Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Bài báo cáo về tài chính công hình thức sử dụng vốn tín dụng và thực trạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.4 KB, 26 trang )

----------

BÀI BÁO CÁO
Đề tài:
“Các hình thức sử dụng vốn tín dụng Nhà nước.
Thực trạng tín dụng Nhà nước hiện nay”

Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 4 năm 2017


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU

Tín dụng Nhà nước ra đời gắn liền với sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước,
đóng vai trò là nhân tố quan trọng thúc đẩy thị trường tiền tệ, thị trường vốn phát
triển. Với cơ chế hoạt động ổn định, uyển chuyển của mình, tín dụng Nhà nước có thể
nhanh chóng huy động vốn để giải quyết những nhiệm vụ quan trọng mà Tài chính
công phải đảm bảo, giúp cho Ngân sách Nhà nước được ổn định, cân đối và là đòn
bẩy tích cực để Nhà nước quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà nền kinh tế thế giới có nhiều biến động, ảnh
hưởng đến nền kinh tế trong nước theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực, thì vai
trò quản lý của Nhà nước về kinh tế, trong đó tín dụng Nhà nước cần phải được chú
trọng nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực. Sau đây, chúng
ta cùng tìm hiểu các hình thức sử dụng vốn tín dụng Nhà nước và thực trạng tín dụng
Nhà nước hiện nay, qua đó đưa ra những giải pháp kiến nghị nhằm khắc phục những
hạn chế, đồng thời phát huy vai trò tích cực của công cụ tài chính này.

3


Trang


I. Các hình thức sử dụng vốn tín dụng Nhà nước
1. Tạm ứng cho Ngân sách Nhà nước
Nguồn vốn của hệ thống Kho bạc Nhà nước được hình thành có tính chất tạm
thời. Do đó, các Kho bạc Nhà nước ở tỉnh, thành được sử dụng nguồn vốn này để tạm
ứng cho địa phương để giải quyết các nhu cầu chi cấp bách của Ngân sách địa phương
trong những thời điểm thu của ngân sách chưa tập trung đủ để chi.
Việc tạm ứng vốn Kho bạc Nhà nước được quy định cụ thể tại Thông tư Số:
162/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính.
Các trường hợp được tạm ứng theo quy định:



Chi các khoản có tính chất thường xuyên: lương, phụ cấp lương, học bổng, sinh
hoạt phí, thương binh xã hội được Ngân sách địa phương đài thọ
Chi các khoản không có tính chất thường xuyên nhưng đã được ghi trong kế
hoạch do Chính phủ giao và Ủy ban nhân dân tỉnh duyệt, bao gồm: Chi đầu tư
các công trình kinh tế xã hội, các khoản chi cần thiết, cấp bách khác của Ngân
sách địa phương.

Mức tạm ứng theo quy định Nhà nước và thời gian tạm ứng là 1 tháng. Hết thời
gian tạm ứng nếu Sở Tài chính không chủ động trả nợ, Kho bạc Nhà nước tỉnh, thành
phố được quyền trích tồn quỹ của Ngân sách địa phương để thu hồi nợ. Mọi khoản
tạm ứng trong năm đều phải được thu hồi và quyết toán trong phạm vi năm ngân sách.
2. Cho vay tài trợ và cho vay theo mục tiêu chỉ định của Chính phủ
Chi Ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển là khoản chi quan trọng và
chiếm tỷ lệ cao trong tổng chi tiêu của Ngân sách Nhà nước. Vốn Ngân sách được
phân bổ, tập trung cho các công trình trọng điểm, các công trình xây dựng kết cấu hạ

tầng kinh tế xã hội, các cơ sở sản xuất kinh doanh trọng yếu phục vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và các vùng còn có nhiều khó khan về phát triển kinh tế xã hội
Ngoài ra, đứng trước yêu cầu phải sử dụng hết tiềm năng sức sản xuất của nền
kinh tế, Nhà nước ưu tiên dành một số vốn nhất định để cho vay đầu tư qua nghiệp vụ
tín dụng Nhà nước. Việc đầu tư này đòi hỏi đối tượng được sử dụng vốn tín dụng Nhà
nước phải đáp ứng được những yêu cầu nhất định thì mới có thể nhanh chóng bù đắp
số vốn được Nhà nước đầu tư.

4

Trang


Song song với đó, để thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, Nhà nước còn áp
dụng chính sách cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, thời hạn cho vay dài, thủ tục đơn
giản. Đối tượng được áp dụng chính sách này là người nghèo, người chưa có việc
làm, người thuộc diện xã hội phải ưu đãi. Chính sách này có ý nghĩa to lớn cả về mặt
chính trị lẫn kinh tế, thể hiện được trách nhiệm của Nhà nước với nhân dân, đồng
thời, tác động và tạo điều kiện cho tầng lớp dân cư này biết kinh doanh, sử dụng vốn
có hiệu quả, không ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà nước.
Nguyên tắc đầu tư phát triển qua tín dụng Nhà nước:



Thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội và chính sách Tài chính của Nhà nước;
phát triển sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập.
Bảo tồn và sinh lợi vốn, số vốn phải được thu hồi và bằng hoặc lớn hơn vốn đã
cho vay, đây cũng là nguyên tắc cơ bản của nghiệp vụ tín dụng.

3. Cho nước ngoài vay

Nguồn vốn của Chính phủ cho nước ngoài vay được trích từ nguồn của Ngân
sách Nhà nước. Việc cho vay ra nước ngoài được quy định tại Thông tư số:
37/2013/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước.
Các phương thức cho vay ra nước ngoài của Chính phủ:



Cho vay trực tiếp giữa hai Nhà nước (song phương)
Cùng nhiều nước phối hợp cho một nước khác nhau (đa phương)

Các khoản cho vay chủ yếu được thực hiện dưới hình thức viện trợ phát triển
chính thức ODA. Loại vốn này ưu đãi về lãi suất, thời hạn vay dài và khối lượng vay
tương đối lớn nhằm mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. Cho vay ra nước
ngoài của Chính phủ ngoài việc đem lại nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước từ số lợi
tức cho vay còn đem lại cho Chính phủ chủ nợ những quyền lợi khác về kinh tế, chính
trị, ngoại giao.
II. Thực trạng tín dụng Nhà nước hiện nay
1. Thực trạng vay nợ của Nhà nước
1.1. Vay nợ trong nước thông qua phát hành các giấy tờ có giá
Trong quá trình điều hành ngân sách, các chính phủ thường có nhu cầu chi
nhiều hơn số tiền thu được và việc cắt giảm các khoản chi rất là khó khăn vì liên quan
5

Trang


đến hoạt động y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội. Do đó, bắt buộc chính phủ phải tính tới
các giải pháp để bù đắp sự thâm hụt của ngân sách nhà nước. Giải pháp mà chính phủ
sử dụng là vay thêm tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu, bao gồm vay trong nước và vay
nước ngoài. Với dân số hơn 91 triệu người, nợ công tính theo đầu người xấp xỉ 944

USD/người; trong khi các năm trước, nợ nước ngoài cao áp đảo so với nợ trong
nước. Nhưng từ năm 2014, nguồn nợ vay từ trong nước bất ngờ lại có tỷ trọng cao
hơn, chiếm 55% vay của chính phủ.
Hiện nay, vay nợ trong nước thông qua phát hành các giấy tờ có giá đã trở thành
hình thức huy động vốn chủ yếu của Nhà nước nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách và
mở rộng chi đầu tư phát triển. Các giấy tờ có giá của Nhà nước được phát hành dưới
dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, có ghi tên hoặc không ghi tên với những kỳ hạn
khác nhau,phương thức phát hành đa dạng và từng bước được chuẩn mực hóa, tạo
thuận lợi cho việc giao dịch mua bán ở thị trường Tài chính sơ cấp và thứ cấp.Với
nhiều hình thức vay nợ trong nước được Nhà nước áp dụng như: tín phiếu nhà nước,
trái phiếu chung, trái phiếu thu nhập dự án, trái phiếu chính phủ.
Khái niệm nợ công chỉ thực sự có ý nghĩa đối với hệ thống quản lý tài chính Việt
Nam từ năm 2010, khi Luật Quản lý nợ công chính thức có hiệu lực. Trước đó, các
chỉ tiêu quản lý khác là nợ Chính phủ hay nợ quốc gia đều ở mức khá thấp (31-38%
GDP) và chỉ thực sự tăng mạnh từ năm 2009, khi Việt Nam tích cực đi vay để kích
cầu.
Những năm sau đó, kinh tế khó khăn, nguồn thu bị cắt giảm để hỗ trợ doanh
nghiệp trong khi các khoản chi cho an sinh, các chương trình mục tiêu quốc gia…
không thể cắt giảm khiến cho cơ quan quản lý phải thắt chặt túi tiền dành cho đầu tư.
Tỷ trọng chi cho lĩnh vực này giảm từ 21,6% năm 2010 xuống mức 16-17% tổng chi
hiện nay. Để bù đắp, Chính phủ phải phát hành 170.000 tỷ đồng trái phiếu trong 3
năm 2014-2016, bên cạnh con số 225.000 tỷ đã được Quốc hội phê duyệt trước đó
6

Trang


cho giai đoạn 2011-2015. Chính điều này đã đẩy nợ công tăng cả về tỷ lệ lẫn số tuyệt
đối, từ mức 50% năm 2011 lên 64% GDP năm 2015 (tốc độ tăng nợ khoảng 18-25%
một năm). Điểm tích cực của việc vay nợ những năm qua được Bộ trưởng Bộ Tài

chính thông báo là tăng tỷ lệ vay trong nước, giảm phụ thuộc vào nước ngoài, lãi suất
trái phiếu Chính phủ cũng có xu hướng đi xuống. Tuy nhiên, ông Đinh Tiến Dũng
cũng cảnh báo về các khoản vay trong nước đều có kỳ hạn ngắn. Điều này đồng nghĩa
với áp lực trả nợ giai đoạn 2015-2016 là rất cao.
Dù cho biết đến nay, Việt Nam luôn đảm bảo trả đầy đủ, kịp thời các khoản đến
hạn, không phát sinh nợ xấu, song Bộ trưởng Tài chính cũng thừa nhận cơ cấu nợ hiện
không bền vững. Cơ quan điều hành phải phát hành trái phiếu đảo nợ với tổng số tiền
dự toán trong vòng 3 năm qua khoảng 137.000 tỷ đồng. Cụ thể, số phát hành năm
2012 là 20.000 tỷ, 2013 là 40.000 tỷ và theo dự toán năm 2014 là 77.000 tỷ. "Nếu thu
ngân sách vượt lên theo báo cáo Quốc hội, có thể bố trí vào thì con số của năm 2014
có thể giảm đi. Còn dự toán năm 2015 là 130.000 tỷ", Bộ trưởng cho biết.
Từ thực tế này, đại diện ngành tài chính cũng đưa ra kế hoạch khá chi tiết cho
chiến lược vay nợ của Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến 2020. Cụ thể, với mức bội
chi dự kiến 4-5% một năm, kế hoạch phát hành 145.000 tỷ đồng trái phiếu trong vòng
2 năm tới, Chính phủ dự kiến sẽ phải bán thêm khoảng 50.000 tỷ đồng trái phiếu mỗi
năm cho giai đoạn 2017-2020. Cùng với đó, Chính phủ sẽ tiếp tục phải vay nước
ngoài (chủ yếu là ODA, vay ưu đãi…) 5-6 tỷ USD một năm, trong đó số đi vay để
cho doanh nghiệp vay lại 1,5-2 tỷ USD. Các khoản bảo lãnh cho doanh nghiệp đặc thù
(dầu khí, điện, hàng không…) vay để làm các dự án trọng điểm cũng khoảng 3-4 tỷ
USD mỗi năm, bảo lãnh cho các định chế tài chính đặc thù phát hành trái phiếu
60.000-70.000 tỷ một năm… sẽ cùng với khoản nợ của chính quyền địa phương (cao
thêm 30.000-45.000 tỷ mỗi năm) tác động tới nợ công.

7

Trang


Tuy vậy, với giả định GDP tăng trưởng 6,2-6,8% mỗi năm trong giai đoạn 20152020, lạm phát khoảng 5-6%, bội chi giữ ở mức 4-5%, Chính phủ dự kiến nợ công sẽ
tiếp tục tăng và đạt đỉnh vào năm 2017 (64,9% GDP) và giảm dần sau đó. Đến 2020,

cơ quan điều hành kỳ vọng nợ công sẽ về mức 60,2% GDP.
1.2. Vay nợ nước ngoài
1.2.1. Vay nợ nước ngoài dưới hình thức hỗ trợ phát triển chính thức
Theo Bộ Tài chính, từ năm 2010, Việt Nam đã trở thành nước thu nhập trung
bình. Mức độ ưu đãi từ các khoản cho vay của các đối tác phát triển dành cho Việt
Nam giảm rõ rệt.
Từ thời hạn vay bình quân khoảng 30-40 năm, với chi phí vay khoảng 0,7%0,8%/năm, bao gồm thời gian ân hạn (giai đoạn trước 2010) đến thời hạn vay bình
quân chỉ còn từ 10-25 năm, tùy theo đối tác và từng loại vay; với chi phí vay khoảng
2%/năm trở lên (giai đoạn 2011-2015). Nhiều nhà tài trợ đã chuyển từ nguồn vốn
ODA sang nguồn vốn vay hỗn hợp.
Dự kiến đến tháng 7/2017, Việt Nam có thể không còn được vay theo điều kiện
ODA, phải chuyển chủ yếu sang sử dụng nguồn vay ưu đãi và tiến tới vay theo điều
kiện thị trường. Nguồn vốn ODA đã vay chuyển sang điều khoản trả nợ nhanh gấp đôi
hoặc tăng lãi suất từ 2%-3,5%.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, trong giai đoạn 10 năm trở lại đây (2005 - 2015),
tổng số vốn ODA, vay ưu đãi được ký kết khoảng 45 tỷ USD. Trong đó, nguồn ODA
dành cho Việt Nam tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như hỗ trợ cân đối tài chính vĩ
mô; đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội; phát triển y tế, giáo dục và đào
tạo; phát triển nông nghiệp kết hợp xóa đói, giảm nghèo; bảo vệ môi trường và ứng
phó với biến đổi khí hậu...
Một điều khá khó hiểu là những năm gần đây, giải ngân vốn ODA lại có dấu hiệu
giảm dần. Chẳng hạn, theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vốn ODA giải ngân
sau hai năm 2013 – 2014 đạt mức kỷ lục, tương ứng trên 5,1 tỷ USD và 5,65 tỷ USD,
đã giảm xuống chỉ còn 3,7 tỷ USD vào năm 2015 – chỉ bằng 65,42% mức giải ngân
năm 2014 và thấp hơn mục tiêu đã đề ra (5 tỷ USD). Sáu tháng đầu năm nay, con số
được ước tính là 1,85 tỷ USD, gần tương đương với cùng kỳ năm ngoái, nghĩa là tiếp
8

Trang



tục xu hướng giải ngân thấp và không có sự cải thiện..Theo tính toán của Bộ thì giai
đoạn 2016 -2020 Việt Nam cần huy động tới 39,5 tỷ USD vốn ODA và vốn vay ưu
đãi để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư phát triển trong giai đoạn này. Trong khi đó, WB
đã công bố cho Việt Nam “tốt nghiệp” ODA vào cuối năm 2017. Ngân hàng phát triển
Châu Á(ADB) có thể cũng sẽ ngừng cung cấp các khoản vay ưu đãi (ADF), thay vào
đó là vốn vay kém ưu đãi hơn (OCR) sau WB trong 1-2 năm. Anh đã thông báo sẽ
dừng cấp vốn ODA cho Việt Nam từ năm 2016. Một số đối tác khác như Phần Lan,
Na Uy đã và đang thực hiện chính sách cắt giảm dần vốn ODA cho Việt Nam trong
giai đoạn 2016-2020.
Thực tế cho thấy, sau khi Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung bình
thấp vào năm 2010, sự suy giảm vốn ODA khá rõ nét. Tổng vốn ODA và vốn vay ưu
đãi ký kết từ chỗ đạt mức cao nhất là trên 6,9 tỷ USD vào năm 2011 đã giảm dần
xuống còn hơn 2,75 tỷ USD vào năm 2015. Thời của đầu tư dễ dàng cho cơ sở hạ
tầng bằng nguồn vốn ODA có lẽ đã bắt đầu chấm dứt. Đây là một thách thức rất lớn
đối với Việt Nam, khi nhu cầu vốn đầu tư phát triển không ngừng tăng lên.
Trước những yêu cầu về quản lý tài chính đang đặt ra trong giai đoạn tới, Chính
phủ đã ban hành Chỉ thị số 02/CT-TTg về tăng cường công tác quản lý và nâng cao
hiệu quả sử dụng nợ công “Nợ công chỉ sử dụng cho đầu tư phát triển, xây dựng các
công trình kinh tế xã hội quan trọng, thiết yếu theo quy hoạch”, “Tăng dần tỷ lệ cho
vay lại, giảm dần tỷ lệ cấp phát đối với các khoản Chính phủ vay về cho vay cho vay
lại”. Do vậy, trong tương lai, cần phải nâng cao công tác quản lý nguồn vốn vay, đặc
biệt là quản lý tài chính nguồn vốn ODA và vay ưu đãi để phát huy hơn nữa hiệu quả
sử dụng nguồn vốn tài trợ của nước ngoài và đảm bảo mục tiêu vay nợ bền vững.
1.2.2. Vay nợ nước ngoài dưới hình thức phát hành trái phiếu quốc tế
Tính đến năm 2016, Việt Nam đã trải qua 3 lần Chính phủ phát hành trái phiếu
quốc tế thành công. Những lần phát hành này đã thiết lập điểm chuẩn cho trái phiếu
Việt Nam trên thị trường quốc tế; mở đường cho các doanh nghiệp lớn của Việt Nam
trực tiếp huy động nguồn vốn trung và dài hạn bằng ngoại tệ; hiện thực hóa mục tiêu
đưa Việt Nam hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế nhằm đa dạng hóa các hình

thức huy động vốn đầu tư.
Việc nhiều nhà đầu tư lớn quốc tế tham gia mua trái phiếu Việt Nam là điều kiện
tốt để tăng tính thanh khoản cho trái phiếu khi giao dịch trên thị trường thứ cấp, tạo
thuận lợi cho những lần phát hành tiếp theo.

9

Trang


Nhìn lại 3 lần phát hành trái phiếu quốc tế
Lần phát hành thứ nhất
Năm 2005, lần đầu tiên Việt Nam phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc
tế. Tuy đây là lần phát hành đầu tiên nhưng đã đem lại kết quả ngoài sự mong đợi, tạo
được tiếng vang trên thị trường vốn quốc tế, bởi thu hút sự quan tâm lớn của nhà đầu
tư châu Âu, châu Á và châu Mỹ.
Được sự ủy quyền của Chính phủ, Bộ Tài chính đã chính thức phát hành trái phiếu
quốc tế của Chính phủ Việt Nam tại thị trường chứng khoán New York vào ngày
27/10/2005. Việt Nam phát hành trái phiếu quốc tế trên thị trường trái phiếu toàn cầu
theo phương thức 144A/điều khoản S nghĩa là khi phát hành không phải đăng ký tại
Ủy ban Chứng khoán Mỹ (SEC), được bán trực tiếp cho một số nhà đầu tư chọn lọc
thông qua một đại lý và được nhà quản lý chính bảo lãnh hoàn toàn cho đợt phát
hành.
Trái phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam đã được phát hành theo quy trình
nghiêm ngặt. Tư vấn pháp lý gồm Shearman & Sterlings, Bộ Tư pháp, Freshfields (tư
vấn cho phía Việt Nam), Phillips Fox (tư vấn cho các ngân hàng bảo lãnh). Bảo lãnh
phát hành là Ngân hàng Credit Suisse First Boston của Thụy Sỹ (nay là Ngân hàng
Credit Suisse). Bảo lãnh phát hành chính cho Bộ Tài chính theo hợp đồng mua bán
trái phiếu ký giữa Bộ Tài chính và Ngân hàng Credit Suisse ngày 27/10/2005.


Ngoài ra, 7 ngân hàng khác tham gia hợp đồng bảo lãnh gồm: Citigroup (Mỹ),
Nomura Securites (Nhật Bản), J.P. Morgan, Deutch Bank, Merrill Lynch, Morgan
Stanley và Ngân hàng HSBC. Ngân hàng New York (Bank of New York) là ngân
10

Trang


hàng được chọn làm đại lý thanh toán trái phiếu cho Bộ Tài chính theo hợp đồng đại
lý thanh toán ký giữa Bộ Tài chính và Ngân hàng New York ngày 03/11/2005.
Số lượng trái phiếu chính phủ Việt Nam dự định phát hành ban đầu là 500 triệu
USD, nhưng ngay ngày đầu tiên, số lượng các nhà đầu tư đặt mua đã đạt khoảng 1 tỷ
USD, gấp 2 lần số lượng trái phiếu chính phủ Việt Nam định phát hành.
Chính phủ đã quyết định tăng khối lượng phát hành thêm 250 triệu USD, nâng
tổng số phát hành lên tới 750 triệu USD, trái phiếu có thời hạn là 10 năm. Mức lãi
suất cố định là 6,875%/năm tính trên giá trị danh nghĩa (lãi suất thực là 7,125%). Tiền
lãi trái phiếu được thanh toán 6 tháng một lần vào ngày 15/1 và 15/7 hàng năm bằng
USD, kỳ trả lãi đầu tiên vào ngày 15/01/2006.
Trong số trái phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam phát hành, số lượng trái phiếu
được các nhà đầu tư nắm giữ tính theo khu vực (châu Á 38%, châu Âu 32% và Mỹ
30%). Như vậy, một trái phiếu phát hành từ châu Á như Việt Nam đã thực sự được
phân bổ tương đối đều giữa các khu vực mà không bị dồn vào các nhà đầu tư châu Á.
Phân theo đối tượng các nhà đầu tư: Các quỹ đầu tư tài chính là đối tượng quan
tâm nhiều nhất đến trái phiếu chính phủ Việt Nam (chiếm tới 51%), còn lại là các
ngân hàng (25%), các công ty bảo hiểm (17%) và các tổ chức tài chính khác (7%).
Trong khi các công ty bảo hiểm chính là những nhà kinh doanh rủi ro lại chỉ nắm giữ
17% số lượng trái phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam phát hành. Điều này cho
thấy, niềm tin của các nhà đầu tư đặt vào Việt Nam còn tương đối thấp.
Lần phát hành thứ hai
Thời điểm đầu năm 2007, kinh tế thế giới đang phát triển với tốc độ cao, tiềm năng

về vốn lớn, trong khi nền kinh tế Việt Nam cũng đang tăng trưởng nhanh, nhu cầu về
vốn thúc đẩy phát triển kinh tế lớn. Cụ thể, dự án nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất đã
khởi công từ năm 2005 và đang thiếu vốn đầu tư.
Vì vậy, nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế, ngày 1/6/2007, Chính
phủ đã thông qua Nghị quyết số 07/2007/NQ-CP về việc phát hành trái phiếu quốc tế
ra thị trường vốn quốc tế với các nội dung sau: Hình thức phát hành: theo phương
thức phát hành trái phiếu toàn cầu và theo quy tắc 144A/Điều khoản S (tương tự đợt
phát hành 2005); Mức phát hành: 1 tỷ USD; Thời hạn trái phiếu: từ 15 - 20 năm; Loại
ngoại tệ phát hành: USD; Mục đích sử dụng cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tổng
công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng công ty Sông Đà và Tổng công ty Lắp máy Việt
11

Trang


Nam vay lại để thực hiện đầu tư các dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất, Dự án mua
tàu vận tải, Dự án thủy điện Xê Ca Mản 3 và Nhà máy Thủy điện Hủa Na.
Tuy nhiên, đến cuối năm 2007, do thị trường quốc tế không thuận lợi, việc phát
hành trái phiếu gặp phải rất nhiều khó khăn trước mắt, khó thành công nên đã phải
tạm ngừng các đợt phát hành trái phiếu quốc tế.
Kế hoạch phát hành 1 tỷ USD trái phiếu ra thị trường quốc tế từ tháng 6/2007 đã bị
hoãn lại. Sự thận trọng đó bắt nguồn từ bối cảnh kinh tế toàn cầu, đặc biệt là nền kinh
tế Mỹ gặp khó khăn, thị trường tài chính quốc tế tạm rơi vào tình trạng trầm lắng
khiến các nhà đầu tư Mỹ cũng như các nước khác dè dặt hơn trong việc tham gia đầu
tư vào trái phiếu của các quốc gia khác.
Sau một thời gian chuẩn bị Bộ Tài chính đã chính thức phát hành trái phiếu quốc tế
của Chính phủ Việt Nam lần thứ hai tại thị trường chứng khoán New York vào ngày
25/1/2010. Trong lần phát hành này, Việt Nam cũng phát hành trái phiếu quốc tế theo
phương thức 144A/ điều khoản S tương tự lần phát hành trước.


Các ngân hàng đồng bảo lãnh phát hành chính là Barclays Bank PLC (Anh),
Citigroup Global Markets Inc (Mỹ) và Deutsche Bank Securities Inc (Mỹ) theo hợp
đồng mua bán trái phiếu đã ký ngày 22/1/2010 giữa Bộ Tài chính với các ngân hàng
đồng bảo lãnh. Ngân hàng Citibank là ngân hàng được chọn làm đại lý thanh toán trái
phiếu cho Bộ Tài chính theo hợp đồng đại lý thanh toán đã ký ngày 14/1/2010 giữa
Bộ Tài chính và Ngân hàng Citibank.

12

Trang


Tổng trị giá trái phiếu quốc tế phát hành lần này của Chính phủ Việt Nam là 1 tỷ
USD, kỳ hạn 10 năm, đáo hạn vào ngày 29/1/2020 với lãi suất danh nghĩa
6,75%/năm, lợi tức phát hành là 6,95% và được giao dịch theo phương thức T+4.
Cơ cấu các nhà đầu tư tính theo khu vực: hơn một nửa số trái phiếu quốc tế của
Chính phủ Việt Nam được mua bởi các nhà đầu tư đến từ Mỹ (56%), tăng mạnh so
với lần phát hành đầu tiên; 28% từ các nhà đầu tư châu Á và 16% từ các nhà đầu tư
châu Âu. Tính theo lĩnh vực: 73% là các quỹ đầu tư và công ty quản lý tài sản, 10% là
các quỹ bảo hiểm và hưu trí, 10% là các ngân hàng và 7% là các nhà đầu tư khác.
Lần phát hành thứ ba
Năm 2014, có khá nhiều điều kiện thuận lợi cho việc huy động trái phiếu quốc tế
của Việt Nam. Cụ thể, các tổ chức xếp hạng tín dụng như Moody’s, Standard&Poor
và Fitch’s đều nhận định thời gian gần đây nền kinh tế của Việt Nam đã có những cải
thiện tích cực.Đặc biệt, việc Fitch’s nâng hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam lên
một bậc từ B+ lên BB- và Moody’s nâng từ B2 lên B1 đã góp phần giúp tăng độ hấp
dẫn của trái phiếu đối với giới đầu tư trên thị trường quốc tế.

Đây cũng là giai đoạn lãi suất vay nợ trên thế giới có xu hướng giảm do các ngân
hàng trung ương các nước áp dụng chính sách nới lỏng tiền tệ để kích thích phục hồi

và tăng trưởng kinh tế. Do vậy, đây là thời điểm thuận lợi để Chính phủ phát hành trái
phiếu quốc tế nhằm đảo nợ khi thời hạn thanh toán của 2 khoản vay trước đó đang tới
gần và tái cấu trúc tỷ lệ nợ công hiện tại.
Đợt chào bán trái phiếu lần này diễn ra vào lúc 1 giờ chiều ngày 6/11/2014 (giờ San
Francisco Mỹ) (tức ngày 7/11/2014 giờ Việt Nam), đồng thời với giao dịch hoán đổi

13

Trang


hai trái phiếu chính phủ đã phát hành ra thị trường vốn quốc tế trước đó với hạn thanh
toán vào năm 2016 và 2020.
Tổng khối lượng phát hành là 1 tỷ USD theo phương thức 144A/ điều khoản S,
tương tự như 2 đợt phát hành trước đó. Tổng giá trị đăng ký mua trái phiếu của Chính
phủ trong đợt chào bán này lên đến hơn 10,6 tỷ USD, gấp hơn 10 lần so với lượng
chào bán ra. Tư vấn bảo lãnh cho đợt phát hành trái phiếu và giao dịch hoán đổi/mua
lại các trái phiếu cũ lần này là các ngân hàng Deusche Bank, HSBC và Standard
Chartered Bank. HSBC là ngân hàng thanh toán và phân phối trái phiếu.
Trái phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam đạt mức lãi suất cố định 4,8%/năm
(mức dự kiến là 5,125%/năm). Đây là mức lãi suất thấp nhất so với hai đợt phát hành
trước đó (lãi suất trái phiếu phát hành là 6,875%/năm năm 2005 và 6,755%/năm năm
2010).
Trong 437 nhà đầu tư quốc tế tham gia đăng ký mua trái phiếu, có 17% nhà đầu tư
châu Á, 28% nhà đầu tư từ châu Âu và 55% nhà đầu tư đến từ châu Mỹ. Nếu phân
theo đối tượng các nhà đầu tư, có 84% nhà đầu tư là các công ty quản lý quỹ đầu tư,
12% nhà đầu tư là các ngân hàng và 4% nhà đầu tư là các công ty bảo hiểm và quỹ
hưu trí.
Tổng mệnh giá đăng ký hoán đổi lại trái phiếu đã phát hành được chấp nhận mua
lại là 726.626.000 USD, trong đó mua lại 436.452.000 USD trái phiếu phát hành năm

2005 và 290.171.000 USD trái phiếu phát hành năm 2010. Việc hoán đổi này góp
phần tích cực cơ cấu lại nợ công theo hướng kéo dài thời hạn vay nợ và giảm đáng kể
áp lực về nghĩa vụ trả nợ trong giai đoạn này.
Vài đánh giá về các đợt phát hành trái phiếu quốc tế:
Nhìn chung, các đợt phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam đều có
những thành công nhất định. Ngay lần phát hành đầu tiên, hầu hết giới truyền thông,
chuyên gia kinh tế - tài chính và các nhà đầu tư nước ngoài đều cho rằng, đây là đợt
phát hành trái phiếu quốc tế thu hút được sự quan tâm đặc biệt và thành công trên thị
trường vốn quốc tế.
Đạt được mục tiêu lớn nhất của việc phát hành trái phiếu quốc tế là thiết lập điểm
chuẩn cho trái phiếu Việt Nam trên thị trường quốc tế. Mở đường cho các doanh
nghiệp lớn của Việt Nam trực tiếp huy động nguồn vốn trung và dài hạn bằng ngoại
tệ… Việc nhiều nhà đầu tư lớn tham gia mua trái phiếu Việt Nam sẽ là điều kiện tốt để
14

Trang


tăng tính thanh khoản cho trái phiếu khi giao dịch trên thị trường thứ cấp, tạo thuận
lợi cho những lần phát hành tiếp theo.
Các đợt phát hành trái phiếu quốc tế tiếp theo đã mở ra kênh huy động vốn trên thị
trường quốc tế của Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam. Gần 1 tỷ USD thu về
trong lần phát hành thứ 2 là một nguồn thu ngoại tệ bổ sung khi nguồn cung ngoại tệ
trong nước đang tương đối căng thẳng, do khủng hoảng kinh tế trong và ngoài nước
tác động đến xuất khẩu, kiều hối cũng như thu ngoại tệ từ du lịch.
Nguồn ngoại tệ thu được trong đợt phát hành thứ 3 đóng vai trò quan trọng để đảo
nợ sắp đến hạn thanh toán từ hai lần phát hành trước với lãi suất thấp hơn. Mặt khác,
thành công của đợt phát hành trái phiếu quốc tế lần này đã giúp Việt Nam thiết lập
mức lãi suất chuẩn thấp hơn nhiều so với trước đây, tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp Việt Nam huy động vốn trên thị trường quốc tế với lãi suất hợp lý hơn.

Bên cạnh những thành công còn tồn tại nhiều bất cập. Trong đó, yếu tố quan trọng
ảnh hưởng trực tiếp đến phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ là xếp hạng hệ số
tín nhiệm quốc gia bởi lãi suất cố định của trái phiếu quốc tế một quốc gia thường
được tính bằng lãi suất trái phiếu kho bạc Mỹ cùng thời hạn cộng với một biên độ.
Hệ số tín nhiệm quốc gia sẽ quyết định biên độ này nhiều hay ít, trong khi hệ số tín
nhiệm của Việt Nam vẫn còn đang ở mức thấp. Để từng bước cải thiện và nâng cao hệ
số tín nhiệm quốc gia đòi hỏi Chính phủ phải có những giải pháp vĩ mô đồng bộ và
triển khai thực hiện trong một thời gian dài…
Như vậy, phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế là một kênh huy
động vốn hữu hiệu với nền kinh tế các nước đang phát triển. Nguồn vốn huy động
được sẽ đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển của Chính phủ.
Tuy nhiên, nếu không quản lý và sử dụng hiệu quả sẽ gây ra những tác động ngược,
tiêu cực và ảnh hưởng tới an ninh tài chính quốc gia. Do vậy, vấn đề hết sức quan
trọng đó là quản lý phân bổ và tính hiệu quả sử dụng của các khoản vay này.
1.2.3. Vay thương mại nước ngoài
Vay thương mại biểu hiện bằng việc nhà nước tiến hành vay nợ các ngân hàng
thương mại, các tổ chức Tài chính tiền tệ ở các quốc gia trên thế giới. Vay nợ thương
mại nước ngoài có nhược điểm là thời gian vay vốn ngắn, lãi suất cao theo lãi suất
được hình thành trên thị trường Tài chính thế giới, có tỷ lệ rủi ro cao, khó mua bán,
chuyển nhượng trên thị trường. Khi tới hạn thanh toán nhà nước phải thực hiện nghĩa
15

Trang


vụ trả nợ theo cam kết quy định. Nhìn chung những khoản vay thương mại nước
ngoài phải chịu những ràng buộc chặt chẽ của các định chế Tài chính quố tế và chịu
ảnh hưởng mạnh bởi các điều kiện của thị trường Tài chính quốc tế. Do vậy khi vay
nợ thương mại Nhà nước cần nhắc kỹ các điều kiện vay trả, hiệu quả sử dụng vốn và
khả năng trả nợ của Nhà nước.

Quy mô nợ nước ngoài ngày càng lớn, theo dữ liệu của Bộ Tài chính, trong những
năm trở lại đây nợ nước ngoài so với GDP của Việt Nam tăng nhanh, từ 31,4% (2006)
lên 41,5% (2011) ở mức 1042 nghìn tỷ đồng. Nợ nước ngoài hiện đang chiếm đến
khoảng 30% trong cơ cấu nợ công của Việt Nam, vì thế khi nợ nước ngoài tăng đồng
nghĩa với việc nợ công cũng tăng lên. Mức nợ công của Việt Nam hiện nay ở mức khá
cao so với các nước trong khu vực: Thái Lan 44% GDP, Indonesia 39,7% GDP,… nếu
xu hướng này vẫn tiếp tục và không có biện pháp xử lý thì có thể nợ nước ngoài sẽ trở
nên không an toàn.
Nếu nhìn bề ngoài qua các con số, thì tỷ lệ nợ không đáng kể, tỷ lệ nợ này của VN
được xem là nằm trong giới hạn phạm vi an toàn. Kế hoạch trả nợ hằng năm là
khoảng 14-16% tổng thu ngân sách nhà nước, bằng khoảng 4,5% kim ngạch xuất
khẩu. Đây được xem là chỉ tiêu an toàn, và chỉ số nợ công của Việt Nam được xếp ở
mức trung bình so với nước đang phát triển có cùng hệ số tín nhiệm.
Cũng theo báo cáo của Bộ Tài chính, lãi suất vay nợ của Việt Nam cũng có xu
hướng tăng lên, điều này có thể là hệ quả của việc Việt Nam gia nhập nhóm nước có
thu nhập trung bình cũng như việc uy tín của quốc gia bị ảnh hưởng do một số tổn
thất của kinh tế Vĩ mô và sự kiện Vinashin. Hiện nay, Việt Nam được vay với lãi suất
từ 1-2.9%/năm ( chiếm 65,5% dư nợ), khoản vay có lãi suất cao từ 6-10% năm trong
năm 2010 cũng đã lên tới 1,89 tỷ USD gắp hơn 2 lần năm 2009. Theo Cục Quản lý nợ
và Tài chính đối ngoại, lãi suất trung bình nợ nước ngoài của chính phủ đã tăng từ
1,54%/năm (2006) lên 1,9%/năm (2009) và đạt tới 2,1%/năm(2010). Theo IMF thì
tiêu chí đánh giá an toàn nợ nước ngoài đối với các quốc gia có thu nhập thấp dựa vào
hiện giá thuần của nợ và dịch vụ nợ, một chính sách nợ yếu đồng nghĩa an toàn về nợ
và một chính sách nợ mạnh đồng nghĩa kém an toàn về nợ.

16

Trang



Theo số liệu mới nhất của Bộ Tài chính, 8 tháng đầu năm 2016, Việt nam đã đàm
phán, kí kết 28 Hiệp định vay nợ nước ngoài với tổng trị giá quy đổi khoảng 4,816 tỷ
USD, trong đó chủ yếu vay từ các nhà tài trợ lớn như World Bank, ADB và Nhật Bản.
Đối với công tác trả nợ nước ngoài đến 25/8/2016 tổng giá trị chi trả nợ nước ngoài
là 30,559 tỷ đồng, việc trả nợ được thức hiện đúng hạn, kịp thời, đảm bảo đúng cam
kết với nhà tài trợ.
2. Thực trạng sử dụng nguồn vốn tín dụng Nhà nước (thực trạng cho vay tín
dụng Nhà nước)
2.1. Tạm ứng cho Ngân sách Nhà nước từ nguồn vốn của hệ thống Kho bạc
Nhà nước
Trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, cơ chế chính
sách về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản chú trọng nâng cao hiệu quả đầu tư từ nguồn
vốn ngân sách nhà nước; vốn trái phiếu Chính phủ. Đối với hệ thống Kho bạc Nhà
nước , thông qua việc thực hiện kiểm soát chặt chẽ các khoản chi đầu tư xây dựng cơ
bản từ nguồn vốn Ngân sách Nhà nước đã góp phần quan trọng vào việc phân phối
17

Trang


và sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước cho đầu tư phát
triển, góp phần hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước qua
từng thời kỳ.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác kiểm soát, thanh toán vốn đầu tư nói
chung và việc tạm ứng, thu hồi tạm ứng trong chi đầu tư xây dựng cơ bản vẫn còn
một số hạn chế như sau:
Thứ nhất là, số dư tạm ứng vốn đầu tư chưa thu hồi ngày càng lớn, năm 2012 số
dư tạm ứng tăng hơn hai lần so với năm 2008 từ 32.581 tỷ đồng lên 71.740 tỷ đồng.
Việc số dư tạm ứng tăng chủ yếu do cơ chế tạm ứng không bắt buộc mỗi lần thanh
toán phải thu hồi tối thiểu bao nhiêu phần trăm (%) số tạm ứng nên mỗi lần thanh toán

chủ đầu tư, nhà thầu chỉ thu hồi tạm ứng một số rất nhỏ, chỉ thu hồi hết khi thanh toán
đạt 80% giá hợp đồng. Mặt khác, có thời gian không khống chế mức tạm ứng nên có
trường hợp chủ đầu tư đề nghị tạm ứng 100% giá trị hợp đồng.
Thứ hai là, số dư tạm ứng kéo dài qua nhiều năm: Phân tích trong tổng số dư tạm
ứng năm 2012 thì vẫn còn số tạm ứng từ năm 2004, tức là đã 8 năm nhưng chưa thu
hồi hết.
Việc tạm ứng kéo dài qua nhiều năm chưa thu hồi sẽ giảm hiệu quả vốn đầu tư công
do công trình chậm hoàn thành đưa vào sử dụng. Nguyên nhân tình trạng trên do chưa
có chế tài đủ mạnh đối với chủ đầu tư, nhà thầu trong việc thu hồi tạm ứng. Kho bạc
Nhà nước chưa được quy đinh quyền hạn rõ ràng trong việc thu hồi tạm ứng mà chỉ
phối hợp với chủ đầu tư đôn đốc nhà thầu hoàn trả tạm ứng.
Số dư tạm ứng kéo dài còn do quy định việc tạm ứng vốn được thực hiện ngay sau khi
hợp đồng có hiệu lực, có trường hợp chậm giải phóng mặt bằng, chưa thi công được

18

Trang


nhưng nhà thầu thi công vẫn tạm ứng khi hợp đồng có hiệu lực dẫn đến vốn ngân sách
nhà nước bị chiếm dụng.
Thứ ba là, nhiều khoản tạm ứng giải phóng mặt bằng đặc biệt là vốn ủy nhiệm
giải phóng mặt bằng gặp nhiều vướng mắc khó khăn về hồ sơ thủ tục nên chậm thu
hồi thậm chí rất khó thu hồi. Nguyên nhân ngoài việc chủ đầu tư chưa tích cực thu hồi
còn do một số dự án kéo dài từ trước năm 2000 đến 2012, Hội đồng bồi thường giải
phóng mặt bằng đã giải thể nên không hoàn thành được đủ hồ sơ theo quy định để
thanh toán và thu hồi. Trong công tác bồi thường công trình công cộng, một số nhà
thầu đã giải thể hoặc không tiến hành công tác quyết toán A-B.
Thứ tư là, mức tạm ứng một số dự án còn chiếm tỷ lệ cao so với tổng giá trị hợp
đồng : Nghị định số 48/2010/NĐ-CP ngày 07/05/2010 của Chính phủ về Hợp đồng

trong hoạt động xây dựng quy định ‘Mức tạm ứng tối đa của các loại hợp đồng là
50% giá hợp đồng, trường hợp đặc biệt thì phải được Người quyết định đầu tư cho
phép’. Do vậy, có tình trạng cấp chính quyền địa phương cho phép tạm ứng tỷ lệ cao
hơn 50% giá hợp đồng nhằm giải ngân hết dự toán ngân sách trung ương bổ sung có
mục tiêu cho NSĐP hay giải ngân hết dự toán ứng trước năm sau hoặc nguồn vay theo
khoản 3, điều 8 của Luật ngân sách hiện hành. Công tác theo dõi quản lý việc tạm ứng
chưa đáp ứng yêu cầu do hệ thống chỉ tiêu báo cáo chưa đầy đủ các thông tin, chưa
phản ánh được số phát sinh tạm ứng qua các kỳ, chưa có số liệu phản ánh số dư tạm
ứng quá thời hạn phải thu hồi nộp ngân sách. Báo cáo báo cáo quyết toán sử dụng vốn
đầu tư hàng năm chưa phân loại được vốn tạm ứng cho xây lắp hay tạm ứng giải
phóng mặt bằng.
Mặt khác, chưa có chế tài đủ mạnh trong việc quản lý việc tạm ứng và thu hồi tạm
ứng như quy định phạt chủ đầu tư, nhà thầu chậm thu hồi tạm ứng. Quyền hạn của
Kho bạc nhà nước trong việc thu hồi tạm ứng chưa được rõ ràng chỉ là đôn đốc phối
hợp với chủ đầu tư.
19

Trang


2.2. Cho vay tài trợ và vay theo mục tiêu chỉ định của Chính phủ
Đối với các dự án phát triển kinh tế xã hội:
Đến cuối năm 2011, Ngân hàng Phát triển quản lý cho vay gần 2.500 dự án với số
vốn theo hợp đồng tín dụng gần 200.000 tỷ đồng, trong đó dự nợ các dự án trong
nước chiếm khoảng 50% tổng dư nợ. Vốn Tín dụng đầu tư của Nhà nước tăng trưởng
khá nhanh, bình quân gần 17%/năm, đạt gấp hơn 2 lần so với thời điểm 2006. Vốn tín
dụng Nhà nước thực hiện các chương trình kinh tế của Chính phủ: Chương trình kiên
cố hóa kênh mương; Chương trình tôn nền vượt lũ và hạ tầng cụm tuyến dân cư vùng
Đồng bằng Sông Cửu Long… Cùng với đó, tín dụng nhà nước còn cho vay lại trên
400 dự án với số vốn gần 10 tỷ USD, trên 100.000 tỷ đồng vay xuất khẩu; thực hiện

bảo lãnh gần 300 dự án và 1.700 phương án sản xuất kinh doanh với số vốn lên tới
gần 16.000 tỷ đồng; thực hiện hỗ trợ đầu tư cho gần 3.000 dự án với tổng số vốn hỗ
trợ theo hợp đồng cho cả dự án gần 4.000 tỷ đồng(tổng số vốn đầu tư của các dự án
được hỗ trợ vào khoảng 160.000 tỷ đồng). Bên cạnh đó, Tín dụng Nhà nước còn hỗ
trợ thực hiện quản lý cấp phát, thanh toán các dự án Thủy điện Sơn La; cho vay đầu tư
quốc lộ 78 sang Capuchia, đường 2E sang Lào, các dự án đầu tư trồng cây cao su, nhà
máy điện tại Lào, Đường ô tô cao tốc Hà Nội-Hải Phòng...
Vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước đã khẳng định vai trò “vốn mồi”, thu hút các
nguồn vốn ngân hàng thương mại, vốn tư nhân và các nguồn vốn khác trong xã hội
tham gia đầu tư các dự án phát triển. Bằng nguồn vốn này trong hơn 5 năm qua, đã
góp phần thúc đẩy huy động các nguồn lực xã hội được khoảng 450.000 tỷ đồng để
đầu tư gần 2.200 dự án thuộc các lĩnh vực ưu tiên được Nhà nước khuyến khích. Bên
cạnh đó, các hoạt động hỗ trợ gián tiếp của Ngân hàng Phát triển như hỗ trợ đầu tư và
bảo lãnh tín dụng cũng góp phần tích cực huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư
phát triển, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, giúp các doanh nghiệp huy động được từ các

20

Trang


tổ chức tín dụng với tổng số vốn lên tới hàng trăm ngàn tỷ đồng trong giai đoạn vừa
qua.
Ngân hàng Phát triển đã hình thành kênh huy động vốn mới cho tăng trưởng và
phát triển kinh tế và thức đẩy sự phát triển của thị trường tài chính còn non trẻ của
Việt Nam. Trái phiếu do Ngân hàng Phát triển phát hành là công cụ nợ quan trọng,
được niêm yết trên thị trường chứng khoán, chiếm bình quân 25% tổng giá trị niêm
yết toàn thị trường, góp phần đa dạng hóa các công cụ nợ và tăng lượng hàng hóa trên
thị trường chứng khoán, gia tăng sự tích tụ tài chính, thúc đẩy sự phát triển của thị
trường vốn, đặc biệt vốn dài hạn.

Tín dụng đầu tư của Nhà nước góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xuất
khẩu của đất nước.Các chương trình/dự án trọng điểm nổi bật là: Thủy điện Sơn La
và các dự án về ngành điện (bao gồm cả sản xuất và phân phối điện), Lọc dầu Dung
Quất, các nhà máy xi măng, luyện thép, cơ khí trọng điểm, vệ tinh Vinasat, phân bón
DAP Hải Phòng, Đạm Ninh Bình, Đạm Hà Bắc, Apatit Lào Cai, Đóng tàu biển... đã
góp phần tăng cường cơ sở vật chất kinh tế cho nền kinh tế. Với trên 150 dự án nguồn
điện, lưới điện (hệ thống đường dây, trạm biến áp), góp phần đưa công suất phát điện
tăng thêm 6.000 MW; xây dựng mới hơn 1.000 km đường dây 500 KV, gần 3.000 km
đường dây 220 KV và 110 KV; hàng trăm trạm biến áp công suất các loại được đưa
vào sử dụng đồng bộ với các dự án nguồn và lưới điện. Đầu tư sản xuất 32 dự án đầu
tư nhà máy xi măng (khoảng 52 triệu tấn/năm), trên 120 dự án đầu tư cơ sở đóng mới,
sửa chữa tàu biển, mua mới tàu biển, hỗ trợ đầu tư cải tạo, nâng cấp, mở rộng các cơ
sở đóng tàu và đầu tư vào các dự án sản xuất sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu của
ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam, các dự án đầu tư đóng mới toa xe đường sắt,
16 dự án lớn ngành hóa chất, 80 dự án công nghiệp chế biến...Đầu tư từ vốn tín dụng
Nhà nước trong giai đoạn này luôn đồng điệu với chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã thể
hiện tính dẫn dắt và tác động tích cực của nguồn vốn tín dụng Nhà nước với mục tiêu
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
21

Trang


Ngân hàng Phát triển đã góp phần, phát triển nông nghiệp nông thôn, bảo đảm
an sinh xã hội, phát triển vùng miền và bảo vệ môi trường. Các dự án vay vốn tín
dụng của Nhà nước đầu tư vào một số lĩnh vực như: trồng rừng nguyên liệu và trồng
cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản và chế biến các
sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm cây công nghiệp, lâm sản, thuỷ hải sản và thực
phẩm; chế biến thức ăn gia súc và thức ăn nuôi tôm; sản xuất và chế biến muối công
nghiệp và muối ăn; đầu tư thiết bị phục vụ nông nghiệp, cơ khí nông nghiệp... Kết quả

cho vay đã góp phần đầu tư xây mới trên 100.000 km kênh mương, trên hàng trăm
ngàn km đường giao thông nông thôn được bê tông hóa, xây dựng hạ tầng của trên
900 cụm tuyến dân cư...; trồng mới, chăm sóc, quản lý bảo vệ gần 300.000 ha rừng;
trồng cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả khoảng gần 50.000 ha. Ngoài ý nghĩa quan
trọng đối với phát triển kinh tế-xã hội địa phương, các dự án Trồng cao su của Binh
đoàn 15, các dự án viễn thông công nghệ cao, các dự án trồng rừng và cây công
nghiệp tuyến biên giới Việt Nam-Lào-Cam Pu chia còn có ý nghĩa về đảm bảo an
ninh quốc phòng của đất nước. Các dự án an sinh xã hội (trường học, bệnh viện, xử lý
rác thải, cấp nước sạch…) với gần 180 dự án trọng điểm đã góp phần tích cực vào
tăng trưởng kinh tế, cải thiện sức khỏe của nhân dân và môi trường sống.
Đối với các các chương trình xóa đói giảm nghèo, mục tiêu quốc gia ở vùng
sâu vùng xa:
Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện các nghiệp vụ tín dụng đầu tư phát triển
cho các chương trình xóa đói giảm nghèo, mục tiêu quốc gia ở vùng sâu vùng xa như
chương trình 135, các xã biên giới thuộc chương trình 120, vùng có đông đồng bào
Khơme sinh sống tập trung, xã vùng bãi ngang, các dự án nhà ở xã hội cho sinh viên,
người có thu nhập thấp. Hộp 9: Ghi nhận vài con số và sự kiện của VDB Nguồn: Các
dự án do Ngân hàng phát triển cho vay đầu tư đi vào sản xuất, góp phần quan trọng
tạo ra năng lực mới cho nền kinh tế, như: xây mới 100.000km kênh mương, 13 trạm
bơm, hạ tầng của 817 cụm tuyến dân cư… Ngoài ra, Ngân hàng Phát triển Việt Nam
22

Trang


còn cho vay các dự án đầu tư cho người có thu nhập thấp và nhà ở cho công nhân khu
công nghiệp với 7 dự án, tổng số vốn cho vay theo hợp đồng tín dụng là 902,72 tỷ
đồng, giải ngân đến 31.12.2010 đạt hơn 100 tỷ.
2.3. Cho nước ngoài vay và viện trợ các quốc gia kém phát triển
Từ trước đến nay Việt Nam ta đã có những động thái, chủ trương và cụ thể là

thông qua các đạo luật và hoạt động về việc cho vay lại nguồn vốn oda đến các quốc
gia kém phát triển hơn và cụ thể là mối quan hệ hợp tác song phương với Lào. Nhưng
Việt Nam lại cho vay với hình thức không hoàn lại nhằm nhắm đến những mục tiêu
lợi ích về mục tiêu chính trị ngoại giao, nhưng lại mang đến một số rủi ro là kém hiệu
quả, không ổn định và sự ràng buộc rất lớn giữa Việt Nam và Lào.
Trong tổng thể chung, viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Việt Nam dành cho
Chính phủ Lào chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng số viện trợ không hoàn lại mà
Lào nhận được từ các nước và các tổ chức quốc tế.
Theo số liệu tổng hợp 1994-2009, viện trợ không hoàn lại của Việt Nam chiếm
khoảng 15.22% trong tổng số viện trợ không hoàn lại của các nước và các tổ chức
quốc tế giai đoạn 1996-2005, 6.66% trong năm tài chính 2007-2008 và 7.6% trong
năm tài chính 2008-2009.
Tính từ năm 1996 đến 2010,nguồn viện trợ không hoàn lại của Việt Nam dành cho
Lào là 578.641 tỷ VNĐ, trong đó giai đoạn 2006-2010 là 424.641 tỷ VNĐ(khoảng 25
triệu USD), số viên 5 trợ này được tăng lên qua từng giai đoạn,cụ thể năm 1996-2000
là 34 tỷ VNĐ, 2001-2005 là 120 tỷ VNĐ, tăng 3.53 lần so với 1996-2000 và 20062009 là 434.641 tỷ VNĐ, tăng 3.62 lần so với 2001-2005.
Hỗ trợ Phát triển Chính thức (ODA) của Việt Nam dành cho Lào đã tăng lên trong
những những năm gần đây. Năm tài chính 2012-2013 là 189 tỷ kíp (khoảng 23,3 triệu
USD); năm 2013-2014 là 229, 6 tỷ kíp (khoảng 28,2 triệu USD).
III. Giải pháp kiến nghị
Qua việc tìm hiểu thực trạng tín dụng Nhà nước ở Việt Nam hiện nay, có thể thấy
cuộc khủng hoảng tài chính, nợ công khu vực đồng tiền chung châu Âu và những khó
khăn nội tại của nền kinh tế trong nước đã có ảnh hưởng nhất định đến tình hình nợ
công của Việt Nam cả về quy mô, cơ cấu, nghĩa vụ trả nợ, các chỉ số an toàn nợ công.
Do đó, để bảo đảm nợ công ở ngưỡng an toàn và bền vững, trong thời gian tới, Chính
23

Trang



phủ dự kiến bội chi ngân sách là 5% trong năm 2015, sau đó giảm dần 4% vào năm
2020, cùng với đó, Chính phủ khẳng định, sẽ giảm dần các chỉ tiêu nợ công trong giai
đoạn 2016 - 2020 để đến năm 2020 nợ công khoảng 60,2% GDP. Để làm được điều
này, trong thời gian tới, kiến nghị một số chính sách sau:
Một là, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và bảo đảm tăng trưởng
kinh tế ở mức hợp lý, duy trì lãi suất ở mức hợp lý để không ảnh hưởng đến chi phí
nợ và khả năng vay nợ của Chính phủ, tạo niềm tin của nhà đầu tư vào các công cụ nợ
của Chính phủ.
Hai là, tiếp tục tái cơ cấu nợ công. Tái cơ cấu nợ công theo hướng tăng nhanh tỷ
trọng vay dài hạn với lãi suất thấp; tăng tỷ trọng nợ trong nước và giảm nợ nước
ngoài. Phát hành trái phiếu chính phủ có kỳ hạn dài hơn và lãi suất hợp lý để vừa
giảm thiểu rủi ro thanh toán, rủi ro thanh khoản vừa nhằm tái cơ cấu nợ. Kiểm soát
chặt chẽ việc bảo đảm trả nợ đối với các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh. Bố trí
nguồn từ ngân sách nhà nước trong giới hạn theo quy định và sử dụng Quỹ tích lũy trả
nợ để trả nợ đúng hạn.
Ba là, cần thực hiện kỷ luật tài khóa một cách rõ ràng và nghiêm ngặt để tránh
tình trạng thâm hụt ngân sách triền miên, luôn ở mức cao gây ảnh hưởng bất lợi đến
nợ công. Kỷ luật tài khóa cần thực thi một cách cứng rắn, theo lộ trình rõ ràng. Cùng
với đó, cần xây dựng một cơ chế quản lý nợ công hiệu quả. Chế độ kiểm toán cần sự
minh bạch và có trách nhiệm giải trình cao để có thể kiểm soát nợ công của Việt Nam.
Bốn là, bảo đảm thu - chi ngân sách hợp lý. Đối với thu ngân sách nhà nước, trong
điều hành ngân sách hằng năm cần ưu tiên sử dụng số tăng thu so với dự toán để giảm
mức bội chi hoặc giành để trả nợ trước hạn. Hệ thống thuế cần được cải cách bảo đảm
các tiêu chí tạo nguồn thu bền vững, hiệu quả, công bằng và minh bạch. Tập trung
tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, chống thất thu qua buôn lậu, gian
lận thương mại, đồng thời cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế và hải quan, tạo
nguồn thu bền vững. Đối với chi ngân sách nhà nước, cơ cấu lại theo hướng: đối với
chi thường xuyên, quản lý chặt các khoản chi, tinh giảm biên chế, tiết kiệm chi mua
sắm, giảm tối đa hội nghị, hội thảo, đi công tác nước ngoài. Đối với chi đầu tư, Nhà
nước chỉ nên đầu tư vào những lĩnh vực mà khu vực tư nhân không làm được hoặc

chưa có điều kiện làm nhưng có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội.
Năm là, phải có những lĩnh vực ưu tiên rõ ràng cho chi tiêu sử dụng nợ công.
24

Trang


Những lĩnh vực ưu tiên cần đặt ra là: kết cấu hạ tầng công ích, các dịch vụ an sinh xã
hội, các doanh nghiệp nhà nước không vì mục đích thương mại. Nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn. Đối với các chương trình, dự án đang triển khai, cần rà soát, đánh giá và
loại bỏ những dự án không hiệu quả, gây thất thoát, lãng phí. Tập trung nguồn lực,
đẩy nhanh tiến độ đối với những dự án quan trọng, có hiệu quả, ưu tiên cao. Đối với
những dự án bổ sung mới, cần được lựa chọn, có kế hoạch tài chính rõ ràng.
Sáu là, rà soát, đánh giá, hoàn thiện thể chế, sửa đổi Luật Quản lý nợ công, Luật
Ngân sách nhà nước bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế. Xác định phạm vi quản lý
và cách thức ứng xử rõ ràng đối với các khoản nợ nằm ngoài nợ công. Chính phủ
cũng cần có hệ thống ngăn ngừa rủi ro và cảnh báo sớm thông qua việc quản lý chặt
chẽ mức vay thương mại quốc gia hằng năm, đồng thời cũng phải quan tâm đến các
nghĩa vụ nợ dự phòng.

KẾT LUẬN
Hiện tại, hoạt động tín dụng Nhà nước do Quỹ hỗ trợ phát triển đảm nhận. Đây là
một tổ chức tài chính nhà nước thực hiện việc tài trợ chính sách. Với nhiệm vụ tiếp
nhận và huy động các nguồn vốn để hỗ trợ đầu tư và hỗ trợ xuất khẩu theo chính sách
của Nhà nước cho một số ngành, lĩnh vực then chốt cuả nền kinh tế, các vùng khó
khăn và các chương trình kinh tế lớn của đất nước. Cùng với việc đẩy mạnh công tác
quản lý của Nhà nước, công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ,
công chức đảm nhiệm chuyên môn này, chúng ta có thể tin tưởng vào sự hoạt động và
phát triển tích cực của hoạt động tín dụng Nhà nước, đóng vai trò then chốt trong lĩnh
vực tài chính – kinh tế của nước ta trong thời gian tới.


25

Trang


×