Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Phân tích tình hình tài chính Công ty TNHH Xây dựng và Công nghệ Quang Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.71 KB, 32 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Để tồn tại và phát triển, con người phải tiến hành hoạt động sản xuất.
Hoạt động sản xuất là hoạt động tự giác có ý thức của con người nhằm biến các
vật thể tự nhiên thành các vật phẩm có ích phục vụ cho mình. Con người khi
tiến hành làm bất cứ việc gì cũng luôn mong muốn đạt hiệu quả cao với những
chi phí tối thiểu nhưng đem lại lợi ích tối đa cho mình. Một trong những hoạt
động quan trọng và được con người tiến hành thường xuyên là hoạt động sản
xuất kinh doanh. Để hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành đạt được kết quả
như mong muốn thì điều tất yếu là phải thực hiện chức năng quản lý và để có
thể thực hiện tốt chức năng quản lý thì không thể thiếu thông tin. Thông tin
cung cấp cho quản lý được thu thập từ rất nhiều nguồn khác nhau và bằng
nhiều cách khác nhau, trong đó có các thông tin về hoạt động tài chính.
Hoạt động tài chính là một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nó có mặt trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh từ khâu tạo
vốn trong doanh nghiệp đến khâu phân phối tiền lãi thu được từ quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Nhiệm vụ của hoạt động tài chính là phải huy động đủ vốn đáp ứng cho
nhu cầu sản xuất kinh doanh, đồng thời phải quản lý và sử dụng vốn có hiệu
quả trên cơ sở chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, chính sách, chế độ quy định
về tài chính tín dụng của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, tình hình tài chính của doanh nghiệp là một
vấn đề được rất nhiều người quan tâm nhất là những người quan tâm đến hoạt
động của doanh nghiệp . Chính vì vậy, phân tích tình hình tài chính là một việc
làm vô cùng cần thiết. Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp nhằm đánh
giá được đầy đủ, chính xác tình hình tổ chức, phân phối, sử dụng và quản lý các
loại vốn và nguồn vốn của doanh nghiệp, vạch rõ khả năng tiềm tàng và xu
hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Thông qua việc quản lý, sử
dụng các nguồn vốn, đề xuất các biện pháp cần thiết và có hiệu quả để khai
thác tới mức cao nhất những khả năng tiềm tàng để nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn phục vụ tốt cho sản xuất kinh doanh.
Tài liệu dùng để phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp chủ yếu dựa


vào các số liệu trên báo cáo tài chính được lập theo định kỳ trong đó bảng cân
đối kế toán được sử dụng nhiều nhất trong việc phân tích vì nó phản ánh khá
1
đâỳ đủ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Kết quả của việc phân tích tình
hình tài chính cho ta biết thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp tại thời điểm phân tích.
Vì vậy em chọn đề tài tốt nghiệp là: “Phân tích tình hình tài chính Công
ty TNHH Xây dựng và Công nghệ QuangMinh”. Ngoài mở đầu và kết luận đồ
án gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về phân tích tài chính trong doanh nghiệp .
Chương 2: Phân tích tình hình tài chính của Công ty TNHH Xây dựng và Công
nghệ QuangMinh
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính của
công ty TNHH Xây dựng và Công nghệ QuangMinh.
2
CHƯƠNG 1
Những vấn đề cơ bản về phân tích
tài chính doanh nghiệp
1.1. Khái niệm và vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp :
Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các
công cụ cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác
về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi
ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó, khả năng và
tiềm lực của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định
tài chính, quyết định quản lý phù hợp.
1.1.2. Vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1.2.1. Đối với người quản lý doanh nghiệp :
Trên cơ sở phân tích tài chính mà nội dung chủ yếu là phân tích khả năng
thanh toán, khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh

lãi, nhà quản lý tài chính có thể dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức
doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Từ đó, họ có thể định
hướng cho giám đốc tài chính cũng như hội đồng quản trị trong các quyết định
đầu tư, tài trợ, phân chia lợi tức cổ phần và lập kế hoạch dự báo tài chính. Cuối
cùng phân tích tài chính còn là công cụ để kiểm soát các hoạt động quản lý.
1.1.2.2. Đối với các nhà đầu tư vào doanh nghiệp
Trên cơ sở phân tích các thông tin về tình hình hoạt động, về kết quả kinh
doanh hàng năm, các nhà đầu tư sẽ đánh giá được khả năng sinh lợi và triển
vọng phát triển của doanh nghiệp; từ đó đưa ra những quyết định phù hợp. Các
nhà đầu tư sẽ chỉ chấp thuận đầu tư vào một dự án nếu ít nhất có một điều kiện
là giá trị hiện tại ròng của nó dương. Khi đó lượng tiền của dự án tạo ra sẽ lớn
hơn lượng tiền cần thiết để trả nợ và cung cấp một mức lãi suất yêu cầu cho nhà
đầu tư.
3
1.1.2.3. Đối với các chủ nợ của doanh nghiệp
Nếu phân tích tài chính được các nhà đầu tư và quản lý doanh nghiệp thực
hiện nhằm mục đích đánh giá khả năng sinh lợi và tăng trưởng của doanh nghiệp
thì phân tích tài chính lại được các ngân hàng và các nhà cung cấp tín dụng
thương mại cho doanh nghiệp sử dụng nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của doanh
nghiệp.
1.1.2.4. Đối với người lao động trong doanh nghiệp
Bên cạnh các nhà đầu tư, nhà quản lý và các chủ nợ của doanh nghiệp,
người được hưởng lương trong doanh nghiệp cũng rất quan tâm tới các thông tin
tài chính của doanh nghiệp. Điều này cũng dễ hiểu bởi kết quả hoạt động của
doanh nghiệp có tác động trực tiếp tới tiền lương, khoản thu nhập chính của
người lao động.
1.1.2.5. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước
Dựa vào các báo cáo tài chính doanh nghiệp, các cơ quan quản lý của Nhà
nước thực hiện phân tích tài chính để đánh giá, kiểm tra, kiểm soát các hoạt
động kinh doanh, hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp có tuân thủ theo

đúng chính sách, chế độ và luật pháp quy định không, tình hình hạch toán chi
phí, giá thành, tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và khách hàng
1.1.3. Nhiệm vụ của phân tích tài chính.
- Đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các mặt đảm bảo
vốn cho sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối vốn, tình hình nguồn vốn
- Đánh giá hiệu quả sử dụng từng loại vốn trong quá trình kinh doanh và
kết quả tài chính của hoạt động kinh doanh, tình hình thanh toán.
- Tính toán và xác định mức độ có thể lượng hoá của các nhân tố ảnh
hưởng đến tình hình tài chính, từ đó đưa ra những biện pháp có hiệu quả để
khắc phục những yếu kém và khai thác triệt để những năng lực tiềm tàng của
doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.2. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính
1.2.1. Thông tin chung
4
Đây là các thông tin về tình hình kinh tế có ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong năm. Sự suy thoái hoặc tăng trưởng của
nền kinh tế có tác động mạnh mẽ đến cơ hội kinh doanh, đến sự biến động của
giá cả các yếu tố đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, từ đó tác động
đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
1.2.2. Thông tin theo ngành kinh tế
Việc kết hợp các thông tin theo ngành kinh tế cùng với thông tin chung và
các thông tin liên quan khác sẽ đem lại một cái nhìn tổng quát và chính xác nhất
về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thông tin theo ngành kinh tế đặc biệt là
hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành là cơ sở tham chiếu để người phân tích có thể
đánh giá, kết luận chính xác về tình hình tài chính doanh nghiệp.
1.2.3. Thông tin liên quan đến tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng làm rõ mục
tiêu của dự đoán tài chính. Từ những thông tin nội bộ đến những thông tin bên
ngoài, thông tin số lượng đến thông tin giá trị đều giúp cho nhà phân tích có thể
đưa ra nhận xét, kết luận sát thực. Tuy nhiên, thông tin kế toán là nguồn thông

tin đặc biệt cần thiết. Nó được phản ánh đầy đủ trong các báo cáo kế toán của
doanh nghiệp. Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài
chính được hình thành thông qua việc xử lý các báo cáo kế toán.
Các báo cáo tài chính gồm có:
1.2.3.1. Bảng cân đối kế toán
1.2.3.2. Báo cáo kết quả kinh doanh
1.2.3.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
1.2.3.4. Thuyết minh báo cáo tài chính
1.3. Các bước tiến hành phân tích tài chính
1.3.1.Các bước tiến hành phân tích tài chính
1.3.1.1. Thu thập thông tin
1.3.1.2. Xử lý thông tin
1.3.1.3. Dự đoán và quyết định
5
1.3.2.Trình tự phân tích tài chính
Trình tự tiến hành phân tích tài chính tuân theo các nghiệp vụ phân tích thích
ứng với từng giai đoạn dự đoán tài chính theo sơ đồ sau :
Giai đoạn dự đoán Nghiệp vụ phân tích
Chuẩn bị và xử lý các nguồn thông tin
- Thông tin kế toán nội bộ
- Thông tin khác từ bên ngoài
áp dụng các công cụ phân tích
- Xử lý thông tin kế toán
- Tính toán các chỉ số
- Tập hợp các bảng biểu
Xác định các biểu hiện đặc trưng Giải thích và đánh giá các chỉ số,
bảng biểu
- Biểu hiện hoặc hội chứng khó khăn
- Điểm mạnh và điểm yếu
- Cân bằng tài chính

- Năng lực hoạt động tài chính
- Cơ cấu vốn và chi phí vốn
- Cơ cấu đầu tư và doanh lợi

Phân tích thuyết minh
- Nguyên nhân khó khăn
- Phương tiện thành công và điều kiện bất
lợi
Tổng hợp quan sát
Tiên lượng và chỉ dẫn
Xác định :
- Hướng phát triển
- Giải pháp tài chính hoặc GP khác
Tuy nhiên, trình tự phân tích và một số tiểu tiết cũng có thể thay đổi hoặc
bỏ qua một số bước tuỳ thuộc vào từng điều kiện của từng doanh nghiệp.
1.4. Các phương pháp phân tích tài chính
1.4.1. Phương pháp so sánh.
6
Phương pháp so sánh được sử dụng phổ biến nhất và là phương pháp chủ
yếu trong phân tích tài chính để đánh kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến
đổi của chỉ tiêu phân tích.
1.4.2. Phương pháp loại trừ.
Phương pháp này được áp dụng rộng rãi để xác định xu hướng và mức độ
ảnh hưởng của từng nhân tố đối với chỉ tiêu phân tích. Khi phân tích, để nghiên
cứu ảnh hưởng của một nhân tố nào đó phải loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố
khác.
1.4.3. Phương pháp liên hệ
Mọi kết quả kinh doanh đều có mối liên hệ mật thiết với nhau giữa các
mặt, các bộ phận Để lượng hoá các mối liên hệ đó, ngoài các phương pháp đã
nêu, trong phân tích kinh doanh còn phổ biến các cách nghiên cứu liên hệ phổ

biến như: liên hệ cân đối, liên hệ thuận nghịch, liên hệ tương quan.
1.5. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp có thể được trình bày theo hai
cách sau:
- Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính
- Phân tích các hoạt động tài chính và phân tích các tỷ lệ tài chính.
1.5.1. Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính
1.5.1.1. Phân tích khái quát tình hình tài chính
Để đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp, trước tiên
phải so sánh tổng tài sản và tổng nguồn vốn giữa kì và đầu năm. Qua so sánh, có
thể thấy được sự thay đổi quy mô vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong kỳ cũng
như khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, số tổng cộng của tài
sản và nguồn vốn tăng giảm là do nhiều nguyên nhân khác nhau, do đó cần đi
sâu phân tích các mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán.
1.5.1.2. Phân tích chi tiết tình hình tài chính
7
Trong phân tích chi tiết tình hình tài chính ta đi phân tích tình hình phân
bổ vốn, xem xét doanh nghiệp đã phân bổ vốn hợp lí và phát huy hiệu quả chưa?
Để phân tích, ta tiến hành xác định tỉ trọng từng khoản vốn ở thời điểm đầu kì
và cuối kì và so sánh sự thay đổi về tỉ trọng giữa đầu kì và cuối kì nhằm tìm ra
nguyên nhân của sự chênh lệch này.
1.5.2. Phân tích các hoạt động tài chính và phân tích các tỷ lệ tài chính.
1.5.2.1. Phân tích các tỷ lệ tài chính
Trong phân tích tài chính, các tỷ lệ tài chính chủ yếu thường được phân
thành 4 nhóm chính. Đó là : nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về
khả năng cân đối vốn, nhóm tỷ lệ về khả năng hoạt động, nhóm tỷ lệ về khả
năng sinh lãi. Nhìn chung, mối quan tâm trước hết của các nhà phân tích tài
chính là tình hình tài chính của doanh nghiệp có lành mạnh không? Liệu doanh
nghiệp có khả năng đáp ứng được những khoản nợ đến hạn không? Nhưng tuỳ
theo mục đích phân tích tài chính mà nhà phân tích tài chính chú trọng nhiều

hơn đến nhóm tỷ lệ này hay nhóm tỷ lệ khác.
1.5.2.1.1. Các tỷ lệ về khả năng thanh toán :
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính
giữa các khoản phải có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh
toán trong kỳ. Việc phân tích các tỷ lệ về khả năng thanh toán không những giúp
cho các chủ nợ giảm được rủi ro trong quan hệ tín dụng và bảo toàn được vốn
của mình mà còn giúp cho bản thân doanh nghiệp thấy được khả năng chi trả
thực tế để từ đó có biện pháp kịp thời trong việc điều chỉnh các khoản mục tài
sản cho hợp lý nhằm nâng cao khả năng thanh toán.
1.5.2.1.2.Các tỷ lệ về khả năng cân đối vốn
Tỷ lệ này được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh
nghiệp so với phần tài trợ của chủ nợ cho doanh nghiệp. Nó còn được coi là tỷ lệ
đòn bẩy tài chính và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các
chủ nợ nhìn vào số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp để thể hiện mức độ tin
tưởng vào sự bảo đảm an toàn cho các món nợ.
8
1.5.2.1.3. Các tỷ lệ về khả năng hoạt động
Các tỷ lệ về khả năng hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử
dụng nguồn vốn của doanh nghiệp. Nguồn vốn của doanh nghiệp được đầu tư
cho các loại tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các
nhà phân tích không chỉ quan tâm đến việc đo lường hiệu quả sử dụng của tổng
nguồn vốn mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành
nguồn vốn của doanh nghiệp.
1.5.2.4. Các tỷ lệ về khả năng sinh lời
Khả năng sinh lời là kết quả tổng hợp chịu tác động của nhiều nhân tố vì
thế khác với các tỷ lệ tài chính phân tích ở trên chỉ phán ánh hiệu quả từng hoạt
động riêng biệt của doanh nghiệp, tỷ lệ về khả năng sinh lời phản ánh tổng hợp
nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý của doanh nghiệp.
1.5.2.2. Phân tích các hoạt động tài chính
1.5.2.2.1. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn

Trong phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, người ta thường
xem xét sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh
nghiệp trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập bảng cân đối kế
toán.
1.5.2.2.2. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh
1.5.2.2.3. Phân tích các dòng ngân quỹ của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, tiền của doanh nghiệp là một yếu tố rất quan
trọng. Ở một thời điểm nhất định, tiền chỉ phản ánh và có ý nghĩa như một hình
thái biểu hiện của tài sản lưu động; nhưng trong quá trình kinh doanh, sự vận
động của tiền được xem là hình ảnh trung tâm của hoạt động kinh doanh, phản
ánh năng lực tài chính của doanh nghiệp.
1.6. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng phân tích tài chính
1.6.1.Chất lượng thông tin sử dụng
Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định chất lượng phân tích tài
chính, bởi một khi thông tin sử dụng không chính xác, không phù hợp thì kết
9
quả mà phân tích tài chính đem lại chỉ là hình thức, không có ý nghĩa gì. Vì vậy,
có thể nói thông tin sử dụng trong phân tích tài chính là nền tảng của phân tích
tài chính.
1.6.2.Trình độ cán bộ phân tích
Nhiệm vụ của người phân tích là phải gắn kết, tạo lập mối liên hệ giữa các
chỉ tiêu, kết hợp với các thông tin về điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của doanh
nghiệp để lý giải tình hình tài chính của doanh nghiệp, xác định thế mạnh, điểm
yếu cũng như nguyên nhân dẫn đến điểm yếu trên. Hay nói cách khác, cán bộ
phân tích là người làm cho các con số “biết nói”. Chính tầm quan trọng và sự
phức tạp của phân tích tài chính đòi hỏi cán bộ phân tích phải có trình độ chuyên
môn cao.
1.6.3. Hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành
Thông qua đối chiếu với hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành, nhà quản lý

tài chính biết được vị thế của doanh nghiệp mình từ đó đánh giá được thực trạng
tài chính doanh nghiệp cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
mình.
Chương 2. Phân tích tình hình tài chính
công ty TNHH Xây dựng và công nghệ Quang Minh
2.1. Giới thiệu chung về công ty TNHH Xây dựng và công nghệ Quang
Minh
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển công ty TNHH Xây dựng và công
nghệ Quang Minh
Công ty TNHH Xây dựng và công nghệ Quang Minh được thành lập theo
Quyết định số 2901 QĐ/ TCCB ngày 31 tháng 10 năm 1996 và số 2992/
1998/QĐ/ BGTVT ngày 21 tháng 11 năm 1998 về việc cho phép ban quản lý dự
án Thăng Long thành lập “ công ty tư TNHH Xây dựng và công nghệ Quang
Minh”, Với những nhiệm vụ chủ yếu:
+ Giám sát thiết kế công trình đường thuỷ, đường bộ
10
+ Lập hồ sơ mời thầu, tư vấn đấu thầu, tư vấn giám sát, kiểm định chất
lượng công trình xây dựng.
+ Xây dựng công trình giao thông không do công ty thiết kế trừ hợp đồng
theo hình thức chìa khoá trao tay
2.1.2. Quá trình phát triển của công ty:
Tháng 12/ 1998. Công ty được ổn định gồm ông: Phạm Văn Khánh làm
giám đốc, bốn phó giám đốc,… và các phòng nghiệp vụ. Mở tài khoản có con
dấu và trụ sở làm việc tại địa chỉ số 16 ngõ 218 Tây Sơn, Đống Đa, Hà Nội.
Công ty có đủ tư cách pháp nhân, từng bước đi vào hoạt động.
2.1.3. Chức năng nhiệm vụ của công ty:
Căn cứ quyết định số 26/ BXD-CSXD ngày 8 tháng 2 năm 1999 của bộ
trưởng bộ Xây Dựng. Cấp chứng chỉ hành nghề cho công ty. Với nội dung chủ
yếu:
Thiết kế, xây dựng và nội thất.

Thiết kế hệ thống Me & E.
Sản xuất và thi công xây dựng các công trình xây dựng
2.1.4. Tổ chức bộ máy quản lý ở công ty TNHH Xây dựng và công nghệ
Quang Minh
Giám đốc công ty: Là người có quyền lực cao nhất trong công ty, quyết
định các chiến lược và phương án kinh doanh, bổ nhiệm và miễn nhiệm phó
giám đốc, các trưởng phòng và cỏc vị trí quan trọng khác.
Phó giám đốc: Là người cộng sự đắc lực của giám đốc, được giám đốc uỷ
quyền để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý trong lĩnh vực được giao. Công
ty có 4 phó giám đốc.
Kế toán trưởng: Có vai trò tham mưu cho giám đốc về lĩnh vực kinh tế tài
chính – kế toán.
Các phòng ban chức năng được tổ chức căn cứ theo yêu cầu của công tác
kinh doanh bao gồm: Phòng tổ chức hành chính, phòng kỹ thuật thi công, phòng
kinh tế thị trường, phòng tài chính kế toán, phòng đầu tư, phòng giám sát, phòng
thí nghiệm…
11
2.1.5 Đặc điểm tổ chức công tác kế toán và năng lực tài chính công ty
TNHH Xây dựng và công nghệ Quang Minh:
2.1.5.1. Đặc điểm tổ chức công tác kế toán:
Công ty áp dụng hình thức công tác kế toán nửa tập chung nửa phân tán
theo chế độ kế toán hiện hành
Hình thức sổ kế toán áp dụng: Chứng từ ghi sổ
2.1.5.2. Phương pháp kế toán tài sản cố định (tài sản cố định)
Nguyên tắc đánh giá tài sản cố định
Theo giá vốn( giá mua cộng với chi phí có liên quan đến mua tài sản cố
định)
Phương pháp khấu hao áp dụng: Theo phương pháp tuyến tính với mức
khấu hao quy định tại quyết định số 166/199/QĐ- BTC ngày 30 tháng 12 năm
1997 của Bộ Tài Chính

Các trường hợp khấu hao đặc biệt: không
Phương pháp kế toán hàng tồn kho:
Nguyên tắc đánh giá:
Theo trị giá thực tế(bao gồm giá mua+ chi phí có liên quan)
Phương pháp giá trị hàng tồn kho cuối kỳ: Bằng giá trị thực tế
Phương pháp hạch toán hàng tồn kho: kê khai thường xuyên
Phương pháp tính các khoản dự cầu: Không áp dụng
2.2 Phân tích khái quát tình hình tài chính của công ty
2.2.1 Phân tích quy mô vốn của công ty:
Để đánh giá khái quát tình hình tài chính của công ty, trước hết ta tiến
hành so sánh tổng số tài sản và tổng số nguồn vốn của công ty giữa năm 2008-
2009. 2009-2010. Từ đó có thể thấy được quy mô vốn mà công ty sử dụng trong
kỳ là lớn hay nhỏ và sự biến đổi của nó, đồng thời ta thấy được khả năng huy
động vốn từ những nguồn khác nhau của công ty
Việc phân tích dựa trên cơ sơ dữ liệu bảng số cân đối kế toán năm 2008,
2009, 2010. Qua bảng phân tích quy mô vốn của công ty ta nhận thấy năm 2009
12
tổng tài sản và nguồn vốn mà công ty sụt giảm một cách nghiêm trọng, chênh
lệch 2009-2008 là -16.895.981.349đ (-12,62%)
Đến năm 2010, thị trường giá thép và nguyên vật liệu đã được bình ổn, nhà
nước thực hiện chính sách bù lỗ cho các doanh nghiệp xây dựng nên năm 2010
tổng tài sản và nguồn vốn của công ty tăng lên rất lớn. 52.736.191.931 đ
( +45.08%). Trong đó tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn tăng 52.271.424.650
đ ( +60.18%). Mức tăng ở đây chủ yếu là tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn,
phản ánh đây là năm mà hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty khởi sắc,
một lượng rất lớn tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn được huy động phục vụ
sản xuất kinh doanh. Tuy vậy, vấn đề cần nói nhiều tới về tài chính của công ty
đó là về nợ phải trả. Năm 2008 nợ phải trả chiếm tới 96.35%, năm 2009 là
96.98%, năm 2010 là 96.59% trong tổng nguồn vốn. Điều này cho thấy sự rủi ro
rất lớn cho vấn đề về khả năng thanh toán, trả nợ của công ty. Ta sẽ phân tích kỹ

hơn trong phần phân tích chi tiết tài chính công ty.Từ bảng các chỉ tiêu về cơ
cấu tài chính của công ty ta thấy hệ số nợ khá lớn và tương đối ổn định qua các
năm, năm 2009 có hệ số nợ cao nhất 96,98 tương ứng với hệ số nguồn
vốn/tổng tài sản .Hệ số nợ/vốn CSH các năm đều ở mức cao .Với các chỉ tiêu về
cơ cấu tài chính như vậy đòi hỏi công ty cần phải có biện pháp giảm nợ, tăng
nguồn vốn chủ sở hữu.Tuy sử dụng nợ là một đòn bẩy tài chính nhưng với mức
nợ quá lớn sẽ là rủi ro rất lớn về khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Về hệ số cơ cấu tài sản cố định và đầu tư dài hạn: Năm 2008 là 21,75%
nhưng đến năm 2010 hệ số cơ cấu tài sản cố định và đầu tư dài hạn chỉ còn
18,02%. Năm 2010 công ty đầu tư nhiều hơn cho tài sản lưu động và đầu tư
ngắn hạn.Do năm 2009 công ty đã đầu tư khá lớn vào tài sản cố định và đầu tư
dài hạn, trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh đã
được đầu tư khá tốt. Vì vậy, năm 2010 công ty chủ yếu đầu tư vào tài sản lưu
động và đầu tư ngắn hạn (81.98%). Thể hiện đây là năm hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty được mở rộng, hiệu quả tốt.
2.2.2. Phân tích mối liên hệ giữa các chỉ tiêu trên bảng cân đối kế toán:
13
Trong cả 3 năm tổng cộng nguồn vốn chủ sở hữu và vốn vay đều nhỏ hơn
tài sản, năm 2008 mức chênh lệch là rất lớn, các năm 2009, 2010 công ty đã chú
trọng đến việc thu hồi các khoản phải thu nhưng hiện tại công ty cần phải tiếp
tục có các biện pháp thu hồi nợ đọng, giảm tới mức thấp nhất việc bị các đơn vị
khác chiếm dụng vốn, nếu để tình trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng đến chiến lược
phát triển, đầu tư, lợi nhuận và ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của công ty.
2.3.Phân tích chi tiết tình hình tài chính của công ty:
2.3.1 Phân tích tình hình phân bổ vốn:
2.3.1.1. Sự thay đổi về số lượng, quy mô tỷ trọng của từng loại vốn:
Phân tích cơ cấu về tài sản, cơ cấu vốn của công ty là một vấn đề có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Nếu doanh nghiệp có cơ cấu vốn hợp lý thì không
phải chỉ sử dụng vốn có hiệu quả mà còn tiết kiệm được vốn trong quá trình
sản xuất kinh doanh. Để phân tích ta tiến hành xác định tỷ trọng của từng

loại vốn ở thời điểm năm 2008, 2009, 2010 và so sánh sự thay đổi tỷ trọng
giữa các năm để tìm ra nguyên nhân cụ thể chênh lệch tỷ trọng này.
Ta thấy tài sản lưu động chiếm tỷ trọng lớn nhất là các khoản phải thu,
năm 2008 là 45.66%, năm 2009 là 34.86%, năm 2010 là 43.97%. Năm 2009
các khoản phải thu giảm so với năm 2008 là 20.351.296.560(-33.29%) nhưng
đến năm 2010 các khoản phải thu tăng lên một lượng rất lớn
(74.616.578.111), tăng so với 2009 là 33.848.014.941 (83%) .Bên cạnh đó
lượng hàng tồn kho là khá lớn, năm 2008 tỷ lệ hàng tồn kho là 26.27%, năm
2009 là 36.98%, năm 2010 là 32.28%. Trong khi đó vốn bằng tiền lại chiếm
một lượng rất nhỏ, sự mất cân đối này là rủi ro rất lớn đối với doanh nghiệp
nếu khách hàng không thanh toán.
Điều này chứng tỏ công ty chưa chú trọng đến vấn đề đầu tư vào lĩnh
vực tài chính dài hạn nhưng lại rất chú trọng đến đầu tư vào tài sản cố định.
Lượng tài sản cố định chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng tài sản, năm 2008 là
26.506.315.698 chiếm 19.8%, năm 2009 là 30.117.341.875 chiếm 25.74%,
năm 2010 là 30.518.472.753 chiếm 17.98%.
14
Tài sản cố định tăng nhiều trong năm 2009, đây là sự tăng tài sản thể
hiện công ty rất chú trọng đầu tư chiều sâu, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật
hiện đại phục phụ cho sản xuất.
Chi phí xây dựng dở dang giảm từ 1.524.324.930 xuống đến năm 2010 còn là
63.636.364 thể hiện các khoản chi phí xây dựng cơ bản dở dang như Gía trị
tài sản cố định chưa hoàn thành đã được quyết toán hết.
2.3.1.2. Tỷ xuất đầu tư:
Việc đầu tư chiều sâu, mua sắm thiết bị, đổi mới công nghệ tạo tiền đề
để tăng năng xuất lao động và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả hoặc đầu tư
tài chính dài hạn phải được xem xét thông qua các tỷ suất đầu tư.
Theo kết quả nghiên cứu ta thấy tỷ suất đầu tư chung tăng lên từ năm
2008 đến năm 2009 nhưng lại giảm trong năm 2010, tỷ suất đầu tư tài chính
dài hạn giảm đi chứng tỏ công ty chưa chú trọng đến lĩnh vực kinh doanh

này, công ty cần xem xét cho đầu tư tài chính dài hạn.Bởi đây là chỉ tiêu
phản ánh khả năng tạo ra nguồn lợi tức lâu dài cho công ty.
Công ty có mức đầu tư vào tài sản cố định khá cao chứng tỏ cơ sở vật
chất kỹ thuật của công ty khá mạnh nhưng cần lưu ý năm 2010 tỷ suất đầu tư
vào tài sản cố định chưa tương xứng với tổng tài sản và xét trong lĩnh vực
xây dựng thì đầu tư vào máy móc thiết bị chiếm một lượng vốn khá lớn. Do
vậy, công ty nên đầu tư thêm vào trang bị tài sản cố định, hiện đại cơ sở vật
chất tạo điều kiện để công ty có thể cạnh tranh trên thị trường.
2.3.2. Phân tích kết cấu nguồn vốn của công ty:
Kết cấu nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động kinh doanh.
Do đó, các công ty đều hướng đến một cơ cấu vốn hợp lý, một cơ cấu vốn
hợp lý sẽ giúp công ty tiết kiệm được chi phí sử dụng vốn, từ đó nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Theo kết quả phân tích kết cấu nguồn vốn ta nhận thấy tổng nguồn vốn
của công ty biến động qua các năm khá lớn. Năm 2009 tổng nguồn vốn giảm
16.895.981.349 đ (-12.62%) so với năm 2008 nhưng đến năm 2010 tổng
nguồn vốn lại tăng so với năm 2009 là 52.736.191.941 đ (+31.07%). Điều
15
này cho thấy năm 2009 công ty gặp khó khăn trong việc huy động nguồn vốn
cho sản xuất kinh doanh và điều này ngược lại với năm 2010, đây là năm
tổng nguồn vốn của công ty tăng lên một cách rõ rệt. Nhưng thực chất trong
tổng nguồn vốn của công ty ta nhận thấy tỷ lệ nợ phải trả chiếm một tỷ lệ rất
lớn, năm 2008 là 95.35%, năm 2009 là 96.98%, năm 2010 là 96.59%, năm
2010 tỷ lệ nợ phải trả tăng so với năm 2009 là 50.472.423.500 đ ( +44.49%).
Vì thế khả năng đảm bảo về mặt tài chính của công ty là rất thấp, do vậy
công ty cần phải có các biện pháp điều chỉnh tỷ lệ này cho hợp lý.
Vì tỷ lệ nợ phải trả chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số nguồn vốn nên ta đi
sâu phân tích sự biến động của các chỉ tiêu này. Trong nợ phải trả ta thấy
khoản nợ ngắn hạn là khoản nợ phải trả chủ yếu. Trong năm 2008 số nợ
ngắn hạn là 120.607.350.036 đ chiếm 90,08% tổng nguồn vốn và tương ứng

ở thời điểm năm 2009 là 103.377.560.075 đ chiếm 88,37% tổng nguồn vốn.
Năm 2010 nợ ngắn hạn tăng khá lớn so với các năm trước, khoản nợ này năm
2010 tăng so với năm 2009 là 41.264.384.100 đ tức là đã tăng tới 39,92%. Để
có được nguồn vốn này công ty đã phải đi vay ngắn hạn, dài hạn và các
khoản vay khác.Tỷ lệ vay ngắn hạn của công ty cũng chiếm một tỷ lệ khá lớn
trong tổng nguồn vốn. Cụ thể năm 2008 là 39.891.577.248 đ chiếm 29,80%
tổng nguồn vốn, năm 2009 là 64.551.432.125 đ chiếm 55.18% và năm 2010
là 85.772.763.922 đ chiếm 50.54% tổng nguồn vốn. Nợ phải trả và vay ngắn
hạn chiếm tỷ lệ lớn như vậy là một rủi ro rất lớn đối vối công ty trong vấn đề
thanh toán. Nếu công ty không có biện pháp thu hồi nợ đọng và trả các khoản
đến hạn thì công ty sẽ gặp rất nhiều rủi ro, khó khăn về tình hình tài chính.
Tỷ trọng nợ dài hạn chưa đến hạn trả chiếm một tỷ lệ khá nhỏ trong nợ phải
trả. Do vậy, nợ phải trả cho việc đầu tư vào tài sản cố định và đầu tư tài chính
dài hạn là ít.

2.3.3.Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán của công ty.
2.3.3.1.Phân tích tình hình công nợ của công ty.
16
Công nợ của công ty bao gồm các khoản nợ phải thu và các khoản nợ phải
trả trong kỳ. Qua kết quả phân tích ta thấy tổng các khoản phải thu của công ty
biến động qua các năm là khá lớn. Đặc biệt, tổng các khoản phải thu trong năm
2010 tăng so với năm 2009 là 23.848.014.911 đ tức là tăng tới 83%. Chứng tỏ
trong kỳ công ty vẫn chưa thu hồi được một lượng vốn khá lớn bị đơn vị khác
chiếm dụng. Do vậy, công ty cần phải có biện pháp hữu hiệu thu hồi tối ưu
lượng vốn bị chiếm dụng này nhằm làm giảm bớt khó khăn về vốn cho công ty.
Công ty không có dự phòng phải thu khó đòi. Điều này chứng tỏ công ty
có mối quan hệ tốt với các bạn hàng, có các bạn hàng đáng tin cậy, do vậy khả
năng không thu hồi được nợ từ các khách hàng là không thể xảy ra
2.3.3.1.2.Các khoản phải trả.
Theo kết quả phân tích và theo bảng cân đối kế toán năm 2010, hoàn toàn

hợp logic khi vốn chủ sở hữu nhỏ lại tăng trong năm, khi đó các khoản phải thu
đều tăng lên cuối kỳ thì các khoản phải trả cũng vậy.
Tổng các khoản phải trả cuối năm 2010 tăng so với đầu năm là
34.225.614.390 tức là tăng tới 81.02% cho thấy sự giảm sút thanh toán các
khoản nợ phải trả của công ty. Việc tăng các khoản nợ phải trả làm tăng tình
trạng nợ nần dây dưa, đồng thời thể hiện một thực trạng tài chính không khả
quan và việc công ty đi chiếm dụng một lượng vốn khá lớn của các đơn vị khác.
Quản trị công ty cần xác định rõ nguyên nhân làm khê đọng các khoản phải
trả và cần sớm có những biện pháp xử lý kịp thời các khoản công nợ, góp phần
lành mạnh hoá tình hình hoạt động tài chính của công ty, tránh việc kinh doanh
trong tương lai có thể bị giảm sút, công ty có thể mất khả năng thanh toán và rủi
ro phá sản.
Sự tăng lên của tổng các khoản phải trả là do nhiều nguyên nhân khác
nhau. Trong đó, chỉ tiêu vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng các khoản
phải trả, cuối năm 2010 tăng so với đầu năm là 21.221.331.800 đ tức là tăng
32,88% thể hiện công ty mở rộng quy mô xuất kinh doanh nên cần thêm vốn
phục vụ cho quá trình sản xuất. Trong phần phân tích các khoản phải thu ta thấy
lượng vốn bị khê đọng, bị các đơn vị khác chiếm dụng khá lớn, bên cạnh đó
17
tổng nguồn vốn của công ty giữa năm 2009-2010 lại tăng lên chứng tỏ quy mô
sản xuất của công ty tăng. Do vậy, có thể kết luận: Các khoản vay ngắn hạn của
công ty tăng lên là để trả các khoản nợ đến hạn và bổ xung vào vốn sản xuất
kinh doanh của công ty do bị đơn vị khác chiếm dụng.
2.4. Phân tích nh_m các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán của công ty.
Tình hình tài chính của công ty chịu ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến
tình hình tài chính và khả năng thanh toán của công ty. Để thấy rõ tình hình tài
chính của công ty hiện tại và tương lai, cần xác định các chỉ tiêu phân tích nhu
cầu và khả năng thanh toán của công ty. Khả năng thanh toán của công ty được
biểu hiện ở số tiền và tài sản mà công ty hiện có, có thể dùng để trang trải các
khoản nợ.

Về nhu cầu thanh toán: Các khoản phải thanh toán ngay chiếm tới 94,48%
trong tổng nhu cầu thanh toán năm2008, năm 2009 là 91,17%, năm 2010 là
88,2%. Tỷ lệ này giảm lượng nhỏ dần đều qua các năm. Các khoản có thể dùng
để thanh toán ngay đều nhỏ hơn nhiều so với các khoản cần phải thanh toán
ngay. Điều này cho thấy công ty không có khả năng thanh toán ngay các khoản
nợ đến hạn. Do vậy, công ty phải huy động đến các nguồn khác như: các khoản
đầu tư dài hạn, dùng tài sản cố định để tài trợ…để trả các khoản nợ ngắn hạn,
đặc biệt là khoản vay ngắn hạn ngân hàng, khoản này chiếm tỷ trọng khá lớn.
Cụ thể: Năm 2008 là 39.891.577.248 đ chiếm 31,25% tổng các khoản nợ phải
thanh toán ngay, năm 2009 là 64.551.432.125 đ chiếm 56,93%, năm 2010 là
85.772.763.922 đ chiếm 52,32%
Như vậy, khả năng thanh toán ngay các khoản nợ đến hạn của công ty
thấp. Điều này là do sự mở rộng về quy mô sản xuất của công ty đã để ứ đọng
vốn quá nhiều ở khoản mục “Các khoản phải thu” là các khoản không thể
chuyển thành tiền ngay khi cần thiết . Công ty cần tích cực trong công tác thu
hồi các khoản phải thu, tăng lượng tiền mặt và các khoản tương đương tiền để
tăng khả năng thanh toán ngay các khoản nợ đến hạn khi cần thiết tránh để tình
trạng bấp bênh, gây ra rủi ro rất lớn cho doanh ngiệp.
2.5. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn và khả năng sinh lợi của vốn:
18
2.5.1.Phân tích hiệu quả sử dụng vốn:
Hiệu quả của sử dụng vốn được thể hiện trên hai mặt: Bảo toàn được vốn
và tạo ra các kết quả theo mục đích kinh doanh. Trong đó đặc biệt là kết quả
mức sinh lời của đồng vốn. Khi phân tích hiệu quả sử dụng vốn cần lần lượt
phân tích hiệu quả sử dụng tài sản lưu động, tài sản cố định và sau đó phân tích
khả năng sinh lợi của đồng vốn.
2.5.2. Phân tích hiệu quả sử dụng tổng tài sản:
Hiệu quả sử dụng tổng tài sản được phân tích trên nhiều chỉ tiêu, trong đó
ba chỉ tiêu cơ bản: Sức sản xuất của tổng tài sản, sức sinh lợi của tổng tài sản,
suất hao phí của tổng tài sản.

Với chỉ tiêu Sức sản xuất của tổng tài sản, các số liệu tính toán cho thấy,
sức sản xuất của tổng tài sản năm 2010 là lớn nhất và tổng tài sản được sử dụng
hiệu quả nhất vì thực tế kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2010 là lớn
nhất. Chỉ số sức sản xuất năm 2010 tăng là do tổng tài sản tăng. Để nhận xét chỉ
tiêu này cần kết hợp với chỉ tiêu quay vòng vốn lưu động và hiệu suất sử dụng
tài sản cố định vì hiệu suất sử dụng tổng tài sản chịu ảnh hưởng của hiệu suất sử
dụng tài sản cố định và tài sản lưu động.
Ngoài việc so sánh lợi nhuận với doanh thu, ta còn so sánh lợi nhuận với
tổng tài sản để xem xét một đồng tài sản thu bao nhiêu đồng lợi nhuận. Từ bảng
phân tích ta thấy chỉ tiêu sức sinh lời của công ty tư vấn giám sát và xây dựng
công trình là khá thấp. Năm 2010 hiệu quả có cao hơn năm 2008, 2009 một
chút. Năm 2010 sức sinh lời đạt được là 0,024 nghĩa là cứ một trăm đồng tài sản
tạo ra 2,4 đồng lợi nhuận.
Với hệ số sinh lời tài sản và doanh thu như vậy, công ty cần điều chỉnh lại
kế hoạch sản xuất kinh doanh.
+ Với chỉ tiêu suất hao phí tổng tài sản: 2 năm 2008, 2009 chỉ tiêu này là
rất thấp, công ty đã có những biện pháp điều chỉnh trong năm 2010, để có một
đơn vị lợi nhuận trước thuế cần 41,20đ tài sản. Công ty cần phát huy hơn nữa.
2.5.2.1. Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản cố định
19
Sức sản xuất của tài sản cố định từ 4,78 năm 2008 giảm xuống còn 2,9 năm
2009 và tăng lên 2,97 năm 2010. Phản ánh sức sản xuất của tài sản cố định biến
động khá lớn và có xu hướng giảm, kết hợp với sức sinh lợi cũng như suất hao
phí của tài sản cố định ta thấy mức hiệu quả trong sử dụng tài sản cố định là
chưa cao.
2.5.2.2. Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản lưu động:
Ta thấy sức sản xuất và sức sinh lợi của vốn lưu động biến động lớn qua
các năm, đặc biệt năm 2010 sức sản xuất của vốn lưu động là 1,503. Đây là năm
công ty sử dụng khá hiệu quả vốn lưu động: Sức sản xuất và sức sinh lợi của
vốn lưu động tăng còn suất hao phí tài sản lưu động giảm. Trong tổng số tài sản

của công ty thì tài sản cố định có thời quay vòng cũng như thời gian thu hồi vốn
tương đối dài. Còn tài sản lưu động là những tài sản có thời gian quay vòng
ngắn, thu hồi vốn nhanh ,có ảnh hưởng trực tiếp và rất lớn đến hiệu quả sử dụng
vốn của công ty. Do vậy, công ty cần có biện pháp đổi mới, cải tiến trong sản
xuất kinh doanh để sử dụng vốn hiệu quả hơn.
2.5.2.3. Phân tích khả năng sinh lợi của vốn:
2.5.2.3.1. Hệ số sinh lợi của vốn kinh doanh:
- Về hệ số sinh lợi của vốn kinh doanh: Hệ số này trong cả 3 năm của công
ty đều khá thấp, năm 2009 giảm so với năm 2008 nhưng năm 2010 lại tăng so
với năm 2009 với một tỷ trọng nhỏ. Điều này cho thấy công ty sử dụng vốn
chưa thật sự hiệu quả.
- Về hệ số sinh lời của vốn chủ sở hữu: Công ty đạt được hệ số này khá
cao, tăng dần theo các năm, phản ánh đồng vốn bỏ ra ngày càng có hiệu quả.
- Về tỷ suất lợi nhuận trên vốn vay: Năm 2009 tỷ suất này giảm khá lớn so
với năm 2008, năm 2010 có tăng một chút so với năm 2009. Điều này phản ánh
sự bất ổn định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, tuy năm 2010
quản trị công ty đã có một số biện pháp khắc phục nhưng kết quả đạt được là
chưa cao.
20
Ch ¬ng 3 :
Mét sè gi¶i ph¸p nh»m hoµn thiÖn c«ng t¸c
ph©n tÝch ho¹t ®éng tµi chÝnh cña c«ng ty
3.1. Đánh giá tình hình tài chính của công ty TNHH Xây dựng và công nghệ
Quang Minh
3.1.1.Thực trạng về tình hình tài chính của công ty tư vấn giám sát và xây
dựng công trình
Sau khi đã phân tích tình hình tài chính của công ty ở chương 2 em nhận
thấy thực trạng tài chính các năm của công ty như sau:
-Về tài sản : Tổng tài sản và nguồn vốn năm 2008 là 133.882.824.075đ,
năm 2009 là 116.986.842.726đ, năm 2010 là 169.723.034.667đ. Như vậy, tổng

tài sản và nguồn vốn có những biến động lớn qua các năm. Năm 2009 giảm so
với năm 2008 là 16.895.981.349đ “-12,62%”, nhưng đến năm 2010 lại tăng so
với 2009 là 52.736.191.931đ “+45,08%”
-Về tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn: Năm 2009 giảm so với 2008
là 18.569.082.556đ “-17,61%”, năm 2010 tăng so với 2009 là 52.271.424.650đ
“+60,18%”.
-Về tài sản cố định và đầu tư dài hạn: Năm 2009 tăng so với năm 2008
là 1.643.101.250đ “+5,77%”, năm 2010 tăng so với năm 2009 là 401.130.880đ
“+1,33%”.
-Về nợ phải trả : Nợ phải trả của công ty các năm như sau: năm 2008
127.653.093.980đ, năm 2009 là 113.459.094.243đ, năm 2010 là
163.931.507.765đ
Năm 2009 giảm so với năm 2008 là 14.193.999.737 “-11,12%”, năm 2010 tăng
so với năm 2009 là 50.472.413.512đ “+44,49%”.
- Về nguồn vốn chủ sở hữu: Năm 2008 là 6.229.730.095đ, năm 2009 là
3.527.78.83đ, năm 2010 là 5.791.526.902đ. Năm 2009 nguồn vốn chủ sở hữu
giảm so với năm 2008 là 2.701.981.612đ “-76,59%”, năm 2010 tăng so với năm
2009 là 2.263.778.419đ “+64,17%”.
-Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh:
21
Tổng doanh thu năm 2008 là 136.546.924.615đ, năm 2009 là
131.362.102.057đ, năm 2010 là 169.799.000.000đ. Doanh thu giai đoạn 2008-
2010 biến động là khá lớn, tăng giảm không đều, năm 2009 doanh thu sụt giảm
nghiêm trọng chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như vấn đề tài chính
của công ty chưa thực sự ổn định. Doanh thu không ổn định kéo theo lợi nhuận
của công ty thu được qua các năm cũng biến động khá lớn, năm 2008 là
2.694.327.972đ, năm 2009 là 1.088.980.074đ, năm 2010 là 3.479.130.184đ.
Sơ bộ tình hình tài chính của công ty ta nhận thấy: Nhìn chung tình hình
tài chính của công ty trong giai đoạn 2008-2010 có khá nhiều biến động, sự tăng
giảm lớn về tài sản và nguồn vốn qua các năm, lợi nhuận thu được chưa thực sự

ổn định. Bên cạnh đó những nguy cơ tiềm tàng như khả năng thanh toán ngay
các khoản nợ đến hạn của công ty còn thấp do công ty còn để ứ đọng vốn và
hàng tồn kho nhiều, các khoản phải thu gia tăng chứng tỏ công ty chưa chú ý
đến việc thu hồi các khoản phải thu, chưa có biện pháp hữu hiệu để làm giảm
lượng vốn bị chiếm dụng, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, khả năng sinh lời của
vốn còn thấp.
Tuy nhiên, những nhận định trên chỉ là sơ bộ, để có những kết luận chính
xác về tình hình tài chính của công ty trong 3 năm liên tục cần phải tiến hành
phân tích một cách chi tiết các số liệu trên các báo cáo tài chính, bên cạnh đó
cần có thêm các thông tin cần thiết như: Thông tin về thị trường đầu vào, đầu ra,
đặc điểm kinh tế kỹ thuật, quy trình công nghệ, các số liệu trung bình của
nghành và khảo sát ở các công ty cùng nghành khác. Tuy vậy, em cũng xin đưa
ra một số giải pháp cho vấn đề về hoạt động tài chính của công ty như sau:
3.1.2.Một số giải pháp về hoạt động tài chính của công ty TNHH Xây dựng
và Công nghệ Quang Minh
Qua phần phân tích chi tiết thực trạng tài chính của công ty tư vấn giám
sát và xây dựng công trình trong 3 năm liên tiếp 2008, 2009, 2010 ta nhận thấy
tình hình tài chính của công ty còn khá nhiều bất cập, đòi hỏi quản trị công ty
cần có những giải pháp tức thời cũng như lâu dài cho vấn đề tài chính của công
ty cho năm tài chính tiếp theo.
22
Những vấn đề về tài chính mà công ty còn tồn đọng đến cuối năm 2010,
qua phân tích đã nhận thấy và cần có những giải pháp cho những tồn đọng này
như sau :
- Về tình hình công nợ: Công ty cần có giải pháp chuyển một phần nợ vay
ngắn hạn thành nợ vay trung và dài hạn( nếu có thể). Vay ngắn hạn trong công
ty chủ yếu là vay ngắn hạn từ ngân hàng nên công ty có thể gia hạn nợ những
khoản đến hạn trả. Công ty cần phải có các biện pháp thu hồi nợ đọng, có biện
pháp khuyến khích khách hàng thanh toán tiền đúng hạn. Các biện pháp này sẽ
giúp công ty thanh toán các khoản nợ nần một cách tốt nhất, đồng thời góp phần

làm lành mạnh hoá tình hình hoạt động tài chính của công ty.
- Về nhóm các chỉ tiêu phản ánh sự biến động về cơ cấu tài sản của công
ty : Công ty cần có ngay biện pháp bổ xung thêm lượng tiền mặt ở mức vừa phải
đủ để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được ổn định, liên tục.
- Qua bảng cân đối kế toán ta cũng thấy, công ty chưa chú trọng đầu tư
vào các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, công ty nên có phương hướng đầu tư
vào lĩnh vực này trong năm tới.
-Tỷ trọng của hàng tồn kho: Công ty cần chi tiết từng loại mặt hàng tồn
kho, xác định rõ nguyên nhân và tìm mọi biện pháp giải quyết dứt điểm các mặt
hàng tồn đọng, nhằm thu hồi vốn, góp phần cho vấn đề sử dụng vốn có hiệu quả
hơn. Công ty cần kết hợp với chủ đầu tư đẩy mạnh tiến độ xây dựng các công
trình đang thi công nhằm đưa lượng hàng tồn kho lớn vào sản xuất kinh doanh.
-Về tỷ trọng tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn: Công ty cần phát
huy hơn nữa trong việc đầu tư máy móc thiết bị hiện đại nhằm cạnh tranh tốt
hơn trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay và trong tương lai.
-Về tỷ trọng chi phí xây dựng cơ bản dở dang: Công ty cần phải tìm mọi
biện pháp để gấp rút hoàn thành và đưa các công trình xây dựng dở dang vào
tiến độ. Những công trình có đủ vốn và thủ tục xây dựng cơ bản cần làm nhanh
thủ tục nghiệm thu và bám sát chủ đầu tư để thanh toán kịp thời.
-Để không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn
sản xuất kinh doanh của công ty, một mặt công ty cần phải sử dụng tiết kiệm
23
vốn sản xuất kinh doanh, mặt khác công ty phải sử dụng hợp lý về cơ cấu vốn
kinh doanh hiện có của công ty.
-Về nhóm các chỉ tiêu phản ánh nguồn tự tài trợ của công ty: Công ty cần
có biện pháp làm tăng nguồn vốn chủ sở hữu, bởi khi nguồn vốn chủ sở hữu
tăng công ty có thể chủ động trong việc đảm bảo vốn cho nhu cầu của mọi hoạt
động sản xuất kinh doanh và rủi ro về tài chính của công ty sẽ giảm, góp phần
làm bình ổn tình hình tài chính của công ty, giúp công ty hoạt động hiệu quả
hơn, ổn định vững chắc trong thị trường cạnh tranh khốc liệt.

-Về nhóm các chỉ tiêu phản ánh tỷ suất tự tài trợ về tài sản lưu động và
đầu tư tài chính ngắn hạn, tỷ suất tự tài trợ về tài sản cố định và đầu tư tài chính
dài hạn: Công ty nên có phương hướng chuyển thành công ty cổ phần nhà nước
( Nhà nước nắm giữ > 51% cổ phần). Như vậy, công ty mới giải quyết được các
vấn đề về tình hình tài chính tài chính hiện tại : Nâng cao nguồn vốn chủ sở
hữu, bổ xung nguồn vốn rất lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
-Nhóm các chỉ tiêu phản ánh thực trạng về khả năng sinh lời của vốn :
Công ty cần nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn thông qua việc nâng cao
hiệu quả sử dụng tài sản lưu động, tài sản cố định, giảm tới mức tối thiểu thời
gian quay vòng của tài sản lưu động, cải tiến trong hoạt động sản xuất kinh
doanh để đạt được hiệu quả cao hơn.
-Nhóm các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh
của công ty : Công ty cần phải tăng cường quy mô của kết quả đầu ra, mặt khác
phải sử dụng tiết kiệm và hợp lý về cơ cấu của vốn sản xuất kinh doanh.
Trên đây là một số đánh giá và biện pháp sử lý đối với một số chỉ tiêu tài
chính của công ty TNHH Xây dựng và Công nghệ Quang Minh. Tuy mỗi chỉ
tiêu có sự khác nhau về ý nghĩa kinh tế nhưng đều có tác dụng nhất định trong
việc quan sát, nghiên cứu đánh giá tình hình tài chính của công ty trong một kỳ
kinh doanh nhất định. Giữa chúng có mối liên hệ mật thiết hữu cơ, bổ xung cho
nhau nhằm đáp ứng cho việc đánh giá đầy đủ, toàn diện và sâu sắc về tình hình
tài chính của công ty. Trên cơ sở đó giúp cho các nhà quản trị công ty có những
biện pháp điều chỉnh kịp thời, khắc phục được những tồn tại yếu kém ảnh
24
hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của công ty, làm lành mạnh hoá tình
hình tài chính của công ty, tránh được những rủi ro không đáng có về tài chính.
3.1.3.Hoàn thiện về tổ chức công tác phân tích
Để hoàn thiện tổ chức công tác phân tích ta hoàn thiện thêm các giai đoạn của
quá trình phân tích với việc thực hiện công tác phân tích đúng các quy trình đã
định, và ở các bước tiến hành được thực hiện chu đáo cẩn thận. Để hoạt động
phân tích tài chính đạt được hiệu quả cao, cần làm tốt ngay từ khâu chuẩn bị.

3.1.4. Hoàn thiện công tác kế toán
Mặc dù công tác kiểm toán nội bộ của Công ty TNHH Xây dựng và
Công nghệ Quang Minh được tiến hành nghiêm túc. Song để có được những
thông tin tin cậy Công ty cần kiểm toán một cách thường xuyên, chặt chẽ hơn
nữa, nhằm kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của hệ thống chứng từ về việc ghi
chép các nghiệp vụ phát sinh, phát hiện sai lầm để sửa từ khâu đầu, cung cấp
nguồn thông tin “sạch” cho phân tích tài chính và góp phần lành mạnh hoá tài
chính của công ty.
3.1.5. Đào tạo nhân sự cho công tác phân tích tài chính
Đào tạo cán bộ cho công tác phân tích tài chính là một công việc khó, lâu
dài, cần có những cán bộ trẻ, năng động kế tiếp cho những người đi trước. Do
vậy, công ty cần có sự đầu tư thích đáng về thời gian và tiền của cho nguồn nhân
lực phục vụ cho công tác này. Công ty có thể tổ chức các khoá học ngắn hạn
bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho các cán bộ quản lý tài chính. Tuyển thêm
các cán bộ trẻ có nghiệp vụ cao chuyên về tài chính làm dồi dào thêm cho nguồn
nhân sự. Mặc dù công việc này mang tính đầu tư lâu dài, xong chắc chắn sẽ
nâng cao hiệu qủa, chất lượng công tác phân tích tài chính của công ty trong
tương lai.
3.1.6. Thực hiện công tác phân tích tài chính một cách thường xuyên
Ban lãnh đạo Công ty và các bộ phận phân tích cần nhận thức được vai trò
và ý nghĩa của công tác phân tích tài chính để nó trở thành công việc có vị trí, có
quy trình thực hiện chặt chẽ như các công tác kế toán bắt buộc thực hiện của
Công ty. Thường Công ty tiến hành phân tích vào cuối mỗi niên độ kế toán
nhằm mục đích báo cáo thì bây giờ Công ty có thể tiến hành thường xuyên hơn.
25

×