Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

thực trạng lạm phát và kiểm soát lạm phát ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.24 KB, 22 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

Đề tài 3 :

THỰC TRẠNG LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
Ở VIỆT NAM

GVHD : PGS.TS Trần Huy Hoàng

TP. HCM, THÁNG 06 NĂM 2017


Mục lục


LỜI MỞ ĐẦU
Lạm phát là một hiện tượng thường xuyên xảy ra của nền kinh tế, trong thời gian
gần đây, vấn đề lạm phát ngày càng được quan tâm nhiều hơn. Lạm phát có thể là động
lực giúp một nền kinh tế phát triển xong nó cũng là nguyên nhân phá vỡ sự phát triển của
nền kinh tế một quốc gia, gây nên những bất ổn từ kinh tế dẫn đến đời sống và ảnh hưởng
tới lĩnh vực chính trị - xã hội. Ở Việt Nam, ảnh hưởng của lạm phát không còn là mới lạ,
từ thời kỳ bao cấp nền kinh tế của chúng ta đã bị thiệt hại nặng nề, tiền đồng liên tục mất
giá, 3 lần đổi tiền liên tiếp trong thời gian ngắn. Bước sang nền kinh tế thị trường hiện
nay, vấn đề lạm phát đã khó kiểm soát nay còn khó khăn hơn với những tác động từ thế
giới trên thị trường tiền tệ, giá nguyên liệu,… gây ra những bất ổn khó lường.
Với đề tài “Thực trạng làm phát và kiểm soát lạm phát ở Việt Nam” nhóm 5 hi vọng
tìm hiểu kĩ hơn về lạm phát, về tình hình lạm phát của nước ta trong những năm gần đây
và các biện pháp, công cụ mà chính phủ sử dụng để kiểm soát lạm phát từ đó có thể hiểu
kỹ hơn về vấn đề này, về sự kết hợp của các chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ của


Chính Phủ trong việc điều hành nền kinh tế vĩ mô.
Nội dung kết cấu của tiểu luận gồm 3 phần:
-

Phần 1: Cơ sở lý luận

-

Phần 2: Thực trạng lạm phát và kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
- Phần 3: Kết luận


Phần 1. CỞ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Quan điểm về lạm phát:
Theo các định nghĩa chính thống trong sách giáo khoa kinh tế thì lạm phát
(inflation) được coi là hiện tượng lượng tiền lưu thông tăng vượt quá sự tăng trưởng hàng
hóa sản xuất ra. Hiện tượng này dẫn đến giá cả của hầu hết các hàng hoá trong nền kinh tế
không ngừng tăng lên. Đây có thể coi là khái niệm nguyên bản về lạm phát.
Khái niệm về lạm phát được trình bày ở trên được mô tả theo quan điểm của
trường phái tiền tệ. Đại diện cho trường phái này là hai nhà kinh tế học Milton Friedman
và John Maynard Keynes.Trường phái tiền tệ cho rằng lạm phát chỉ xuất hiện do nguyên
nhân tiền tệ còn các nguyên nhân khác như “cầu kéo” hoặc “chi phí đẩy” đối với hàng hoá
không thể xảy ra lâu dài và thường xuyên, mà chỉ có tính chất tạm thời.Tuy nhiên, quan
điểm về lạm phát tiền tệ gặp phải một trở ngại là việc xác định khối lượng tiền tệ cần thiết
cho lưu thông là không khả thi, vì thực tế tổng lượng hàng hoá, dịch vụ luân chuyển trong
nền kinh tế luôn biến động. Ngoài ra, vòng quay tiền cũng không ổn định và mục đích sử
dụng tiền cũng luôn thay đổi. Do vậy, chúng ta chỉ có thể nhận diện ra lạm phát qua dấu
hiệu hàng hoá, dịch vụ tăng giá. Vì những nguyên nhân này mà đa số các nhà kinh tế học
đã đồng nhất tỷ lệ lạm phát với tỷ lệ tăng giá.Điển hình là nhà kinh tế học Paul Samuelson
cho rằng lạm phát có thể xuất phát từ các nguyên nhân sau:

(1) Nguyên nhân cầu kéo (do các cơn sốc về nhu cầu hàng hoá tiêu dùng);
(2) Nguyên nhân phí phí đẩy (do các cơn sốc về phía cung);
(3) Nguyên nhân xuất phát từ tâm lý kỳ vọng lạm phát tăng mạnh trong tương lai;
(4) Cung tiền tăng nhanh hơn lượng hàng hóa sản xuất (giống trường phái tiền tệ).
Sự khác biệt cơ bản trong quan điểm về các nguyên nhân gây ra lạm phát của hai
quan điểm về lạm phát ở trên là quan điểm tổng hợp của Paul Samuelson cho rằng giá cả
hàng hoá gia tăng dù là tạm thời cũng có thể coi là có lạm phát. Trong khi đó, trường phái
tiền tệ mà đại diện là Milton Friedman và John Maynard Keynes thì cho rằng chỉ khi mức
giá chung tăng lên liên tục trong một quá trình kéo dài có tính quy luật thì mới gọi là lạm
phát.
1.2. Tác hại và lợi ích của lạm phát đối với nền kinh tế
4


Theo Gregory Mankiw thì lạm phát gây ra 5 tổn thất sau:
(1) Làm giảm sức mua của đồng tiền. Vì vậy, lạm phát đồng nghĩa với một loại
thuế vô hình lấy đi một phần thu nhập của công dân và những người nắm giữ tiền mặt.
(2) Buộc các doanh nghiệp phải thay đổi biểu giá thường xuyên. Việc thay đổi này
gây ra chi phí cho doanh nghiệp.
(3) Gây ra thay đổi giá tương đối trong khi đó người sản xuất và tiêu dùng không
thích ứng kịp. Nền kinh tế thị trường dựa vào giá tương đối để phân bố nguồn lực một
cách hiệu quả.Lạm phát làm cho việc phân bố nguồn lực trở nên kém hiệu quả, khi xét
dưới góc độ kinh tế học vi mô.
(4) Làm giảm nguồn thu thuế do nhiều điều khoản của luật thuế không tính đến tác
động của lạm phát. Lạm phát có thể thay đổi nghĩa vụ thuế của cá nhân mà người làm luật
không lường hết được.
(5) Gây ra bất tiện cho cuộc sống trong một thế giới mà giá cả thị trường thường
xuyên thay đổi. Tiền là thước đo mà trong đó chúng ta tính chi phí các giao dịch kinh tế.
Lạm phát làm cho thước đo này co giãn, làm đảo lộn kế hoạch tài chính cá nhân và doanh
nghiệp.

Như vậy, có thể thấy lạm phát gây ra nhiều mặt tiêu cực cho xã hội và nền kinh
tế.John Maynard Keynes đã chỉ trích gay gắt và vạch rõ bản chất của lạm phát gây ra
những thiệt hại không gì bù đắp nổi cho nhân loại.
Tuy nhiên, trên thực tế lạm phát không hẳn là hoàn toàn có tác động tiêu cực.
Trong cuốn “Lý thuyết về việc làm, tiền tệ và lãi suất”,Keynes đã chủ trương thực hiện
chính sách tiền tệ giảm giá.Lập luận của Keynes cho rằng trong điều kiện kinh tế trì trệ,
thất nghiệp tăng cao thì chính phủ có thể chi tiêu nhiều hơn (chính tài khóa mở rộng) và
duy trì một tỷ lệ lạm phát nhất định để kích thích kinh tế tăng trưởng.Lập luận này của
ông dựa trên cơ sở là khi tiền giảm giá trị, người dân có xu hướng tiêu dùng cho sinh hoạt
và sản xuất nhiều hơn là tích luỹ. Việc tiêu dùng này làm tăng tổng cầu, đẩy nhanh vòng
quay vốn và vực dậy sản xuất thoát khỏi vòng suy thoái.
Trong đợt khủng hoảng kinh tế năm 2008, mối lo sợ nhất của nhiều nền kinh tế là
giảm phát.Vì vậy, hầu hết các quốc gia đều thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng để chống
5


suy thoái kinh tế và giảm phát.Chính sách này đã đạt được những thành công nhất
định.Tuy nhiên, nếu chính sách tiền tệ nới lỏng bị lạm dụng quá mức, không phù hợp với
hoàn cảnh kinh tế sẽ khiến thâm hụt ngân sách kéo dài, lạm phát tăng cao và có thể dẫn
đến nguy cơ khủng hoảng kinh tế.
1.3. Các chỉ số đo lường lạm phát
Hiện nay, quan điểm về lạm phát như nhà kinh tế học Paul Samuelson được sử
dụng rộng rãi, tức là lạm phát đồng nhất với việc tăng giá của hàng hóa và dịch vụ. CPI
chỉ là một trong những chỉ số đo lường mức độ lạm phát/tăng giá trong nền kinh tế.

Ngoài CPI rất nhiều chỉ số khác được sử dụng để giúp có một cái nhìn toàn diện về
giá cả trong nền kinh tế, như chỉ số khử lạm phát (GDP deflator), chỉ số giá nhà sản xuất,
lạm phát lõi/cơ bản (core inflation), chỉ số giá bán lẻ …
Mặc dù CPI vẫn được sử dụng khá phổ biến để phản ánh mức độ lạm phát nhưng
việc đo lường không hoàn toàn chính xác. Tính toán CPI còn mang nhiều ý nghĩa chủ

quan và đôi khi không phản ánh đúng mức tăng giá thực tế.
Tại Việt Nam đã có nhiều đề xuất về việc tính chỉ số lạm phát cơ bản thay cho CPI
làm cơ sở cho việc điều hành chính sách tiền tệ.Dù vậy, đề xuất này đến nay vẫn chưa
được chấp thuận để áp dụng chính thức.
1.4. Một số nghiên cứu của các tác giả đi trước:
(1) TS. Lê Quốc Phương – Trung tâm thông tin công nghiệp và thương mại
(Bộ Công Thương), “Thuận lợi và thách thức trong kiểm soát lạm phát”, Tạp chí Tài
chính ngày 26/03/2017.

6


Chỉ tiêu lạm phát Quốc hội đặt ra cho năm 2017 là dưới 4%.Để đảm bảo đạt mục
tiêu này, đòi hỏi nỗ lực rất lớn trong quản lý, điều hành nền kinh tế.Xét từ các đặc điểm
chính của lạm phát ở Việt Nam cũng như các yếu tố thuận lợi và thách thức trong việc
thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, bài viết đề xuất một số giải pháp giúp kiểm soát
hiệu quả lạm phát năm 2017.
(2) TS. Nguyễn Đức Độ - Viện kinh tế tài chính, “ Mối quan hệ giữa chính
sách tiền tệ và lạm phát”, Tạp chí Tài chính ngày 31/03/2017
Xét trên khía cạnh lý thuyết, giữa chính sách tiền tệ và lạm phát có mối quan hệ
chặt chẽ, đặc biệt là trong dài hạn.Tuy nhiên, thực tế tại các nước phát triển thời gian qua
cho thấy, chính sách nới lỏng tiền tệ quy mô lớn có thể song hành cùng với lạm phát
thấp.Nói cách khác, chính sách tiền tệ cũng có những giới hạn nhất định trong việc thúc
đẩy lạm phát.Liệu điều này có đang xảy ra ở Việt Nam?
(3) TS. Nguyễn Anh Phong, Đại học Kinh tế-Luật, Đại học quốc gia Tp. HCM,
“Tăng trưởng kinh tế và ngưỡng lạm phát tối ưu”, Tạp chí Tài chính ngày
30/5/2017.
Bài viết nghiên cứu quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát tại Việt Nam giai
đoạn từ năm 1992 đến 2016. Bằng kỹ thuật Bootstrap, nghiên cứu tìm ra ngưỡng lạm phát
tối ưu tại Việt Nam là ở mức 3,22%/năm, nghĩa là muốn có tăng trưởng kinh tế tốt, cần

duy trì lạm phát ở mức vừa phải (3,22%/năm). Nếu lạm phát cao hơn mức này, khả năng
suy giảm tăng trưởng sẽ xuất hiện. Để giữ cho tăng trưởng đạt mục tiêu, Chính phủ buộc
phải nới lỏng các chính sách tài khóa và tiền tệ, việc làm này khiến lạm phát lại tăng lên.
(4) Nguyễn Khắc Hiếu & Nguyễn Thị Anh Vân (2014), "Dự báo lạm phát tại
Việt Nam bằng mô hình mạng thần kinh nhân tạo", Tạp chí Phát triển Kinh tế (286)
Lạm phát là vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp và nhà
đầu tư đều quan tâm.Có nhiều mô hình dự báo lạm phát, mỗi mô hình đều có ưu và nhược
điểm riêng. Bài viết này nhằm so sánh hiệu quả dự báo của mô hình mạng thần kinh nhân
7


tạo (Artificial Neural Network: ANN) và mô hình phân phối độ trễ tự hồi quy
(Autoregressive Distributed Lag: ARDL) trong dự báo lạm phát theo tháng tại VN. Kết
quả cho thấy, mô hình ANN dự báo trong mẫu tốt hơn mô hình ARDL ở cả 3 tiêu chí R2,
RMSE và MAE.Đối với dự báo ngoài mẫu, mô hình ANN dự báo tốt hơn ở 2 tiêu chí
RMSE và R2. Nhìn chung, mô hình ANN dự báo lạm phát tại VN tốt hơn mô hình ARDL.
(5) Trương Minh Tuấn (2013), "Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng
kinh tế: Nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam", Tạp chí Phát triển Kinh tế (278)
Lạm phát và tăng trưởng kinh tế là hai chỉ số kinh tế vĩ mô quan trọng. Mối quan
hệ giữa hai chỉ số này tác động đến nhiều mặt của nền kinh tế như tiết kiệm, đầu tư, mức
sống của người dân… Bài viết này nghiên cứu mối tương quan giữa lạm phát và tăng
trưởng kinh tế ở VN thông qua việc kiểm định mối quan hệ nhân quả trong mô hình hồi
quy đa biến gồm: lạm phát, tăng trưởng kinh tế, giá dầu, cung tiền và tỉ giá hối đoái. Bài
viết sử dụng mô hình VAR và ECM để kiểm định mối quan hệ nhân quả và tìm ra mối
tương quan giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn. Kết quả
nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ dài hạn giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Để
thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững, cần có chiến lược phát triển kinh tế từ
ngắn hạn đến dài hạn theo hướng ưu tiên phát triển kinh tế trong ngắn hạn để tạo đà kiềm
chế lạm phát trong dài hạn.
(6) Trần Hoàng Ngân, Vũ Thị Lệ Giang, Hoàng Hải Yến (2013), "Mối quan hệ

giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam thời gian qua", Tạp chí Phát
triển Kinh tế (276)
Lịch sử lạm phát của VN 33 năm qua cho thấy phần lớn thời gian chúng ta lâm vào
tình trạng lạm phát cao và mức lạm phát cao này ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống
người lao động, người có thu nhập thấp và ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vì
thế trong bài viết này, nhóm tác giả thực hiện một nghiên cứu xác định ngưỡng lạm phát
tại VN nên ở mức nào sẽ hỗ trợ tốt cho tăng trưởng kinh tế. Để thực hiện nghiên cứu,
nhóm tác giả tiến hành thu thập dữ liệu thống kê nhằm xác định mối tương quan giữa lạm
phát (tính bằng chỉ số giá tiêu dùng CPI) và tốc độ tăng trưởng kinh tế (tính bằng tốc độ
tăng GDP) ở VN trong vòng 26 năm (1987-2012). Mối quan hệ này cũng được tác giả so
8


sánh giữa hai giai đoạn 1987-2000 và 2001-2012.Kết quả nghiên cứu cho thấy ngưỡng
lạmphát CPI ở VN nên ở mức 5-7%/năm.
(7)Vũ Sỹ Cường(2011), Tác động của chính sách tài khóa và tiền tệ đến lạm
phát mô hình lý thuyết và thực tiễn ở Việt Nam, Tạp chí Phát triển Kinh tế (247)
Nghiên cứu nguyên nhân lạm phát thường được xem xét dưới nhiều góc độ của
chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, trong những năm gần đây các nhà kinh tế bắt đầu xem xét
căn nguyên của lạm phát từ chính sách tài khóa (cụ thể là thâm hụt ngân sách). Bài viết
này giới thiệu một nghiên cứu về quan hệ giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và
lạm phát ở VN.Bài viết tóm tắt lại các mô hình lý thuyết và sử dụng mô hình VAR
(vector-auregressive) nhằm kiểm chứng cho trường hợp VN. Kết quả phân tích định
lượng cho thấy ngoài nguyên nhân tiền tệ thì lạm phát ở VN còn chịu ảnh hưởng của
chính sách tài khóa với sự gia tăng bội chi ngân sách trong những năm gần đây.
(8)Trần Hoàng Ngân và Võ Thị Tuyết Anh, (2008), Lạm phát, nguyên nhân và
giải pháp, Tạp chí Phát triển kinh tế tháng 4/2008.
Nêu lên bối cảnh tình hình kinh tế ở Việt Nam, những nguyên nhân dẫn đến tình
hình lạm phát. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất các giải pháp khắc phục lạm phát như
thực hiện việc thắt chặt tiền tệ và tài chính để cắt giảm tổng cầu, trợ giá đối với một số

mặt hàng là đầu vào sản xuất, các giải pháp giảm nhập siêu, thực hiện cơ chế giá thị
trường của một số mặt hàng thiết yếu, do Nhà nước quản lý, theo một lộ trình thích hợp,
(9) TS. Nguyễn Ngọc Tuyến, (2017) Lạm phát năm 2017: Nhận diện các yếu tố
tác động, Tạp chí Tài chính tháng 3/2017 (652)
Lạm phát được xác định làm một trong những chỉ tiêu quan trọng trong điều hành
kinh tế vĩ mô ở Việt Nam từ trước tới nay. Nhận thức rõ vai trò của lạm phát, trong những
năm gần đây, chính phủ đã xác định mức cụ thể và coi lạm phát hằng năm là một chỉ tiêu
phải được kiểm soát một cách chặt chẽ bên cạnh các chỉ tiêu kinh tế quan trọng khác.
Phân tích diễn biến giá tiêu dùng năm 2016 cũng như nhận định các yếu tố tác động, bài
viểt đưa ra một số dự báo lạm phát năm 2017.
(10)TS. Nguyễn Đức Độ - Viện kinh tế - Tài chính (Học viện tài chính) – Xu
hướng lạm phát 2017 - Tạp chí Tài chính tháng 01/2017
9


Theo số liệu mới được Tổng cục Thống kê công bố, chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
tháng 12/2016 đã tăng 4,74% so với tháng 12/2015. Đây là mức tăng thấp hơn so với mức
lạm phát mục tiêu 5% được Quốc Hội thông qua nhưng cao hơn nhiều so với mức tăng
0,6% của năm 2015. Xu hướng lạm phát tăng trong năm 2016 đã dẫn đến nhiều dự báo
rằng, mức lạm phát mục tiêu 4% cho năm 2017 là khó đạt được. Bài viết này phần giải
đáp câu hỏi liệu xu hướng lạm phát trong năm 2017 có tiếp tục gia tăng như trong năm
2016 ?
(11) PGS.TS. Phan Thị Cúc Khoa Tài chính – Ngân hàng - Trường ĐH Công
Nghiệp TP. HCM, Đề tài: Diễn biến lạm phát ở Việt Nam và giải pháp kiềm chế linh
hoạt
Đề tài đã hệ thống hóa lý luận cơ bản về lạm phát, và phân tích các diễn biến thực tế của
lạm phát ở Việt Nam qua chỉ số CPI, lãi suất ngân hàng, tỉ giá hối đoái, tốc độ giảm
GDP….trong nước, chỉ số giá vàng, USD trên thế giới… trong giai đoạn từ tháng 12/2007
đến 11/2008, và dự báo rủi ro, thách thức, đề xuất hệ giải pháp trong thời gian tới với kỳ
vọng tham gia hoạch định chính sách vĩ mô, bổ sung kiến thức về lý luận và thực tiễn,

nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu, học tập cho sinh viên và các bạn đồng nghiệp.

Phần 2. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở
VIỆT NAM
2.1. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2011 đến 2015
2.1.1 Thực trạng lạm phát ở Việt Nam năm 2011
-

Trong bối cảnh lạm phát tăng vọt, đầu tư công tràn lan kém hiệu quả và các "đầu tàu" của
nền kinh tế đầu tư ồ ạt ra ngoài ngành, Nghị quyết 11 (ngày 24/2/2011) của Chính phủ

-

được đưa ra nhằm rà soát và tái cơ cấu lại hoạt động của nền kinh tế, ổn định vĩ mô.
Việc thực hiện chínhsách tiền tệ chặt chẽ, chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư
công, kiềm chế nhập siêu... và đảm bảo an sinh xã hội theo Nghị quyết 11 đã được thể
hiện xuyên suốt trong điều hành vĩ mô của Chính phủ năm 2011. Mặc dù lạm phát vẫn
cán mốc trên 18% nhưng những dấu hiệu cải thiện vĩ mô rõ rệt vào thời điểm cuối năm
cũng như các định hướng tái cấu trúc kinh tế, cắt giảm lãi suất, thoái vốn ngoài ngành,
tăng hiệu quả đầu tư công.
10


-

Tháng cuối cùng trong năm, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước tăng 0,53%, đẩy CPI cả

-

năm tăng 18,58% so năm 2010. So cùng kỳ tháng 12/2010, CPI cả nước tăng 18,13%.

 Nguyên nhân
• Yếu tố “cầu kéo”:
Lý do cơ bản nhất để lạm phát bộc lộ mạnh vào những năm gần đây là quá trình phát triển

-

kinh tế dựa vào đầu tư và tình trạng kém hiệu quả trong việc sử dụng vốn.
Giá vàng liên tiếp thiết lập kỷ lục
• Yếu tố chi phí đẩy
Đầu năm 2011, tình hình kinh tế thế giới có nhiều diễn biến phức tạp: lạm phát tăng, giá
dầu thô, giá nguyên vật liệu cơ bản đầu vào của sản xuất, giá lương thực, thực phẩm và
giá vàng trên thị trường thế giới tiếp tục xu hướng tăng cao đã tác động không nhỏ đến

-

nền kinh tế trong nước.
Doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu tăng giá 2 lần (ngày 24/2 và ngày 29/3), mỗi lít xăng
tăng khoảng 30%, dầu tăng khoảng 38% đã tác động trực tiếp tăng chỉ số giá nhóm giao

-

thông vận tải và gián tiếp nhiều vòng đến hoạt động sản xuất của các lĩnh vực khác.
Giá điện cho sản xuất và sinh hoạt cũng được điều chỉnh tăng khoảng 15,3% .
• Yếu tố tiền tệ:
Việc phát triển dựa trên đầu tư khiến lượng cung tiền trong nền kinh tế liên tục tăng với

-

tốc độ chóng mặt. So với 5 năm trước, VND mất giá gần một nửa.
Việc tăng cung tiền với gia tốc lớn như vậy trong khi thực lực của nền kinh tế không


-

mạnh, hiệu quả sử dụng vốn thấp khiến lượng hàng hóa sản xuất ra không tăng cùng nhịp
với tăng cung tiền. Từ đó tất yếu dẫn tới giá cả leo thang – hay nói cách khác là VNĐ mất
-

giá.
Ngoài ra, việc tăng lương tối thiểu cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.
 Các biện pháp chính phủ áp dụng
Nghị quyết 11 xuất hiện từ tháng 4 năm 2011 với mục tiêu là tấn công trực diện vào cơn
bão lạm phát với hai gọng kìm thắt chặt chính sách tài khóa qua cắt giảm đầu tư công và
thắt chặt tiền tệ qua hạn chế tăng trưởng tín dụng, đặc biệt là tín dụng cho khu vực phi sản
xuất. Với các giải pháp cụ thể là:
+ Chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng;
+ Chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà
nước;

11


+ Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử
dụng tiết kiệm năng lượng;
+ Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo;
+ Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội.
-

Chính phủ là bắt tay vào vực dậy hệ thống ngân hàng. Quá trình này được khởi động... từ

-


chính sách áp trần lãi suất 14% của Ngân hàng Nhà nước.
Chính phủ còn đưa ra thêm hai trọng điểm khác là cải cách doanh nghiệp nhà nước và cải
cách về đầu tư công.
2.1.2 Thực trạng lạm phát ở Việt Nam năm 2012

-

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2012 tăng 0,27% so với tháng trước và tăng 6,81% so với
tháng 12/2011. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2012 tăng 9,21% so với bình quân

-

năm 2011.
 Nguyên nhân
• Yếu tố “cầu kéo”
CPI tăng chủ yếu do tác động của nhóm thuốc và dịch vụ y tế và nhóm giáo dục.
Sự ổn định của lạm phát năm 2012 là kết quả và chịu sự chi phối rất lớn của sự tăng chậm
lại rõ rệt của tổng cầu, cả tổng cầu tiêu dùng và tổng cầu đầu tư, cả tổng cầu trong nước

-

và xuất khẩu.
• Yếu tố chi phí đẩy:
Trong đó, cước vận tải năm 2012 tăng 13,2% so với năm trước với mức tăng giá cước tại
dịch vụ vận tải hàng hóa là 7,82%. Chỉ số giá cước vận tải đường sắt năm 2012 tăng
15,49% so với năm 2011; đường bộ và xe buýt tăng 9,98%; đường thủy tăng 7,84%;

-


đường hàng không tăng 31,97%;
Chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất năm 2012 tăng 9,04% so với năm
2011.
Với mức tăng tổng cộng tới 14,4%, đưa giá xăng dầu lên mức cao kỷ lục từ trước tới nay.
 Các biện pháp chính phủ áp dụng
Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 25/2012/CT – TTg ngày 26/9/2012 tăng cường
công tác quản lý, điều hành và bình ổn giá những tháng cuối năm 2012 với nội dunng chủ

-

yếu là giãn tiếp độ điều chỉnh tăng giá điện và dịch vụ y tế.
Chỉ nhờ sự chỉ đạo kiên quyết và kịp thời của Chính phủ và thị trường giá cả quí IV/2012
đã nhanh chóng ổn định trở lại và nguy cơ tái lạm phá cao đã bị đẩy lùi. Chỉ số giá tiêu
dùng 3 tháng cuối năm 2012 tăng chậm trở lại, góp phần tích cực vào thành tích CPI cả
12


năm tăng 6,81% so với cuối năm trước và bình quân cả năm tăng 9,21% - đạt mục tiêu
-

kiềm chế lạm phát đặt ra từ đầu năm.
Kiềm chế lạm phát năm 2012 còn được sự hỗ trợ của ổn định tỷ giá hối đoái suốt cả năm
2012 với tỷ giá hối đoái liên ngân hàng cố định ở mốc 20.828 VND/USD. Chỉ số giá vàng
tháng 12/2012 chỉ tăng 0,4% so với năm trước, bình quân cả năm tăng 7,83% và chỉ số

-

giá đô la Mỹ thậm chí còn giảm 0,96% và bình quân cả năm tăng có 0,18%.
Song song với chính sách ổn định tỷ giá hối đoái, chính sách tiền tệ và tín dụng ngân hàng
thận trọng đã góp phần tích cực vào kiềm chế lạm phát năm 2012. Mặt bằng lãi suất cũng


-

được kéo giảm xuống rõ rệt trong năm 2012 nhằm ổn định thị trường tiền tệ ngân hàng.
Chính sách tài khóa năm 2012 tuy chưa thật sự thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát song

-

cũng không nới lỏng chi tiêu NSNN để có thể gây ra lạm phát cao.
Đầu tư công năm 2012 cũng được quản lý chặt chẽ hơn theo chỉ thị 1792/2011/CT – TTg

ngày 15/10/2011 về tăng cường quản lý đầu tư vốn NSNN và vốn trái phiếu chính phủ.
 Lạm phát 2012 ở mức thấp một con số, xong ở trong đó có những nguy cơ bất ổn về tình
hình kinh tế, nguy cơ suy thoái kinh tế được đặt ra do việc GDP tăng thấp hơn CPI.
2.1.3 Thực trạng lạm phát ở Việt Nam năm 2013
-

Tổng cục Thống kê đang tổ chức họp báo công bố số liệu tình hình kinh tế xã hội năm
2013, theo đó, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2013 tăng 0,51% so với tháng trước và

-

tăng 6,04% so với tháng 12/2012.
Đây là năm có chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây. Chỉ số giá tiêu

-

dùng bình quân năm 2013 tăng 6,6% so với bình quân năm 2012.
 Nguyên nhân
CPI năm nay tăng do một số nguyên nhân chủ yếu: Giá một số mặt hàng và dịch vụ do

Nhà nước quản lý được điều chỉnh theo kế hoạch và theo cơ chế thị trường. Cụ thể, trong
năm có 17 tỉnh, thành phố điều chỉnh giá dịch vụ y tế làm cho CPI của nhóm thuốc và
dịch vụ y tế tăng tới 18,97% so với tháng 12 năm trước, đóng góp vào chỉ số chung cả
nước gần 1,1%. Các địa phương cũng tiếp tục thực hiện lộ trình tăng học phí làm làm CPI

-

nhóm giáo dục tăng 11,71%, đóng góp vào chỉ số chung cả nước tăng khoảng gần 0,7%.
Giá xăng dầu dù được điều chỉnh tăng và giảm nhưng tựu chung lại vẫn tăng và cả năm
thực tế đã tăng giá 2,18%, góp tăng CPI chung cả nước 0,08%. Giá điện năm qua thực tế
đã được điều chỉnh tăng 10%, đẩy CPI chung tăng khoảng 0,25%. Bên cạnh đó, giá gas cả
năm tăng gần 5%, đóng góp vào CPI cả nước với mức tăng 0,08%...
13


-

Nhu cầu hàng hóa tiêu dùng của dân cư và tiêu dùng cho sản xuất tăng vào dịp cuối năm;

-

Ảnh hưởng của thiên tai, mưa bão...
CPI cuối năm 2013 còn chịu thêm áp lực từ sự mất cân đối thu - chi ngân sách nhà nước
các cấp, với mức bội chi trong 8 tháng qua đã lên tới hơn 100.000 tỷ đồng (tính đến ngày
15/8 tổng thu ngân sách nhà nước ước đạt 461 nghìn tỷ đồng, bằng 56,5% dự toán năm;
tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến ngày 15/8/2013 ước tính đạt 563 nghìn tỷ
đồng, bằng 57,6% dự toán năm); trong khi trái phiếu Chính phủ đang ế hơn so với đầu

-


năm.
Năm 2013 tăng lương tối thiểu.
CPI năm 2013 tăng thấp chủ yếu do vụ Đông-Xuân, vụ Hè-Thu năm nay được mùa trên
cả nước nên nguồn cung lương thực dồi dào, cùng với đó là sức mua phục hồi chậm, tổng
cầu thấp. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội năm 2013 ước tăng
12,6%, loại trừ yếu tố giá chỉ tăng 5,6%, thấp hơn so với năm 2012 (tăng 6,2%). Trong

-

khi đó, các doanh nghiệp bị tồn đọng sản phẩm.
CPI cũng được níu kéo bởi giá một số hàng hóa Việt Nam có kim ngạch xuất, nhập khẩu

-

lớn và giá lương thực, thực phẩm có xu hướng giảm
 Các biện pháp chính phủ áp dụng giúp CPI năm 2013 ở mức thấp
Bên cạnh những nguyên nhân vừa đề cập ở trên, nguyên nhân cơ bản có tính chất quyết
định đó chính là kết quả điều hành chính sách kịp thời của Chính phủ. Theo đó, các cấp,
các ngành triển khai quyết liệt các biện pháp, chính sách có hiệu quả về tăng cường quản
lý giá thị trường, cung cầu hàng hóa, chống buôn lậu, hàng giả, hàng nhái; bình ổn thị
trường giá cả, kiềm chế tốc độ tăng CPI và kiềm chế lạm phát những tháng cuối năm

-

2013.
Trong năm, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá, thị trường

-

vàng linh hoạt và hiệu quả cũng đóng góp vào mục tiêu kiềm chế lạm phát.

Để kiềm chế CPI không quá một con số, theo chỉ đạo của Chính phủ, các sở, ban, ngành
chức năng cần theo dõi sát tình hình giá cả thị trường và diễn biến chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) tại địa phương, kịp thời có biện pháp bình ổn giá theo quy định của pháp luật kiềm
chế tốc độ tăng CPI của địa phương; tiếp tục chỉ đạo tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra việc chấp hành quy định của pháp luật về giá, thuế, phí trên địa bàn; xử lý nghiêm
những đơn vị, cá nhân có hành vi vi phạm, lợi dụng thời gian cao điểm để tăng giá, phí
14


tùy tiện, trái pháp luật hoặc tăng giá dây chuyền khi yếu tố hình thành giá không có biến
động lớn; đặc biệt, cần kiểm soát chặt chẽ phương án, lộ trình thời gian điều chỉnh giá đối
với hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, đặt hàng giao kế hoạch, hay được mua sắm
từ nguồn ngân sách địa phương; hàng hóa, dịch vụ còn được trợ cước, trợ giá theo thẩm
-

quyền… bảo đảm hạn chế thấp nhất tác động đến tốc độ tăng CPI năm 2013.
Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ theo các Nghị quyết 01 và Nghị quyết 02, cùng lúc
giảm nhẹ cả ba gánh nặng của năm tài chính, vốn và thể chế nhằm góp phần tạo thuận lợi
cho doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn vốn và tiết giảm được chi phí đầu vào, chi phí
lưu kho, lưu bãi, giảm áp lực tăng giá đầu ra, góp phần bảo đảm cân đối cung cầu hàng
hóa, dịch vụ; tăng cường phối hợp chặt chẽ với các ngành, lực lượng chức năng có liên
quan chống buôn lậu, gian lận thương mại; ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối theo
mục tiêu, kéo giá vàng trong nước sát với giá vàng thế giới; đảm bảo cân đối thu chi, thu
đúng, thu đủ, ngăn chặn tình trạng gian lận, trốn thuế và lãng phí.
2.1.4 Thực trạng lạm phát ở Việt Nam năm 2014
Ngay từ đầu năm 2014, Chính phủ đã tiếp tục kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ
mô, trong đó, kiểm soát lạm phát là một trong những trụ cột quan trọng. Kết quả này lại
tiếp tục được thể hiện qua chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2014, chỉ tăng 1,84% so với
tháng 12/2013, chỉ bằng 26,2% chỉ tiêu mức lạm phát của Quốc hội đặt ra (7%) và bằng
37% mức dự kiến lạm phát của Chính phủ (5%).Nếu xét mức lạm phát bình quân, thì cả

năm 2014 so với năm 2013 tăng 4,09%.
 Nguyên nhân
CPI năm 2014 có 3 đợt giảm vào các tháng 3, 11 và 12 các tháng còn lại tăng rất thấp.

-

- Nhóm hàng giảm giá mạnh nhất trong tháng 12 là giao thông với mức giảm 3,09%.
Trong thời điểm lấy số liệu tính CPI (ngày 15 hàng tháng), giá xăng dầu có 2 đợt điều
chỉnh giảm trong các ngày 22-11 và 6-12 với mức giảm tổng cộng 1.460 đồng/lít
xăng.Riêng đợt giảm giá rất sâu 2.050 đồng lít trong ngày 22-12 vừa qua chưa phản ánh
vào CPI tháng này.

15


-

Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 0,4% cũng góp phần kéo giảm CPI tháng 12. Các

-

nhóm hàng còn lại trong rổ tính CPI đều tăng nhẹ trong tháng cuối năm.
Chỉ số giá vàng vẫn tiếp tục giảm ở mức 0,05% trong khi chỉ số giá đô la Mỹ tiếp tục tăng
0,35% so với tháng trước.
 Các biện pháp của chính phủ

-

Chính phủ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ và tài khóa. Với mục tiêu ổn định kinh tế
vĩ mô, chính sách tiền tệ, tài khóa luôn được kiểm soát một cách chặt chẽ. Khác với các

giai đoạn trước, khi lạm phát có xu hướng bắt đầu giảm thì chúng ta lại nới lỏng chính
sách tiền tệ, còn 3 năm qua (2012, 2013, 2014) Chính phủ đã thực hiện nhất quán và kiên
trì chính sách nói trên, nên lạm phát được kiềm chế và kiểm soát ở mức thấp dần.

-

Công tác quản lý, điều hành giá được chú trọng. Theo đó, Chính phủ cũng đã đề ra các
giải pháp thường kỳ hàng tháng về triển khai công tác quản lý, bình ổn thị trường giá cả;
quản lý, điều tiết, bình ổn giá một số mặt hàng quan trọng thiết yếu (giá xăng dầu, giá
điện, giá than, giá dịch vụ khám, chữa bệnh tại cơ sở công lập, giá dịch vụ giáo dục, giá
sữa cho trẻ em dưới 6 tuổi, giá dịch vụ bốc dỡ container tại các cảng Cái Mép - Thị Vải,
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, giá cước vận tải…). Triển khai các nghị quyết của Chính phủ, chỉ
đạo của Chính phủ, Bộ Tài Chính đã chủ trì hoặc phối hợp với các bộ, ngành liên quan
thực hiện công tác quản lý giá, góp phần bình ổn giá cả thị trường.
2.1.5 Thực trạng lạm phát ở Việt Nam năm 2015
Lạm phát năm 2015 ở mức thấp kỷ lục trong 14 năm gần đây - chỉ 0,6%, thấp xa mục
tiêu điều hành 5%.Theo số liệu mới công bố của Tổng cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) cả nước năm 2015 tăng 0,63% so với năm 2014; bình quân mỗi tháng CPI chỉ tăng
0,05%. Đây là tốc độ tăng tương đối thấp kể từ năm 2001 đến nay.
Do nguồn cung về lương thực, thực phẩm trong nước dồi dào; sản lượng lương thực
thế giới tăng với sự cạnh tranh từ các nước như Thái Lan, Ấn Độ nên việc xuất khẩu gạo
16


của Việt Nam gặp khó khăn hơn. Do đó, giá lương thực của Việt Nam luôn ở mức thấp
hơn các nước khác. Tính đến tháng 11/2015, Việt Nam mới xuất khẩu được 6,08 triệu tấn
gạo; tăng 0,7% về lượng nhưng giảm 7,4% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.
-

Giá nhiên liệu trên thị trường thế giới gần đây giảm mạnh, giá dầu Brent xuống mức thấp

nhất trong vòng 5 năm qua. So với năm 2014, bình quân giá dầu Brent năm 2015 giảm
khoảng 45,6%. Do đó, giá xăng dầu trong nước được điều chỉnh giảm, kéo theo chỉ số giá
nhóm hàng Nhà ở và vật liệu xây dựng; nhóm Giao thông năm 2015 lần lượt giảm 1,62%
và 11,92% so với năm trước; trong đó riêng giá xăng dầu giảm 24,77% so với năm trước
đã góp phần làm giảm CPI chung 0,9%. Bên cạnh đó, giá gas sinh hoạt trong nước cũng
được điều chỉnh theo giá gas thế giới, giảm từ tháng 6 đến tháng 9, tăng từ tháng 10 đến

-

hết năm. Bình quân năm 2015 giá gas giảm 18,6% so với năm trước.
Mức độ điều chỉnh giá của các nhóm hàng do Nhà nước quản lý như dịch vụ giáo dục,
dịch vụ y tế thấp hơn so với năm trước. Năm 2015 giá dịch vụ y tế được điều chỉnh với
mức độ thấp chỉ tác động đến CPI khoảng 0,07%; giá dịch vụ giáo dục tác động đến CPI

-

khoảng 0,12% và giá điện điều chỉnh tăng 7,5% cũng tác động đến CPI khoảng 0,19%.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành lãi suất và tỷ giá linh hoạt phù hợp với tình
hình kinh tế vĩ mô. Năm 2015 vừa qua tỷ giá được điều chỉnh 3% vào ngày 7/1/2015,
ngày 7/5/2015 và ngày 19/8/2015, biên độ giao dịch tỷ giá cũng được tăng lên (+/-)3%
nhằm ổn định thị trường ngoại hối, ứng phó kịp thời với tình hình biến động của thị
trường tài chính của các nước có quan hệ thương mại lớn với Việt Nam và hỗ trợ xuất

-

khẩu.
Trong hai năm gần đây, CPI tăng thấp còn do yếu tố tâm lý, chi tiêu của người dân được
tính toán kỹ hơn, cân nhắc hơn. Do đó, người cung cấp hàng hóa, dịch vụ cũng không
tăng giá cao vào dịp trước, trong và sau Tết Nguyên đán hay các ngày lễ hội như những
năm trước đây.

Khi CPI ở mức thấp và ổn định sẽ tạo điều kiện cho các chính sách tiền tệ tích cực,
kích thích sản xuất kinh doanh phát triển và tạo điều kiện cho giá một số mặt hàng do Nhà
nước quản lý được tính đầy đủ theo cơ chế thị trường.

17


Bảng tình hình tăng giá hàng hóa qua chỉ số giá gia đoạn 2006-2015.
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Trong giai đoạn 2011 - 2015 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành chủ động,
linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ (CSTT), phối hợp chặt chẽ với chính sách tài
khóa góp phần quan trọng trong kiểm soát và đưa lạm phát ở mức cao 23% vào tháng
8/2011 xuống còn 6,81% năm 2012, 6,04% năm 2013, 1,84% năm 2014 và 0,6% năm
2015.
Giai đoạn 2011-2015 đánh dấu thời kỳ giữ lạm phát ổn định ở mức thấp nhất trong
hơn 10 năm qua. Lạm phát ổn định ở mức thấp, ổn định kinh tế vĩ mô được giữ vững, thị
trường ngoại hối, tỷ giá ổn định, dự trữ ngoại hối tăng lên mức kỷ lục, thanh khoản hệ
thống ngân hàng được cải thiện vững chắc là những yếu tố cơ bản được các tổ chức xếp
hạng tín nhiệm quốc tế sử dụng làm căn cứ để nâng hệ số tín nhiệm của Việt Nam.
Nếu như năm 2010, các tổ chức xếp hạng như Moody’s, Fitch Rating, Standard &
Poor’s đồng loạt đánh giá tín nhiệm Việt Nam ở mức “tiêu cực” do quan ngại về chính
sách kinh tế, dự trữ ngoại hối và thực trạng của hệ thống ngân hàng thì giai đoạn 20112015, Fitch nâng xếp hạng của Việt Nam lên mức BB, Moody’s nâng xếp hạng của Việt
Nam lên mức B1, tiến gần hơn đến ngưỡng khuyến nghị đầu tư.
2.2. Những giải pháp kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
2.2.1 Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng
18


Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả của các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là
các loại lãi suất và lượng tiền cung ứng để đảm bảo tốc độ tang trưởng tín dụng và tổng

phương tiện thanh toán ở mức thấp, phù hợp với những diễn biễn phức tạp của tình hình
thực tế để bảo đảm kiểm soát lạm phát: tập trung ưu tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển
sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh
nghiệp nhỏ và vừa: giảm tốc độ và tỷ trọng vay vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất,
nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán.
Điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị
trường. Tăng cường quản lý ngoại hối, thực hiện các biện pháp cần thiết để các tổ chức,
cá mhaan trước hết là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng
khi có nguồn thu và được mua khia có nhu cầu hợp lý, bảo đảm thanh khoản ngoại tệ,
bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự trữ
ngoại hối.
Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng và thu đổi ngoại tệ.
2.2.2 Thực hiện chính sách tài chính thắt chặt
Phấn đấu tăng thu ngân sách nhà nước. Tăng cường kiểm tra, giám sát trong quản
lý thu thuế, chống thất thu thuế.
Giám sát chặt chẽ việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, nhất là vay
ngắn hạn. Thực hiện rà soát nợ Chính phủ, nợ quốc gia, không mở rộng phạm vi bảo lãnh
của Chính phủ.
Thành lập các đoàn kiểm tra, rà soát toàn bộ các công trình , dự án đầu tư từ nguồn
vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ, xác định cụ thể các công trình, dự án cần
ngừng, đình hoãn: thu hồi hoặc điều chuyển các khoản đã bố trí nhưng chưa cấp bách,
không đúng mục tiêu.
Kiểm tra rà soát lại đầu tư của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, doanh
nghiệp nhà nước, loại bỏ các dự án đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, kể cả các dự án
đầu tư ra nước ngoài.
2.2.3 Thúc đẩy sản xuất kinh doanh, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm
năng lượng
19



Chỉ đạo, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh để đẩy
mạnh sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ: chỉ đạo điều hành xuất khẩu gạo bảo đảm
hiệu quả, ổn định lương thực trong nước, phối hợp với Bộ Tài chính trong việc điều hành
dự trữ quốc gia để bảo đảm an ninh lương thực: thường xuyên theo dõi sát diễn biến thị
trường trong nước và quốc tế để kịp thời có biện pháp điều tiết, bình ổn thị trường, nhất là
các mặt hàng thiết yếu. Chủ động có biện pháp đầu cơ nâng giá.
Căn cứ tình hình sản xuất tiêu dùng, chỉ đạo sản xuất, dự trữ, lưu thông, phân phối
hàng hóa thông suốt, trước hết là các hàng hóa thiết yếu như lương thực, thực phẩm, xăng
dầu,..: tăng cường quản lý giá, bình ổn giá trên địa bàn.
Xây dựng kế hoạch điều hành xuất, nhập khẩu, phấn đấu kiềm chế nhập siêu. Xây
dựng quy trình, nguyên tắc kiểm soát nhập khẩu hàng hóa, vật tư, thiết bị của các dự án
đầu tư bằng nguồn vố ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu chính phủ, vốn do Chính phủ
bảo lảnh, vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước; kiểm tra, giám sát bảo đảm thực hiện
nghiêm Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc sử dụng hàng hóa, vật tư thiết bị sản
xuất trong nước, nhất là dự án sử dụng máy móc, thiết bị, vật liệu nhập khẩu.
Để kiểm soát lạm phát thành công, bên cạnh những giải pháp cụ thể trên thì điều
quan trọng trước hết cần có sự đồng thuận, phối hợp sự hài hòa trong việc điều hành các
giải pháp.Chính phủ chỉ huy bộ máy kiềm chế lạm phát, NHNN, các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, UBND các tỉnh, thành phố, các tổ chức, doanh nghiệp và mọi tầng lớp nhân dân ủng
hộ, thực hiện và giám sát để cho các giải pháp được thực hiên tuân thủ, mang lại hiệu quả.

20


Phần 3. KẾT LUẬN
Lạm phát một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu trong chính sách kinh tế của
các nước trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Tiếp tục hoàn thiện mục tiêu
chống và kiềm chế lạm phát là mục tiêu cơ bản để tăng trưởng và phát triển kinh tế, ổn
định xã hội, thực hiện công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Về khách quan do tác động tiêu cực của tình hình kinh tế thế giới, về chủ quan do

những hạn chế, yếu kém vốn có của kinh tế Việt Nam, mô hình tăng trưởng và cơ cấu
kinh tế chậm được khắc phục, nền kinh tế bị trì trệ trong một thời gian dài khi phải đối
phó với tình trạng suy giảm kinh tế và do một số hạn chế trong việc quản lý, điều hành
của các cấp, các ngành. Đây chính là những nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát
trong nhiều năm qua, nước ta phải đối mặt với lạm phát cao, nền kinh tế không ổn định.
Lạm phát luôn tồn tại và đe dọa đến nền kinh tế của nước ta. Chính vì vậy Đảng và
nhà nước phải luôn thận trọng trong mỗi bước đi để bảo đảm nền kinh tế phát triển vững
mạnh, làm nền tảng vững chắc để tiếp tục phát triển khoa học, giáo dục, góp phần nhất
định vào sự phát triển của đất nước, đưa nước ta lên một tầm cao mới, theo kịp sự phát
triển của các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên thế giới nói chung.

Trong đề tài tiểu luận của nhóm, do trình độ hạn chế, kiến thức về kinh tế chưa
hoàn thiện, chắc chắn đề tài còn gặp nhiều sai sót, khuyết điểm và chưa đầy đủ. Nhóm
5 rất mong nhận được sự góp ý của thầy để bài tiểu luận của nhóm hoàn thiện hơn.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Báo điện tử Cafef.vn, Vneconomy.vn

2.

Theo –Website Tổng cục thống kê

3. Theo – Website Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
4.


Theo

5.

Theo Tạp chí phát triển kinh tế

6.

Theo Tạp chí tài chính

Và ngoài ra còn tham khảo một số tài liệu và bài báo trên mạng internet khác.



×