Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Những vấn đề cơ bản về nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.48 KB, 61 trang )

CHUYÊN ĐỀ 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo: - Hiến pháp năm 1992 (SĐ, BS năm 2001)
- Luật Tổ chức Quốc Hội (2002)
- Luật Tổ chức Chính phủ (2002)
- Luật Tổ chức HĐND và UBND(2003)
- Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (2002)
- Luật Tổ chức Viện Kiểm Sát nhân dân(2002).

1. Nguồn gốc và bản chất của Nhà nước
1.1. Sự ra đời của nhà nước
Về sự xuất hiện của nhà nước, từ trước tới nay có nhiều quan niệm khác
nhau.
Thuyết thần học là thuyết cổ điển nhất về sự xuất hiện nhà nước, cho
rằng Thượng đế là người sáng lập và sắp đặt mọi trật tự trên trái đất, trong đó
có nhà nước. Nhà nước do Thượng đế sáng tạo, thể hiện ý chí của Thượng đế
thông qua người đại diện của mình là nhà vua. Do đó việc tuân theo quyền lực
của nhà vua là tuân theo ý trời, và nhà nước tồn tại vĩnh cửu.
Những nhà tư tưởng theo thuyết gia trưởng cho rằng nhà nước là kết quả
của sự phát triển gia đình, là hình thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con
người. Vì vậy, cũng như gia đình, nhà nước tồn tại trong mọi xã hội và quyền
lực nhà nước về bản chất cũng giống như quyền gia trưởng của người chủ
trong gia đình.
Trong thời kỳ phục hưng xuất hiện các quan niệm mới về sự xuất hiện
của nhà nước, trong đó nổi bật nhất là thuyết khế ước xã hội. Những người
theo học thuyết này cho rằng sự xuất hiện của nhà nước là kết quả của một
khế ước (hợp đồng) được ký kết giữa những con người sống trong trạng thái
tự nhiên, không có nhà nước. Nhà nước phản ánh lợi ích của các thành viên
trong xã hội, chủ quyền nhà nước thuộc về nhân dân. Trong trường hợp nhà
nước không giữ được vai trò của mình, các quyền tự nhiên bị vi phạm thì nhân


dân có quyền lật đổ nhà nước và ký kết khế ước mới.
Học thuyết Mác- Lênin coi nhà nước là một hiện tượng xã hội có quá
trình phát sinh, tồn tại, phát triển và tiêu vong mang tính tất yếu lịch sử. Nhà
nước nảy sinh từ xã hội, là sản phẩm có điều kiện của xã hội loài người, chỉ
xuất hiện khi xã hội đã phát triển đến một trình độ nhất định. Những luận
điểm quan trọng trên được P. Ăngghen trình bày một cách hệ thống, khoa học
trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và của nhà
nước” và sau này được V.I. Lênin phát triển trong tác phẩm “Nhà nước và
cách mạng”.
Theo học thuyết Mác-Lênin, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, cơ sở
kinh tế là chế độ sở hữu công cộng đối với tư liệu sản xuất và sản phẩm lao
động. Cơ sở xã hội là tổ chức thị tộc được hình thành dựa trên yếu tố huyết
thống. Trong điều kiện đó xã hội loài người chưa có nhà nước mà chỉ có các
tổ chức mang tính tự quản của cộng đồng. Nhà nước ra đời là kết quả của sự
phát triển nội tại của các mâu thuẫn xã hội. Tiền đề kinh tế cho sự ra đời của
nhà nước là chế độ tư hữu tài sản. Tiền đề xã hội làm xuất hiện nhà nước là sự
phân chia xã hội thành những giai cấp, tầng lớp xã hội có lợi ích cơ bản đối
lập nhau tới mức không thể điều hoà được.
Ở Việt Nam, sự xuất hiện của nhà nước có một số đặc trưng riêng. Đặc
trưng chế độ tư hữu ở Việt Nam là tư hữu về tư liệu sinh hoạt và một phần tư
liệu sản xuất, còn đất đai thuộc sở hữu công cộng, sau chuyển thành sở hữu
của nhà nước. Đặc điểm này làm cho quá trình phân hoá giai cấp diễn ra chậm
và không sâu sắc trong xã hội. Các tầng lớp trong xã hội dần dần hình thành
nhưng sự khác biệt giữa họ không lớn, mâu thuẫn không quá gay gắt. Do đặc
điểm của nền văn minh lúa nước và điều kiện tự nhiên của Việt Nam đòi hỏi
có sự cố kết cộng đồng dân cư để giải quyết nhu cầu thuỷ lợi và thực hiện
công tác trị thuỷ đối với các con sông. Mặt khác, do vị trí địa lý của Việt Nam
nằm trên đường giao lưu Bắc- Nam, cản trở con đường bành trướng của các
dân tộc người có số lượng đông ở phía Bắc xuống phía Nam. Vì vậy, nhu cầu
tổ chức lực lượng chống ngoại xâm trở nên bức thiết, cần hợp nhất cộng đồng,

thống nhất lực lượng và có bộ máy quản lý thống nhất. Bộ máy đó là mầm
mống của một nhà nước sau này. Trong giai đoạn đầu, nó chủ yếu làm các
chức năng xã hội. Tuy nhiên, cùng với quá trình phân hoá giai cấp không
ngừng trong xã hội, dần dần nó trở thành bộ phận độc lập với xã hội, trở thành
2
bộ máy chủ yếu nhằm thực hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị
trong xã hội.
1.2. Bản chất của nhà nước nói chung.
Trong xã hội có giai cấp, quyền lực chính trị luôn thuộc về một giai cấp
hoặc liên minh các giai cấp thống trị. Giai cấp cầm quyền tổ chức ra bộ máy
đặc biệt để duy trì sự thống trị đối với xã hội, buộc các lực lượng xã hội khác
phục tùng ý chí của mình. Bộ máy đó là nhà nước - tổ chức quyền lực chính trị
đặc biệt. Quyền lực chính trị, như C.Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ, về thực
chất là “bạo lực có tổ chức của một giai cấp để đàn áp giai cấp khác”.
Bản chất của nhà nước trước hết thể hiện ở tính giai cấp, nghĩa là nhà
nước luôn thực hiện ý chí và bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị trong xã hội.
Tuy nhiên, ngoài tính giai cấp, nhà nước còn mang tính xã hội. Với tư cách là
tổ chức công quyền, nhà nước đại diện cho xã hội thực hiện chức năng quản lý
các quan hệ xã hội. Trong khi thực hiện các chức năng giai cấp, nhà nước ít
nhiều còn phải tính đến lợi ích chung của xã hội. Nhà nước phải giải quyết
những vấn đề nảy sinh trong xã hội, bảo đảm duy trì các giá trị xã hội đã đạt
được. Những đặc tính này được thể hiện khác nhau, phụ thuộc vào cơ sở kinh
tế - xã hội của các kiểu nhà nước.
1.3. Bản chất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bản chất Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là biểu hiện cụ
thể bản chất nhà nước XHCN, thể hiện ở tính giai cấp, tính dân tộc, tính
nhân dân và tính thời đại.
- Nhà nước CHXHCN Việt Nam mang tính giai cấp công nhân dựa trên
nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức, được dẫn dắt bởi CN Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bản chất giai cấp của Nhà nước CHXHCNVN được thể hiện rõ nhất ở
đặc điểm là được đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng Cộng Sản
- đội tiên phong của giai cấp công nhân.
- Bản chất Nhà nước CHXHCN Việt Nam còn thể hiện ở tính đại đoàn kết
dân tộc. Năm mươi tư dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, trải qua quá
trình lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước đã tạo nên một
khối đại đoàn kết dân tộc bền vững. Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà
nước đại diện cho ý chí và quyền lợi của tất cả các dân tộc không phân biệt địa
3
bàn cư trú, quy mô dân số, tổ chức để các dân tộc anh em cùng “kề vai, sát
cánh” xây dựng một nước Việt Nam “độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ”, từng bước đi lên CNXH.
- Bản chất Nhà nước CHXHCN Việt Nam thể hiện ở tính nhân dân sâu
sắc.
Bản chất giai cấp của Nhà nước ta không mâu thuẫn với tính dân tộc và
tính nhân dân sâu sắc. Bởi vì, ý chí và lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động nói chung ở Việt
Nam có tính thống nhất cao. Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
- Bản chất của Nhà nước CHXHCN Việt Nam thể hiện ở tính thời đại.
Xu thế chung hiện nay trên trường quốc tế là hoà bình, hữu nghị, hợp tác
và cùng tiến bộ. Nhà nước CHXHCN Việt Nam thực hiện nhất quán chính
sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng hợp tác, giao lưu với tất cả các nước trên thế
giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội, trên cơ sở tôn trọng độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau; hợp tác trên nguyên tắc bình đẳng, các bên cùng có lợi; Tích cực ủng hộ
và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
2. Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.1. Khái niệm bộ máy nhà nước.

Nhà nước CHXHCN Việt Nam là tổ chức quyền lực chính trị của nhân
dân Việt Nam, đại diện cho nhân dân thực hiện quản lý thống nhất mọi mặt
của đời sống xã hội trên các lĩnh vực đối nội và đối ngoại (kinh tế, văn hóa –
xã hội, quốc phòng, an ninh…). Để thực hiện được những nhiệm vụ đó, đòi
hỏi phải lập ra hệ thống các cơ quan nhà nước. Mỗi cơ quan nhà nước là một
bộ phận cấu thành bộ máy nhà nước, đảm nhận những chức năng, nhiệm vụ
nhất dịnh, có cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động phù hợp với tính chất
các chức năng, nhiệm vụ được trao. Cùng với những chức năng, nhiệm vụ,
nhà nước còn trao cho các cơ quan những thẩm quyền tương ứng. Các cơ quan
nhà nước sử dụng thẩm quyền vào việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
mình theo quy định của pháp luật. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà
nước tuỳ thuộc vào tính chất của các chức năng, nhiệm vụ được giao nhưng
4
phải dựa trên những nguyên tắc chung, đảm bảo tính thống nhất của bộ máy
nhà nước.
Như vậy, bộ máy nhà nước là hệ thống thống nhất các cơ quan nhà
nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật, dựa trên những
nguyên tắc chung nhằm thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của nhà
nước.
2.2. Khái niệm về cơ quan nhà nước
Các chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước nói chung được thực hiện
thông qua các cơ quan nhà nước cụ thể. Nếu như nhà nước là một khái niệm
tương đối “trừu tượng” thì cơ quan nhà nước là một khái niệm cụ thể. Cơ quan
nhà nước là các bộ phận cấu thành nên bộ máy nhà nước. Đặc điểm cơ bản
của các cơ quan nhà nước là hoạt động của nó mang tính quyền lực nhà nước
và được đảm bảo hiệu lực bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Quyền lực
của mỗi cơ quan nhà nước là “quyền được trao” (thẩm quyền) tuỳ thuộc vào vị
trí, chức năng, nhiệm vụ của nó trong bộ máy nhà nước.
Như vậy, có thể hiểu cơ quan nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ
máy nhà nước, gồm một tập thể người (hoặc một người) được trao quyền

lực, thông qua các công cụ, hình thức và phương pháp cần thiết để thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ nhất định trên cơ sở pháp luật.
Cơ quan nhà nước ở Việt Nam có các đặc điểm cơ bản sau:
- Các cơ quan nhà nước được thành lập theo những trình tự, thủ tục chặt
chẽ được pháp luật quy định;
- Cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
- Hoạt động của cơ quan nhà nước mang tính quyền lực và được bảo đảm
bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước, các hoạt động đó phải tuân theo
những hình thức, thủ tục do pháp luật quy định;
- Những người đảm nhiệm chức trách trong các cơ quan nhà nước phải là
công dân Việt Nam.
2.3. Hệ thống các cơ quan trong bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
2.3.1. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội
được xác định là “cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
5
nhà nước cao nhất của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, do đó
Quốc hội thể hiện tính đại diện nhân dân và tính quyền lực nhà nước trong tổ
chức và hoạt động của mình.
Thông qua hoạt động của mình, Quốc hội thể chế hóa ý chí của nhân dân
thành ý chí nhà nước, thể hiện trong Hiến pháp, luật, các nghị quyết, mang
tính bắt buộc thực hiện đối với mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, tập trung quyền lực
nhà nước, thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, nhưng không
phải là cơ quan độc quyền. Hiến pháp và pháp luật quy định cho Quốc hội có
các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn như sau (Theo Điều 83 Hiến pháp 1992
sửa đổi):
- Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Đây là
chức năng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp luật cao

nhất, điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản nhất, tạo nên nền tảng của thể chế
xã hội.
Các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan khác của nhà nước ban
hành phải dựa trên cơ sở Hiến pháp, luật để thực hiện Hiến pháp, luật và bảo
đảm tính thống nhất của pháp luật.
- Quốc hội quyết định những vấn đề cơ bản nhất về đối nội và đối ngoại
của đất nước: các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất
nước. Những vấn đề này có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển toàn diện của
đất nước cũng như duy trì trật tự, ổn định xã hội.
- Quốc hội xác định các nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước, trực tiếp thành lập các cơ quan quan trọng trong bộ máy nhà
nước; trực tiếp bầu, bổ nhiệm các chức vụ cao nhất trong các cơ quan nhà
nước ở Trung ương.
- Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền giám sát tối cao toàn bộ hoạt động
của bộ máy nhà nước, giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Hoạt
động giám sát của Quốc hội được thực hiện thông qua việc nghe báo cáo công
tác của các cơ quan tối cao của nhà nước, thông qua hoạt động của các cơ
quan Quốc hội, đại biểu Quốc hội, thông qua các hình thức chất vấn của đại
biểu Quốc hội đối với những đối tượng xác định trong bộ máy nhà nước.
6
Cơ cấu tổ chức của Quốc hội gồm: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội
đồng dân tộc, các Uỷ ban Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu
Quốc hội.
2.3.2. Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nhà nước trong các
quan hệ đối nội và đối ngoại (Điều 101, 103 Hiến pháp 1992 sửa đổi).
Chủ tịch nước có phạm vi quyền hạn khá rộng, bao quát nhiều lĩnh vực
của đời sống chính trị, xã hội.
Trong tổ chức nhân sự của bộ máy nhà nước, Chủ tịch nước có quyền
quan trọng về tổ chức nhân sự của bộ máy hành pháp và tư pháp: đề nghị

Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính
phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao; Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính Phủ; Bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao, Phó viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tói cao…
Trong lĩnh vực an ninh quốc gia, Chủ tịch nước thống lĩnh các lực lượng
vũ trang và giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; quyết định
phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao và cấp hàm trong các lĩnh vực khác...
Quyền hạn của Chủ tịch nước còn thể hiện trên lĩnh vực ngoại giao; quyết
định vấn đề thôi, nhập quốc tịch; vấn đế đặc xá…
Khi thực hiện quyền hạn, Chủ tịch nước ban hành Lệnh, Quyết định.
2.3.3. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hệ thống các cơ quan thực thi quyền hành pháp có Chính phủ và Uỷ ban
nhân dân các cấp. Trong đó Chính phủ được xác định là “Cơ quan chấp hành
của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 109, Hiến pháp 1992 Sửa đổi).
Là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Chính phủ chịu sự giám sát của
Quốc hội; chấp hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh,
nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch
nước; trong hoạt động Chính phủ phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Quy định trên
bảo đảm tính tập trung, thống nhất của quyền lực nhà nước vào cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất là Quốc hội.
7
Với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của cả nước, Chính
phủ có chức năng thống nhất quản lý tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội;
lãnh đạo thống nhất bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở về
tổ chức cán bộ; bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật; quản lý việc xây
dựng kinh tế quốc dân, thực hiện chính sách tài chính tiền tệ quốc gia; quản lý

y tế, giáo dục; quản lý ngân sách nhà nước; thi hành các biện pháp cần thiết
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; quản lý công tác đối ngoại; thực
hiện chính sách xã hội...
Những quy định trên bảo đảm cho Chính phủ phát huy được vai trò là cơ
quan đứng đầu hệ thống hành chính nhà nước. Trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn, Chính phủ có quyền giải quyết công việc với tính sáng
tạo, chủ động, linh hoạt trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đã được
pháp luật quy định...
Chính phủ có quyền tham gia vào hoạt động lập pháp bằng quyền trình
dự án luật trước Quốc hội, dự án pháp lệnh trước Ủy ban Thường vụ Quốc
hội; trình Quốc hội các dự án kế hoạch, ngân sách nhà nước và các dự án khác
(Điều 112, Hiến pháp 1992).
Chính phủ theo Hiến pháp 1992 có Thủ tướng Chính phủ, được quy định
là người đứng đầu Chính phủ, do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội,
các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ là thành
viên Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ lựa chọn, không nhất thiết phải là đại
biểu Quốc hội, và đề nghị Quốc hội phê chuẩn. Chính phủ không tổ chức ra cơ
quan thường vụ, mà một Phó Thủ tướng được phân công đảm nhận chức vụ
Phó Thủ tướng thường trực.
Trong hoạt động của Chính phủ, chế độ trách nhiệm tập thể, trách nhiệm
cá nhân được quy định rõ. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo
cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Thủ tướng Chính
phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước; đồng thời thực hiện chế độ báo cáo
trước nhân dân về những vấn đề quan trọng mà Chính phủ phải giải quyết. Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm trước Thủ
tướng Chính phủ, trước Quốc hội về lĩnh vực, ngành mình phụ trách.
Hiệu quả hoạt động của Chính phủ được bảo đảm bằng hiệu quả hoạt
động của tập thể Chính phủ, của Thủ tướng Chính phủ và từng thành viên
Chính phủ.

8
Trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, tập thể Chính phủ ban hành Nghị
quyết, Nghị định; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định, Chỉ thị; Bộ
trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ ban hành Quyết định, Chỉ thị, Thông tư.
2.3.4. Hội đồng nhân dân các cấp
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa
phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phưong và cơ quan nhà
nước cấp trên (Điều 119 Hiến pháp 1992 SĐ).
Trong quá trình hoạt động, Hội đồng nhân dân chịu sự giám sát, hướng
dẫn của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thông qua Uỷ ban thường vụ
Quốc hội; sự kiểm tra, hướng dẫn của Chính phủ; chịu trách nhiệm trước nhân
dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, Hội đồng
nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm
năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội,
củng cố quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống của nhân dân, làm tròn nghĩa
vụ đối với cả nước, giám sát hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân, Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám
sát thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, việc tuân theo Hiến pháp,
pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang và công dân ở địa phương. Để thực hiện những nhiệm vụ trên, Hội đồng
nhân dân ban hành Nghị quyết quyết định chủ trương, biện pháp thông qua
các hình thức hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban và Đại
biểu Hội đồng nhân dân, trong đó hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng
nhất là kỳ họp của Hội đồng nhân dân.
Kỳ họp của Hội đồng nhân dân là hoạt động duy nhất để ra các Nghị
quyết có ý nghĩa pháp lý. Thông qua kỳ họp, ý chí của nhân dân địa phương
trở thành quyết định của cơ quan quyền lực nhà nước cấp trên được bàn bạc
và các biện pháp thực hiện chúng được Hội đồng nhân dân vạch ra cụ thể,

quyền giám sát của Hội đồng nhân dân được thực hiện.
Hội đồng nhân dân họp thường lệ một năm hai kỳ. Trong trường hợp cần
thiết có thể họp bất thường. Các kỳ họp tiến hành công khai, theo trình tự, thủ
tục nghiêm ngặt dưới sự điều hành của Thường trực Hội đồng nhân dân (ở cấp
xã do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân chủ trì). Kết quả kỳ họp
9
thể hiện bằng Nghị quyết do Chủ tịch Hội đồng nhân dân cùng cấp ký chứng
thực.
2.3.5. Ủy ban nhân dân các cấp
Theo quy định của Hiến pháp 1992 (SĐ), Uỷ ban nhân dân do Hội đồng
nhân dân bầu ra, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương.
Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, Luật, các văn
bản của cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Theo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, Uỷ
ban nhân dân có nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội ở địa phương. Thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục pháp
luật, kiểm tra việc chấp hành Hiến pháp, Luật, các văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp tại các cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang; bảo đảm an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện xây dựng lực lượng vũ trang và xây
dựng quốc phòng toàn dân; quản lý hộ khẩu, hộ tịch, quản lý công tác tổ chức,
biên chế, lao động tiền lương; tổ chức thu chi ngân sách của địa phương theo
quy định của pháp luật…
Thành phần của Uỷ ban nhân dân có Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các
Uỷ viên, trong đó Chủ tịch phải là Đại biểu Hội đồng nhân dân cùng cấp, do
Hội đồng nhân dân bầu (trừ trường hợp được thay đổi giữa nhiệm kỳ theo quy
định tại Điều 119 Luật Tổ chức HĐND & UBND năm 2003). Các chức danh
khác trong Uỷ ban nhân dân không nhất thiết phải là Đại biểu Hội đồng nhân
dân.

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là người lãnh đạo và điều hành công việc của
Uỷ ban nhân dân, chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn và cùng với tập thể Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm về hoạt động của
Uỷ ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và trước cơ quan nhà
nước cấp trên.
Chủ tịch Uỷ ban phân công công tác cho các Phó Chủ tịch và các thành
viên khác của Uỷ ban nhân dân; những người được phân công phải chịu trách
nhiệm về phân công việc của mình trước Chủ tịch, trước Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân cùng cấp và cùng với các thành viên khác chịu trách nhiệm
trước Hội đồng nhân dân cấp mình và trước cơ quan nhà nướccấp trên.
10
Uỷ ban nhân dân thảo luận tập thể, quyết định theo đa số những vấn đề
lớn của địa phương. Uỷ ban nhân dân được ban hành Quyết định và Chỉ thị để
thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình. Uỷ ban nhân dân có các cơ quan
chuyên môn để giúp thực hiện những chức năng quản lý nhà nước ở địa
phương và bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực từ trung
ương đến cơ sở.
2.3.6. Toà án nhân dân.
Toà án nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp luật thông qua hoạt
động xét xử. Đây là chức năng riêng có của các Toà án. Điều 127, Hiến pháp
1992(SĐ) quy định: “Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa
phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan
xét xử của nhà nước CHXHCNVN”.
Hoạt động xét xử của các Toà án có đặc điểm sau đây:
- Nhân danh Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, căn cứ vào
pháp luật của nhà nước đưa ra phán xét, quyết định cuối cùng nhằm giải quyết
các vụ án, tranh chấp phát sinh trong các quan hệ xã hội; là sự thể hiện trực
tiếp thái độ, quan điểm của nhà nước đối với các vấn đề xã hội.
- Xét xử nhằm ổn dịnh trật tự pháp luật, giữ vững kỷ cương xã hội, bảo
đảm tự do, an toàn của con người, làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội.

- Xét xử mang nội dung giáo dục pháp luật với bản thân đương sự cũng
như với xã hội, nâng cao ý thức pháp luật cho mỗi cá nhân, công dân, từ đó họ
có được những hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật trong các mối quan
hệ xã hội, tạo ra tinh thần tích cực đấu tranh của công dân phòng, chống các
hành vi vi phạm pháp luật.
Cơ cấu tổ chức của hệ thống Toà án gồm: Toà án nhân dân tối cao, Toà
án nhân dân cấp tỉnh, Toà án nhân dân cấp huyện; Toà án quân sự Trung
ương, Toà án quân sự quân khu, toà án quân sự khu vực, và các Toà án khác
được thành lập theo quy định của pháp luật.
Hiến pháp và Luật tổ chức Toà án nhân dân quy định các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của Toà án.
- Về nguyên tắc tổ chức, các Toà án được tổ chức theo các nguyên tắc
sau:
11
+ Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ và
có thể bị miễn nhiệm, cách chức nếu không hoàn thành nhiệm vụ.Thực hiện
nguyên tắc này nhằm tạo điều kiện cho thẩm phán công tác ổn định trong
khoảng thời gian hợp lý, có điều kiện tích luỹ kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng,
nghiệp vụ, và bảo đảm tính độc lập, chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử.
+ Việc xét xử của Toà án nhân dân có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân
theo quy định của pháp luật.
+ Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Nguyên tắc này đòi hỏi việc xét xử được tiến hành bởi một Hội đồng và
khi quyết định phải tiến hành theo nguyên tắc đa số. Thực hiện nguyên tắc này
nhằm đảm bảo tính đúng đắn, thận trọng của các quyết định xét xử.
+ Các Chánh án Toà án nhân dân phải chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác trước các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
Các nguyên tắc xét xử của Toà án nhân dân.
+ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập chỉ tuân theo
pháp luật.

+ Toà án xét xử công khai, trừ những trường hợp đặc biệt do pháp luật
quy định. Trong trường hợp xử kín, kết quả phiên toà cũng phải được công bố
công khai.
+ Toà án bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và quyền được bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Thực hiện nguyên tắc này nhằm
đảm bảo tính dân chủ của phiên toà, bảo đảm cho công dân có điều kiện bảo
vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời góp phần làm cho quá
trình xét xử được khách quan, toàn diện.
+ Các bản án, quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật
phải được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh. Trong trường hợp cần thiết
để đảm bảo thi hành các bản án, quyết định của toà án, nhà nước thực hiện
những biện pháp cưỡng chế tương ứng.
2.3.7. Viện kiểm sát nhân dân.
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật (Điều 137 Hiến pháp
1992 SĐ).
12
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình bằng
công tác sau đây:
Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Điều tra một số loại tội
xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan
tư pháp; Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc xét xử các vụ án hình sự; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao
động và những việc khác theo quy định của pháp luật; Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết định của Toà án nhân dân; Kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý, giáo dục
người chấp hành án phạt tù.

Về tổ chức, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân gồm có:
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Các Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc
tỉnh;
- Các Viện kiểm sát quân sự.
Cơ cấu tổ chức của mỗi Viện kiểm sát được quy định trong Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày
02 tháng 4 năm 2002.
Các Viện kiểm sát nhân dân tạo thành một hệ thống, tổ chức và hoạt động
theo các nguyên tắc được Hiến pháp quy định, bao gồm:
- Viện Kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp trên; Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh
đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh,
Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương thành lập Uỷ ban kiểm sát để
thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng theo quy định của
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.
3. Quan điểm, phương hướng kiện toàn bộ máy Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
13
Trải qua quá trình hình thành và phát triển, Nhà nước ta luôn giữ một vai
trò lịch sử quan trọng trong mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tuy
nhiên, trong điều kiện đổi mới hiện nay bộ máy nhà nước đã tỏ ra cồng kềnh,
chứa đựng nhiều yếu tố chưa hợp lý, chất lượng và hiệu quả hoạt động trên
một số lĩnh vực còn thấp; Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và chế độ trách
nhiệm của cơ quan nhà nước và người đứng đầu chưa thật rõ, còn chồng chéo,
mâu thuẫn; Cơ chế vận hành và nhiều mối quan hệ còn bất hợp lý; đội ngũ cán
bộ, công chức còn hạn chế cả về năng lực chuyên môn và tinh thần trách

nhiệm…
Những yếu kém, bất cập đó dẫn đến hiệu lực và hiệu quả hoạt động của
bộ máy nhà nước chưa cao, công tác quản lý đất nước, nhất là quản lý về kinh
tế còn lúng túng, vướng mắc, sản xuất tuy có tăng nhưng vẫn có nguy cơ tụt
hậu, tài nguyên đất nước chưa được khai thác tốt, hiệu quả đầu tư thấp, quan
hệ sản xuất chậm được củng cố, vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh chưa
cao, các thành phần kinh tế khác chưa phát huy hết tiềm năng, tình trạng vi
phạm pháp luật tại các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội còn nặng, trật tự xã
hội, kỷ cương chưa được đảm bảo, quyền làm chủ của nhân dân chưa được đề
cao.
Thực trạng trên đặt ra yêu cầu cấp thiết xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà
nước, làm cho bộ máy nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả hoạt động, phát huy tốt và đầy đủ hơn quyền làm chủ của nhân
dân.
Xây dựng, kiện toàn nhà nước vững mạnh, trong sạch cần quán triệt các
quan điểm cơ bản sau:
- Xây dựng Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo trên cơ sở chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kiên định con đường lên chủ nghĩa xã hội,
bảo đảm tính giai cấp công nhân gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc, tính nhân
dân của Nhà nước ta, phát huy đầy đủ tính dân chủ trong mọi sinh hoạt của
Nhà nước, xã hội.
- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện ba quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp.
14
- Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của Nhà nước nhằm tăng cường sự lãnh đạo điều hành tập trung thống nhất
của trung ương, đồng thời phát huy trách nhiệm và tính năng động, sáng tạo

của địa phương, khắc phục khuynh hướng phân tán cục bộ và tập trung
quan liêu, mỗi cấp, ngành đều có thẩm quyền, trách nhiệm được phân định
rõ.
- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng
giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa.
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng dối với Nhà nước.
Trong tiến trình đổi mới hiện nay, cùng với việc tiếp thu những giá trị của
nhân loại, từ nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, Đảng ta đã đưa ra nội
dung xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với ̀5 đặc
trưng cơ bản sau đây:
Một là, Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực thuộc về
nhân dân.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công rành mạch và
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
Ba là, nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp
luật và bảo đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều
chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bốn là, Nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền con người, quyền công
dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa nhà nước và công dân; thực hành dân
chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
Năm là, nhà nước Pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, đồng thời đảm bảo sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã
hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên.
Văn kiện Đại hội X của Đảng chỉ rõ:”Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà
nước Pháp quyền XHCN, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều
thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp giữu các cơ quan trong viẹc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp”.

Để thực hiện phương hướng kiện toàn bộ máy nhà nước ta theo hướng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần tập trung vào các nhiệm vụ và giải
pháp sau đây:
15
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các văn
bản quy phạm pháp luật.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật, tạo ra sự đồng bộ, thống
nhất giữa hoạt động lập pháp và lập quy.
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội:
+ Hoàn thiện cơ chế bầu cử để nâng cao chất lượng đại biểu quốc hội.
+ Tăng hợp lý số lượng đại biểu chuyên trách:
+ Phát huy tốt vai trò của đại biểu và đoàn đại biểu quốc hội
+ Tổ chức lại một số Uỷ ban Quốc hội, nâng cao chất lượng hoạt động
của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội.
+ Đổi mới hơn nữa quy trình và phương pháp xây dựng pháp luật, khắc
phục tình trạng luật chậm đi vào cuộc sống vì phải chờ pháp lệnh, nghị định,
thông tư hướng dẫn...
+ Thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của
đất nước và chức năng giám sát tối cao của Quốc hội
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ:
+ Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của
Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất,
thông suốt, hiện đại.
+ Luật hoá cơ cấu tổ chức Chính phủ, tổ chức các Bộ theo hướng Bộ
quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm hiệu lực, tinh gọn và hợp lý.
+ Cơ cấu lại các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước theo hướng
giảm mạnh cấp phó, bỏ cấp trung gian, chuyển bộ phận phục vụ sang hợp
đồng dịch vụ.
+ Nghiên cứu cơ chế thủ trưởng cơ quan hành chính cấp trên bổ nhiệm
người đứng đầu cơ quan hành chính cấp dưới.

+ Tách hoạt động hành chính với hoạt động dịch vụ
+ Thành lập cơ quan tài phán hành chính để giải quyết khiếu kiện hành
chính.
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp:
+ Xây dựng cơ quan Tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, quyền con người.
+ Đẩy mạnh thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
+ Các phiên tòa xét xử phải bảo đảm tranh tụng công khai, đúng pháp
luật, bảo đảm tính độc lập của các cơ quan tham gia tố tụng.
+ Tăng thẩm quyền xét xử của tòa án cấp huyện
16
+ Có chiến lược chuyển Viện Kiểm Sát thành Viện Công Tố
+ Tăng thẩm quyền cho điều tra viên, thu gom đầu mối cơ quan điều tra
+ Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt
động lập pháp, hành pháp, tư pháp
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND các cấp:
+ Nâng cao tính thực quyền của HĐND, vai trò giám sát của HĐND
+ Phát huy hiệu lực, hiệu quả điều hành của UBND trong phạm vi được
phân cấp
+ Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, có sự phân định giữa chính
quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo.
Câu hỏi ôn tập:
1. Phân tích để làm rõ bản chất của Nhà nước CHXHCN Việt Nam?
2. Trình bày các quan điểm của Đảng về xây dựng, kiện toàn nhà nước
vững mạnh, trong sạch ở nước ta hiện nay?
3. Trình bày các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam?
17
CHUYÊN ĐỀ 2:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.

1. Khái niệm chung về quản lý hành chính nhà nước.
1.1. Khái niệm quản lý
Dưới góc độ khoa học, khái niệm về “quản lý” có nhiều cách tiếp cận khác
nhau. Với ý nghĩa thông thường, phổ biến thì quản lý có thể hiểu là hoạt động
tác động một cách có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý tới những
đối tượng quản lý để điều chỉnh chúng vận động và phát triển theo những
mục tiêu nhất định đã đề ra.
Với cách hiểu trên, quản lý bao gồm các yếu tố sau:
- Chủ thế quản lý: là tác nhân tạo ra các tác động quản lý. Chủ thể có thể là
cá nhân hoặc tổ chức. Chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý bằng các
công cụ, hình thức và phương pháp thích hợp, cần thiết và dựa trên cơ sở
những nguyên tắc nhất định.
- Đối tượng quản lý (khách thể quản lý): Tiếp nhận sự tác động của chủ thể
quản lý.
- Mục tiêu quản lý: là cái đích cần phải đạt tới tại một thời điểm nhất định
do chủ thể quản lý đề ra. Đây là căn cứ để chủ thể quản lý thực hiện các tác
động quản lý cũng như lựa chọn các hình thức, phương pháp thích hợp.
1.2. Khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước, gắn với
chức năng, vai trò của nhà nước trong xã hội có giai cấp. Quản lý nhà nước
tiếp cận với nghĩa rộng nhất bao gồm toàn bộ các hoạt động: hoạt động lập
18
pháp của cơ quan lập pháp, hoạt động hành chính (chấp hành và điều hành)
của hệ thống hành pháp và hoạt động tư pháp của hệ thống tư pháp.
1.3. Quản lý hành chính nhà nước.
Trong quản lý nhà nước nói chung, hoạt động quản lý hành chính là hoạt
động có vị trí trung tâm, chủ yếu. Đây là hoạt động tổ chức và điều hành để
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cơ bản nhất của nhà nước trong quản lý xã
hội.
Có thể hiểu quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền

hành pháp của nhà nước, đó là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng
quyền lực nhà nước trên cơ sở pháp luật đối với hành vi hoạt động của con
người và các quá trình xã hội, do các cơ quan trong hệ thống hành chính
nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những mục tiêu,
chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Định nghĩa trên có ba nội dung cơ bản:
- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp:
hành pháp là một trong ba nhánh quyền lực của nhà nước: Lập pháp, hành
pháp và tư pháp.
- Quản lý hành chính là sự tác động có tổ chức và có định hướng: Trong
quản lý hành chính nhà nước, chức năng tổ chức rất quan trọng,vì không có tổ
chức thì không thể quản lý được. Nhà nước phải tổ chức cả triệu người và mỗi
người đều có vị trí tích cực đối với xã hội, đóng góp phần của mình để tạo ra
lợi ích cho xã hội. Quản lý hành chính nhà nước có tính định hướng vì thông
qua tác động quản lý của mình các chủ thể quản lý hành chính nhà nước định
hướng hành vi con người và các quá trình xã hội theo những quỹ đạo, mục
tiêu nhất định.
- Quản lý hành chính nhà nước được tiến hành trên cơ sở pháp luật và theo
nguyên tắc pháp chế: Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi
quyền lực nhà nước, sử dụng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước nhưng phải
trong khuôn khổ của pháp luật. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của
nhà nước pháp quyền.
19
2. Các tính chất và đặc điểm cơ bản của quản lý hành chính nhà nước
ở nước ta.
2.1. Các tính chất cơ bản của quản lý hành chính nhà nước
2.1.1. Tính chính trị xã hội chủ nghĩa.
Nền hành chính nhà nước là bộ phận quan trọng trong hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa, là công cụ để thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trong xã hội. Hoạt động hành chính nhà nước

nhằm thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng để đạt được
những mục tiêu chính trị của quốc gia.
2.1.2. Tính dân chủ xã hội chủ nghĩa
Bản chất của nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do đó nhân dân là chủ thể tối cao của
đất nước. Tuy nhiên, Nhà nước xã hội chủ nghĩa được nhân dân uỷ quyền,
thay mặt nhân dân thực hiện quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội một
cách tập trung, thống nhất. Hoạt động hành chính nhà nước phải chịu sự kiểm
tra, giám sát của nhân dân, phải đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân
trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
2.1.3. Tính khoa học và nghệ thuật.
Trong quá trình phát triển của xã hội, hoạt động quản lý không chỉ là một
khoa học mà còn là một nghệ thuật. Quản lý là một khoa học vì nó có tính quy
luật, có các nguyên lý và các mối quan hệ tương hỗ với các môn khoa học
khác. Quản lý là một nghệ thuật vì nó gắn với tài nghệ, bản lĩnh, nhân cách, trí
tuệ, kinh nghiệm... của người quản lý.
Quản lý hành chính nhà nước là biểu hiện quan trọng và tập trung nhất của
toàn bộ hoạt động của nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế và đời sống
xã hội. Chính vì vậy, người cán bộ, công chức phải có kiến thức về những quy
luật khách quan của hoạt động quản lý nói chung và quản lý nhà nước nói
riêng.
20
2.1.4. Tính chất bao quát ngành, lĩnh vực.
Đối tượng của quản lý hành chính nhà nước là tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng... Quản lý
hành chính nhà nước không chỉ là tổ chức, điều chỉnh từng lĩnh vực mà còn
phải liên kết, phối hợp các lĩnh vực thành một thể thống nhất để đảm bảo xã
hội phát triển đồng bộ, cân đối, có hiệu quả đáp ứng nhu cầu của các thành
viên trong xã hội. Tuy nhiên, quản lý toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội
không có nghĩa là các cơ quan hành chính nhà nước can thiệp vào mọi khía

cạnh, mọi quan hệ xã hội mà chỉ điều chỉnh, tác động vào các quan hệ xã hội
đã được pháp luật xác định.
2.2. Các đặc điểm cơ bản của quản lý hành chính nhà nước.
Khi nói đến đặc điểm của quản lý hành chính nhà nước là nói đến những
nét đặc thù của quản lý hành chính nhà nước để phân biệt với các dạng quản lý
xã hội khác. Với cách tiếp cận như trên, quản lý hành chính nhà nước dưới chế
độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta có các đặc điểm cơ bản sau đây:
- Quản lý hành chính nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ
chức cao và tính mệnh lệnh đơn phương của nhà nước.
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước luôn mang tính quyền lực nhà
nước và được đảm bảo bằng sức mạnh của nhà nước. Tính quyền lực là đặc
điểm cơ bản nhất để phân biệt hoạt động quản lý hành chính nhà nước với các
hoạt động quản lý mang tính xã hội khác.
- Quản lý hành chính nhà nước có mục tiêu chiến lược, có chương trình
và có kế hoạch để thực hiện mục tiêu.
Trong quản lý, việc đề ra mục tiêu được coi là chức năng đầu tiên và cơ
bản. Mục tiêu quản lý là căn cứ để các chủ thể quản lý đưa ra những tác động
thích hợp với những hình thức và phương pháp phù hợp. Để đạt mục tiêu mà
Đảng đề ra, các cơ quan hành chính nhà nước cần phải xây dựng chương trình
kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn và tổ chức thực hiện.
- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành - điều hành trên
cơ sở pháp luật nhưng có tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong việc
điều hành và xử lý các công việc cụ thể.
21
- Quản lý hành chính nhà nước có tính liên tục và tương đối ổn định
trong tổ chức và hoạt động.
Nền hành chính nhà nước có nghĩa vụ phục vụ nhân dân một cách thường
xuyên cho nên quản lý hành chính nhà nước phải đảm bảo tính liên tục để thoả
mãn nhu cầu hàng ngày của nhân dân, của xã hội và phải có tính ổn định cao
để đảm bảo hoạt động không bị gián đoạn trong bất kỳ tình huống chính trị -

xã hội nào.
- Quản lý hành chính nhà nước có tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ, là một
hệ thống thông suốt từ Trung uơng đến cơ sở, cấp dưới phục tùng cấp trên,
thực hiện mệnh lệnh và chịu sự kiểm tra thường xuyên của cấp trên (đặc
điểm này có điểm khác với hệ thống các cơ quan dân cử và hệ thống các cơ
quan xét xử).
- Quản lý hành chính nhà nước dưới chế độ XHCN không có sự cách biệt
tuyệt đối về mặt xã hội giữa người quản lý và người bị quản lý. Bởi vì, thứ
nhất, trong quản lý xã hội thì con người vừa là chủ thể vừa là đối tượng của
quản lý. Mặt khác, dưới chế độ CNXH, nhân dân là chủ thể quản lý đất nước.
- Quản lý hành chính nhà nước XHCN mang tính không vụ lợi. Hoạt
động quản lý hành chính nhà nước XHCN không chạy theo lợi nhuận mà
nhằm phục vụ lợi ích công, lợi ích nhân dân
- Quản lý hành chính nhà nước XHCN mang tính nhân đạo. Xuất phát từ
bản chất nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa, tất cả các hoạt động của nền hành
chính nhà nước đều có mục tiêu phục vụ con người, tôn trọng quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân và lấy đó làm xuất phát điểm của hệ thống pháp luật,
thể chế, quy tắc và thủ tục hành chính.
3. Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước là những tư tưởng chỉ đạo mọi
hành động, hành vi quản lý của các cơ quan và cán bộ, công chức trong quá
trình thực thi chức năng, nhiệm vụ.
Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước được hình thành dựa trên cơ sở
nhận thức các quy luật khách quan, qua kết quả nghiên cứu sâu sắc các điều
kiện thực tế xã hội, dựa trên bản chất chính trị xã hội của nhà nước trong thời
22
gian, không gian và hoàn cảnh cụ thể. Xuất phát từ bản chất của chế độ chính
trị, từ thực tiễn xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trên cơ sở
nghiên cứu có chọn lọc những thành tựu của hành chính học và kinh nghiệm
của các nước khác, có thể rút ra được những nguyên tắc quản lý hành chính

chủ yếu ở nước ta như sau :
3.1. Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng
và đảm bảo sự tham gia, kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với quản lý
hành chính nhà nước.
Đảng lãnh đạo hoạt động quản lý hành chính nhà nước trước hết bằng việc
đề ra đường lối, chủ trương, chính sách.
Đảng lãnh đạo thông qua công tác tổ chức và cán bộ. Đảng đào tạo, lựa
chọn, giới thiệu cán bộ cho các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, lãnh
đạo việc sắp xếp, bố trí cán bộ.
Đảng chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết Đảng cũng như pháp
luật của nhà nước trong các hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Đảng lãnh đạo quản lý nhà nước nhưng không làm thay các cơ quan nhà
nước. Chính vì vậy, việc phân định chức năng lãnh đạo của các cơ quan Đảng
và chức năng quản lý của cơ quan nhà nước là vấn đề vô cùng quan trọng và
cũng là điều kiện cơ bản để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực,
hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay.
Sự tham gia của nhân dân vào quyền lực chính trị là một trong những đặc
trưng cơ bản của chế độ dân chủ. Quyền tham gia vào hoạt động thực hiện
quyền lực nhà nước của nhân dân được quy định tại điều 53 Hiến pháp 1992:
“Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận
các vấn đề chung của nhà nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà
nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”.
Nhân dân có quyền tham gia vào quản lý nhà nước một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp, tham gia giải quyết những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước, địa
phương hoặc đơn vị. Ngoài việc tham gia biểu quyết khi nhà nước tổ chức
trưng cầu dân ý, những hình thức tham gia trực tiếp khác của nhân dân vào
quản lý nhà nước là: Thảo luận, góp ý kiến vào quá trình xây dựng những đạo
luật hoặc các quyết định quan trọng khác của nhà nước hoặc của địa phương;
23
kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước; thực hiện quyền khiếu

nại, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước... Nhân dân còn
gián tiếp tham gia vào quản lý nhà nước thông qua hoạt động của các cơ
quan, các đại biểu do mình bầu ra (Quốc hội, HĐND các cấp).
Một hình thức tham gia gián tiếp vào quản lý nhà nước rất quan trọng khác
là thông qua các tổ chức xã hội. Pháp luật Việt Nam trao cho các tổ chức xã
hội quyền tham gia thành lập các cơ quan nhà nước, quyền giám sát, phản biện
xã hội đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Để đảm bảo sự tham gia vào quản lý nhà nước của nhân dân có hiệu quả,
cần phải thể chế hoá các quyền đó một cách cụ thể, phát huy hơn nữa vai trò
của các đại biểu nhân dân và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân.
3.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng chỉ đạo tổ chức và hoạt động
của cả hệ thống chính trị, trong đó có nhà nước.
Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định trước hết sự lãnh đạo tập trung đối
với những vấn đề cơ bản chính yếu nhất, bản chất nhất. Sự tập trung đó đảm
bảo tính thống nhất của quyền lực nhà nước, đảm bảo thực hiện ý chí và bảo
vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Bên cạnh việc yêu cầu phải chấp
hành mệnh lệnh của cấp trên, cũng cần phải đảm bảo tính sáng tạo, quyền chủ
động nhất định của địa phương và cơ sở. Cấp trung ương giữ quyền thống
nhất quản lý những vấn đề cơ bản, đồng thời thực hiện phân cấp quản lý, giao
quyền hạn, trách nhiệm cho các địa phương, các ngành trong tổ chức quản lý
điều hành để thực hiện các văn bản của cấp trên. Điều 6 Hiến pháp 1992 quy
định tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà
nước.
Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước nguyên tắc tập trung dân
chủ được biểu hiện rất đa dạng trong nhiều lĩnh vực, nhiều cấp quản lý, từ vần
đề tổ chức bộ máy đến cơ chế vận hành của bộ máy. Chẳng hạn như quan hệ
trực thuộc, chịu trách nhiệm và báo cáo của cơ quan quản lý hành chính nhà
nước trước cơ quan dân cử; phân định chức năng, thẩm quyền giữa các cơ

quan quản lý hành chính nhà nước các cấp; nguyên tắc “hai chiều trực thuộc”
24
đảm bảo kết hợp tốt quản lý theo ngành và theo lãnh thổ, kết hợp hài hòa lợi
ích của cả nước với lợi ích của từng địa phương...
Tổ chức và hoạt động quản lý hành chính nhà nước, là một thể thống nhất.
Tập trung dân chủ đối lập với xu hướng cơ quan cấp trên “làm thay” “lấn sân”
vào thẩm quyền của cơ quan cấp dưới, đồng thời phủ nhận việc cơ quan cấp
dưới ỷ lại, đùn đẩy cho cấp trên. Trong thực tiễn quản lý hiện nay, Đảng và
Nhà nước ta đang khắc phục bệnh tập trung quan liêu, đồng thời chống biểu
hiện tuỳ tiện, tự do vô chính phủ, cục bộ địa phương, cục bộ ngành.
3.3. Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước bằng pháp luật và tăng
cường pháp chế.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật và tăng cường pháp chế là một nguyên
tắc Hiến định. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi tổ chức và hoạt động quản lý hành
chính nhà nước đều phải dựa trên cơ sở pháp luật. Điều đó có nghĩa là hệ
thống hành chính nhà nước phải chấp hành luật và các quyết định của Quốc
hội trong chức năng thực hiện quyền hành pháp; Khi ban hành các quyết định
quản lý hành chính phải phù hợp với nội dung và mục đích của luật và các văn
bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn.
Để thực hiện nguyên tắc này, cần làm tốt các nội dung cơ bản sau:
- Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật.
- Tổ chức thực hiện tốt pháp luật đã ban hành
- Xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật
- Tăng cường giáo dục ý thức pháp luật cho toàn dân.
3.4. Nguyên tắc kết hợp quản lý hành chính theo ngành và theo lãnh thổ.
Quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ là hai mặt không tách rời nhau
mà phải được kết hợp chặt chẽ với nhau, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Các
đơn vị kinh tế thuộc thành phần kinh tế nào, nằm trên địa bàn quản lý đều
thuộc một ngành kinh tế - kỹ thuật nhất định và chịu sự quản lý của ngành
(Bộ). Mặt khác, các đơn vị kinh tế thuộc các ngành kinh tế - kỹ thuật khác

nhau đều được phân bổ trên những địa bàn nhất định, chúng có quan hệ mật
thiết với nhau về kinh tế và gắn bó với nhau trên các mặt xã hội, tạo nên một
25

×