Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

tự học là một hình thức học tập không thể thiếu của sinh viên đang học tại các trường đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.19 KB, 18 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

BÀI TẬP NHÓM
MÔN: NHẬP MÔN INTERNET VÀ E-LEARNING

ĐỀ TÀI: TỰ HỌC LÀ MỘT HÌNH THỨC HỌC TẬP KHÔNG
THỂ THIẾU CỦA SINH VIÊN ĐANG HỌC TẠI CÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Lớp

:

: DKTV4B
Nhóm

:

Các thành viên nhóm:

Page 1


GIỚI THIỆU CHUNG

3

1. KHÁI NIỆM TỰ HỌC

4


2. TỰ HỌC ĐỐI VỚI SINH VIÊN

5

3. NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG QUÁ TRÌNH TỰ HỌC.

9

4. PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC HIỆU QUẢ

12

5. KẾT LUẬN

13

6. TÀI LIỆU THAM KHẢO

14

Page 2


GIỚI THIỆU CHUNG
Trong thời đại mà khoa học kĩ thuật phát triển nhanh chóng như iện nay,
nhà trường dù tốt đến mấy cũng không thể đáp ứng hết nhu cầu học tập của
người học cũng như đòi hỏi ngày càng cao của đời sống xã hội. Vì vậy, bồi
dưỡng năng lực tự học cho sinh viên (SV) là một công việc có vị trí cực kì
quan trọng trong các nhà trường đại học. Chỉ có tự học, tự trau dồi tri thức
bằng nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau mỗi SV mới có thể trang bị

cho mình một cách đầy đủ những tri thức khoa học về đời sống xã hội. Từ đó
có được sự tự tin trong cuộc sống, công việc bởi năng lực toàn diện của mình.
Vấn đề tự học tự đào tạo của người học đã được Đảng, Nhà nước quan tâm
quán triệt sâu sắc từ nhiều năm qua. Nghị quyết Trung ương V khóa 8 từng
nêu rõ: “Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự
học, tự sáng tạo của học sinh, Bảo đảm mọi điều kiện và thời gian tự học cho
học sinh, phát triển mạnh mẽ phong trao tự học, tự đào tạo thường xuyên và
rộng khắp trong toàn dân”.
Trên tinh thần ấy, rõ ràng Đảng ta đã coi tự học, tự đào tạo là vấn đề mấu chốt
có vị trí cực kì quan trọng trong chiến lược giáo dục - đào tạo của đất nước.
Trong khuôn khổ báo cáo này chúng tôi muốn tập trung đề cập những vấn đề
liên quan đến khái niệm tự học, nội dung hoạt động tự học, các hình thức dạy
tự học, các khó khăn của quá trình tự học và đặc biệt là quan tâm đến các
biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho SV. Để từ đó thúc đẩy quá trình rèn
luyện kĩ năng tự học cho SV, góp phần vào công cuộc đổi mới phương pháp
dạy học, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
Với quá trình học tập nghiên cứu của mỗi người ra sao? Nội dung phương
pháp tự học bao gồm những vấn đề nào?... Đây là những vấn đề mà các nhà
nghiên cứu giáo dục đã dày công nghiên cứu từ lâu. Tuy nhiên, cần nhận thức
một điều rằng: do sự chi phối của điều kiện lịch sử mà việc vận dụng những tri
thức cũng như phương pháp dạy tự học trong từng giai đoạn cần có sự khác
nhau. Nhất là ở xã hội hiện tại, khi mà thông tin tri thức khoa học bùng nổ tràn
ngập trên các phương tiện thông tin đại chúng, người học rất khó định hướng

Page 3


trong việc lựa chọn tiếp cận tri thức thì vai trò hướng dẫn của người thầy là rất
cần thiết.


Page 4


PHẦN I: KHÁI NIỆM TỰ HỌC
Tự học là hình thức học tập không thể thiếu được của sinh viên đang học
tập tại các trường đại học.Phương thức tổ chức hoạt động tự học một cách
hợp lý, khoa học, có chất lượng, hiệu quả là trách nhiệm không chỉ ở người
học mà còn là sự nghiệp đào tạo của nhà trường.
Khái niệm: Tự học là tự giác, chủ động trong học tập nhằ vươn lên nắm bắt tri
thức. Tự học không chỉ đơn thuần là tiếp nhận kiến thức từ thầy cô mà là còn
học hỏi ở bạn bè,tìm tòi nghiên cứu sách vở hay học hỏi, quan sát từ thực tế
Các hình thức tự học căn bản của sinh viên các trường đại học
- Tự học hoàn toàn (không có giáo viên):Người học sẽ tự giác và độc lập học
tập và tiếp thu kiến thức một các trực tiếp phần lớn là thông qua tài liệu. Tuy
nhiên phương pháp này lại có nhược điểm là người học gặp nhiều khó khăn
trong quá trình đọc tài liệu vì không có giáo viên hướng dẫn và chỉ bảo dẫn
đến nhiều lỗ hổng kiến thức.Người học sẽ khó thu xếp tiến độ,thiết lập kế
hoạch tự học vì không có người thúc đẩy bản thân đồng thời không tự đánh
giá được kết quả tự học của mình.Tất cả yếu tố trên sẽ dẫn tới một điều là
người học dễ chán nản và không tiếp tục tự học.Phương pháp tự học hoàn
toàn thường sẽ áp dụng cho những sinh viên đang trong quá trình ôn thi kết
thúc môn và ít lên giảng đường trong quá trình học
- Tự học trong một giai đoạn của quá trình học tập :Ví dụ như học bài hay làm
bài tập lớn.Phương pháp này thường đạt hiệu quả cao cho sinh viên khi sinh
viên đó có tinh thần tự giác học tập đồng thời có giảng viên hỗ trợ thông qua
các buổi giảng dạy trên lớp,giải đáp thắc mắc và đánh giá kết quả và năng lực
học tập của sinh viên đó bằng các bài kiểm tra đánh giá
- Tự học qua phương tiện truyền thông (học từ xa) : Sinh viên được nghe
giảng viên giảng giải qua các video trực tuyến, nhưng không được tiếp xúc với
giảng viên và không được hỏi trực tiếp giảng viên.Người học sẽ nhận được sự

giúp đỡ thông qua các hệ thống hỗ trợ trực tuyến và cần có thời gian chờ đợi
để nhận được sự giải đáp.Đây là phương pháp học tập mới và hiệu quả trong
bối cảnh hiện nay dành cho những người vừa đi làm nhưng muốn có nhu cầu
học tập
Page 5


PHẦN II.TỰ HỌC ĐỐI VỚI SINH VIÊN
Bàn về hoạt động tự học và phương pháp tổ chức cho SV tự học như thế nào
để có hiệu quả thiết thực là một vấn đề hoàn toàn không đơn giản. Ngoài việc
tìm hiểu khái niệm, những vấn đề liên quan đến động cơ, thói quen học tập
của sinh viên thì mỗi giáo viên rất cần đến quá trình nghiên cứu nhằm tìm ra
nội dung cơ bản, các phương cách tối ưu rèn luyện phương pháp tự học cho
sinh viên. Đặc biệt là việc nhận diện xem những phương pháp đó ngoài sự
thích ứng chung cho mọi SV có đáp ứng được cho từng nhóm đối tượng trong
những giai đoạn và điều kiện, hoàn cảnh khác nhau trong suốt quá trình đào
tạo hay không.
Để đáp ứng yêu cầu nêu trên cần xác định rõ những yêu cầu cơ bản của hoạt
động tự học như: nội dung của hoạt động tự học gồm mấy vấn đề, để tiếp cận
nó phải tuân thủ theo qui trình nào, điều kiện để áp dụng có hiệu quả các yêu
cầu ra sao… từ đó xây dựng những biện pháp dạy tự học tích cực tương ứng.
Với tất cả các lĩnh vực khoa học, việc dạy tự học có những điểm chung, thống
nhất về cách thức cũng như phương pháp. Đó là những vấn đề được xác định
như sau:
a/ Xây dựng động cơ học tập
Khơi gợi hứng thú học tập để trên cơ sở đó ý thức tốt về nhu cầu học tập.
Người học tự xây dựng cho mình động cơ học tập đúng đắn là việc cần làm
đầu tiên. Bởi vì, thành công không bao giờ là kết quả của một quá trình ngẫu
hứng tùy tiện thiếu tính toán, kể cả trong học tập lẫn nghiên cứu. Nhu cầu xã
hội và thị trường lao động hiện tại đặt ra cho mỗi người những tố chất cần

thiết chứ không phải là những điểm số đẹp, những chứng chỉ như vật trang
sức vào đời mà không có thực lực vì động cơ học tập lệch lạc. Có động cơ
học tập tốt khiến cho người ta luôn tự giác say mê, học tập với những mục
tiêu cụ thể rõ ràng với một niềm vui sáng tạo bất tận.
Trong rất nhiều động cơ học tập của SV, có thể khuôn tách thành hai nhóm cơ
bản:
Các động cơ hứng thú nhận thức.
Các động cơ trách nhiệm trong học tập.
Thông thường các động cơ hứng thú nhận thức hình thành và đến được với
người học một cách tự nhiên khi bài học có nội dung mới lạ, thú vị, bất ngờ,
động và chứa nhiều những yếu tố nghịch lí, gợi sự tò mò. Động cơ này sẽ
Page 6


xuất hiện thường xuyên khi GV biết tăng cường tổ chức các trò chơi nhận
thức, các cuộc thảo luận hay các biện pháp kích thích tính tự giác tích cực từ
người học.
Động cơ nhiệm vụ và trách nhiệm thì bắt buộc người học phải liên hệ với ý
thức về ý nghĩa xã hội của sự học. Giống như nghĩa vụ đối với Tổ quốc, trách
nhiệm đối với gia đình, thầy cô, uy tín danh dự trước bạn bè…Từ đó các em
mới có ý thức kỉ luật trong học tập, nghiêm túc tự giác thực hiện mọi nhiệm vụ
học tập, những yêu cầu từ GV, phụ huynh, tôn trọng mọi chế định của xã hội
và sự điều chỉnh của dư luận.
Cả hai động cơ trên không phải là một quá trình hình thành tự phát, cũng
chẳng được đem lại từ bên ngoài mà nó hình thành và phát triển một cách tự
giác thầm lặng từ bên trong. Do vậy người GV phải tùy đặc điểm môn học, tùy
đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của đối tượng để tìm ra những biện pháp thích
hợp nhằm khơi dây hứng thú học tập và năng lực tiềm tàng nơi SV. Và, điều
quan trọng hơn là tạo mọi điều kiện để các em tự kích thích động cơ học tập
của mình.

Đối với phần đông những người trẻ, việc tạm gác những thú vui, những trò
giải trí hấp dẫn nhất thời để toàn tâm toàn sức cho việc học là hai điều có ranh
giới vô cùng mỏng manh. Nó đòi hỏi sự quyết tâm cao và một ý chí mạnh mẽ
cùng nghi lực đủ để chiến thắng chính bản thân mình. Đối với người trưởng
thành, khi mục đích cuộc đời đã rõ, ý thức trách nhiệm đối với công việc đã
được xác định và sự học đã trở thành niềm vui thì việc xác định động cơ thái
độ học tập nói chung không khó khăn như thế hệ trẻ. Tuy nhiên không phải là
hoàn toàn không có. Vì suy cho cùng ai cũng có những nhu cầu riêng và từ đó
có những hứng thú khác nhau. Vấn đề là phải biết kết hợp biện chứng giữa
nội sinh và ngoại sinh, tức là hứng thú nhận thức, hứng thú trách nhiệm được
đánh thức, khơi dậy trên cơ sở những điều kiện tốt từ bên ngoài. Trong đó
người thầy đóng vai trò chủ đạo.
b/ Xây dựng kế hoạch học tập
Đối với bất kì ai muốn việc học thật sự có hiệu quả thì mục đích, nhiệm vụ và
kế hoạch học tập phải được xây dựng cụ thể, rõ ràng. Trong đó kế hoạch phải
được xác định với tính hướng đích cao. Tức là kế hoạch ngắn hạn, dài hơi
thậm chí từng môn, từng phần phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho
Page 7


từng thời điểm từng giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh
của mình. Vấn đề kế tiếp là phải chọn đúng trọng tâm, cái gì là cốt lõi là quan
trọng để ưu tiên tác động trực tiếp và dành thời gian công sức cho nó. Nếu
việc học dàn trải thiếu tập trung thì chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Sau khi
đã xác định được trọng tâm, phải sắp xếp các phần việc một cách hợp lí logic
về cả nội dung lẫn thời gian, đặc biệt cần tập trung hoàn thành dứt điểm từng
phần, từng hạng mục theo thứ tự được thể hiện chi tiết trong kế hoạch. Điều
đó sẽ giúp quá trình tiến hành việc học được trôi chảy thuận lợi.
c/ Tự mình nắm vững nội dung tri thức
Đây là giai đoạn quyết định và chiếm nhiều thời gian công sức nhất. Khối

lượng kiến thức và các kĩ năng được hình thành nhanh hay chậm, nắm bắt
vấn đề nông hay sâu, rộng hay hẹp, có bề vững không… tùy thuộc vào nội lực
của chính bản thân người học trong bước mang tính đột phá này. Nó bao gồm
các hoạt động:
Tiếp cận thông tin: Lựa chọn và chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều nguồn
khác nhau và từ những hoạt động đã được xác định như đọc sách, nghe
giảng, xem truyền hình, tra cứu từ Internet, cemine, hội thảo, làm thí nghiệm,
quan sát, điều tra… Trong hoạt động này rất cần có sự tỉnh táo để chọn lọc
thông tin một cách thông minh và linh hoạt. Xã hội hiện đại đang khiến phần
lớn SV rời xa sách và chỉ quan tâm đến các phương tiện nghe nhìn khác. Đơn
giản vì nó thỏa mãn trí tò mò, giúp cho tai nghe mắt thấy tức thời. Đó là chưa
kể đến sự nhiễu loạn thông tin mà nếu không vững vàng thì giới trẻ sẽ rất dễ
sa vào những cạm bẫy thiếu lành mạnh, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển
nhân cách, tâm hồn. Trong lúc từ cổ chí kim, muốn làm chủ tri thức nhân loại
thì con đường tốt nhất của mọi người là đọc sách.
Đọc sách: Đọc sách là phương pháp tự học rẻ tiền và hiệu quả nhất. Khi làm
việc với sách ta phải sử dụng năng lực tổng hợp toàn diện và có sự xuất hiện
của hoạt động của trí não, một hoạt động tối ưu trong quá trình tự học. Do
vậy, rèn luyện thói quen đọc sách là một công việc không thể tách rời trong
yêu cầu tự học. Ngoài việc tiếp nhận tri thức còn phải biết đối thoại, gợi mở,
thắc mắc hay đề xuất những vấn đề cần lưu ý sau khi đọc sách, hoặc chí ít là
học cách viết, lối diễn đạt từ những cuốn sách hay. Đó là cách đọc sáng tạo.
Khác với sự giải trí đơn giản hay cảm nhận thông thường.
Page 8


Xử lí thông tin: Việc xử lí thông tin trong quá trình tự học không bao giờ diễn
ra trong vô thức mà cần có sự gia công, xử lí mới có thể sử dụng được. Quá
trình này có thể được tiến hành thông qua việc phân tích, đánh giá, tóm lược,
tổng hợp, so sánh…

Vận dụng tri thức, thông tin: Trong việc vận dụng thông tin tri thức khoa học để
giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập, thảo luận, xử lí các tình
huống, viết bài thu hoạch, báo cáo khoa học, tổng thuật… SV thường gặp rất
nhiều khó khăn. Có lúc tìm được một khối lượng lớn tư liệu nhưng việc tập
hợp phân loại nội dung để kiến giải một vấn đề lại không thực hiện được.
Trong trường hợp này cần khoanh vùng vấn đề trong một giới hạn đừng quá
rộng. Chỉ cần tập trung đào sâu một vấn đề nào đó nhằm phát hiện ra cái mới
có giá trị thực tiễn là đáp ứng yêu cầu. Trong khâu này việc lựa chọn và thay
đổi hình thức tư duy để tìm ra cách thức tối ưu nhất cho đối tượng nghiên cứu
cũng rất cần thiết.
Trao đổi, phổ biến thông tin
Việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin tri thức hay diển ngôn theo yêu
cầu thông qua các hình thức: hội thảo, báo cáo khoa học, thảo luận, thuyết
trình, tranh luận… là công việc cuối cùng của quá trình tiếp nhận tri thức. Hoạt
động này giúp người học có thể hình thành và phát triển kĩ năng trình bày
(bằng lời nói hay văn bản) cho người học. Giúp người học chủ động, tự tin
trong giao tiếp ứng xử, phát triển năng lực hợp tác và làm việc nhóm tốt.

Page 9


d/ Tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập
Việc nhìn nhận kết quả học tập được thực hiện bằng nhiều hình thức: Dùng
các thang đo mức độ đáp ứng yêu cầu của GV, bản thân tự đánh giá, sự đánh
giá nhận xét của tập thể thông qua thảo luận, tự đối chiếu so sánh với mục
tiêu đặt ra ban đầu… Tất cả đều mang một ý nghĩa tích cực, cần được quan
tâm thường xuyên. Thông qua nó người học tự đối thoại để thẩm định mình,
hiểu được cái gì làm được, điều gì chưa thỏa mãn nhu cầu học tập nghiên
cứu để từ đó có hướng khắc phục hay phát huy.
Vấn đề tự học rõ ràng không hề đơn giản. Muốn hoạt động học tập có hiệu

quả nhất thiết SV phải chủ động tự giác học tập bất cứ lúc nào có thể bằng
chính nội lực của bản thân. Vì nội lực mới chính là nhân tố quyết định cho sự
phát triển. Ngoài ra, rất cần tới vai trò của người thầy với tư cách là ngoại lực
trong việc trang bị cho SV một hệ thống tri thức, kĩ năng, thái độ cùng với
phương pháp tự học cụ thể, khoa học. Nhờ đó hoạt động tự học tự đào tạo
của SV mới đi vào chiều sâu thực chất.

Page 10


PHẦN III. NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG VIỆC TỰ HỌC VÀ GIẢI PHÁP
Vấn đề tự học khá là dễ dàng khi chúng ta biết chủ động, nhưng đâu
phải ai cũng chủ động, hay nói cách khác khi chúng ta tự học chúng ta gặp
khá nhiều vấn đề khó khăn. Những thứ đó và nhiều thứ tương tự khác luôn
cản trở ta tự học thì đấy là những cái bẫy chúng ta rất dễ mắc phải khi học.
1. KHÔNG BIẾT HỌC BẮT ĐẦU TỪ ĐÂU
Đây có lẽ là vấn đề mà nhiều bạn mắc phải ? Khi ta bỏ lỡ một thời gian
thì kiến thức tự nhiên sinh ra những lỗ hổng.
Hãy tự kiểm soát việc học của mình. Bạn hãy lập một danh sách tất cả những
việc mà bạn cần phải làm, sau đó chia nhỏ khối lượng công việc thành những
phần nhỏ hơn, dễ hoàn thành hơn. Nhưng học cũng phải có ưu tiên, bạn hãy
lên kế hoạch của mình một cách thực tế, không nên bỏ tiết khi gần đến ngày
thi, bởi bạn có thể bỏ lỡ một số tiết ôn tập trên lớp. Hãy dùng thời gian giữa
giờ để ôn lại bài, bạn có thể lên lịch cả giờ giải lao trong quá trình học cho
mình. Hãy học ôn sớm, ngay từ đầu từ 1-2 giờ/ngày và dần dần xây dựng
thành thói quen khi kì thi ngày càng đến gần.
2. CÓ QUÁ NHIỀU THỨ PHẢI HỌC TRONG KHI THỜI GIAN CÒN QUÁ ÍT
Xem lại các bài đã học, xem lại một cách kĩ lưỡng chương trình học,
các tài liệu đọc tham khảo và những bài ghi trên lớp của bạn. Việc ôn tập lại
những phần đã học sẽ tiết kiệm được thời gian đặc biệt đối với những bài

không phải là tác phẩm văn học, bởi nó giúp bạn tổ chức sắp xếp lại những
nội dung chính và chú trọng vào chúng. Vì vậy, bạn hãy áp dụng phương pháp
này vào cách học của riêng bạn, áp dụng nó vào những tài liệu bạn đang phải
học, nhưng cần phải nhớ là việc xem lại các bài đã học không phải là cách
thay thế hiệu quả cho việc đọc chúng từ trước.
3. KIẾN THỨC NHIỀU KHI KHÔ KHAN KHÓ TIẾP THU
Khi kiến thức cần tiếp nhận khá khó khắn và khó tiếp thu. Hãy chủ động
với những bài đọc của bạn. Bạn hãy tự hỏi mình xem “Cái gì quan trọng cần
phải nhớ trong phần này?”. Bạn cũng nên ghi chú hay gạch chân những khái
niệm chính trong bài, sau đó hãy thảo luận chúng với các bạn học trong lớp.
Bạn nên học nhóm cùng nhau. Tuy nhiên, lưu ý là bạn nên đối mặt với những
phần mà bạn thấy không hứng thú hơn là chỉ đọc chúng một cách thụ động
mà lại bỏ qua mất những ý quan trọng.
4. ĐÃ HỌC- ĐÃ HIỂU NHƯNG LẠI KHÔNG BIẾT DIẾN TẢ
Page 11


Hãy giải thích các vấn đề một cách cụ thể. Đối với những cái mà chúng
ta đã hiểu thì thông thường chúng ta sẽ nhớ rất lâu. Khi bạn đọc một vấn đề
mới nên cố gắng giải thích nó bằng những ví dụ của chính bạn. Hãy cố gắng
kết hợp cái bạn đang học với những gì bạn đã biết. Bạn sẽ có thể nhớ những
vấn đề mới tốt hơn nếu bạn liên hệ nó với điều gì đó mà bạn đã hiểu. Một số
cách học như vậy bao gồm: Cách chia nhỏ vấn đề: Đây là một cách hiệu quả
để đơn giản hóa và làm cho lượng thông tin mới trở nên có ý nghĩa hơn.
Chẳng hạn như bạn muốn nhớ được các màu trong quang phổ (đỏ, cam,
vàng, xanh lá cây, xanh lục, chàm, tím) bạn sẽ phải nhớ 7 từ theo đúng thứ tự
của chúng. Nhưng nếu bạn lấy chữ cái đầu tiên trong tên của mỗi màu thì bạn
có thể đánh vần chúng thành cái tên "Roy G. Biv" và giảm lượng thông tin cần
phải nhớ xuống còn mỗi 3 từ.
Thuật nhớ: Đó là bất cứ phương pháp trợ giúp trí nhớ nào mà giúp ta liên hệ

thông tin mới với những gì mà ta quen thuộc. Ví dụ như khi phải nhớ một công
thức hay một phương trình toán học nào đó, chúng ta có thể dùng những chữ
cái trong bảng chữ cái alphabet để thay thế cho những con số nhất định. Sau
đó chúng ta có thể đổi những công thức trừu tượng đó thành một từ hay một
cụm từ có ý nghĩa hơn, nhờ đó mà chúng ta sẽ nhớ nó tốt hơn. Những cách
liên hệ tương tự như vậy cũng có thể đem lại hiệu quả, đặc biệt khi ta đang cố
gắng học một ngôn ngữ mới nào đó. Song vấn đề mấu chốt ở đây lại là phải
tạo ra sự liên hệ của riêng bạn, nhờ thế mà bạn sẽ không quên mất chúng.
5. CÓ QUÁ NHIỀU THỨ PHẢI HỌC VÀ TIẾP NHẬN
Hệ thống lại những gì đã học. Bạn sẽ nhớ lại những kiến thức đã học
tốt hơn, có hệ thống hơn nếu chúng được trình bày trong một dàn ý có tổ
chức. Có nhiều cách có thể giúp bạn hệ thống tổ chức một lượng kiến thức
mới, chúng bao gồm những cách sau:
- Lập dàn ý hay làm tóm tắt, chú trọng vào quan hệ giữa các phần các
chương.
- Nhóm các ý thành từng nhóm, từng mục một nếu có thể.
- Sơ đồ hóa: Bạn hãy vẽ sơ đồ để sắp xếp và liên kết các vấn đề với nhau.
Chẳng hạn nếu bạn đang cố gắng để hiểu được nguyên nhân dẫn đến Chiến
tranh Thế giới lần thứ nhất thì bạn có thể lập một sơ đồ liệt kê tất cả các nước
chính tham chiến theo hàng ngang ở phía trên của sơ đồ, sau đó liệt kê những
vấn đề và sự kiện quan trọng dọc theo sơ đồ ở phía bên dưới. Tiếp đó trong
Page 12


các khung ở giữa bạn có thể mô tả những tác động của các sự kiện trong
cuộc chiến đối với từng nước để bạn có thể hiểu được những sự phát triển
phức tạp của lịch sử này.
6. MÔI TRƯỜNG ĐIỀU KIỆN HỌC QUÁ THOẢI MÁI.
Hãy chú ý đến điều kiện học. Việc ôn tập trước khi thi của bạn sẽ tốt
hơn khi điều kiện học tương tự điều kiện lúc thi (vị trí tự nhiên cũng như trạng

thái cơ thể, tâm lí, tình cảm). Nếu càng giống nhau bao nhiêu thì khi làm bài
thi bạn sẽ cảm thấy nhớ lại những gì bạn đã học ôn càng dễ dàng bấy nhiêu.
"Học nhồi nhét trước hôm thi sẽ giúp đầu óc tôi tỉnh táo hơn" Hãy dãn thời
gian học của mình - học ngay từ bây giờ. Bạn nên duy trì việc học ôn một
cách liên tục. Hãy bắt đầu với việc học 1-2 giờ/ngày trong khoảng một tuần
trước kì thi, sau đó hãy tăng thời gian học khi kì thi càng đến gần. Nhờ vậy mà
lượng kiến thức sẽ được tăng lên nếu thời gian học của bạn được dàn đều.

Page 13


7. HỌC CHO ĐẾN KHI HIỂU THÌ THÔI.
Hãy tránh tình trạng cơ thể bị kiệt sức. Trong khi học bạn hãy thường xuyên
nghỉ giải lao. Trước hôm thi bạn nên để đầu óc mình được nghỉ ngơi. Trong
lúc giải lao và truớc khi đi ngủ đừng nên nghĩ về chuyện bài vở học hành. Bạn
hãy để cả đầu óc lẫn cơ thể bạn được thư giãn. Nếu không, giờ giải lao cũng
sẽ không làm bạn tỉnh táo hơn và bạn sẽ thấy mất ngủ cả đêm. Lúc này tự
chăm sóc bản thân bạn trước kì thi sẽ quan trọng hơn bao giờ hết. Bạn nên có
chế độ ăn ngủ tốt và học hành hợp lí.

Page 14


Phần IV: Các phương pháp tự học như thế nào để có hiệu quả
Để đạt được đạt được kết quả tốt trong tự học , người học cần nắm vững
những phương pháp, kỹ năng, phải rèn luyện đẻ hình thành cho mình những
kỹ năng. Căn cứ vào chức năng của từng loại hoạt động có thể đưa ra một số
phương pháp tự học sau
- Phương pháp lên kế hoạch về việc tự học : Kỹ năng này cần tuân thủ các
nguyên sau: đảm bảo thời gian tự học tương xứng với lượng thông tin của

môn học, xen kẽ hợp lý giữa các hình thức tự học giữa các môn học, giữa giờ
tự học, giờ nghi ngơi và quan trọng nhất là khi ta đã đặt ra kế hoạch tự học ta
phải tuân thủ và nghiêm túc thực hiện kế hoạch tự học của mình
-Phương pháp nghe và ghi bài trên lớp : Quy trình nghe giảng gồm các khâu
như ôn bài cũ làm quyên với các bài sắp học,hình dung các câu hỏi đối với
bài mới. Khi nghe giảng cần tập chung theo dõi sự dẫn dắt của thầy, cô giáo
liên hệ với kiến thức đang nghe, kiến thức có với các câu hỏi đã hình dung
trước. Cần lưu ý cách ghi bài khi nghe giảng như ghi một cách chọn lọc, sử
dụng kí hiệu riêng, ghi cả chính đề lẫn phản đề, ghi thắc mắc của chính mình.
-phương pháp ôn tập : Phương pháp này gồm cả phương pháp ôn bài và
phương pháp luyện tập trông đó có hoạt hoạt động ôn bài có ý nghĩa quan
trọng trong việc chiếm lĩnh, hiểu sâu sắc ý nghĩa bài giảng của thày cô giá o
trên lớp. Đó là là một hoạt động tái nhận lại bài giảng như xem lại bài ghi, mối
quan hệ giữa các đoạn dời dạc, bổ xung bài ghi bằng những thông tin nghiên
cứu được ở các tại liệu( như sách báo, đài, internet…) nhận diện cấu trúc
từng phàn càn nghiên cứu và cấu trúc toàn bài càn nghiên cứu.việc tái hiện
bài giảng dựa vào những biểu tượng và ký hiệu, khái niệm, phán đoán được
ghi nhận từ bài giảng của thầy cô, từ hoạt động tái nhận bài giảng, dựng lại
bài giảng của thầy cô bằng ngôn ngữ của chính mình, đó là những mối liên hệ
loogic có thể có cả kiến thức cũ và kiến thức mới
- Phương pháp luyện tập : có tác dụng trong việc hình thành kỹ năng tương
ứng với những kiến thức đã học. Từ việc giải bài tập về nhà đến việc tự người
học tự thiết kế những loại bài tập cho mình giải từ bài tập củng cố kiến thức

Page 15


cho mình đến giải các bài tập nâng cao ta phải hệ thống hóa bài học, chương
học, cũng như các bài tập vận dụng kiến thức vào cuộc sống hàng ngày
-Phương pháp đọc sách : CPhải xác định rõ mục đích, cọn cách đọc phù hợp

như tìm hiểu nội dung tổng quát của quyển sách, đọc thử một vài đoạn, đọc
lướt qua nhưng có trọng điểm, đọc kỹ có phân tích, nhận xét đánh giá khi đọc
sách cần phải tập trung chú ý tích cực suy nghĩ và có ghi chép

Page 16


PHẦN V: KẾT LUẬN
Hiện nay, trong các trường đại học, một bộ phận khá lớn SV còn thụ động
trong việc tiếp nhận tri thức. Phương pháp học tập, nhất là phương pháp tự
học luôn là bài toán khó cho không ít SV kể cả SV năm cuối. Thế nhưng vấn
đề này vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Do áp lực của khối lượng công
việc luôn quá tải nên GV chỉ mãi lo thực hiện chức năng của mình mà ít quan
tâm đến rèn luyện kĩ năng toàn diện trong đó tự học cho SV trong đó kĩ năng
tự học. Vì vậy, mỗi trường đại học hiện đại cần đưa phương pháp tự học vào
mục tiêu đào tạo. Bởi lẽ, nó không chỉ cần thiết cho SV khi còn ngồi trên ghế
nhà trường mà cả khi ra trường hòa nhập với xã hội, trong suốt cuộc đời. Khi
tự học, mỗi SV hoàn toàn có điều kiện để tự nghiền ngẫm những vấn đề nảy
sinh trong học tập theo một phong cách riêng với những yêu cầu và điều kiện
thích hợp. Điều đó không chỉ giúp bản thân SV nắm được vấn đề một cách
chắc chắn và bền vững; chủ động bồi dưỡng phương pháp học tập và kĩ năng
vận dụng tri thức mà còn là dịp tốt để rèn luyện ý chí và năng lực hoạt động
độc lập sáng tạo. Đó là những phẩm chất mà chỉ có chính bản thân SV tự rèn
luyện kiên trì mới có được, không một ai có thể cung cấp hay làm thay cho
mình. Thực tế cũng đã chứng minh, mỗi thành công của SV trên con đường
học tập nghiên cứu không bao giờ là kết quả của lối học tập thụ động, đối phó,
chờ thời.
Từ đó, dễ nhận thấy rằng: cùng với đòi hỏi của xu thế hội nhập toàn cầu trên
tất cả các lĩnh vực và với một xã hội đầy biến động như xã hội nước ta về sử
dụng lao động, tiền lương, sự đãi ngộ và quá trình đào tạo ngày càng đi vào

chiều sâu thực chất thì hoạt động dạy học, đặc biệt là dạy cách học chắc chắn
sẽ tìm được sự đồng thuận cao của cộng đồng và là mảnh đất tốt cho bất kì ai
có khát vọng học tập suốt đời.

Page 17


PHẦN VI: TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trần Bá Hoành, Tháng 7/1998, Vị trí của tự học tự đào tạo trong quá trình dạy
học giáo dục và đào tạo, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục. Lưu Xuân Mới, 2001,
Phương pháp dạy học đại học, Nxb Giáo dục. Lê Đức Ngọc, Tháng 8/2004,
Dạy cách học một trong những giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo đại
học, Tạp chí Dạy và học ngày nay.Vũ văn Tảo, Tháng 4/2001, Học và dạy
cách học, Tạp chí Tự học. Thái Duy Tuyên, 2003, Dạy tự học cho sinh viên
trong các nhà trường Cao đẳng Đại học chuyên nghiệp, Chuyên đề Phương
pháp dạy học cho học viên Cao học, ĐH Huế.

Page 18



×