Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Môn tác phẩm kinh điển những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền xô viết” và vận dụng vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam hiện nay tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.09 KB, 30 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Alexandra kolontai (1872-1952), nhà ngoại giao Xôviết lừng danh đã
từng nhận xét: “ có những cá nhân – hiếm thấy trong lịch sử loài người – là
sản phẩm của một chuyển biến lớn lao đã chín muồi, đã tô đẹp cho cả một
thời đại. trong số những người vĩ đại về tinh thần và ý chí đó là Vladimir Ilich
Lenin…như một tiêu điểm, người đã tập hợp vào trong mình tất cả những cái
gì của cách mạng là nghị lực, là hùng mạnh, không ủy mị trong phá bỏ cái cũ
và rất kiên quyết trong xây dựng cái mới”. lời nhận xét trên đã đề cập tới một
vĩ nhân, một con người sinh ra để cải tạo thế giới –V.I. Lênin. V.I.Lênin sinh
năm 1870 mất năm 1924 là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất đến
lịch sử thế giới, là một lãnh tụ của phong trào cách mạng vô sản Nga nói riêng
phong trào cách mạng vô sản thế giới nói chung.
Trong quá trình hoạt động cách mạng của mình, ông đã viết ra nhiều tác
phẩm nổi tiếng có giá trị và sức ảnh hưởng to lớn tới thành công của cách
mạng Nga và thế giới như là “nhà nước và cách mạng”, “sáng kiến vĩ đại”,
“thà ít mà tốt”, “làm gì”… trong số nhiều tác phẩm nổi tiếng ấy tôi quan tâm
nhiều và thực sự tâm đắc với tác phẩm: “Những nhiệm vụ trước mắt của
chính quyền Xôviết” đây là một tác phẩm thể hiện rất rõ nét quan điểm của
chính Lênin về nhà nước và xây dựng nhà nước. Tác phẩm ra đời Năm 1918,
sau khi cách mạng tháng Mười thành công một năm đất nước ở tình thế ngàn
cân treo sợi tóc. Lúc này Nga ký Hòa ước Bơrétlitốp với Đức, tạm thời có hòa
bình, do đó phải tập trung mọi sức lực vào việc khôi phục nền kinh tế quốc
dân bị chiến tranh tàn phá, xây dựng và phát triển kinh tế. Yêu cầu Đảng
Cộng sản lúc này là phải làm cho toàn Đảng và toàn thể nhân dân nước Cộng
hoà Xôviết trẻ tuổi thấy rõ những đặc điểm của thời kỳ cách mạng chuyển từ
1



giai đoạn giành chính quyền sang giai đoạn nắm giữ chính quyền, từ nhiệm vụ
lật đổ chế độ cũ sang nhiệm vụ xây dựng chế độ mới và quản lý đất nước.
Toàn Đảng và toàn dân phải hiểu thấu đáo những nhiệm vụ chủ yếu, trước
mắt và những nhiệm vụ cơ bản, lâu dài của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong
giai đoạn mới : tổ chức, xây dựng và quản lý nhà nước theo một kiểu mới
khác về chất và cao hơn hẳn kiểu tổ chức và quản lý tư bản chủ nghĩa.
Tác phẩm “những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xôviết”, thực
sự là những bài học, những kinh nghiệm quý báu không chỉ đối với riêng
nước Nga Xôviết mà còn đối với tất cả các nước bước vào thời kỳ quá độ xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong đó có Việt Nam. Và những quan điểm của V.I.Lê
nin về nhà nước và xây dựng nhà nước được đề cập trong tác phẩm “những
nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xôviết”, thực sự là những quan điểm
mang tính chỉ đạo thực tiễn sâu sắc và thiết thực giúp cho nước Nga vượt qua
những khó khăn lúc bấy giờ vươn lên và dần trở thành cường quốc. kiên định
với những quan điểm đó nước Nga tiếp tục đón nhận nhiều những thành tựu
mới ngày nay.
Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân ta nhờ vận dụng và ,kiên định
với những quan điểm đó mà đã, đang và sẽ gặt hái nhiều những thành công,
có được những bước tiến quan trọng trong việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩaViệt Nam đặc biệt trong thời đại có nhiều biến chuyển
sâu sắc như ngày nay và từ những thành công đó góp phần vào thành công
chung của công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam giàu và đẹp.
Vì vậy tôi với tư cách là một sinh viên năm ba đam mê và đeo đuổi
nghành học xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước, có nhiều quan tâm tới
các vấn đề về nhà nước và xây dựng nhà nước xin được chọn và có một bài
luận nhỏ về đề tài: Quan điểm của V.I.Lê nin về nhà nước và xây dựng nhà
nước trong tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết”
và vận dụng vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay” để chứng tỏ sự am hiểu của bản thân về vấn đề này đồng thời
2



có những đóng góp nhất định cho những ai quan tâm.
2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Những quan điểm của V.I.Lê nin về nhà nước và xây dựng nhà nước
được sự chú ý và trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, các
chuyên gia, các nhà lãnh đạo quản lí và nhiều người quan tâm khác. Vì thế đã
có nhiều công trình nghiên cứu khác nhau xoay quanh vấn đề này.
Có thể đưa ra một số công trình nghiên cứu tiêu biểu:

-

Trang mạng 123doc.org,tiểu luận những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền
xô - viết

-

Đỗ Thị Thạch, Tư tưởng cốt lõi về nhà nước pháp quyền trong học thuyết
Mác - Lênin và sự vận dụng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
hiện nay. Năm 2013.

-

Báo mới, Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN theo quan điểm của Lê-nin.
Ngày 22/4/2010.

-


Trần Ngọc Liêu, Quan điểm của V.I. Lê-nin về nhà nước và vấn đề xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tạp chí cộng sản,ngày 02/6/
2007.
Các công trình khoa học nêu trên đã tiếp cận và cho những người quan
tâm những thông tin hữu ích về quan điểm của V.I.Lê nin về nhà nước và xây
dựng nhà nước ở nhiều góc cạnh khác nhau và việc vận dụng các quan điểm
đó hiện nay. Việc nghiên cứu đề tài của tôi cũng sẽ được tiếp cận ở một góc
độ khác ,và bổ sung thêm những đóng góp mới trong việc nghiên cứu các
quan điểm của V.I.Lê nin về nhà nước và xây dựng nhà nước và sự vận dụng
các quan điểm đó hiện nay.

3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1

mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn để làm tốt hơn việc nghiên
cứu quan điểm của V.I.Lê nin về nhà nước và xây dựng nhà nước trong tác
phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết” và vận dụng các
3


quan điểm đó vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số khái niệm liên quan
- Làm rõ quan điểm của V.I.Lê nin về nhà nước và xây dựng nhà nước
trong tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết”

- Đánh giá sự vận dụng và đưa ra một số giải pháp để vận dụng tốt
quan điểm của V.I.Lê nin về nhà nước và xây dựng nhà nước trong tác phẩm
“Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết” vào xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu
Quan điểm của V.I.Lê nin về nhà nước và xây dựng nhà nước trong
tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết” và vận dụng
vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay”
5.

Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Đề tài sử dụng phương pháp logic – lịch sử, phương pháp diễn dịch
quy nạp, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp so sánh và điều tra
xã hội học và một số phương pháp khác…

6.

Đóng góp mới và ý nghĩa của đề tài.
Đóng góp mới của đề tài:
Bằng kết quả nghiên cứu thực tiễn , đề tài đã làm rõ thêm một số vấn đề
lý luận và thực tiễn về việc nghiên cứu Quan điểm của V.I.Lê nin về nhà
nước và xây dựng nhà nước trong tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của
chính quyền Xô viết” và sự vận dụng vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
Ý nghĩa của đề tài:
Đề tài cung cấp tài liệu, những thông tin hữu ích cho những người quan
4



tâm, nghiên cứu Quan điểm của V.I.Lê nin về nhà nước và xây dựng nhà nước
trong tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết” và sự
vận dụng vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện
nay.
7.

Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phụ, nội dung của
đề tài gồm ba chương.

5


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI
1.1.

Khái niệm nhà nước
Nhà nước, hiểu theo nghĩa pháp luật, là một tổ chức xã hội đặc biệt của
quyền lực chính trị được giai cấp thống trị thành lập nhằm thực hiện quyền
lực chính trị của mình. Nhà nước vì thế mang bản chất giai cấp. Nhà nước
xuất hiện kể từ khi xã hội loài người bị phân chia thành những lực lượng giai
cấp đối kháng nhau; nhà nước là bộ máy do lực lượng nắm quyền thống trị
(kinh tế, chính trị, xã hội) thành lập nên, nhằm mục đích điều khiển, chỉ huy
toàn bộ hoạt động của xã hội trong một quốc gia, trong đó chủ yếu để bảo vệ
các quyền lợi của lực lượng thống trị. Thực chất, nhà nước là sản phẩm của
cuộc đấu tranh giai cấp.

1.2.


Khái niệm nhà nước Pháp quyền và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
"Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” là nhà nước đã thể hiện hết
nội dung của nhà nước pháp quyền, là nhà nước pháp quyền theo ý nghĩa đầy
đủ nhất.
Trên cơ sở đó, tác giả xác định một sô nội dung chủ yếu cần được thực
hiện nhằm xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Thực tiễn trong nước và thế giới thời gian qua đã chứng minh vai trò to lớn
của lý luận đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia dân tộc. Việc
nhận thức một cách sâu sắc bản chất của các quá trình xã hội, các quan hệ xã
hội có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa ra các quyết sách chính trị. Việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay cần phải
được tiến hành trên cơ sở một khung lý luận vững chắc, có vai trò giá đỡ cho
tư duy khi giải quyết các nhiệm vụ cụ thể liên quan. Nội dung then chốt nhất
trong đó chính là phải làm rõ "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
6


Nam" là gì? Muốn vậy, trước hết cần xác định rõ nội hàm của khái niệm nhà
nước pháp quyền".
Vận dụng các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà
nước, trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân,
do dân, vì dân, theo định hướng nhận thức của Đảng ta về vấn đề Nhà nước
pháp quyền Việt Nam và kế thừa thành quả của các nhà khoa học Việt Nam,
chúng tôi mạnh dạn phát biểu một định nghĩa về khái niệm "nhà nước pháp
quyền" như sau:
Nhà nước pháp quyền là khái niệm dùng để chỉ xã hội tổ chức theo
cách quyền lực của nhân dân được thể chế hóa thành pháp luật và được

đảm bảo thực thi bâng bộ máy nhà nước cũng như các thiết chế chính trị
- xã hội khác nhằm mang lại quyền lợi cho nhân dân.
Trước hết, chúng tôi cho rằng, "nhà nước pháp quyền" tồn tại với tính
cách một khái niệm. Điều đó có nghĩa là, "nhà nước pháp quyền" tồn tại trong
tư duy, là sản phẩm của tư duy. Nó không đồng nhất với một mô hình nhà
nước hiện tồn, có tính trực quan, mà là sự phản ánh một trình độ tất yếu đạt
tới của quyền lực nhân dân trong xã hội được tổ chức thành nhà nước. Nói
cách khác, đó là sự phản ánh một trình độ tất yếu đạt tới của bộ máy nhà
nước. Nội dung của nó là khách quan, là bản chất của nhà nước ở một giai
đoạn trong quá trình tự phát triển, được khái quát từ sự vận động và phát triển
của các nhà nước hiện tồn, song tuyệt nhiên không đồng nhất với bất cứ một
nhà nước hiện tồn nào.
Đây là một quan niệm có tính phương pháp luận trong nghiên cứu nhà
nước pháp quyền được rút ra từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước. Cũng giống như "vật chất" là một phạm trù
triết học, chỉ tồn tại trong tư duy và là sản phẩm của tư duy thuần tuý
7


(Ph.Ăngghen), "nhà nước pháp quyền" được định nghĩa như trên là một phạm
trù của triết học duy vật biện chứng về lịch sử. Nhà nước pháp quyền là một
trạng thái mà sự phát triển của nhà nước nhất định sẽ đạt tới, bất kể ý thức của
con người có nhận thức dược hay không. Vì thế, nó có tính khách quan và phổ
biến. Tuy nhiên, với mỗi dân tộc, con đường, cách thức đi tới nhà nước pháp
quyền và nội dung của nhà nước pháp quyền lại mang những dấu ấn riêng của
dân tộc ấy. Vì thế, hình thức tồn tại hiện thực của nhà nước pháp quyền rất
phong phú, đa dạng và cũng rất phức tạp. Không thể biến mô hình nhà nước ở
một quốc gia dân tộc này thành cái chung, giá trị chung, làm chuẩn mực đánh
giá, phán xét mô hình nhà nước của một quốc gia dân tộc khác có phải nhà
nước pháp quyền hay không, càng không thể từ sự quy chụp như thế để đánh

giá quốc gia dân tộc ấy có phải là một quốc gia dân tộc văn minh, phát triển
hay không.
Việc đánh giá một mô hình nhà nước cụ thể không thể căn cứ vào
những dấu hiệu, những biểu hiện bề ngoài, tức là không thể căn cứ vào hiện
tượng, mà phải căn cứ vào thực chất, vào bản chất của nó. Chúng tôi cho
rằng, những căn cứ mà lâu nay người ta dựa vào để đánh giá tính chất pháp
quyền của một nhà nước, như "sự thống trị của pháp luật trong đời sống xã
hội", "quan hệ giữa các cơ quan lập pháp - hành pháp - tư pháp là quan hệ
quyền lực ràng buộc và hạn chế quyền lực", đều là những biểu hiện bề ngoài,
hoặc là của quan hệ giữa nhà nước và pháp luật, hoặc là của quyền lực nhà
nước và cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước. Thực chất của vấn đề là ở chỗ,
nhà nước và pháp luật có thể hiện được trình độ phát triển của quyền lực nhân
dân hay không, hay nói cách khác, chỉ có quyền lực của nhân dân lao động
được luật hoá và đảm bảo thực thi có hiệu quả bằng các thiết chế chính trị - xã
hội nhằm mang lại quyền lợi cho nhân dân mới làm nên tính chất pháp quyền
của nhà nước.
Điều quan trọng không phải là hình thức pháp quyền, tức pháp luật
8


thống trị nhà nước và xã hội, mà là nội dung pháp quyền, tức pháp luật ấy có
phải là quyền lực của nhân dân lao động được "đề lên" thành luật hay không.
Pháp luật chí là ý chí của một cá nhân (chế độ quân chủ) hay của một thiểu số
trong xã hội (ví dụ như pháp luật tư sản) thì chưa thể đạt tới trình độ pháp
quyền theo nghĩa đầy đủ nhất. Như vậy, nếu đồng nhất nhà nước pháp quyền
với mô hình nhà nước hiện thực cụ thể, nhất là một mô hình nhà nước phương
Tây nào đó, rồi coi đó là điểm xuất phát trong tư duy thì thực chất đã đồng
nhất một cách trừu tượng cái phổ biến và cái đặc thù, cái bản chất với hiện
tượng.


Nhà nước pháp quyền, với định nghĩa căn bản nhất là không có ai ở
trên luật hay ngoài luật, mà mọi người phải tuân theo pháp luật. Một nguyên
tắc bắt nguồn một cách logic từ ý tưởng cho rằng sự thật, cũng như luật, đều
dựa trên những nguyên tắc căn bản có thể được phát hiện ra nhưng không thể
được tạo ra theo ước muốn.
Có thể hiểu: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước
đều thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp và kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ở đây Nhà nước được tổ chức
và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật, pháp luật giữ vị trí tối thượng
trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và
công dân, thực hành dân chủ, tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Và là Nhà nước
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

9


CHƯƠNG 2.
QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC TRONG TÁC PHẨM “NHỮNG NHIỆM VỤ TRƯỚC
MẮT CỦA CHÍNH QUYỀN XÔ VIẾT
2.1.Lý do hình thành các quan điểm của V.I.Lê nin về nhà nước và
xây dựng nhà nước trong tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của
chính quyền Xô viết”
Năm 1918 ở nước Nga được coi là trong thời kỳ tạm ngừng chiến, tạm
có hòa bình, do việc ký kết hòa ước Brét đưa lại. lúc này chính quyền Xô viết
được củng cố khắp nước, việc nhà nước công nông nắm được những vị trí chỉ
đạo trong một loạt nghành kinh tế quốc dân quan trọng đã đánh dấu một giai

đoạn phát triển mới của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga. Và đây là lần đầu
tiên nhà nước Xô viết có khả năng tập trung lực lượng chủ yếu vào công cuộc
xây dựng hòa bình về kinh tế và văn hóa, dành sự chú ý chủ yếu vào việc giải
quyết những nhiệm vụ hết sức lớn lao trong công cuộc xây dựng xã hội mới –
xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên công cuộc này đứng trước không ít khó khăn,
gian nan và nhiều thử thách bởi sau chiến tranh kinh tế Nga bị tàn phá nặng
nề, sự lạc hậu về kỹ thuật càng làm kinh tế Nga trượt dốc, các tệ nạn nảy sinh,
xã họi bất ổn, văn hóa thì ảnh hưởng nặng nề của những tàn dư chế độ cũ. Vì
thế V.I.Lê nin đã viết tác phẩm “những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền
Xô viết”, hình thành lên các quan điểm chỉ đạo, nhấn mạnh các nhiệm vụ cơ
bản, các nhiệm vụ trước mắt mà lúc này chính quyền Xô viết không thể
10


không thực hiện, và là liều thuốc hữu hiệu để nước Nga khôi phục, phát triển
nền kinh tế, giải quyết các vấn đề nảy sinh trong xã hội và đưa đất nước Nga
đi lên.
2.2. Các quan điểm cơ bản của V.I.Lê nin về nhà nước và xây dựng
nhà nước trong tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền
Xô viết”
Trước hết V.I.Lê nin đưa ra quan điểm về việc nắm vững đặc điểm
và nhiệm vụ trung tâm của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
V.I.Lênin đã chỉ rõ rằng, tất cả chính Đảng vô sản chân chính và có
trọng trách đối với tương lai đều có nhiệm vụ: Trước hết là, thuyết phục quần
chúng nhân dân về sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình; hai là,
giành lấy chính quyền và đập tan sự phản kháng của bọn bóc lột; ba là, tổ
chức, xây dựng và quản lý đất nước theo chủ nghĩa xã hội. Đương nhiên,
nhiệm vụ thuyết phục quần chúng nhân dân bao giờ cũng sẽ được đặt ra trong
số những nhiệm vụ quan trọng của việc quản lý, còn nhiệm vụ đè bẹp sự phản
kháng của bọn bóc lột và bọn kẻ cướp thì giai cấp vô sản cũng không một

phút nào được cho phép mình lãng quên. Nhưng dẫu sao nhiệm vụ tổ chức,
xây dựng và quản lý đất nước cũng đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu trung tâm,
trở thành nhiệm vụ quan trọng bậc nhất. V.I. Lênin đã giải thích: Trong nhiệm
vụ quản lý nước nhà, cái có ý nghĩa trọng đại hơn cả không phải là chính trị
mà là kinh tế... Giờ đây, nhiệm vụ quản lý quốc gia trước hết và trên hết được
ghi lại thành một nhiệm vụ thuần túy kinh tế. Sau này, V.I.Lênin lại kết luận
rằng, chính trị chủ yếu của chúng ta là xây dựng nhà nước về mặt kinh tế...
Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không chỉ là một cương lĩnh, một học
thuyết, một nhiệm vụ nữa, ngày nay đó là công việc xây dựng cụ thể.Như vậy,
đây là một giai đoạn mới của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai
cấp tư sản, giai đoạn tạo những điều kiện để tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa tư bản
không cho nó phục hồi hoặc tái sinh.Giai đoạn đấu tranh này, hình thức thì có
vẻ hòa bình và phương pháp thì có nội dung mới khác trước.Nhưng tất cả đều
11


nhằm phát triển cuộc đấu tranh đó đến thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa cộng
sản.
Mục tiêu, đồng thời cũng là nội dung cơ bản của nhiệm vụ tổ chức, xây
dựng và quản lý đó là nhằm: Thiết lập một hệ thống quan hệ tổ chức mới hệ
thống cực kỳ phức tạp về kinh tế bao gồm sự sản xuất và phân phối một cách
kế hoạch các sản phẩm cần thiết cho đời sống của hàng triệu người; là nhằm
thật sự xã hội hóa sản xuất và đảm bảo “nâng cao năng suất lao động trong
phạm vi toàn quốc”.
Muốn tổ chức, xây dựng nên cả một hệ thống quan hệ kinh tế xã hội
chủ nghĩa, thực hiện xã hội hóa “thật sự” sản xuất và nâng cao năng suất lao
động như vậy thì phải tiến hành cải tạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân, xóa bỏ
quyền sở hữu của bọn bóc lột, phải chuyển từ nền kinh tế hàng hóa nhỏ, cá
thể sang nền kinh tế tập thể, sản xuất hiện đại; phải xóa bỏ hệ thống tổ chức
kinh tế cũ, xây dựng hệ thống tổ chức kinh tế mới, phải tổ chức lại lao động

xã hội theo một trình độ cao, thực hiện sản xuất và phân phối một cách có kế
hoạch trên cơ sở sản xuất ngày càng hiện đại hóa vì lợi ích trước mắt và lâu
dài của mọi người lao động - Tổ chức lao động theo một trình độ cao là tổ
chức lao động trên cơ sở những quan hệ xã hội mới giữa những người lao
động đã làm chủ tập thể, liên hiệp một cách tự do và bình đẳng trong lao động
sản xuất và phân phối sản phẩm, có sự phân công hợp lý và hiệp tác hữu nghị
rộng rãi; đó còn là tổ chức lao động xã hội dựa trên cơ sở chế độ công hữu
nhằm kết hợp những thành tựu mới nhất của khoa học và kỹ thuật với tập thể
những người lao động, có văn hóa, có kỹ thuật, có kỷ luật tự giác, đem lại
nhiệt tình cách mạng và nghị lực sáng tạo xây dựng nền sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa. Đó là con đường đúng đắn để nâng cao năng suất lao động lên
vượt bậc. Đó cũng là cái quan trọng nhất, căn bản nhất đảm bảo cho thắng lợi
của trật tự xã hội mới.
V.I.Lênin chỉ rõ: Việc nâng cao năng suất lao động trước hết đòi hỏi cơ
sở vật chất của nền đại công nghiệp phải được bảo đảm, ngành sản xuất nhiên
12


liệu sắt, máy móc, hóa chất phải phát triển, việc khai thác những của cải tự
nhiên ấy bằng phương pháp kỹ thuật hiện đại sẽ mang lại cho lực lượng sản
xuất một cơ sở để đạt được đà phát triển mới.
Người còn chỉ rõ: “Một điều kiện khác để nâng cao năng suất lao động,
trước hết là việc nâng cao trình độ học vấn và văn hóa của quần chúng nhân
dân... hai là để đẩy mạnh phát triển kinh tế, chúng ta còn phải nâng cao tinh
thần kỷ luật của những người lao động, kỹ năng lao động của họ, tính khéo
léo của họ, phải tăng thêm cường độ lao động và tổ chức lao động cho tốt
hơn”.
Như vậy ở quan điểm này V.I.Lê nin yêu cầu phải tiến hành cải tạo xã
hội chủ nghĩa, phải tiến hành cách mạng kỹ thuật, xây dựng và phát triển cơ
sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tiến hành cách mạng tư tưởng và

văn hóa để năng suất lao động của xã hội không ngừng tăng lên... Đó là
những nhiệm vụ tổ chức và quản lý cơ bản được đặt ra sau khi giai cáp vô sản
đã giành được chính quyền thiết lập chế độ xã hội mới.
Thứ hai V.I.Lê nin đưa ra quan điểm về việc tổ chức cho toàn dân kiểm
kê và kiểm soát một cách hết sức chặt chẽ sự sản xuất và phân phối sản xuất
Theo V.I.Lê nin việc kiểm kê, kiểm soát do toàn dân thực hiện từ dưới
lên trên là một trong những phương pháp vô sản mới, không làm được việc
này trong các xí nghiệp và cơ sở sản xuất, trong các ngành và các lĩnh vực
kinh tế thì không thể tăng năng suất lao động xã hội, đảm bảo việc thiết lập
chủ nghĩa xã hội được.
Tiến hành kiểm kê, kiểm soát các xí nghiệp vừa giành lại trong tay giai
cấp tư sản để công nhân nắm được tình hình sản xuất, giữ cho guồng máy
hoạt động đều đặn, không bị gián đoạn. Đồng thời qua quá trình kiểm kê,
kiểm soát, công nhân sẽ học được cách quản lý và từ đó chuyển sang thực
hiện việc công nhân tham gia điều tiết sản xuất và nâng cao năng suất lao
động.
Phải kiểm soát chặt chẽ các giai cấp bóc lột, tất cả những kẻ quen thói
13


ngồi không ăn bám, những bọn con ông cháu cha, bọn ăn cắp, lưu manh. Bắt
chúng phải phục tùng, phải gánh vác nghĩa vụ xã hội - trước hết là nghĩa vụ
lao động.
Thực hiện kiểm kê, kiểm soát việc sản xuất và phân phối sản phẩm còn
là phương pháp để nắm sát tình hình tiến hành kế hoạch hóa sự phát triển kinh
tế. Lênin cũng đã nêu rõ rằng, chương trình của việc kiểm kê, kiểm soát ấy rất
giản đơn, rõ ràng và dễ hiểu đối với mọi người: phải làm sao cho mọi người
đều có bánh ăn, đều có giày dép tốt và quần áo lành, đều có nhà cửa ấm áp,
đều làm việc có ý thức; phải làm sao không cho một tên ăn cắp nào và không
một tên trốn tránh lao động nào lại có thể đi dạo chơi nhởn nhơ mà không bị

bỏ tù hay không bị phạt khổ sai thật nặng...; ai không làm thì không được ăn,
đó là điều lệnh thực tiễn của chủ nghĩa xã hội.
Và V.I.Lênin khẳng định: “Chừng nào sự kiểm soát của công nhân chưa
trở thành sự thật hẳn hoi, chừng nào những công nhân tiên tiến chưa tổ chức
và tiến hành thắng lợi một cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống tất cả
những kẻ vi phạm sự kiểm soát ấy, hoặc những kẻ tỏ ra thờ ơ về mặt đó; thì
chừng đó sẽ không thể nào tiến từ bước thứ nhất (thực hiện việc kiểm soát của
công nhân) lên bước thứ hai trên con đường đi tới chủ nghĩa xã hội; tức là
bước chuyển sang việc công nhân điều tiết sản xuất”.
Thứ ba V.I.Lê nin đưa ra quan điểm về thực hiện “chế độ nhiệm vụ lao
động” xây dựng một “kỷ luật lao động tự giác cao” biết sử dụng “chuyên
gia” lợi dụng những thành tựu “khoa học kỹ thuật” mà chủ nghĩa tư bản đã
tích lũy được.
Theo V.I.Lê nin chế độ nghĩa vụ lao động trước hết và trên hết là bắt
các giai cấp hữu sản phải gánh vác nghĩa vụ xã hội của họ, là cưỡng bức bọn
bóc lột, bọn ăn bám, bọn lười biếng phải lao động thì mới được sống chính
đáng trong xã hội mới.
Ở đây, trong việc xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, trong
việc tổ chức lao động của xã hội mới có vấn đề chuyên gia, người hướng dẫn
14


tổ chức lao động, giúp đỡ quần chúng về mặt kỹ thuật, về mặt ứng dụng khoa
học vào quá trình sản xuất. Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu
các lĩnh vực khoa học - kỹ thuật và kinh nghiệm thì không có bước chuyển
lên chủ nghĩa xã hội được. Điều chủ yếu để giải quyết vấn đề này là đi đôi với
việc nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật và trình độ văn hóa cho quảng đại
quần chúng là phải ra sức đào tạo cho được một tầng lớp trí thức mới thật sự
của nhân dân, trưởng thành từ trong quần chúng lao động và tuyệt đối trung
thành với nhân dân, với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân. Phải

biết vun trồng, bồi dưỡng, quý trọng từng chuyên gia, có thái độ cư xử đúng
đắn với trí thức. Cần phải biết thu phục chuyên gia tư sản cũ, thu hút được
những người có tài tổ chức và những chuyên gia giỏi, thậm chí có thể trả
lương cao cho những chuyên gia xuất sắc, điều đó là cần thiết cho công cuộc
xây dựng kinh tế, cần thiết để học tập kinh nghiệm quản lý của họ, rồi dần
dần cải tạo họ đi theo chủ nghĩa xã hội.
Để xây dựng xã hội mới, Đảng của giai cấp công nhân còn phải biết sử
dụng hợp lý, có hiệu quả toàn bộ tri thức phong phú về khoa học kỹ thuật mà
chủ nghĩa tư bản đã tích lũy được.
Không chỉ vậy V.I.Lê nin còn khẳng định đi đôi với chế độ nghĩa vụ lao
động cưỡng bức đối với bọn bóc lột ăn bám, còn phải áp dụng chế độ nghĩa
vụ lao động tự giác đối với mọi người lao động. Trước kia, tổ chức lao động
xã hội của phong kiến là dựa vào kỷ luật roi vọt và dùng cả đến sự áp bức siêu
kinh tế để đè nén những người nông nô; đến chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản
dùng kỷ luật đói rét, thất nghiệp bần cùng để buộc chặt những người nô lệ làm
thuê vào guồng máy bóc lột của nó. Giờ đây, tổ chức lao động xã hội cộng sản
chủ nghĩa mà bước đầu là chủ nghĩa xã hội thì dựa vào và sẽ ngày càng dựa
vào kỷ luật tự giác và tự nguyện của chính ngay những người lao động, những
người sẽ bẻ gãy gông cùm của bọn địa chủ tư bản.
Ông còn cho rằng trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội tâm lý
“của người lao động làm thuê” không thể khắc phục được ngay, hơn nữa ở
15


một nước sản xuất nhỏ, tản mạn còn chiếm ưu thế, lao động thủ công còn phổ
biến, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề như ở nước Nga, thì tình trạng vô tổ
chức, vô kỷ luật, tính tự phát phóng túng tiểu tư sản còn có đất để phát triển,
thậm chí có khi gây nên rối loạn trong kinh tế - đó là điều khó tránh. Sự thay
thế lao động nô lệ bằng lao động cho mình và cho xã hội, bằng lao động có tổ
chức và có kế hoạch trong quy mô toàn quốc với một kỷ luật tự giác được mọi

người tôn trọng và giữ vững đòi hỏi phải có một sự giáo dục rèn luyện bền bỉ
đối với con người và điều đó chỉ có thể diễn ra trong quá trình tiến hành công
cuộc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa
và chỉ được củng cố trên cơ sở những điều kiện vật chất của nền sản xuất đó.
Trước tình hình đói kém, thất nghiệp và tính phóng túng tiểu tư sản hoành
hành ở nước Nga lúc đó, V.I.Lênin nghiêm khắc phê phán tính tự phát tiểu tư
sản và đặc biệt nhấn mạnh tính cưỡng chế của kỷ luật lao động.
Thứ tư V.I.Lê nin đưa ra quan điểm về tổ chức thi đua xã hội chủ nghĩa
và áp dụng triệt dể nguyên tắc phân phối theo lao động.
V.I.Lê nin cho rằng việc tổ chức thi đua phải chiếm vị trí quan trọng
trong xây dựng kinh tế của nhà nước chuyên chính vô sản. Vì vậy, trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải xây dựng được những cơ sở của việc tổ
chức thi đua xã hội chủ nghĩa.V.I.Lênin nhấn mạnh: Chỉ có trên những cơ sở
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của người lao động được
xác lập thì việc tổ chức thi đua theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa với nhiều
hình thức phong phú của nó mới có tác dụng quan trọng trong việc cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới, và việc tổ chức thi đua giữa các đơn vị sản xuất,
giữa các địa phương, giữa các cá nhân mới có ý nghĩa chân chính, và vì vậy,
tất cả phương tiện tuyên truyền phải nêu gương những cơ sở làm ăn tốt và phê
bình những cơ sở làm ăn tồi.
Và ông còn cho rằng cần phải thu hút đông đảo quần chúng lao động
tham gia phong trào thi đua xây dựng kinh tế bằng cách đặt những vấn đề lao
động thực tiễn lên hàng đầu, bằng cách nêu những điển hình gương mẫu, bằng
16


cách đại chúng hóa công tác thống kê để cho chính người lao động dần dần
nhận xét và dần dần tự mình hiểu được phải lao động như thế nào và học tập
những gì ở những cá nhân và cơ sở điển hình tiên tiến. Đồng thời với việc tổ
chức thi đua xã hội chủ nghĩa, nhà nước phải kiểm tra chặt chẽ mức lao động

của mọi công dân và sẽ áp dụng ngày càng triệt để nguyên tắc phân phối theo
lao động. Ở đây, nhà nước phân phối sản phẩm lao động cho mỗi cá nhân theo
năng suất lao động, theo số lượng và chất lượng lao động của mỗi người, làm
cho họ quan tâm thiết thân đến kết quả lao động của mình, đến sự phát triển
sản xuất của xã hội .
Thứ năm V.I.Lê ninđưa ra quan điểm về vai trò của nguyên tắc tập
trung dân chủ và việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ vào lĩnh vực
kinh tế.
V.I.Lê nin khẳng định nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi phải xây
dựng một tổ chức xã hội trong đó hàng chục triệu người lao động làm việc
một cách đều đặn có trật tự có kỷ luật “làm việc chính xác như bộ máy đồng
hồ”, kết hợp sự quản lý kinh tế tập trung, có kế hoạch, có lãnh đạo với việc
phát huy dân chủ rộng rãi, có sự tham gia quản lý kinh tế rộng rãi của quảng
đại quần chúng nhân dân, kết hợp “nguyên tắc tập thể” dân chủ xã hội chủ
nghĩa với sự chuyên chính của một số cá nhân; kết hợp sự chỉ đạo sản xuất
của thủ trưởng với sự kiểm tra từ dưới lên của quần chúng.
Chế độ tập trung dân chủ đòi hỏi phải kết hợp sự lãnh đạo tập trung của
Trung ương với sự đảm bảo đầy đủ quyền chủ động sáng tạo của địa phương.
Các địa phương khác nhau đều được tự do phát huy đầy đủ nhất những đặc
điểm, những khả năng tiềm tàng của mình để giải quyết bằng những cách thức
khác nhau những vấn đề khác nhau của đời sống chính trị và kinh tế thậm chí
có thể dùng đến cả hình thức chế độ tự trị và chế độ liên bang (nếu xét thấy
cần thiết) để rồi tiến tới chế độ tập trung dân chủ thật sự xã hội chủ nghĩa.
Không được lẫn lộn chế độ tập trung dân chủ với chủ nghĩa quan liêu,
với tổ chức dập khuôn máy móc. Phải xuất phát đầy đủ từ nhiệm vụ chung và
17


yêu cầu chung của cả nước, đồng thời phải tính đến đặc điểm riêng, điều kiện
riêng, phong tục tập quán, trình độ dân trí từng địa phương để phát huy hết

tính năng động, chủ quan dù nhỏ nhất nhằm thực hiện kế hoạch chung, mục
tiêu chung của cả nước.
Tất cả những điều đó trở thành tính nhiều vẻ độc đáo trên con đường
tiến lên chủ nghĩa xã hội của các tổ chức kinh tế, của các địa phương khác
nhau. Đây không phải là trái kế hoạch chung, pháp luật chung mà là cảnh
muôn hoa đua nở để đi đến một sự phát triển phong phú, nhanh chóng trong
một nhà nước xã hội chủ nghĩa có tổ chức.
Hơn nữa ông yêu cầu tập trung dân chủ còn đòi hỏi kết hợp sự tham gia
quản lý kinh tế, quản lý xã hội của quần chúng lao động với sự phụ trách của
cá nhân người lãnh đạo. Chính vì lẽ đó mà V.I.Lênin đề ra chế độ thủ trưởng một chế độ biết trao trách nhiệm cho những người đại biểu chấp hành nền
chuyên chính của giai cấp cách mạng.Chế độ thủ trưởng không mâu thuẫn với
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, với nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc
này chẳng những đòi hỏi phải đảm bảo cho quần chúng tham gia bàn bạc và
kiểm soát sự chấp hành các quy chế, pháp luật và nghị quyết, mà còn bảo đảm
cho quần chúng có quyền bầu cử, lựa chọn những người lãnh đạo của mình,
có quyền kiểm tra mà kiểm soát mọi hoạt động của những người lãnh đạo, có
quyền thay đổi những cá nhân phụ trách không xứng đáng. Song, điều đó
hoàn toàn không có nghĩa là công việc tập thể không cần có người lãnh đạo,
không cần có một trật tự chặt chẽ do ý chí duy nhất của người lãnh đạo tạo ra.
Thực hiện chế độ thủ trưởng trong kinh tế thì đòi hỏi quần chúng phải
phục tùng vô điều kiện ý chí của người lãnh đạo trong sản xuất; phải biết
chuyển những sự thảo luận, phê bình, kiểm soát và sửa chữa sang sự hoạt
động ăn khớp, đều đặn, nhịp nhàng, chính xác do một trung tâm duy nhất chi
phối. Bản thân người cán bộ lãnh đạo phải có tinh thần phụ trách, phải chịu
trách nhiệm về sự thành bại của toàn bộ guồng máy kinh tế…
Không chỉ vậy V.I.Lê nin còn đưa ra quan điểm cần thiết phải có
18


chuyên chính vô sản - đây là công cụ xây dựng chủ nghĩa xã hội

V.I.Lênin đã nêu rõ tính tất yếu, mục đích thực chất của chuyên chính
“vô sản” và dân chủ xã hội chủ nghĩa là: Trấn áp và cưỡng bức đối với bọn
bóc lột, bọn phá rối trật tự, kỷ luật và thực hiện một nền dân chủ mới, phát
động quần chúng lao động tham gia vào việc quản lý nhà nước và xây dựng
cơ sở xã hội mới, đẩy mạnh sản xuất phát triển.
V.I.Lênin nhấn mạnh phải tăng cường bộ máy nhà nước chuyên chính
vô sản và đề cập một số nhiệm vụ cụ thể của nó:
Một là, cần phải có một tòa án mới, trước hết để chống lại bọn bóc lột,
tước bỏ hết đặc quyền, đặc lợi và ngăn chặn âm mưu khôi phục lại nền thống
trị của chúng. Một tác dụng quan trọng hơn là, tòa án bảo đảm cho mọi người
lao động chấp hành một cách nghiêm ngặt nhất kỷ luật tự giác. Tòa án phải
gánh nhiệm vụ to lớn là giáo dục nhân dân theo kỷ luật lao động đó. Đồng
thời, tòa án cũng là cơ quan thực hiện sự cưỡng bức tất yếu phải có trong thời
kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, đối với các cơ quan dân cử, các Xô viết cũng vậy. Mục đích của
cách mạng là làm cho quần chúng lao động đều được tham gia quản lý kinh
tế, quản lý xã hội. Do đó, tất cả mọi tổ chức, mọi biện pháp dùng để đạt đến
mục đích đó đều phải được củng cố và phát triển, các cơ quan do họ dựng lên
càng phải tham gia thực sự việc quản lý. e
Ba là, công đoàn và hợp tác xã trong điều kiện lịch sử mới là những tổ
chức nằm trong hệ thống chuyên chính vô sản, dưới sự lãnh đạo của Đảng
cũng đều phải biết thực hiện chuyên chính với kẻ thù, đồng thời củng cố và
phát triển mối quan hệ với quần chúng lao động, đoàn kết với họ để cùng tiến
hành xây dựng và bảo vệ xã hội mới...
Bốn là, chuyển sang thực hiện nhiệm vụ tổ chức và quản lý, đòi hỏi nhà
nước chuyên chính vô sản phải đào tạo được những cán bộ có tài, tổ chức đáp
ứng được nhiệm vụ mới của người lãnh đạo, phải kiên quyết thay đổi những
lề thói cũ và biết phát hiện, khuyến khích đề bạt những nhà tổ chức có tài
19



trong quần chúng nhân dân vào những cương vị chỉ đạo quá trình lao động
sản xuất, tạo điều kiện cần thiết để họ có thể trở thành người lãnh đạo những
tập thể lao động, phát huy được mọi sức mạnh sáng tạo dưới xã hội mới.
2.3. Ý nghĩa các quan điểm cơ bản của V.I.Lê nin về nhà nước và
xây dựng nhà nước trong tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của
chính quyền Xô viết”
Các quan điểm cơ bản của V.I.Lê nin về nhà nước và xây dựng nhà
nước trong tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết” là
những quan điểm thiết thực và hoàn toàn phù hợp có giá trị lý luận và thực
tiễn vô cùng to lớn đã góp phần chỉ đạo công cuộc khôi phục và phát triển nền
kinh tế Nga bị tàn phá nặng nề có những bước chuyển mạnh mẽ. Dưới sự lãnh
đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Liên Xô, nhân dân Xô viết đã thực hiện
những quan điểm, tư tưởng của Lênin đề cập trong tác phẩm: tập trung lực
lượng vào thực hiện chính sách kinh tế để tiến hành công nghiệp hoá đất nước
cải tạo nền kinh tế theo chủ nghĩa xã hội, phát triển văn hóa xã hội chủ nghĩa,
nhờ đó, nước Nga từ một nước lạc hậu trở thành một nước xã hội chủ nghĩa
hùng mạnh.
Không chỉ vậy Việt Nam và các nước đi theo con đường chủ nghĩa xã
hội, kiên định những quan điểm, những tư tưởng đó, lấy đó làm ngọn đuốc soi
đường trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền nói riêng, xây dựng
và bảo vệ tổ quốc nói chung, đã và đang có nhiều những thành tựu nổi bật.

20


CHƯƠNG 3.
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊ NIN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG TÁC PHẨM “NHỮNG NHIỆM VỤ
TRƯỚC MẮT CỦA CHÍNH QUYỀN XÔ VIẾT VÀO XÂY DỰNG NHÀ

NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Thực trạng vận dụng quan điểm của V.I.Lê nin về nhà nước và
xây dựng nhà nước trong tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của
chính quyền Xô viết” vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hiện nay
Nắm vững đặc điểm của bước ngoặt lịch sử mới ở nước ta hiện
nay,thời kỳ mà đất nước đã và đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, mở rộng cánh cửa, vương ra hội nhập quốc tế về mọi mặt, đồng thời
kiên định vận dụng những nguyên lý được nêu trong tác phẩm và các nguyên
lý khác của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng , Nhà nước và nhân dân ta đã và
đang xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Việt Nam mà việc xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trọng tâm trên con
đường đó. Trong việc vận dụng quan điểm của V.I.Lê nin về nhà nước và xây
dựng nhà nước trong tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền
Xô viết” vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện
nay ta đã đạt những thành tựu nhất định về kiểm kê, kiểm sát, sản xuất, phân
phối sản phẩm, đề cao kỷ luật lao động, áp dụng nguyên tắc tập trung dân
chủ, thực hiện chế độ thủ trưởng, đào tạo, bồi dưỡng đề bạt cán bộ hay vị trí
vai trò của Đảng cộng sản với nhà nước…
Trước hết việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam theo tư
tưởng V.I.Lênin không phải là việc tự thân của Nhà nước cho nên chúng ta đã
21


xác định đúng đắn vai trò của Đảng với nhà nước. Đường lối lãnh đạo của
Đảng được thể chế hóa thành luật pháp thông qua hoạt động của Nhà nước, sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo điều kiện cho thành
công của việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam giai đoạn hiện
nay. Việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng là nhiệm vụ
then chốt không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân Đảng mà còn là quan trọng

đối với sự tồn tại hoạt động của Nhà nước pháp quyền. Vì thế Đảng luôn luôn
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước để sao cho vừa bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy vai trò quản lý, điều hành của Nhà
nước để tập trung mọi quyền lực vào tay nhân dân. Đảng vừa không được bao
biện nhưng Đảng không được buông lỏng sự lãnh đạo đối với hệ thống chính
trị, trong đó đặc biệt là đối với Nhà nước
Thứ hai về tăng cường hơn nữa công tác giám sát, V.I.Lê-nin nhấn
mạnh tới công tác kiểm kê, kiểm soát trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở đây,
Người đề cập vai trò của công nhân và người dân trong việc tham gia quản lý
Nhà nước.Nhân dân là người ủy quyền cho Nhà nước quản lý xã hội. Trong
giai đoạn hiện nay chúng ta đã tăng cường và nâng cao hiệu lực hiệu quả hoạt
động giám sát của Quốc hội. Đã và đang tiếp tục xây dựng thể chế tạo mọi
điều kiện để Quốc hội (trong đó có các Đoàn đại biểu Quốc hội và từng đại
biểu Quốc hội) giám sát có hiệu quả hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
Không có giám sát, kiểm tra thì không thể có một Nhà nước pháp quyền theo
đúng nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân được.
Thứ ba về vai trò nhà nước. Trong giai đoạn hiện nay vai trò của Nhà
nước trong quản lý và điều hành vĩ mô càng được khẳng định. Chính phủ là
cơ quan hành chính cao nhất có trách nhiệm thực hiện các nghị quyết của
Quốc hội.Mọi hoạt động của Chính phủ đề cao trách nhiệm trước việc thực thi
các quyết định của Quốc hội.Cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta không phải
là cơ chế kinh tế thị trường tự phát mà là cơ chế thị trường định hướng XHCN
có sự quản lý Nhà nước kết hợp kế hoạch với thị trường, có sự điều tiết hợp
22


lý. Hơn nữa sự khủng hoảng tài chính, ngân hàng dẫn đến sự suy giảm kinh tế
lớn nhất của thế giới từ trước đến nay (lớn hơn về quy mô, mức độ so với thời
kỳ 1929 - 1933) đã cho chúng ta bài học quý báu về vai trò của Nhà nước, với
sự can thiệp cần thiết đúng lúc, có hiệu quả và nói lên tính ưu việt của chế độ

chính trị, tính định hướng chính trị của Nhà nước pháp quyền Việt Nam giai
đoạn hiện nay.
Thứ tưvận dụng quan điểm của V.I.Lê-nin về vai trò làm chủ của quần
chúng, nhân dân. Ở trong tác phẩm “ những nhiệm vụ trước mắt của chính
quyền Xô viết” hay nhiều tác phẩm khác V.I.Lê nin cũng đề cập. V.I.Lê nin
cho rằng nhà nước “Điều cần thiết không phải chỉ là cơ quan đại biểu theo
kiểu chế độ dân chủ, mà là toàn bộ việc quản lý nhà nước từ dưới lên phải do
bản thân quần chúng tổ chức, quần chúng thực sự tham gia vào từng bước của
cuộc sống và đóng vai trò tích cực trong việc quản lý”. Trong xã hội hiện đại
và ở nước ta, Nhà nước pháp quyền là tổ chức được sự ủy quyền của giai cấp
công nhân lãnh đạo thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam
quản lý xã hội, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân
là chủ và nhân dân làm chủ, có quyền lợi và nghĩa vụ làm chủ Nhà nước và
kiểm soát, giám sát mọi hoạt động của Nhà nước. Không chỉ vậy vận dụng và
phát triển tư tưởng của V.I.Lê-nin về vấn đề quyền giám sát, kiểm soát của
nhân dân, ở nước ta quyền kiểm soát, giám sát của nhân dân không những
được thể hiện trong việc nhà nước ban hành các nghị quyết, quyết định, pháp
luật mà còn trong cả quá trình thực hiện thực tế.
Đặc biệt về xây dựng bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức Nhà
nước trong sạch. V.I.Lê-nin lên án gay gắt những tiêu cực trong bộ máy Nhà
nước Xô-viết từ năm 1917 đến khi Người qua đời năm 1924. Những tiêu cực
được V.I.Lê-nin nêu lên nhiều nhất: quan liêu, hối lộ, tham nhũng, lãng phí,
thói vô trách nhiệm của công chức, của các Bộ dân ủy. V.I.Lê-nin đã đề ra
những biện pháp quyết liệt, nghiêm khắc để trừng trị những ai vi phạm.Ở Việt
Nam, là học trò xuất sắc của V.I.Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh chăm lo xây
23


dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh. Chỉ một tháng sau khi Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Ủy

ban Nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu lên sáu căn bệnh mà chính
quyền cách mạng non trẻ đã mắc phải: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia
rẽ, kiêu ngạo. Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan liêu là giặc nội xâm,
thứ giặc ở trong lòng, nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Vì thế việc xây dựng
bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nướctrong sạch, vững mạnh đã
được nhà nước ta quan tâm đúng mức.
Không chỉ vậy các nguyên tắc tập chung dân chủ, chế độ thủ trưởng và
một số nguyên tắc khác được V.I.Lê nin đề cập trong tác phẩm được vận dụng
triệt để không chỉ trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
chúng ta mà trong Đảng, trong các tổ chức chính tri – xã hội và ở nhiều
nghành, nhiều lĩnh vực khác nhau…và đã có nhiều những thành tựu nổi bật.
Nguyên nhân của những thành tựu trên đó là chúng ta đã và đang kiên
định với những quan điểm của V.I.Lê nin nêu trong tác phẩm và các nguyên
lý khác của chủ nghĩa Mác – Lê nin, chúng ta đã biết vận dụng một cách sáng
tao, gắn việc tuân thủ những nguyên lí chung, cơ bản với việc phân tích
những biến chuyển tình hình thời đại, cũng như hoàn cảnh và đặc điểm riêng
trong nước. Đồng thời chúng ta đã đấu tranh không hề khoan nhượng với
những tư tưởng phản động, chống phá ,hay bôi nhọ các quan điểm đó, tư
tưởng đó để giữ vững lập trường.
Tuy nhiên đối với bất kể một vấn đề nào đó cũng có tính hai mặt của
nó. Việc vận dụng những quan điểm của V.I.Lê nin nêu trong tác phẩm và các
nguyên lý khác của chủ nghĩa Mác – Lê nin vào xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa cũng còn những hạn chế và chưa đem lại hiệu quả
như mong muốn. Đó là trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa việc chúng ta phân định quyền hạn và nhiệm vụ ở một số tổ
chức Đảng và chính quyền chưa rõ ràng, nhà nước của chúng ta chưa thể thực
hiện nghiêm chỉnh công tác kiểm kê, kiểm soát, các nguyên tắc tập chung dân
24



chủ, chế độ thủ trưởng chưa thực sự hiệu quả mà còn mang tính hình thức
trong các cơ quan nhà nước, đội ngũ cán bộ công chức nhà nước còn chưa
xứng “tâm” và chưa đủ “tầm” còn nhiều biểu hiện tiêu cực. đặc biệt về việc
đảm bảo quyền “là chủ” và “làm chủ” của nhân dân chưa được chú trọng đảm
bảo trong thực tiễn…
Nguyên nhân của những hạn chế và bất cập đó là chúng ta vận dụng
những quan điểm của V.I.Lê nin nêu trong tác phẩm và các nguyên lý khác
của chủ nghĩa Mác – Lê nin vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa còn chư phù hợp, chúng ta chưa hiểu hết và chưa nhận thức một cách
đầy đủ, sâu sắc những giá trị đó, khi áp dụng còn thiếu tính phê phán, sáng
tạo, chỉ biết kế thừa nguyên si, mà không hề bổ sung, phát triển. chúng ta
cũng chưa thể ngăn chặn triệt để những luận điệu, những tư tưởng sai trái, thù
địch nhằm vào chủ nghĩa Mác – Lê nin, những quan điểm của Đảng, chủ
trương, chính sách và pháp luật nhà nước… và thậm tệ hơn đó là đội ngũ cán
bộ, công chức của chúng ta không tuân thủ những nguyên lí đó thậm chí là đi
ngược lại.
3.2. Giải pháp vận dụng tốt quan điểm của V.I.Lê nin về nhà nước
và xây dựng nhà nước trong tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của
chính quyền Xô viết” vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hiện nay
Tư tưởng về một nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân do Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng khởi xướng, xây dựng đã được quán triệt thực hiện
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, nhất là từ khi đất nước bước
vào thời kỳ đổi mới. Các nhiệm kỳ Đại hội VII, Đại hội VIII, IX, X,X của
Đảng cũng đã dành sự chú ý, quan tâm nhiều đến vấn đề dân chủ và đã đặt ra
một cách dứt khoát mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa . Và trong suốt quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam nhờ sự vận dụng các quan điểm của V.I.Lê nin về nhà nước
và xây dựng nhà nước trong tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của chính
25



×