Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Hiệu ứng nhà kính trong môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1023.49 KB, 36 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ ĐỒNG NAI
KHOA TP – MT - ĐD

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
MÔI TRƯỜNG VÀ CON NGƯỜI
TÊN ĐỀ TÀI

HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH

Giảng viên hướng dẫn: Hoàng Hồng Giang
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 5 Nguyễn Xuân Anh Việt (nhóm trưởng)
Lớp

: 15DHO1

Biên Hòa,ngày 27 tháng 01 năm 2015


DANH SÁCH SINH VIÊN

Stt

Họ đệm

Tên

Mã số sv

Ghi chú

1



Nguyễn Xuân Anh

Việt

1510180

Nhóm trưởng

2

Nguyễn Duy

Hoàng

1509644

3

Nguyễn Đặng Kiều

Như

1509978

4

Nguyễn Huỳnh Kim

Ngân


1509933

2


LỜI CẢM ƠN

Trước hết, chúng em xin cảm ơn gia đình đã tạo cho chúng em niềm tin và là
điểm tựa vững chắc để chúng em có thể vượt qua mọi khó khăn.
Chúng em xin cảm ơn cô Hoàng Hồng Giangđã tận tình hướng dẫn, truyền đạt
kiến thức và giúp đỡ chúng em trong suốt thời gian làm tiểu luận.
Chúng em cũng xin cảm ơn các thầy cô trong Trung tâm công nghệ Hóa đã giúp
đỡ, hướng dẫn chúng em trong thời gian qua.
Và cũng xin cảm ơn tất cả các bạn đã luôn động viên, ủng hộ, giúp đỡ cho
chúng tôi.
Sau cùng, chúng tôi xin cảm ơn bản thân vì những nỗ lực, cố gắng của bản thân
để có thể hoàn thành tiểu luận này.
Nhóm sinh viên thực hiện
Nhóm 5 : 15DHO1

3


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................

.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................

Thái độ làm việc:
Kỹ năng làm việc:
Trình bày:
Điểm số: …………………………….
Biên Hòa, ngày tháng năm 2015
Giảng viên hướng dẫn

Hoàng Hồng Giang

4


MỤC LỤC

5


Bảng 2. 1 Số liệu những khí gây hiệu ứng nhà kính
Bảng 2. 2 số liệu khí nhà kính thải ra trong 1kg nhiên liệu

6



CHƯƠNG I: HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH
1.1 Khí nhà kính
Khí nhà kính bao gồm carbon dioxide, methane, hơi nước và nitrous oxide. Những
loại khí này xuất hiện một cách tự nhiên trong môi trường, nhưng cũng do các quá
trình sản xuất công nghiệp tạo nên. Khí CFCs là dạng khác của khí nhà kính, loại khí
này cũng do quá trình công nghiệp tạo ra.

1.2 Khái niệm và định nghĩa
a) Khái niệm
Hiệu ứng nhà kính, xuất phát từ effet de serre trong tiếng Pháp, do JeanBaptiste
Joseph Fourier lần đầu tiên đặt tên, dùng để chỉ hiệu ứng xảy ra khi năng lượng bức xạ
của tia sáng mặt trời, xuyên qua các cửa sổ hoặc mái nhà bằng kính, được hấp thụ và
phân tán trở lại thành nhiệt lượng cho bầu không gian bên trong, dẫn đến việc sưởi ấm
toàn bộ không gian bên trong chứ không phải chỉ ở những chỗ được chiếu sáng.
Hiệu ứng này đã được sử dụng từ lâu trong các nhà kính trồng cây. Ngoài ra
hiệu ứng nhà kính còn được sử dụng trong kiến trúc, dùng năng lượng mặt trời một
cách thụ động để tiết kiệm chất đốt sưởi ấm nhà ở.

7


Hình 1. 1 và 1. 2 mô phỏng hiệu ứng nhà kính

Khi bức xạ Mặt Trời chiếu xuống Trái Đất, một phần bức xạ này sẽ phản xạ lại
vào vũ trụ tại biên ngoài khí quyển, phần còn lại xuyên qua bầu khí quyển truyền đến
bề mặt Trái Đất dưới dạng bước sóng ngắn.Tại đây, một phần bức xạ sóng ngắn phản
xạ lại, xuyên qua lớp khí nhà kính vào không gian vũ trụ và một phần đốt nóng Trái
Đất. Trái Đất hấp thu phần năng lượng bước sóng ngắn và trở thành vật bức xạ nhiệt
vào khí quyển( bức xạ sóng dài). Một phần bức xạ hồng ngoại sóng dài do Trái Đất

phát ra được hấp thụ bởi các khí trong khí quyển( hơi nước, CO2, CH4, Nox…)tạo
thành một lưới nhiệt bao trùm toàn bộ bề mặt Trái Đất, giữ cho khí quyển và bề mặt
Trái Đất ở một nhiệt độ nhất định. Hiện tượng này giống như hiện tượng nhà kính
trồng rau khi mà bức xạ Mặt Trời xuyên qua kính bị giữ lại làm cho nhiệt độ của nhà
kính tăng lên.Vì vậy, các khí có tính chất trên được gọi là khí nhà kính. Lớp khí bao
gồm các khí nhà kính được gọi là lớp khí nhà kính.

b)Định nghĩa
“ Hiệu ứng nhà kính là hiện tượng trong khí quyển tầng thấp (tầng đối lưu) tồn
tại một lớp khí chỉ cho bức xạ sóng ngắn xuyên qua và giữ lại bức xạ nhiệt của mặt đất
dưới dạng sóng dài, nhờ đó bề mặt trái đất luôn có nhiệt độ thích hợp đảm bảo duy trì
sự sống trên Trái Đất”.

1.3 Bản chất của hiệu ứng nhà kính

8


Nhiệt độ bề mặt trái đất, được tạo nên do sự cân bằng giữa năng lượng mặt trời đến
bề mặt trái đất và năng lượng bức xạ của trái đất vào khoảng không gian giữa các hành
tinh. Năng lượng mặt trời chủ yếu là các tia sóng ngắn dễ dàng xuyên qua cửa sổ khí
quyển. Trong khi đó, bức xạ của trái đất với nhiệt độ bề mặt trung bình 16 0C là sóng
dài có năng lượng thấp, dễ dàng bị khí quyển giữ lại. Các tác nhân gây ra sự hấp thụ
bức xạ sóng dài trong khí quyển là khí CO 2, bụi, hơi nước, khí mêtan, khí CFC... Kết
quả của sự trao đổi cân bằng về năng lượng giữa trái đất với không gian xung quanh,
tạo nên bề mặt trái đất luôn có một nhiệt độ nhất định.Qúa trình này có bản chất tự
nhiên nên vẫn gọi là “ Hiệu ứng nhà kính tự nhiên”
Hiệu ứng nhà kính nhân loại : là Hiệu ứng nhà kính xuất hiện do các hoạt động
của con người tạo ra từ khoảng 100 năm nay. Sự gia tăng tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch
của loài người đang làm cho nồng độ khí CO 2 của khí quyển tăng lên. Sự gia tăng khí

CO2 và các khí nhà kính khác trong khí quyển trái đất làm nhiệt độ trái đất tăng. Theo
tính toán của các nhà khoa học, khi nồng độ CO2 trong khí quyển tăng gấp đôi, thì
nhiệt độ bề mặt trái đất tăng lên khoảng 30C. Các số liệu nghiên cứu cho thấy nhiệt độ
trái đất đã tăng 0,850C trong khoảng thời gian từ 1915-2015, do thay đổi của nồng độ
CO2 trong khí quyển từ 0,027% đến 0,035%. Dự báo, nếu không có biện pháp khắc
phục hiệu ứng nhà kính, nhiệt độ trái đất sẽ tăng lên 1,5- 4,5 0C vào năm 2050. Vai trò
gây nên hiệu ứng nhà kính của các chất khí được xếp theo thứ tự CO 2, CFC, CH4, O3,
NO2. Sự gia tăng nhiệt độ trái đất do hiệu ứng nhà kính có tác động mạnh mẽ tới nhiều
mặt của môi trường trái đất. Kể từ những năm 1860, công nghiệp hóa đã tăng và
những cánh rừng bị thu hẹp làm mức CO 2 trong khí quyển tăng lên tới mức 100 phần
triệu và nhiệt độ ở Bắc bán cầu cũng tăng lên. Nhiệt độ và các khí nhà kính gia tăng,
thậm chí còn nhanh hơn kể từ những năm 1950.

9


CHƯƠNG II: CÁC TÁC ĐỘNG CỦA HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH

2.1 Các tác động trong hiệu ứng nhà kính
2.1.1 Tác động tích cực
Năng lượng của Mặt trời có thể thay đổi, tuy rất ít, nhưng cũng có khả năng ảnh
hưởng đến khí hậu trên Trái đất. Nhờ có tầng khí quyển chứa sẵn những khí gây ra
hiệu ứng nhà kính bẫy một phần năng lượng Mặt trời, mà nhiệt độ trên Trái đất mới trở
nên vừa phải để sinh vật sinh sôi nảy nở và sinh sống thoải mái.
Ở nhiệt độ 2550K, Trái Đất ở trạng thái đóng băng. Tuy nhiên các phép đo thực
tế chỉ ra rằng nhiệt độ trung bình của khí quyển và bề mặt Trái Đất trong cả năm ở tất
cả các khu vực là 2990K( tương ứng với 160C), lớn hơn 1550K. Sự khác biệt này là do
sự tồn tại của Hiệu ứng nhà kính mà ta chưa tính đến.
Nếu giả sử không có hiệu ứng nhà kính thiên nhiên thì nhiệt độ trung bình trên
Trái đất, hiện nay khoảng 160C, đã giảm xuống chỉ còn khoảng -180C.Hiệu ứng nhà

kính hạn chế sự thay đổi nhiệt độ bề mặt giữa ban ngày và ban đêm, giữa các mùa
trong năm, cũng như các vùng khí hậu khác nhau trên Trái Đất. Những tác động đó của
Hiệu ứng nhà kính đã làm cho môi trường bề mặt Trái Đất là nơi lí tưởng cho sự tồn
tại và phát triển của sinh vật và con người trong hàng triệu năm qua.

2.1.2 Tác động tiêu cực
Phần lớn các nhà khoa học ủng hộ giả thuyết cho rằng việc tăng nồng độ các khí
nhà kính do loài người gây ra, và hậu quả của nó là sự gia tăng hiệu ứng nhà kính đang
là mối lo ngại của nhân loại, Sự gia tăng hiệu ứng nhà kính làm tăng nhiệt độ trên toàn
cầu và như vậy sẽ làm thay đổi khí hậu trong các thập kỷ và thập niên kế đến.

 Nguyên nhân sự gia tăng Hiệu ứng nhà kính
Nguyên nhân chủ yếu gia tăng Hiệu ứng nhà kính là sự gia tăng nồng độ các khí
nhà kính phát thải vào khí quyển từ các hoạt động của con người. Theo số liệu năm
1900, nồng độ và các đặc trưng chủ yêu của các loại khí nhà kính được trình bày ở
bảng sau:

10


Bảng 2. 1 Số liệu những khí gây hiệu ứng nhà kính
Loại khí nhà kính

CO2

CFC

CH4

NO2


Nồng độ hiện tại trong khí quyển

351

0,00225

1,675

0,31

Mức gia tăng trung bình năm(%)

0,4

5,0

1,0

0,2

Hệ số nhà kính tương đương(so với
CO2=1)

1

15000

25


230

Tỷ lệ gây ra Hiệu ứng nhà kính (%)

57

25

12

6

H: Sự gia tăng của một số khí nhà kính
• Mêtan trong khí quyển Trái Đất (CH4)
Mêtan trong khí quyển là một khí gây hiệu ứng nhà kính. Mật độ của nó đã tăng
khoảng 150% từ năm 1750 và đến năm 1998, mật độ trung bình của nó trên bề mặt
Trái Đất là 1745 ppb. Mật độ ở bán cầu Bắc cao hơn vì ở đó có nhiều nguồn mêtan
hơn (cả thiên nhiên lẫn nhân tạo). Mật độ của mêtan thay đổi theo mùa, thấp nhất vào
cuối mùa hè.


Dioxyt cacbon trong khí quyển (CO2)
Khí quyển Trái Đất chứa khoảng 0,038% theo thể tích (380 µL/L hay ppmv) hoặc

0,053% theo trọng lượng là CO2. Nó tương đương với 2,7 × 1012tấn CO2. Do có nhiều
đất đai hơn (và vì thế nhiều thực vật hơn) nên ở bắc bán cầu khi so với nam bán cầu có
sự dao động hàng năm vào khoảng 5 µL/L, sự dao động này lên tới đỉnh vào tháng 5
và xuống tối thiểu vào tháng 10 khi kết thúc mùa sinh trưởng ở bắc bán cầu, khi mà
khối lượng các chất sinh học trên hành tinh là lớn nhất
Mặc dù nồng độ thấp nhưng CO2 là một thành phần cực kỳ quan trọng trong khí

quyển Trái Đất, do nó hấp thụ bức xạ hồng ngoại và làm tăng hiệu ứng nhà kính.
Báo cáo do các tổ chức môi trường thế giới cùng soạn thảo được Cục sinh thái
toàn cầu thuộc Viện nghiên cứu Canigiê phát hành cho biết lượng khí thải độc hại
CO2, nguồn gốc chủ yếu làm cho Trái đất nóng dần lên, đã và đang gia tăng với tốc độ
đáng báo động kể từ năm 2000.
Theo số liệu đo đạc, trong tháng 4-2015, nồng độ khí CO2 trung bình trong khí
quyển lần đầu tiên đã vượt mức 400 phần triệu ở bán cầu Bắc, mức cao nhất trong
vòng 800.000 năm trở lại đây. Các chuyên gia khí hậu kết luận rằng sự gia tăng khí
11


thải CO2 từ hoạt động của con người, đặc biệt từ việc sử dụng chất đốt hóa thạch và
phá rừng, đã làm rối loạn chu trình carbon tự nhiên, làm nhiệt độ tăng cao và gây ra
biến đổi khí hậu. Hiện tại, có gần một nửa lượng khí thải CO2 trong khí quyển là do
hoạt động của con người tạo ra.


Clorolfuorocacbon (CFC)

Là những hóa chất tổng hợp, có mặt trong khí quyển từ khi công nghiệp làm
lạnh, mỹ phẩm phát triển. Bên cạnh khả năng làm nón trái đất mạnh (hơn CO 2 gấp
11.000 lần trong thời gian 20 năm), CFC ở khí thường làm tổn hại tầng ozon. Nếu
chấm dứt phát thải ngay thì khoảng 100 năm sau mới phân hủy hết lượng CFC hiện có.


Khí oxit nito (NO2)

Chiếm một lượng nhỏ trong thành phần các khí nhà kính, nhưng khả năng làm
nóng trái đất cao (gấp 289 lần trong khoảng thời gian 20 năm) và làm tổn hai tầng
ozon. Do nó có thời gian tồn tại trong khí quyển lâu dài, nên lượng oxit nito thải ra

tiếp tục gây ấm lên toàn cầu và kéo dài đến thế kỷ sau.
Các nguồn phát thải khí oxit nito gồm: sản xuất phân bón, hóa chất, đốt nhiên
liệu hóa thạch, cháy rừng, đốt rơm rạ, xử lí nước thải, quá trình nitrat hóa các loại phân
bón hữu cơ, vô cơ trong nông nghiệp.


Ôzôn (O3)

Được tạo ra tự nhiên do các phản ứng trong khí quyển và do hoạt động của con
người, như từ xe cộ và các nhà máy năng lượng. Ở tầng cao của khí quyển, tầng ôzôn
hấp thu bức xạ tia cực tím bảo vệ trái đất, trong khi sự gia tăng ôzôn ở tầng thấp của
khí quyển góp phần làm trái đất nóng lên. Do có thời gian tồn tại trong khí quyển
ngắn, nên ôzôn chủ yếu gâp nóng lên ở quy mô khu vực nhiều hơn là gây ấm lên toàn
cầu.

2.2 Các hoạt động gây hiệu ứng nhà kính
2.2.1.Hoạt động công nghiệp
Trong số các hoạt động của con người thì hoạt động công nghiệp là tác nhân
quan trọng gây ra sự thải các khí nhà kính. Các ngành công nghiệp là nới sử dụng một
lượng lớn nhiên liệu hóa thạch( than, dầu, khí đốt).Ngoài CO 2 , các ngành công nghiệp
12


cũng tạo ra các loại khí nhà kính khác như ,..trong quá trình sản xuất phân bón, hóa
chất, khai thác khoáng sản..

Hình 2. 1 Khói từ các nhà máy

Hình 2. 2 Co2 xả từ ống khói nhà máy
Vào năm 2014, số lượng kênh thải ra khí gaz gây hiệu ứng nhà kính tại các

nước công nghiệp phát triển đã tăng quá cao, gần “đánh đổ” kỷ lục của năm 1990 mặc
dù trên phạm vi toàn thế giới, cuộc đấu tranh chống lại sự nóng lên của khí hậu toàn
cầu đã bắt đầu có những bước chuyển biến tốt đẹp.
Trong báo cáo hàng năm về lượng khí thải tích tụ trong không khí gây hiện
tượng ấm lên toàn cầu, Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) của LHQ cho biết trong
năm ngoái, nồng độ các khí CO 2, methane và NO2 đã "phá" kỷ lục. Cụ thể, trong năm
2014, nồng độ khí CO2 có trong khí quyển đã tăng lên 397,7 phần triệu (ppm), cao hơn
143% so với năm 1750. Với tốc độ này, nồng độ khí CO2 có thể vượt ngưỡng 400 ppm
trong năm 2016. Năm ngoái cũng ghi nhận nồng độ khí methane đạt mức kỷ lục 1.833
ppm, cao hơn 254% so với mức trước năm 1750. Trong khi đó, khí NO 2, loại khí có
tác động đến môi trường lớn hơn 300 lần so với khí CO 2 và cũng có khả năng phá hủy
tầng ozone (ôzôn), cũng có nồng độ trong khí quyền đạt 327,1 ppm, cao hơn 121% so
với mức tiền công nghiệp.

13


Trong một tuyên bố, người đứng đầu WMO Michel Jarraud (Mi-sen Gia-rốt)
thừa nhận cứ mỗi năm, báo cáo của WMO lại ghi nhận kỷ lục mới về nồng độ khí gây
hiệu ứng nhà kính có trong khí quyển. Theo ông, khí CO 2 - thủ phạm chính khiến nhiệt
độ Trái Đất tăng cao, có thể tích tụ trong khí quyển qua hàng trăm năm và thậm chí
còn lâu hơn khi ở trong các đại dương, gây nên sự tác động "dồn dập" lên hiện tượng
nóng lên của Trái Đất và tình trạng đại dương bị a-xít hóa. Ông cảnh báo người dân
trên thế giới sẽ sớm phải sống trong bầu khí quyển có nồng độ khí CO 2 trên 400 ppm,
đồng nghĩa nhiệt độ toàn cầu sẽ tăng cao hơn; nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan hơn;
tốc độ băng tan nhanh hơn; mực nước biển dâng cao cũng như tình trạng a-xít hóa đại
dương cũng trầm trọng hơn. Quan chức WMO đồng thời hối thúc các nước trên thế
giới cần hành động "ngay lập tức" để hạn chế lượng khí thải trong bối cảnh còn có cơ
hội giữ nhiệt độ Trái Đất tăng ở mức độ kiểm soát được. Trước đó, trong báo cáo công
bố hồi đầu năm nay, WMO cho biết năm 2014 là năm nóng kỷ lục trong lịch sử và xu

hướng ấm lên vẫn đang tiếp tục. Theo WMO, xu hướng này duy trì là do lượng khí
thải nhà kính gia tăng trong khí quyển và nhiệt độ tại các đại dương cũng ngày càng
cao. WMO cho rằng khoảng 93% năng lượng dư thừa bị "mắc kẹt" trong khí quyển do
các loại khí thải nhà kính từ nhiên liệu hóa thạch và các hoạt động khác của con người
tác động đến các đại dương. Chính vì vậy, nhiệt độ bề mặt biển toàn cầu lên mức kỷ
lục trong năm 2014. Tại COP21 sắp tới, 195 nước thành viên LHQ sẽ thảo luận biện
pháp để có thể giữ nhiệt độ Trái Đất từ nay đến năm 2100 chỉ tăng tối đa 2°C so với
thời kỳ tiền công nghiệp. Giải pháp hiệu quả nhất là giảm đáng kể lượng khí thải gây
hiệu ứng nhà kính.

2.2.2.Giao thông vận tải
Sự phát triển nhanh các phương tiện giao thông vận tải của thế giới là nguyên
nhân tiềm tàng gây tăng Hiệu ứng nhà kính .
Trong quá trình hoạt động các phương tiện giao thông phát thải vào không khí
một khối lượng lớn các loại khói, khí độc như CO, CO 2, hydrocacbon, NO2, SO2, khói
đen, chì và các dạng hạt khác. Tùy theo loại động cơ và loại nhiên liệu mà khối lượng
các chất thải độc hại chiếm tỷ lệ khác nhau trong khí xả. Trong những năm gần đây
người ta chú ý nhiều đến giao thông vận tải vì nó góp phần thải ra CO 2 – khí nhà kính
quan trọng nhất. Trên tòan thế giới khỏang 15% CO 2 trong không khí là do các phương
tiện giao thông vận tải thải ra.
Khi dòng xe lưu thông trên đường, đặc biệt là khi hãm phanh, các lốp xe sẽ ma
sát mạnh với mặt đường làm mòn đường, mòn các lốp xe và tạo ra bụi đá, bụi cao su
14


và bụi sợi. Các bộ phận ma sát của phanh bị mòn cũng thải ra bụi kẽm, đồng, niken,
crom, sắt và cadmi. Ngoài ra quá trình cháy không hết nhiên liệu cũng thải ra bụi
cacbon. Bên cạnh các nguồn bụi sinh ra từ xe, còn có bụi đất đá, cát tồn đọng trên
đường do chất lượng đường kém, do đường bẩn và do chuyên chở các vật liệu xây
dựng, chuyên chở rác.


Hình 2. 3 khí nhà kính từ phương tiện giao thông

Hình 2. 4 Khí nhà kính từ phương tiện dường thủy

15


Bảng 2. 2 số liệu khí nhà kính thải ra trong 1kg nhiên liệu

2.2.3.Khai thác rừng
Việc gia tăng khai thác gỗ và ô nhiễm môi trường không khí ở các nước đang
phát triển là cho diện tích rừng suy giảm nhanh chóng. Tính trung bình, tốc độ mất
rừng hằng năm của thế giới vào khoảng 20 triệu ha.Bên cạnh suy giảm về diện tích,
chất lượng rừng cũng bị suy giảm.Những nguyên nhân trên đang làm giảm khả năng
hấp thụ khí CO2 của rừng thế giới theo thời gian.
Sự mất rừng: chủ yếu là do chuyển đổi đất rừng sang đất nông nghiệp, vẫn ở
một tốc độ nhanh: khỏang 13 triệu ha mỗi năm.

Hình 2. 5 Sự khai thác gỗ tràn lan

16


Hình 2. 6 Những cánh rừng bị tàn phá

2.2.4.Hoạt động nông nghiệp
Dân số ngày càng tăng làm cho nhu cầu về lương thực thực phẩm của con người
tăng lên. Con người phải đẩy mạnh khai thác tài nguyên đất, tăng cường quay vòng
sản xuất, sử dụng một khối lượng lớn các phân bón hoá học và các thuốc bảo vệ thực

vật. Điều này đã làm cho đất bị giảm độ phì nhiêu, ô nhiễm nặng nề do dư lượng phân
hoá học và thuốc bảo vệ thực vật
Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) dẫn báo cáo của Tổ chức Lương thực và
Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), cho biết chăn nuôi gia súc là một trong những
nguyên nhân gây nên hiệu ứng nhà kính.
Theo báo cáo trên, phân gia súc không chỉ làm ô nhiễm môi trường, mà còn
phát tán khí CO2 cũng như nhiều chất hóa học khác có tác động mạnh tới sự ấm lên
của Trái Đất.
Đặc biệt trong số đó có chất ô-xít ni-tơ, chiếm 65% lượng khí và chất hóa học
phát tán. Chất khí này có khả năng làm Trái Đất ấm lên gấp 296 lần so với khí CO 2 và
khí mê-tan, loại khí độc hại hơn CO2 tới 23 lần.

17


Hình 2. 7 Hóa chất thải ra khí nhà kính nông nghiệp

Hình 2. 8 Tiêu hủy chất thải nông nghiệp gây khí nhà kính

2.2.5.Các hoạt động khác
Ngoài các nguyên nhân chủ yếu trên còn có các hoạt động sinh hoạt của con
người, sự phun trào núi lửa v.v…tạo ra một lượng khoảng 2% khí nhà kính.
Sự hoạt động của các ngọn núi lửa và các loài vi khuẩn sống trong không khí
cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm không khí. Theo ước tính thì lượng CO 2 do núi lửa
hoạt động phun ra cao gấp 40.000 lần so với lượng CO2 hiện có trong khí quyển.

18


CHƯƠNG III: HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH SỰ NÓNG LÊN TOÀN CẦU

TÁC HẠI VÀ KHẮC PHỤC
3.1.Tác hại của hiệu ứng nhà kính
3.1.1 Biến đổi khí hậu toàn cầu
Trước tiên, cần hiểu khí hậu là gì? Khí hậu là mức độ trung bình của thời tiết
trong một khoảng thời gian và không gian nhất định. Trong vòng 1.000 năm
qua, nhiệt độ bề mặt Trái đất có tăng, giảm không đáng kể và có thể nói là ổn định.
Thế nhưng, trong vòng 200 năm trở lại đây, đặc biệt là trong mấy chục năm vừa
qua khi công nghiệp hoá phát triển, nhân loại bắt đầu khai thác than đá, dầu lửa, sử
dụng các nhiên liệu hoá thạch... Cùng với các hoạt động công nghiệp tăng lên, nhân
loại bắt đầu thải vào bầu khí quyển một lượng khí CO 2, nitơ ôxít, mêtan... khiến cho
nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng lên.
Hầu hết giới khoa học đều công nhận biến đổi khí hậu là do nồng độ của khí
hiệu ứng nhà kính tăng lên trong khí quyển ở mức độ cao. Bản thân nó đã làm cho Trái
đất ấm lên, nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng lên, nhiệt độ nóng lên này đã tạo ra các biến
đổi trong các vấn đề thời tiết hiện nay.
Theo báo cáo mới nhất của Liên hiệp quốc, nguyên nhân của hiện tượng biến
đổi khí hậu 90% do con người gây ra, 10% là do tự nhiên
Hiện nay, nhiệt độ trung bình đã tăng lên tới 0,3 - 0,4 độ C trong mấy chục năm
vừa qua và hiện đang có xu hướng tăng tiếp.
Theo các mô hình nghiên cứu trong thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình của Trái đất
có thể tăng từ 1,1 - 6 độ C khả năng xảy ra từ 1,8 - 4 độ C trong đó tùy theo sự phát
thải hiệu ứng nhà kính cắt giảm đến mức độ nào để làm giảm bớt các khí CO 2 và các
khí khác gây hiệu ứng nhà kính.
Nếu như ngay từ lúc này, nhân loại dừng phát thải khí nhà kính thì nhiệt độ bề
mặt Trái đất vẫn tiếp tục nóng lên, nước biển vẫn tiếp tục dâng lên trong vòng 50 năm
nữa. Nhiệt độ trái đất nóng lên làm cho băng của các dãy Himalaya và Nam cực, Bắc
cực và các vùng khác tan chảy. Những núi băng này tan chảy sẽ làm cho mực nước
biển tăng lên.
19



Mực nước biển dâng lên từ 28 - 43 cm. Nhưng có thể mực nước biển này còn
cao hơn nữa tùy theo sự phát thải của hiệu ứng nhà kính và tác động của con người
gây ra biến đổi khí hậu là một điều cực kỳ nguy hiểm đe doạ đến vấn đề tồn tại của
con người.

Bảng 3. 1 Biểu độ sự tăng nhiệt độ trái đất tính đến năm 2016

Biểu đồ nhiệt độ toàn cầu trung bình so với giai đoạn 1961-1990, quan sát từ giai
đoạn 1996-2014 (màu xanh dương), năm 2015 (màu vàng) và dự đoán tới năm 2016
(màu hồng tím). Nguồn WMO và Met Office.
Biến đổi khí hậu gây nguy hiểm do nó làm cho Trái đất nóng lên, nước biển
dâng lên.
Trái đất có hơn 7 tỷ người và hiện giờ, có đến hơn một nửa số người này sống ở
vùng duyên hải của Trái đất trong phạm vi 100 km trở lại vùng bờ biển. khi nước biển
dâng lên làm ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng tỷ người. Theo dự báo của các nhà
khoa học, thủ đô BangKok (Thái Lan) trong vòng hai mươi năm nữa sẽ bị ngập
và hiện Thái Lan không đủ thời gian để chuyển thủ đô sang nơi khác. Còn đối với Việt
Nam, Đồng bằng sống Cửu Long cũng là một trong những nơi rất "nhạy cảm" của vấn
đề biến đổi khí hậu. Hay, vấn đề triều cường của TP. HCM, bão lũ miền Trung còn nan
giải hơn rất nhiều khi tính đến yếu tố liên quan bởi hiện tượng biến đổi khí hậu.
Đối với sự đe dọa của biến đổi khí hậu thì đây là nguy cơ chung cho đời sống
nhân loại. Trong việc giải quyết vấn đề này, tất cả mọi người trên Trái đất sẽ không có
ai thắng và cũng không có ai thua,
20


Trước sự đe dọa ấy, mọi người đều giống nhau về mặt số phận. Hiện tượng biến
đổi khí hậu đang diễn ra, còn mức độ nghiêm trọng đến đâu là do con người quyết
định và con người có đầy đủ, có công nghệ, có tiền chỉ còn thiếu quyết tâm về mặt

chính trị của tất cả các quốc gia để giải quyết vấn đề này.
Vùng chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu lớn nhất của Trái đất là Bắc cực và
Nam cực, hai nơi này nhiệt độ tăng lên nhanh nhất. Sau đó đến các vùng núi cao như
Himalaya, Tây Tạng... Theo nghiên cứu những vùng lạnh nhất có nhiệt độ tăng lên
nhanh nhất. Còn tại Việt Nam, nhiệt độ sẽ tăng từ 0,3 - 0,5 độ C đến năm 2010, từ 1- 2
độ C vào năm 2020, từ 1,5 - 2,5 độ C vào năm 2070. Những khu vực có nhiệt độ tăng
cao nhất là Tây Bắc và Việt Bắc.
Biến đổi khí hậu sẽ làm tăn các hiên tượng thiên nhiên nguy hiểm, Tần suất và các
hiện tượng mưa lớn, bão, nhiệt độ cao, hạn hán tăng nhanh trong những thập kỷ vừa
qua.

3.1.2. Hiệu ứng ENSO
El Nino-Dao động phương nam (El Nino-Southern Oscillation, viết tắt là ENSO) là
hiện tượng dị thường trong tương tác đại dương-khí quyển toàn cầu, bao gồm hai yếu
tố:


Yếu tố hải dương với sự tăng hoặc giảm nhiệt độ bất thường (lớn hơn 0,5 oC) của lớp

nước biển bề mặt khu vực Đông Thái Bình Dương: nếu tăng, đó là El Nino; nếu giảm,
đó là La Nina. Mặc dù trái ngược nhau nhưng thực chất El Nino và La Nina chỉ là hai
mặt của cùng một hiện tượng. Vì vậy, người ta thường gọi La Nina là “chị em song
sinh” của El Nino.
• Yếu tố khí tượng là dao động hàng tháng hoặc hàng mùa trong sự chênh lệch áp suất
khí quyển giữa đảo Tahiti (Nam Thái Bình Dương) và Darwin (Bắc Australia).
Một đợt ENSO nóng gây ra bởi El Nino và cái tên El Nino thường được dùng thay cho
ENSO nóng. Tương tự, một đợt ENSO lạnh gây ra bởi La Nina thường cũng được gọi luôn là
hiện tượng La Nina.

21



Hình 3. 1 Sự lưu thông của nước biển và không khí trong điều kiện El Nino

Hình 3. 2 Sự lưu thông của nước biển và không khí trong điều kiện El Nino
Điều kiện El Nino

Trong điều kiện El Nino, vùng nước ở giữa Nam Mỹ và Đường đổi ngày quốc
tế được hâm nóng. Sự hâm nóng này tập trung chủ yếu ở xích đạo và thường mở rồng
thêm một số vĩ độ ra hai bên. Nước biển ven bờ tây Peru cũng ấm lên.
ENSO ảnh hưởng rõ rệt lên thời tiết các khu vực ở Thái Bình Dương, phần
xích đạo và Nam Bán Cầu rõ nét hơn phần phía bắc của Bắc Bán Cầu. Ngoài ra ENSO
còn tác động đến thời tiết Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương.
Bắc Mỹ: Alaska, Tây Canada, đôi khi cả miền Trung Hoa Kì chịu một mùa
đông lạnh giá. Đông Nam Hoa Kì và Trung Mỹ trải qua thời tiết khô hạn trong cùng
thời gian. Hoạt động bão Đại Tây Dương được tăng cường.
Nam Mỹ: tháng 6 đến tháng 8 ở Bắc Brazil trở nên ẩm ướt. Tháng 12 đến tháng
2 từ Nam Brazil cho đến Trung Argentina là những tháng khô hơn bình thường.
22


Châu Á và Châu Úc: lượng mưa những tháng đầu và cuối năm tăng mạnh ở
Indonesia, Malaysia và Bắc Úc. Đông Úc khô nóng bất thường từ tháng 6 đến tháng 8.
Gió mùa tăng cường ở Ấn Độ và Phillippines.
Châu Phi: thời tiết ẩm và mát hơn ở Đông Nam châu Phi trong suốt thời gian
diễn ra La Nina.

Hình 3. 3 xem chú thích

Hình 3. 4 Xem chú thích


Hình 3.1:Bản đồ thể hiện thời tiết từ tháng 12 đến tháng 2 ở các khu vực chịu ảnh
hưởng của El Nino. Các màu trong bảng chú giải (từ trên xuống) thể hiện: ẩm và mát;
ẩm; ẩm và ấm; khô và ẩm; khô; ấm.
Hình 3.2: Bản đồ thể hiện thời tiết từ tháng 6 đến tháng 8 ở các khu vực chịu ảnh
hưởng của La Nina. Các màu trong bảng chú giải (từ trên xuống) thể hiện: mát, ẩm và
mát, ẩm, ẩm và ấm, khô, ấm.

b) El Nino trong lịch sử :
Theo kết quả điều tra dựa vào tư liệu lịch sử, El Nino đã xuất hiện cách đây
nhiều thế kỉ, hầu hết có cường độ yếu. Các đợt El Nino mạnh nhất diễn ra trong vòng
300 năm trở lại đây vào: 1789-93, 1828, 1876-78, 1891, 1925-26, 1982-83, và 199798,2014-15.
Nhiều nhà sử học cũng bắt đầu chú ý đến khía cạnh lịch sử của El Nino. Một
vài kết luận khá bất ngờ đã được đưa ra. Chẳng hạn, vụ mùa thất bát ở châu Âu vào
năm 1788-1789 – hậu quả của một đợt El Nino mạnh – là một trong những nguyên
nhân kích động Cách mạng tư sản Pháp bùng nổ. Những kết quả nghiên cứu lõi băng
khoan từ băng hà trên đỉnh núi Andes cho thấy một “siêu El Nino” đã gây ra 30 năm
23


mưa lụt theo sau bởi 30 năm hạn hán liên miên, kéo theo sự suy tàn của nền văn minh
Mohica vào thế kỉ VI.
Điều đó cho thấy không thể coi El Nino nói riêng và ENSO nói chung chỉ là
những hiện tượng khí hậu thuần túy. Đôi khi chúng có thể gây ra những thảm họa thay
đổi cả tiến trình phát triển của các nền văn minh.

c) Tác động của các ENSO cực đoan
Các đợt ENSO “cực đoan” (mạnh bất thường) không chỉ gây nên sự thay đổi về
thời tiết mà còn có tác động to lớn đến các hệ sinh thái, kinh tế và sức khỏe con người.
Trong đó, những ảnh hưởng của El Nino được ghi nhận nhiều hơn là La Nina. Hai đợt

EL Nino “cực đoan” xảy ra vào các năm 1982-1983 và 1997-1998mạnh kỷ lục. Nếu
như đợt El Nino thứ nhất mới chỉ thu hút sự quan tâm của cộng đồng khoa học quốc tế
thì đợt El Nino thứ hai đã buộc người dân trên toàn thê giới phải chú ý đến hiện tượng
này.
Hiện tại năm 2015 được ghi nhận là năm nóng nhất trong lịch sử. Ngay tháng
trước, Tổ chức Khí tượng toàn cầu (WMO) cũng đã kết luận rằng, năm 2011-2015 là
giai đoạn “cực đoan” nhất từ trước đến nay. Một phần do biến đổi khí hậu và một phần
không nhỏ do diễn biến thất thường của hiện tượng El Nino.
BBC dẫn thông cáo của Met Office cho thấy nhiệt độ trung bình toàn cầu năm
2016 có thể tăng 1,1 độ C, trên mức tiền công nghiệp. (Là mức độ của CO 2 trong bầu
khí quyển trước khi bắt đầu cuộc Cách mạng công nghiệp. Các mức này được ước tính
là khoảng 280 phần triệu (theo thể tích). Mức độ hiện nay là khoảng 380ppm).
So sánh với nhiệt độ thời tiền công nghiệp, các dự báo cho rằng nhiệt độ toàn
cầu năm tới sẽ là 1,1 độ C, cao hơn giai đoạn 1850 - 1899. Đối chiếu với mục tiêu đã
đặt ra tại COP 21 là 1,5 độ C, có thể thấy mức nhiệt độ trên đã tiệm cận rất gần và
đáng lo ngại.
Năm ngoái theo dự báo, mức nhiệt độ toàn cầu trong năm 2015 có thể cao hơn
0,64 độ C so với trung bình. Dữ liệu quan sát từ tháng Một đến tháng Mười cho thấy,
nhiệt độ trung bình toàn cầu đang đạt ở mức 0,72 độ C, cao hơn so với mức trung bình
giai đoạn 1961- 1990.
24


• Tác động ENSO đến các hệ sinh thái biển và ngư nghiệp
Sự thay đổi các điều kiện khí hậu gây ra bởi ENSO gây ra sự biến động mạnh
mẽ trong hệ sinh thái biển, và thường là các ảnh hưởng tiêu cực. Rất dễ dàng tìm thấy
những ví dụ minh họa cho các ảnh hưởng này:
Dọc bờ biển phía tây của Nam Mỹ, El Nino ngăn cản sự xuất hiện trên bề mặt
của nước biển lạnh giàu dinh dưỡng, làm giảm đáng kể lượng phù du. Đời sống các
loài thủy sinh ăn phù du và các động vật ở bậc dinh dưỡng cao hơn (cá, chim biển và

thú biển) do đó cũng bị đe dọa nghiêm trọng. El Nino còn gây ra các luồng di cư của
các động vật nước lạnh lên phía bắc hoặc xuống các tầng nước sâu. Nhiều loài được
tìm thấy ở những nơi không phải môi trường bản địa của chúng.
Hiện tượng tảo nở hoa ở vùng biển tây Thái Bình Dương là hậu quả khác của El
Nino và La Nina. Sự phát triển đột biến của tảo, với El Nino, là do sự giảm số lượng
đáng kể các loài động vật ăn chúng; với La Nina, là do chất dinh dưỡng dư thừa trong
nước biển.
Nhiệt độ nước biển tăng cao trong El Nino tiêu diệt các loài tảo cộng sinh trong
san hô, dẫn đến hiện tượng san hô bị “tẩy trắng”. Chỉ riêng đợt El Nino năm 1998 đã
tiêu diệt khoảng 16% rạn san hô trên thế giới, một thiệt hại to lớn đối với đa dạng sinh
học và nghề cá. Sự phục hồi các rạn san hô trong thời gian không có El Nino bị cản trở
bởi sự nóng lên toàn cầu. Nhiều chuyên gia phác họa một viễn cảnh không hề tươi
sáng cho các “kì quan đại dương” này.
Sự giảm số lượng nhiều loài động vật biển có giá trị thương mại ở vùng bờ biển Tây
Thái Bình Dương trong thời gian diễn ra El Nino gây thiệt hại lớn cho hoạt động ngư
nghiệp ở đây. Chẳng hạn, đợt El Nino 1972 đã làm ngành cá với sản lượng đánh bắt
lớn nhất thế giới của Peru gần như sụp đổ.

• Gây hạn hán, mất mùa và nạn đói
Thiệt hại chính cho nông nghiệp trong thời gian diễn ra ENSO (đặc biệt là El
Nino) gây ra bởi hạn hán. Sản xuất lương thực rất nhạy cảm với hạn hán ở những vùng
và cận nhiệt đới, nơi lượng mưa phân bố rất không đồng đều trong năm. El Nino mang
hạn hán đến nhiều vùng nhạy cảm như vậy trên thế giới trong cùng một thời gian. Điều
này có thể dẫn đến những cuộc khủng hoảng lương thực, như vào năm 1972 khi hạn

25


×