đồng thời cũng đầu tư phát triển dân số, chế
độ dinh dưỡng, cải thiện sức vóc cho thế hệ tương lai và hiện tại, từ đó nâng cao chất
lượng sức khỏe công dân, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về mặt thể
lực.
Riêng chi thường xuyên dự toán trong lĩnh vực văn hóa thông tin trong năm
2015 và 2016 có sự giảm nhẹ, cụ thể năm 2015 là 2.220 tỷ đồng, năm 2016 là 2.110 tỷ
đồng3. Nhìn chung, trong những năm gần đây, ngân sách chi cho lĩnh vực này có sự
giảm nhẹ qua các năm do sự cắt giảm, tiết kiệm kinh phí và chuyển kinh phí sang đầu
tư giáo dục văn hóa học đường, nhưng mức chi này vẫn đảm bảo đáp ứng nhu cầu văn
hóa và giáo dục giá trị truyền thống của dân tộc cho nhân dân, góp phần nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực về mặt tâm lực.
1 Bộ kế hoạch và đầu tư, Tình hình chung về đăng kí doanh nghiệp tháng 12 và năm 2016, 2016.
2 Tổng cục Thống kê, Tình hình kinh tế - xã hội 4 tháng đầu năm 2017, 04/2017
3 Tổng cục Thống kê, Công khai dự toán Ngân sách Nhà nước các năm 2014, 2015, 2016.

12


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
Tất cả các yếu tố này đều phụ thuộc vào trình độ kinh tế xã hội của đất nước, nếu
kinh tế gặp nhiều khó khăn, biến động thì sẽ khó có thể có sự quan tâm đúng mức cho
việc phát triển nguồn nhân lực thông qua các khoản chi đầu tư phát triển và chi thường
xuyên như vừa nêu trên.
Tuy nhiên, bên cạnh việc chi ngân sách phải kể đến việc sử dụng có hiệu quả
nguồn ngân sách đó. Thực trạng Việt Nam hiện nay cho thấy nhiều bất cập trong quá
trình triển khai và sử dụng nguồn vốn, chưa hiệu quả và chưa đồng bộ dẫn đến hiệu
quả chưa cao, có khi gây ra những tổn thất không nên có. Cụ thể là:
Việc thiếu nhất quán trong đào tạo và đảm bảo nhu cầu tuyển dụng xã hội đã
gây ra nạn thất nghiệp, theo Thống kê của bộ Lao động thương binh và xã hội chỉ
trong quý I năm 2016, có 225.500 người thất nghiệp từ trình độ cử nhân trở lên. Có
nhiều doanh nghiệp sẵn sàng đào tạo lại lao động khi có nhu cầu sử dụng, do quá trình
đào tạo còn có một số bất cập, xa rời thực tiễn, đặt nặng lý thuyết.
Trong tiến trình phát triển kinh tế, sự giải quyết chưa hài hòa giữa lao động và
việc làm dẫn tới vấn đề thiếu việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi
năm 2015 là 2,31%, trong đó khu vực thành thị là 3,29%; khu vực nông thôn là 1,83%.
Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên từ 15 - 24 tuổi là 6,85%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao
động từ 25 tuổi trở lên là 1,27%.4
Tình trạng quan liêu cửa quyền trong các bệnh viện, cơ sở y tế còn xảy ra, gây
khó khăn cho việc khám chữa bệnh của người dân, các chính sách y tế đưa ra chưa
đồng bộ, thất thoát, cơ chế quản lý còn lỏng lẻo.

Vẫn còn tồn tại tình trạng người lao động thiếu tác phong công nghiệp, làm
việc theo tính cách tiểu nông, thiếu trách nhiệm, không tận tụy, làm việc qua loa, lối
sống cha chung không ai khóc,....
Mặt trái của tăng trưởng kinh tế đem lại những hậu quả bức bội như ô nhiễm
môi trường, thay đổi lối sống,.... Vấn đề ô nhiễm ở 4 tỉnh miền Trung do sự cố Fomosa
gây ra đã cho thấy biểu hiện rõ nét của nó. Bầu không khí ở các trung tâm đô thị lớn,
như thành phố Hồ Chí Minh chịu ô nhiễm nặng nề. Bên cạnh đó, kinh tế phát triển
13

4 Tổng cục Thống kê, Tình hình kinh tế - xã hội năm 2015.


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
đem lại lối sống thực dụng cho một bộ phận người dân, gây ảnh hưởng đến sức khỏe,
khả năng làm việc. Và còn nhiều hệ quả khác như tai nạn tăng cao, bệnh tật,....
Trình độ phát triển kinh tế xã hội có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng nguồn
lao động, vì đây là yếu tố quyết định các lĩnh vực khác trong xã hội. Thực trạng sự tác
động của yếu tố này bên cạnh những yếu tố tích cực, còn có nhiều bất cập, tiêu cực
trong nhiều lĩnh vực làm cho chất lượng nguồn lao động chưa thực sự được nâng cao
và đầu tư đúng mức.
2.1.2. Giáo dục và đào tạo
Trong bối cảnh khu vực và quốc tế hiện nay, nhằm nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, tạo ra nguồn nội lực to lớn phục vụ quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đưa
đất nước hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế quốc tế, Đảng ta đã khẳng định: “Phát
triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt
Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế,
trong đó, đổi mới cơ chế giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là
khâu then chồt”. Nghị quyết TW 8 khóa XI về Đổi mới căn bản toàn diện về giáo dục
và đào tạo, một lần nữa Đảng ta khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư

phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế- xã
hội”. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội và
bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan và
“Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất
lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng. Đổi mới hệ thống giáo dục
theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương
thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại hóa giáo dục và đào tạo”.
Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh. Điều này có thể
được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào tạo nhân lực. Số sinh
viên đại học và cao đẳng là 2.118.500 người (năm 2015), số học sinh các trường trung
cấp chuyên nghiệp là 315.000 người (năm 2015) 5. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo, cơ

14

cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương,… chưa đồng
5 Theo số liệu thống kê sơ bộ năm 2015 của Tổng cục Thống kê


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
nhất, chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực
của Nhà nước và xã hội.
Mỗi năm có khoảng 20000 sinh viên ra trường và chỉ 50% được đáp ứng việc
làm, trong đó chỉ 30% đúng ngành nghề6. Dĩ nhiên chúng ta chưa nói đến chất lượng
và thực tế chuyên môn của tầng lớp mà người ta gọi là tri thức, là bộ mặt của đất nước.
Việt Nam là một trong những quốc gia còn sót lại của nền giáo dục đại học dưới
sự quản lý chặt chẽ từ trung ương, thiếu sự tự quản đến mức khó hiểu. Sự bất cập này
không những ảnh hưởng đến chất lượng chuyên môn của đội ngũ giảng dạy mà còn cả
các tiêu chuẩn xây dựng cơ sở vật chất.
Trong 10 năm từ 1996 đến 2005 chỉ có 3456 công trình nghiên cứu khoa học trên
các tập san quốc tế. Nếu đem so sánh với con số giáo sư và phó giáo sư thì trung bình

mỗi vị chỉ có 0,58 bài báo cáo trong vòng 10 năm. Không những ít so với quốc tế và
so với các nước trong khu vực, Việt Nam cũng đứng vào loại thấp nhất : chỉ bằng 1/5
so với Thái lan ; 1/3 Malaysia ; 1/14 Singapo; thậm chí thấp hơn cả Indonesia và
Philippin.7
Chất lượng sinh viên tốt nghiệp ở Việt nam thấp hơn một bậc so với nước ngoài.
Theo một giảng trình viên của cuộc hội thảo về toán lý hóa : “Trình độ của sinh viên
tốt nghiệp ở Việt nam chỉ bằng chương trình đại cương của đại học nước ngoài, cao
học bằng đại học và tiến sĩ bằng cao học”...
Trong một cuộc sát hạch, đánh giá của Intel để tuyển dụng 2000 sinh viên công
nghệ thông tin, chỉ có 90 ứng sinh, nghĩa là 5% vượt qua kiểm tra, và trong số đó chỉ
có 40 người đủ khả năng tiếng anh theo yêu cầu tuyển dụng. Intel xác nhận, đây là kết
quả tệ nhất mà họ từng gặp ở những nước mà họ đầu tư.
Có thể nói giáo dục Việt Nam đang thực sự khủng hoảng, mà nói như các chuyên
gia của đại học Harvard thì nó đã đến mức trầm trọng. Điều nay gây ảnh hưởng đến
chất lượng nguồn nhân lực, nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2.1.3. Dân số

15
6 Báo điện tử Luanvanaz.com, Thực trạng chất lượng giáo dục Việt Nam hiện nay
7 GS. Nguyễn Văn Tuấn, Ngiên cứu khoa học ở Việt Nam: Vấn đề chất lượng và đầu tư


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
Tổng điều tra dân số năm 16/1/2017 nước ta có tổng dân số là 94.970.597 người,
chiếm khoảng 1,27% tổng dân số thế giới, xếp thứ 14 trên thế giới. Cơ cấu dân số Việt
Nam theo độ tuổi đang biến đổi theo hướng giảm tỷ trọng trẻ em dưới 15 tuổi và tăng
tỷ trọng người già. Tuy nhiên nhìn chung dân số nước ta vẫn là dân số trẻ.
Tỷ lệ nam/nữ là 100% tuy nhiên tỷ lệ này không đồng đều ở tất cả nhóm tuổi, đặc
biệt đáng chú ý là tình trạng trẻ em nam nhiều hơn trẻ em nữ. Các nhóm tuổi càng nhỏ
thì tỷ lệ chênh lệch giới tính càng lớn, trong đó nhóm tuổi từ 0-4 tuổi hiện đang có tỷ

lệ chênh lệch giới tính cao nhất lên đến 111,6% tương đương cứ 100 bé gái thì có
111,6 bé trai.8
Tổng diện tích cả nước là 310,060 km2. Mật độ dân số trung bình của Việt Nam
là 308 người/km2. Dân cư đô thị chiếm 34,7% tổng dân số (33.121.357 người). Mật độ
dân số Việt Nam tăng lên nhanh chóng và thuộc loại cao trong khu vực và trên thế giới
nhưng phân bố không đồng đều giữa các vùng. Vùng đất hẹp thì tập trung nhiều: đồng
bằng chiếm 24,3% diện tích lãnh thổ nhưng lại có tới 56,26% dân số. Dân số Việt Nam
đại bộ phận sống ở nông thôn (76,5%) 8. Từ thực trạng dân số VN có ảnh hưởng quy
mô và chất lượng nguồn nhân lực:
Với dân số trên 90 triệu người đây là nguồn hình thành nguồn nhân lực tự
nhiên của nước ta. Dân số nước ta là dân số trẻ, do đó có nguồn nhân lực dồi dào, mỗi
năm tăng thêm khoảng 1 đến 1,2 triệu lao động, hiện nay nước ta có khoảng 58 triệu
người trong độ tuổi lao động8.
Việt Nam đang bước vào thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” Thời kỳ đặc biệt này
chỉ xảy ra một lần trong lịch sử phát triển của bất kỳ quốc gia nào. Dân số đông, nguồn
nhân lực dồi dào tạo động lực để phát triển đất nước, phát triển kinh tế - xã hội, thu hút
được nhiều sự đầu tư của nước ngoài do giá nhân công ở nước ta tương đối rẻ so với
các nước khác trong khu vực, đồng thời nguồn nhân lực nước ta có sức khỏe, ham học
hỏi, tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến rất nhanh của thế giới. Ngoài ra cũng có
những tác động tiêu cực, với dân số đông và tăng nhanh trong đó kinh tế lại chưa phát
triển kịp với phát triển dân số do đó đã tạo ra sức ép về việc làm, gây khó khăn cho

16

quá trình quy hoạch chính sách phát triển chất lượng nguồn nhân lực như: giáo dục, an
8 Tổng cục thống kê


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
sinh xã hội, chăm lo sức khỏe, đời sống cho người lao động, và dân số đông gây ra

một số tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên,... chất lượng nguồn
nhân lực của chúng ta còn thấp do chưa được đào tạo bài bản theo một lộ trình hợp lý
với yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó, chúng ta cần
có hệ thống các chính sách hợp lý nhằm không ngừng nâng cao thể chất dân cư, nâng
cao dân trí và thể lực cho người lao động, phát triển giáo dục và đào tạo. Đồng thời,
giảm bớt những bất hợp lý trong quan hệ cung - cầu về nguồn nhân lực.
2.1.4. Tình trạng dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe
Thực trạng chiều cao trung bình của Việt Nam thấp đứng thứ 5 trên thế giới. Một
thống kê từ Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã chỉ ra số liệu đáng báo động về chiều cao
của thanh niên Việt Nam. Cụ thể:
Chiều cao trung bình của nam giới Việt Nam chỉ đạt 163,7 cm, thấp hơn 13 cm
so với chuẩn WHO. Chiều cao trung bình của nữ thanh niên Việt Nam là 153 cm, thấp
hơn 10,7 cm.
Cân nặng, người Việt Nam thuộc tốp nhẹ cân nhất thế giới. Cân nặng trung
bình đàn ông là 58 kg và nữ là 45 kg, thuộc tốp nhẹ nhất thế giới cùng với Bangladesh,
Ethiopia, Triều Tiên, Nhật.
Chính vì vậy, tố chất thể lực của thanh niên nước ta còn hạn chế. Sức bền chung
của ngay cả thanh niên nước ta so với một số nước châu Á và so với chuẩn quốc tế chỉ
ở loại trung bình hoặc kém.
Trong 5 năm qua, tuổi thọ trung bình (gọi tắt là tuổi thọ) của người dân Việt Nam
vẫn được tiếp tục cải thiện, tăng dần đều đặn khoảng 0,1 tuổi/ năm, từ 72,9 tuổi năm
2010 lên 73,2 tuổi vào năm 2015 (70,7 tuổi ở nam và 76,1 tuổi ở nữ). Theo số liệu của
Tổ chức Y tế thế giới, từ năm 2000 đến năm 2015, tuổi thọ của người dân Việt Nam đã
tăng lên 6 năm. Tuổi thọ của người dân Việt Nam năm 2012 là 76 tuổi tuổi, cao hơn
hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam á, chỉ trừ Sing-ga-po (83 tuổi) và Bru-nây
(77 tuổi) và tương đương với một số nước thu nhập cao trên thế giới như Ô- man, Slova-ki-a. Việt Nam đang tăng lên số lượng nguồn nhân lực ở nước ta. Nước ta sẽ có
17
những nhóm đối tượng trẻ, khỏe, năng động, giàu nhiệt huyết, có sức khỏe tốt và đóng
góp lâu dài cho sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, một số khó khăn đối với những



KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
đối tượng đó thường là thiếu kinh nguyệm và tuổi nghề còn thấp. Điều đó sẽ được bù
vào từ những lao động lâu năm và dày dặn kinh nghiệm.
Các số liệu thống kê, nghiên cứu cho thấy cơ cấu giữa 3 nhóm bệnh lây nhiễm,
không lây nhiễm, và tai nạn, thương tích đã có sự thay đổi nhanh chóng trong vòng
hơn 30 năm trở lại đây với sự gia tăng nhanh tỷ trọng các bệnh không lây nhiễm. Tình
trạng này cùng với tỷ lệ mắc và tử vong do các bệnh truyền nhiễm vẫn đang ở mức
cao.
Nguyên nhân của tất cả các hạn chế về sức khỏe, dinh dưỡng dẫn tới ảnh hưởng
chất lượng nguồn nhân lực là:
Về di truyền, tầm vóc của thanh niên Việt Nam thấp so với các nước ở khu vực
châu Á như Thái Lan, Sing-ga-po, Hàn Quốc, Nhật Bản. Một phần nguyên nhân dẫn
đến tình trạng trên là do yếu tố di truyền của người Việt Nam.
Về yếu tố môi trường tự nhiên
Ô nhiễm môi trường tự nhiên (đất, nước, không khí, rác thải): Theo báo cáo
Environmental Performance Index (EPI) 2012, Việt Nam là một trong 10 nước ô
nhiễm không khí nhất thế giới (đứng thứ 123 trong số 132 nước được đánh giá). Năm
2914, Việt Nam đứng thứ 136 trong số 178 nước được đánh giá về chỉ số EPI chung.
Ô nhiễm thực phẩm, vì hóa chất cặn là một vấn đề nghiêm trọng chưa có
biện pháp giám sát và kiểm soát có hiệu quả. Tình trạng sử dụng các hóa chất, phụ gia
thực phẩm không đúng quy định trong quá trình nuôi trồng, sơ chế, chế biến thực
phẩm vẫn còn khá phổ biến. Trong những năm qua, trung bình hằng năm gần 200 vụ
ngộ độc thực phẩm có trên 30 người mắc/ vụ. Nguy cơ ngộ độc tại các nhà bếp ăn tập
thể vẫn luôn hiện hữu
Có thể thấy, đây là nguyên nhân chủ yếu làm cho tình trạng bệnh tật ở Việt
Nam luôn cao, đặc biệt là những bệnh không lây nhiễm. Ô nhiễm thực phẩm đã ảnh
hưởng chất lượng nguồn nhân lực nước ta, làm ảnh hưởng sức khỏe của người lao
động.
Về các yếu tô hành vi, lối sống


18

Hút thuốc lá là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở Việt
Nam, gây ra khoảng 40 000 ca tử vong hằng năm, tức hơn 100 người chết do hút thuốc


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
lá mỗi ngày. Hiện nay, ước tính hút thuốcc lá gây ra khoảng 16,9% tổng số ca tử vong
và 8,8% gánh bệnh tật9.
Sử dụng rượu, bia quá mức, khoảng 70% nam giới Việt Nam có sử dụng
rượu, bia và thức uống có cồn. Mức tiêu thụ rượu, bia bình quân đầu người tăng
nhanh, lên đến 6,6 lít cồn nguyên chất/ người trên 15 tuổi/ năm trong giai đoạn 20082010, cao gấp đôi so với giai đoạn 2003-2005.
Hút thuốc lá, uống rượu, bia là những hành vi không tốt, nhưng vẫn còn
hiện hữu nhiều ở Việt Nam, đặc biệt là đối tượng người lao động. Những yếu tố này
đang làm giảm sức khỏe của người lao động.
Về chế độ dinh dưỡng, chăm sóc thai nhi, chế độ ăn của người Việt Nam đã có
những cải thiện, có đủ dinh dượng và trở nên cân đối hơn nhưng vẫn chưa bảo đảm
lành mạnh. Vẫn còn tình trạng tiêu thụ quá nhiều năng lượng, tiêu thụ thịt, thực phẩm
có nhiều muối, đường, chất béo chuyển hóa, thức ăn nhanh, trong khi tiêu thụ chưa đủ
lượng hải sản, hoa quả và rau xanh theo khuyến cáo. Tiêu thụ quá nhiều thực phẩm,
đặc biệt đồ uống ngọt, thức ăn có nhiều đường, nhiều chất béo chuyển hóa, thức ăn
nhanh dẫn đến hậu quá thừa cân, béo phì và là yêu tố nguy cơ của nhiều bệnh không
lây nhiễm. Chiều cao và cân nặng của người Việt thua kém hơn các nước khác cũng
một phần xuất phát từ nguyên nhân chế độ ăn không hợp lí. Trong quá trình mang thai,
do những mưu sinh trong cuộc sống, một bộ phận không nhỏ thai phụ không chú ý đến
việc bổ sung đầy đủ dưỡng chất cho thai nhi từ trong bụng mẹ, ngoài ra vì điều kiện
kinh tế nên chưa đầu tư đúng mức cho việc cải thiện tầm vóc.
Việc sử dụng rượu, bia và thuốc là ảnh hưởng nghiêm trọng đến thể lực của người
lao động. Dẫn tới làm cường độ cũng như năng suất lao động ở Việt Nam còn thấp.

2.1.5. Trình độ khoa học công nghệ
Quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo kiểu rút ngắn như nước ta hiện nay thì điều quan trọng là phải “đi tắt,
đón đầu”, tận dụng tối đa những thành tựu mà cuộc cách mạng khoa học, công nghệ
mang lại. Để tận dụng triệt để lợi thế, giảm thiểu tối đa những điều bất lợi thì khoa học
19
công nghệ được xem là một giải pháp hữu dụng nhất. Hiện nay chúng ta không chỉ mở
9 Viện Khoa học Thống kê, Thuốc lá: Những con số đáng sợ, 2016


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
rộng quy mô sản xuất, tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng mà quan trọng và giành lợi
thế hiện nay là phải nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, tăng
trưởng kinh tế theo chiều sâu. Ứng dụng, tích hợp và thích nghi được những thành tựu
của cuộc cách mạng công nghệ hiện đại hiện nay vào sản xuất là lời giải thảo toán cho
bài toán phát triển của Việt Nam. Nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh của nền kinh
tế hiện nay là trình độ khoa học công nghệ, trọng tâm là đội ngũ trí thức - lực lượng
nòng cốt của nguồn nhân lực chất lượng cao. Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: “Phát
triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển
nhanh và bền vững. Hướng trọng tâm hoạt động khoa học, công nghệ vào phục vụ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển theo chiều sâu góp phần tăng nhanh năng
suất, chất lượng, hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế”.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và công nghệ Nguyễn Quân trong hội thảo tổ chức tại
TP.HCM, ngày 25/8 cho biết: một vòng đời công nghệ vào khoảng 10 năm, nghĩa là
sau khoảng một thập niên sẽ có một thế hệ công nghệ mới ra đời. Với tốc độ phát triển
này của công nghệ, Việt Nam lạc hậu đến 2-3 thế hệ công nghệ so với thế giới. 52%
doanh nghiệp Việt Nam sử dụng thiết bị lạc hậu, theo kết quả khảo sát 100 doanh
nghiệp ở Hà Nội và TP.HCM, mức đầu tư cho đổi mới thiết bị công nghệ của doanh
nghiệp trong nước chỉ chiếm 3% doanh thu cả năm. Đa số các doanh nghiệp sử dụng
công nghệ của những năm 80 của thế kỷ trước; 69% doanh nghiệp phụ thuộc vào

nguyên vật liệu; 52% phụ thuộc vào thiết bị, công nghệ nhập khẩu và 19% doanh
nghiệp lệ thuộc vào bí quyết công nghệ, số cán bộ có kỹ thuật chuyên môn cũng chỉ
đạt khoảng 7%.
Đầu tư để phát triển khoa học và công nghệ tuy đã có nhiều chuyển biến, được
chú trọng nhưng mới chỉ đạt 2% tổng chi ngân sách nhà nước- một con số quá thấp so
với nhu cầu của hoạt động khoa học và công nghệ. Các nước tiên tiến đầu tư cho phát
triển khoa học công nghệ, đặc biệt là nghiên cứu các sản phẩm khoa học ứng dụng
luôn đạt từ 3 – 5% ngân sách. Rõ ràng sự chênh lệch về vốn đầu tư cho khoa học và
công nghệ cũng đã là một thách thức lớn cho nền khoa học và công nghệ Việt Nam.

20
Điều này ảnh hưởng quan trọng tới chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta, nếu điều
kiện khoa học công nghệ còn hạn chế thì sẽ khó khăn trong việc tạo động lực học hỏi,
điều hành dây chuyền máy móc hiện đại, xóa tác phong lao động tiểu nông vốn tồn tại


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
lâu đời ở Việt Nam, trình độ khoa học công nghệ chưa cao nên trình độ người lao động
cũng tương ứng với nó, làm cho tính cạnh tranh của lao động Việt Nam so với lao
động nước ngoài còn thấp. Vì vậy, cần đào tạo, bồi dưỡng thu hút các nhân tài nhằm
tạo ra một đội ngũ các chuyên gia, các nhà khoa có năng lực khoa học công nghệ giỏi
phục vụ sự nghiệp cách mạng của đất nước.
2.1.6. Hệ thống các chính sách kinh tế- xã hội của Nhà nước
Trong những năm gần đây, các chính sách kinh tế xã hội của nước ta có nhiều tiến
bộ. Trong y tế, chính sách đầu tư phát triển y tế luôn được coi trọng, chi thường xuyên
cho y tế hằng năm giữ vị trí cao, Tại Hội nghị trực tuyến triển khai công tác y tế năm
2017 do Bộ Y tế tổ chức vào ngày 12/01/2017, Bộ trưởng Bộ y tế PGS.TS Nguyễn Thị
Kim Tiến cho biết, năm 2016 Bộ Y tế đã đề ra và triển khai thực hiện hiệu quả các
chương trình, đề án với mục tiêu lấy người bệnh làm trung tâm. Theo đó, năm 2016,
ngành y tế đã hoàn thành vượt 2 chỉ tiêu được Quốc hội và Chính phủ giao với số

giường bệnh trên 10.000 dân đạt 25 giường, tăng 0,5 giường so với chỉ tiêu đề ra, tỷ lệ
dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 81,7%, vượt 5,7% so với kế hoạch, đạt và vượt
11/14 chỉ tiêu cơ bản của ngành. Năm 2017, ngành y tế cũng đề xuất thực hiện 14 chỉ
tiêu của ngành, tiếp tục nâng số giường bệnh trên 10.000 dân lên 25,5 giường, số
người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 82,2%. Bên cạnh đó còn có nhiều thiếu soát
trong chính sách phát triển kinh tế, trong Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã
nêu ra 9 tồn tại của ngành Y tế: tình trạng quá tải bệnh viện, sai sót y khoa, bất cập
trong quản trị bệnh viện, hạn chế về cải cách thủ tục hành chính khám chữa bệnh, tình
trạng chậm tiến độ xây dựng một số bệnh viện tuyến trung ương, bất cập trong quản lý
dược phẩm, trang thiết bị y tế; dấu hiệu lợi ích nhóm trong mua sắm thuốc, đấu thầu
trang thiết bị y tế, thất thoát trong công tác quản lý bảo hiểm y tế, công tác an toàn
thực phẩm chưa được quan tâm đúng mức, mô hình y tế quận, huyện chưa thống nhất,
nhiều trạm y tế xã còn tồn tại nhiều bất cập. Chính sách bảo hiểm y tế sẽ giảm áp lực
chi phí cho người dân, trong đó, Nhà nước bắt buộc các cơ sở sử dụng lao động phải
đóng tiền mua bảo hiểm cho người lao động, đảm bảo về mặt sức khỏe, thu nhập, đó

21
cũng là một hình thức của lương thực tế, nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động về
thể lực.


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
Sau 15 năm thực hiện chính sách thu hút nhân tài (1998-2013), TP. Đà Nẵng thu
hút được 1.043 người, trong đó có 696 nữ; 13 tiến sỹ, 224 thạc sỹ và 806 tốt nghiệp
đại học loại khá, giỏi, xuất sắc. Trong 10 năm (2003-2013), TP. Hà Nội đã tổ chức
tuyên dương thủ khoa gắn với đẩy mạnh chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài.
Trong 1.203 thủ khoa được vinh danh có 103 được tuyển thẳng vào làm việc ở các cơ
quan của thành phố. Từ năm 2000 đến 2009, Bắc Ninh đã thu hút 32 sinh viên tốt
nghiệp đại học chính quy tập trung loại giỏi, xuất sắc, 13 thạc sỹ, 1 tiến sỹ về làm việc
tại tỉnh. Trong các năm 1999-2012, Ninh Thuận thu hút được 24 cán bộ ngành y tế (1

tiến sỹ, 3 bác sỹ chuyên khoa I, 10 bác sỹ đa khoa và 10 cử nhân ngành y); 99 cử nhân
ngành sư phạm; 2 thạc sỹ và 5 cử nhân các ngành khoa học. Từ năm 2004 đến 2012,
tỉnh Hà Nam thu hút được 148 người, gồm 117 cử nhân tốt nghiệp giỏi, xuất sắc; 31
thạc sỹ…
Tuy nhiên, số lượng nhân tài thu hút được ở các địa phương chưa đồng đều và
chưa bền vững. Trong 3 năm (2009-2012), Tây Ninh thu hút được 6 bác sỹ về công tác
tại địa phương. Bình Dương sau hơn 10 năm, chỉ thu hút được một tiến sỹ. TP. Hà Nội
có nhiều ưu đãi về thu hút và trọng dụng nhưng số lượng nhân tài thu hút vẫn còn ít, số
sinh viên thủ khoa về làm việc cho thành phố chỉ đạt 103/1.203 (8,5%) số được vinh
danh trong 10 năm. Năm 2012, tỉnh Quảng Bình chỉ tuyển dụng được 12/84 (4,2%) số
cần thu hút theo kế hoạch, gồm 8 thạc sỹ, 2 sinh viên tốt nghiệp đại học xuất sắc, 1 thủ
khoa ở trong nước và 1 sinh viên tốt nghiệp đại học loại giỏi ở nước ngoài.
Tuy nhiên, mặt trái của vấn đề triển khai chính sách này còn nhiều bất cập, tình
trạng bổ nhiệm người thân, người quen trong các cơ quan Nhà nước còn diễn ra, ảnh
hưởng đến nổ lực, quyết tâm phấn đấu của người lao động.
2.2. Một số hạn chế chủ yếu của chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam
Thứ nhất, chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo
vùng, miền, địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử
dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
Thứ hai, đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề vẫn còn rất thiếu so

22

với nhu cầu xã hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam, nhất là để


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cũng như nâng cấp vị thế của Việt Nam trong chuỗi
giá trị đó.
Thứ ba, số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình độ

chuyên môn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về năng lực
thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp; vẫn cần có
thời gian bổ sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu quả.
Thứ tư, khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại
ngữ là công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn rất hạn chế. Trong môi
trường làm việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hoá thế giới luôn là
điểm yếu của lao động Việt Nam.
Thứ năm, tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công dân, ý
thức văn hoá công nghiệp, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể người lao động
chưa cao.
Thứ sáu, năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới.
Mặt khác, đáng lo ngại là năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng tăng chậm
hơn so với các nước đang phát triển trong khu vực như Trung Quốc, In-đô-nê-xia, Ấn
Độ.
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, nguồn lực quốc gia và khả năng đầu tư cho phát triển nhân lực của phần
lớn các gia đình còn hạn chế, chưa đáp ứng điều kiện tối thiểu để bảo đảm chất lượng
các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao. Nguồn lực tài chính từ ngân
sách nhà nước cho phát triển nhân lực còn hạn chế; chưa huy động được nhiều các
nguồn lực trong xã hội (nhất là các doanh nghiệp) để phát triển nhân lực.
Thứ hai, quản lý nhà nước về phát triển nhân lực còn những bất cập so với yêu cầu.
Chủ trương, đường lối phát triển nguồn nhân lực chưa được thể chế hoá bằng các văn
bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách và các kế hoạch phát triển một cách kịp
thời và đồng bộ; việc triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách chưa
kịp thời, chưa nghiêm túc. Nhiều mục tiêu phát triển nguồn nhân lực chưa tính toán
23
đầy đủ các điều kiện thực hiện. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã
hội trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực chưa chặt chẽ.



KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
Thứ ba, hệ thống giáo dục quốc dân - lực lượng nòng cốt trong đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực đất nước bộc lộ nhiều hạn chế. Cụ thể là: công tác phân luồng định
hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông chưa tốt;
công tác đào tạo, giáo dục nghề nghiệp chưa thực sự dựa trên cơ sở nhu cầu xã hội,
chưa thu hút được sự tham gia phát triển nguồn nhân lực từ các đơn vị sử dụng lao
động; đội ngũ giáo viên, giảng viên còn thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn nghiệp
vụ, còn sự chênh lệch lớn về trình độ phát triển giữa các địa phương, vùng, miền; hệ
thống phương pháp, công cụ kiểm tra, giám sát, kiểm định và đánh giá kết quả giáo
dục và đào tạo còn lạc hậu, kém hiệu quả; mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu
và thực hiện đúng…
Thứ tư, hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực chưa
đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng về kinh tế, xã hội, văn hoá
nước ta với thế giới. Còn nhiều sự khác biệt trong các quy định về giáo dục nghề
nghiệp, đào tạo nhân lực của hệ thống pháp luật Việt Nam so với pháp luật của các
nước; mô hình hệ thống giáo dục và đào tạo, nội dung, chương trình và phương pháp
đào tạo nhân lực chưa tương thích và chưa phù hợp với các tiêu chuẩn phổ biến của
các nước trong khu vực và thế giới; chưa thu hút được nhiều các nguồn lực quốc tế
cho phát triển nhân lực. Việc tổ chức, đánh giá chất lượng dạy và học ngoại ngữ, bồi
dưỡng một số hiểu biết, kỹ năng cần thiết để hội nhập quốc tế chưa đáp ứng yêu cầu.
Môi trường pháp lý, điều kiện làm việc, cơ chế chính sách chưa bảo đảm cho trao đổi
nhân lực giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học giữa Việt Nam và các nước được
thực hiện thuận lợi, chưa phát huy hết tiềm năng của khả năng hợp tác quốc tế này
phục vụ phát triển nguồn nhân lực của đất nước.

24


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG

NGUỒN NHÂN LỰC TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Nhóm giải pháp về đổi mới và phát huy vai trò của Nhà nước
Thứ nhất, đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước về phát triển nhân lực. Trong đó,
cần tập trung vào việc hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển nhân lực, đổi mới phương
pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý về
phát triển nhân lực. Cần hình thành một cơ quan chịu trách nhiệm thu thập, xây dựng
hệ thống thông tin về cung - cầu nhân lực trên địa bàn cả nước nhằm bảo đảm cân đối
cung - cầu nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới các chính sách, cơ chế,
công cụ phát triển nhân lực (bao gồm các nội dung về môi trường làm việc, chính sách
việc làm, thu nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, điều kiện nhà ở và các điều kiện sinh
sống, định cư, chú ý các chính sách đối với bộ phận nhân lực chất lượng cao, nhân tài).
Cải tiến và tăng cường sự phối hợp giữa các cấp các ngành, các chủ thể tham gia phát
triển nhân lực.
Thứ hai, bảo đảm nguồn lực tài chính cho phát triển nhân lực. Ngân sách nhà
nước là nguồn lực chủ yếu để phát triển nhân lực quốc gia đến năm 2020. Tăng đầu tư
phát triển nhân lực cả về giá trị tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn
xã hội. Cần xây dựng kế hoạch phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng tập trung chi
để thực hiện các chương trình, nhiệm vụ, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực
hiện công bằng xã hội (hỗ trợ đào tạo, phát triển nhân lực ở các vùng sâu, vùng xa, cho
các đối tượng là người dân tộc thiểu số, đối tượng chính sách,…). Nghiên cứu đổi mới
cơ chế phân bổ và hỗ trợ bằng ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực từ hỗ trợ
cho các đơn vị cung ứng sang hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng và bảo đảm
công bằng giữa các cơ sở công lập và ngoài công lập.
Đẩy mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển nhân
lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của người dân đầu tư
và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức: Trực tiếp đầu tư xây dựng cơ
sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hoá, thể dục thể thao; Góp vốn, mua công trái,
25
hình thành các quỹ hỗ trợ phát triển nhân lực. Cần quy định trách nhiệm của doanh
nghiệp đối với sự phát triển nhân lực, tạo điều kiện thuận lợi và có cơ chế, chính sách



×