Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Mối quan hệ giữa chính trị và pháp luật, vận dụng để giải thích mối quan hệ giữa nguyên tắc đảng lãnh đạo và nguyên tắc tòa án xét xử độ lập và chỉ tuân theo pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.51 KB, 15 trang )

DANH SÁCH THÀNH VIÊN
THAM GIA LÀM VIỆC NHÓM 9

STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

MSHV

TÊN

CHỮ KÝ


MỤC LỤC

I. Khái niệm chính trị, pháp luật và mối quan hệ giữa chúng………………………….1
1. Khái niệm chính trị…………………………………………………………………..1
2. Khái niệm pháp luật…………………………………………………………………2
3. Mối quan hệ giữa chính trị và pháp luật……………………….…………………….4
II. Vận dụng giải thích mối quan hệ giữa nguyên tắc Đảng lãnh đạo và nguyên tắc Tòa
án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật…………………………………………...6
1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo…………………………………………………………..6


2. Nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật……………………….7
3. Giải thích mối quan hệ giữa nguyên tắc Đảng lãnh đạo và nguyên tắc Tòa án xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật……………………………………………………...9


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và
nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học), Nxb. Lý luận Chính trị, Hà
Nội.
2. Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Công
an Nhân dân, Hà Nội.
Website
3. />option=com_content&view=article&catid=309:s-kcb-nckh&id=10356:s-kcbnckh&Itemid=357
4. />5. />

4

Đề bài: “Mối quan hệ giữa chính trị và pháp luật, vận dụng để giải thích mối
quan hệ giữa nguyên tắc Đảng lãnh đạo và nguyên tắc Tòa án xét xử độ lập và chỉ
tuân theo pháp luật.”


5

I. Khái niệm chính trị, pháp luật và mối quan hệ giữa chúng.
1. Khái niệm chính trị
Thuật ngữ “Chính trị” có lẽ được nhắc đến lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại
bởi nhà triết học Hi Lạp cổ đại Aristotle, đặc biệt đó còn là tựa đề của một tác phẩm
nổi tiếng, có nhiều ảnh hưởng của ông – cuốn “Politics” (Chính trị luận). Tuy nhiên

“Chính trị” và các vấn đề chính trị cơ bản như quyền lực và tổ chức nhà nước cũng đã
được tiếp cận trước đó bởi các triết gia khác như Khổng Tử, Plato 1…
“Chính trị” trong tiếng Hi Lạp là “Politica” với nghĩa: Công việc của nhà nước
hay xã hội, là phạm vi hoạt động gắn liền với các giai cấp, dân tộc, các nhóm xã hội
khác nhau mà hạt nhân của nó là giành, giữ, thực thi quyền lực nhà nước.
Trong triết học Ấn độ cổ đại, đạo Brahman (khoảng thiên niên kỷ I TCN) cho
rằng: “Chính trị là sự phân chia “Chung tính” – đẳng cấp xã hội. Sự phân chia có
tính chất thiện định của đẳng tối cao Brahman. Buộc mọi người phải phục tùng và
quy thuận”. Theo quan điểm của Phật giáo Ấn độ cổ đại, chính trị “là sự bất bình
đẳng giữa những con người và các tẩng lớp trong xã hội.”. Mặc dù nội dung khác
nhau nhưng quan điểm chính trị trong xã hội Ấn độ cổ đại đều mang màu sắc duy tâm
tôn giáo chịu sự chi phổi của tôn giáo để bảo hộ chế độ chiếm hữu nô lệ, phục vị cho
sự cai trị xã hội của giai cấp thống trị. 2
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, chính trị là một lĩnh vực thuộc
kiến trúc thường tầng, nó chịu sự chi phối bởi cơ sở hạ tầng đặc biệt là kinh tế, chính
trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, “Chính trị không thể giữ vị trí ưu tiên so với
kinh tế”. Dựa trên quan điểm của Mác, Lênin cho rằng, chính trị là lợi ích, là quan hệ
lợi ích, là đấu tranh giai cấp trước hết vì lợi ích giai cấp. Cái căn bản nhất của chính trị

1 />2 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc
chuyên ngành Triết học), Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội, Tr. 328.


6

là việc tổ chức chính quyền, quyền lực nhà nước; sự tham gia vào công việc nhà nước;
định hướng cho nhà nước, xác định hình thức, nội dung, nhiệm vụ của nhà nước.
Từ những quan niệm trình bày ở trên, có thể thấy chính trị “là hình thức hoạt
động cơ bản của các tổ chức cộng đồng người trong xã hội có giai cấp (như đẳng
phái, giai cấp, dân tộc..) để giành, giữa và thực thi quyền lực nhà nước nhằm thỏa

mãn các lợi ích của các tổ chức đó trong xã hội.”3
Chính trị mang các đặc điểm:
- Thứ nhất, nói đến chính trị là nói đến lợi ích, là quan hệ về lợi ích, là đấu tranh
giái cấp vì lợi ích giai cấp.
- Thứ hai, cái căn bản nhất của chính trị là tổ chức chính quyền nhà nước, là sự
tham gia vào công việc nhà nước, định hướng cho nhà nước xác định hình thức nhiệm
và nội dung của nhà nước.
- Thứ ba, chính trị là biêu hiện tập trung của kinh tế, là việc xây dựng nhà nước
về kinh tế. đồng thời chính trị không thể chiếm vị trí hàng đầu, liên quan đến vận
mệnh của hàng triệu người. Giải quyết các vấn đề chính trị vừa là khoa học vừa là
nghệ thuật.

3 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc
chuyên ngành Triết học), Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội, Tr. 334.


7

2. Khái niệm pháp luật
Lịch sử tư tưởng và khoa học pháp lý nhân loại từ xưa đến nay chưa có sự kiến
giải mang tính thống nhất về khái niệm pháp luật.
Ở Trung Quốc cổ đại tồn tại hai quan niệm quán trọng về pháp luật có sự khác
biệt rất lớn của phái Nho gia và Pháp gia. Theo phái Pháp gia, pháp tức là pháp luật,
đó là “…hiến lệnh công bố ở các công sở, thưởng hay phạt dân tin chắc là thi hành,
thưởng người cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo
pháp”. Pháp luật theo pháo Nho gia là thứ công cụ bất đắc dĩ phải có và chỉ thực sự
cần thiết mới sử dụng khi con người không còn luân thường đạo lý, vi phạm các
nguyên tắc, đạo làm người.
Theo quan niệm thần học, luật pháp được quy về cội nguồn của Thượng đế, do
Thượng đế tạo nên. Chẳng hạn, theo quan niệm thần thoại của người Ai Cập, nữ thần

Ma-át tượng trưng cho chân lý, công bằng xã hội và Tòa án. Với cách tiếp cận duy tâm
khách quan, He-ghen đã cho rằng pháp luật chính là sản phẩm hiện thực. Theo
ông :”pháp luật là ở chỗ tồn tại hiện có của ý chí tự do, do vậy pháp luật là tự do nói
chung như ý niệm”. Quan niệm của J.J.Rousseau, pháp luật là phương tiện để liên kết
các thành viên trong xã hội, đó chính là công ước chung của mọi người.
Quan điểm Mác-Lenin được xây dựng trên cơ sở triết học duy vật lịch dử đã
khẳng định về sự hiện diện khách quan của pháp luật trong đời sống xã hội có giai cấp.
Theo đó, pháp luật “là hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo mục tiêu, định
hướng cụ thể”. Với cách tiếp cận này, pháp luật chính là thứ chuẩn mực xã hội, là
thước đo của hành vi được hình thành bằng con đường của Nhà nước và mang tính
quyền lực Nhà nước.
Pháo luật mang những đặc điểm:
- Thứ nhất, pháp luật mang tính quyền lực Nhà nước: Pháp luật bao giờ cũng là
một hiện tượng xã hội mang tính giai cấp. Pháp luật trước hết và luôn luôn là hệ thống


8

các quy tắc xử sự thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền trong xã hội. So với các bộ
phận khác thuộc thượng tầng kiến trúc xã hội có các giai cấp như triết học, đạo đức,
tôn giáo, nghệ thuật…Thì tính giai cấp của pháp luật được thể hiện một cách mạnh
mẽ, trực tiếp, rõ ràng và sâu sắc.
- Thứ hai, pháp luật mang tính quy phạm phổ biến: Tính quy phạm là đặc trưng
vốn có của mọi pháp luật. Bởi pháp luật là hệ thống các quy tắc mang tính chất mẫu
mực, khuôn thước cho mọi người trong cách xử sự, chính thông qua những khuôn
mẫu, những mô hình xử sự chung đó mà người ta “đo” được hành vi của mình, người
ta biết được mình có thể và không cần phải làm gì, không được làm gì và phải làm như
thế nào ?
- Thứ ba, pháp luật mang tính bắt buộc chung: Pháp luật là những quy tắc chuẩn

mực về ứng xử của giai cấp thống trị, cho nên pháp luật mang tính bắt buộc chung.
Điều đó thể hiện ở chỗ: Việc thực hiện pháp luật không phụ thuộc vào ý kiến chủ quan
của mỗi người. Khi pháp luật được Nhà nước đặt ra thì dù muốn hay không muốn tất
cả mọi người trong trường hợp đó đều phải chấp hành một cách nghiêm chỉnh và triệt
để, không phân biệt giữa người này hay người khác.
- Thứ tư, pháp luật mang tính hệ thống: Pháp luật là hệ thống quy phạm và có
mỗi quan hệ hữu cơ với nhau.
- Thứ năm, pháp luật mang tính ý chí: Pháp luật là sản phẩm của ý thức con
người, nó hoàn toàn không phải là hiện tượng được áp đặt ngoài vào xã hội. Pháp luật
xuất hiện trên cơ sở nhu cầu của xã hội và thể hiện một cách chính thống ý chí của giai
cấp cầm quyền bằng con đường của Nhà nước.


9

3. Mối quan hệ giữa chính trị và pháp luật
Đây là mối quan hệ giữa hai yếu tố của kiến trúc thượng tầng. Mối liên hệ của
nó thông qua nhà nước, nhà nước nào cũng là nhà nước đại diện cho quyền lợi một
giai cấp nhất định, các giai cấp đấu tranh đều dựa trên chủ thuyết, một mục tiêu, một
lý tưởng nhất định. Chủ nghĩa Mác – Lênin dẫn dắt giai cấp công nhân. Nhà nước là
kết quả đấu tranh giai cấp nên nhà nước là thể chế biểu hiện của chính trị.
Mối liên hệ giữa chính trị và pháp luật là mối liên hệ tác động qua lại. Cụ thể:
- Thứ nhất, vai trò của pháp luật đối với chính trị: Pháp luật là hình thức, thể
hiện ý chí của giai cấp thống trị là công cụ để chuyển hoá ý chí của giai cấp thống trị
trở thành quy tắc xử sự chung, có tính bắt buộc với mọi người.
Nhà nước ban hành luật pháp nên luật pháp là công cụ của chính trị. Pháp luật
là những quy tắc xử sự chung của giai cấp công nhân và giai cấp nhân dân lao động do
nhà nước ban hành theo thứ tự, thủ tục luật định và được đảm bảo bằng sức mạnh nhà
nước. Pháp luật mang tính chất bắt buộc với mọi người, mọi cơ quản, tổ chức nhằm
mục đích ngăn ngữa, trừng phạt những hành vi sai trái, giáo dục, cảm hóa những

người có hành vi này, bồi dưỡng cho mọi người tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý
thức tuân thủ pháp luật đảm bảo cho xã hội phát triển lành mạnh, an toàn, bền vững,…
Pháp luật điều chỉnh những mối quan hệ chủ yếu, cơ bản, mang tính ổn định, và được
lặp đi lặp lại. Quyền lực nhà nước chỉ được tăng cường khi hệ thống pháp luật hoàn
thiện, ngược lại pháp luật do nhà nước ban hành thể hiện ý chí của nhà nước và được
nhà nước đảm bảo thực hiện, trong đó có các biện pháp cưỡng chế nhà nước.
- Thứ hai, vai trò của chính trị đối với pháp luật: Nền chính trị của giai cấp cầm
quyền quy định bản chất, nội dung của pháp luật.
Chính trị luôn được gắn với các đường lôi chính sách của Đảng cầm quyền,
pháp luật được ban hành dựa trên các đường lối chính sách đó.Với đường lối đổi mới,
mục tiêu xây dựng nhà nước dân chủ, của dân, do dân và vì dân; pháp luật Việt Nam là
nền tảng để bảo vệ lợi ích toàn thể nhân dân lao động Việt Nam.


10

Mặt khác, chính sách bao giờ cũng đi trước pháp luật, mang tính định hướng và
là nền tảng của pháp luật, chính sách phản ánh một cách trung thực, khách quan điều
kiện kinh tế - xã hội tại một thời điểm cụ thể và dự báo xu thế, khả năng phát triển cho
tương lai. Nếu chính sách không làm tốt điều này thì thể chế hóa thành các quy phạm
pháp luật hoặc các văn bản pháp luật thì cũng không có tính khả thi. Ngoài ra, chính trị
được thể hiện thông qua các chính sách thì thường có tính ổn định tương đối để luật
pháp có điều kiện đi vào thực tế cuộc sống vì pháp luật luôn hướng tới mục tiêu
chung, thống nhất trong mỗi giai đoạn nhất định nên pháp luật có tính đồng bộ và ổn
định. Điều này có nghĩa là khi một chính sách có quá nhiều thay đổi hoặc không ổn
định sẽ gây khó khăn phức tạp cho việc xây dựng và thực thi pháp luật. Chính sách là
công cụ thể hiện thái độ chính trị của Đảng lãnh đạo để điều chỉnh các quan hệ xã hội
diễn ra theo định hướng nên pháp luật được ban hành cùng các quy định cụ thể cho
mỗi loại quan hệ. Như vậy, khi một chính sách mới được ban hành đồng thời tạo nên
một lĩnh vực điều chỉnh mới của hệ thống pháp luật.

Do vậy, khi có một nền chính trị đúng đắn thì sẽ xác định được mục tiêu xây
dựng xã hội đúng. Nhưng đường lối chính trị chỉ được thực hiện và triển khai thông
qua công cụ lập pháp. Không có lập pháp nào không thể hiện đường lối chính sách
lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Như vậy, luật pháp, chính trị và Nhà nước là các yếu tố
và thể chế quan trọng nhất, đặc biệt trong kiến trúc thượng tầng. Giữa chúng có sự liên
hệ biện chứng chặt chẽ, khăng khít lẫn nhau cùng hình thành trên cơ sở hạ tầng, thể
hiện sự thống trị để định hướng xây dựng xã hội của mình.


11

II. Vận dụng giải thích mối quan hệ giữa nguyên tắc Đảng lãnh đạo và nguyên
tắc Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo
“Đảng” trong nguyên tắc Đảng lãnh đạo được hiểu là Đảng cộng sản Việt Nam.
Nguyên tắc này được quy định tại điều 4 Hiến pháp 2013: “Đảng cộng sản Việt Nam,
đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc theo chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của
Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến Pháp và pháp luật.”
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo thể hiện nội dung:
Thứ nhất, Ðảng lãnh đạo nhà nước bằng việc đưa ra đường lối, chủ trương,
chính sách của mình về các lĩnh vực hoạt động khác nhau của quản lý hành chính nhà
nước. Trên cơ sở đường lối chủ trương, chính sách của Ðảng, các chủ thể quản lý nhà
nước xem xét và đưa ra các quy định quản lý của mình để từ đó đường lối, chủ trương,
chính sách của Ðảng sẽ được thực hiện hóa trong quản lý hành chính nhà nước. Trên
thực tế, đường lối cải cách hành chính nhà nước được đề ra trong nghi quyết đại hội
đại biểu Ðảng cộng sản Việt nam lần thứ VI và thứ VII và trong Nghị quyết trung
ương khoá VIII về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
nam, mà trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính quốc gia là kim chỉ nam cho

hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Thứ hai, Ðảng lãnh đạo nhà nước thể hiện trong công tác tổ chức cán bộ. Các tổ
chức Ðảng đã bồi dưỡng, đào tạo những Ðảng viên ưu tú, có phẩm chất và năng lực
gánh vác những công việc trong bộ máy hành chính nhà nước, đưa ra các ý kiến về
việc bố trí những cán bộ phụ trách vào những vị trí lãnh đạo của các cơ quan hành
chính nhà nước. Tuy nhiên vấn đề bầu, bổ nhiệm được thực hiện bởi các cơ quan nhà
nước theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, ý kiến của tổ chức Ðảng là cơ sở để
cơ quan xem xét và đưa ra quyết định cuối cùng.


12

Thứ ba, Ðảng lãnh đạo nhà nước thông qua công tác kiểm tra việc thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng trong quản lý hành chính nhà nước.
Thông qua kiểm tra xác định tính hiệu quả, tính thực tế của các chủ trương chính sách
mà Ðảng đề ra từ đó khắc phục khiếm khuyết, phát huy những mặt tích cực trong công
tác lãnh đạo.
Thứ tư, sự lãnh đạo của Ðảng còn được thực hiện thông qua uy tín và vai trò
gương mẫu của các tổ chức Ðảng và của từng Ðảng viên. Ðây là cơ sở nâng cao uy tín
của Ðảng đối với dân, với cơ quan nhà nước.
Thứ năm, Ðảng chính là cầu nối giữa nhà nước và nhân dân. Sự lãnh đạo của
Ðảng là cơ sở bảo đảm sự phối hợp của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội, lôi
cuốn nhân dân lao động tham gia thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước ở tất cả các
cấp quản lý.
2. Nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật cũng là một trong
những nguyên tắc được quy định tại Hiến pháp 2013, cụ thể:
“Điều 103….
2. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ
quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm….”

Nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật được thể hiện ở hai
yêu cầu:
- Thứ nhất, hoạt động xét xử độc lập: Muốn vậy, Tòa án phải độc lập với cơ
quan lập pháp, cơ quan hành pháp, không bị kiểm soát, lệ thuộc vào bất kỳ tổ chức hay
cá nhân nào khi tiến hành hoạt động xét xử. Các cơ quan Nhà nước khác không được
can thiệp vào việc xét xử của Tòa án vì Tòa án là cơ quan duy nhất được Nhà nước
giao cho thực hiện chức năng xét xử. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm có thể tham
khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn, của cán bộ thuộc tổ chức Đảng trong Tòa
án, xem xét tình hình dư luận xã hội nhưng khi quyết định, họ phải xem xét các vấn đề


13

của vụ án một cách độc lập, không chịu sự chi phối bởi các quan điểm, ý kiến bên
ngoài của vụ án.
- Thứ hai, hoạt đông xét xử chỉ tuân theo pháp luật: Mác đã nói: “Cấp trên của
quan tòa là luật pháp.” Có nghĩa, trong khi xét xử, Tòa án không có cấp trên, cấp trên
của HĐXX chính là pháp luật. Thẩm phán, Hội thẩm không bị ràng buộc, chi phối bởi
bất kỳ quan điểm, ý kiến nào mà chỉ căn cứ theo pháp luật. Các cá nhân, cơ quan, tổ
chức không được can thiệp, tác động tới các thành viên của HĐXX để buộc họ phải
xét xử theo ý chí của mình. Mọi hành vi can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án
đều có thể bị coi là vi phạm pháp luật và ảnh hưởng tới tính khách quan của hoạt động
xét xử.
Ngoài ra, khi xét xử, các thành viên HĐXX độc lập với nhau trong việc nghiên
cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ và đưa ra kết luận về các tình tiết trong vụ án mà không
phụ thuộc vào quan điểm của các thành viên khác trong HĐXX. Chỉ các thành viên
của HĐXX mới được tham gia nghị án, Hội thẩm biểu quyết trước, Thẩm phán biểu
quyết sau cùng. Các vấn đề của vụ án được quyết định bằng hình thức biểu quyết và
lấy kết quả theo đa số. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình
bằng văn bản và được lưu trong hồ sơ vụ án.



14

3. Giải thích mối quan hệ giữa nguyên tắc Đảng lãnh đạo và nguyên tắc Tòa án
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Xuất phát từ thực tiễn vai trò của Đảng trong cuộc đấu tranh giành chính quyền,
nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính Nhà nước được biểu hiện bằng
việc Đảng đưa ra những đường lối, chủ trương, chính sách của mình về các lĩnh vực
hoạt động khác nhau của quản lý hành chính Nhà nước. Quan điểm của Đảng là xây
dựng Nhà nước Việt Nam theo nguyên tắc Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân. Để xây dựng nhà nước như vậy, cần tập trung xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật có chất lượng cao. Luật pháp phải bảo đảm thực hiện nền dân
chủ, phát huy quyền lực nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội.
Nguyên tắc độc lập xét xử là một giá trị phổ biến khi nói về một nền tư pháp
công bằng, là một trong những đặc thù của việc thực hiện quyền tư pháp và là một
nguyên tắc rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động của toà án trong nhà nước pháp
quyền. C.Mác từng nói “Đối với thẩm phán thì không có cấp trên nào khác ngoài luật
pháp...Thẩm phán xem xét hành động của tôi trên cơ sở một đạo luật nhất định”
Mối quan hệ giữa nguyên tắc Đảng lãnh đạo và nguyên tắc tòa án xét xử độc lập
chỉ tuân theo pháp luật thể hiện mối quan giữa hai yếu tố chủ yếu là pháp luật và chính
trị. Trong đó nguyên tắc Đảng đại diện cho vấn đề chính trị, nguyên tắc Tòa án xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đại diện cho vấn đề pháp luật. Đảng lãnh đạo và đưa
ra các đường lối chính sách, thực thi các mục đích chính trị của mình. Đảng đề ra
những chính sách đi trước pháp luật, mang tính định hướng, dự báo xu thế, khả năng
phát triển cho tương và là nền tảng của pháp luật. Trên cơ sở đó, pháp luật được ban
hành và Tòa án thực hiện việc xét xử căn cứ vào các quy phạm pháp luật đã được thể
chế quan điểm của Đảng, thực hiện quyền tư pháp của mình. Nói cách khác, những chỉ
đạo, đường lối của Đảng sẽ trở thành nguồn để xây dựng pháp luật mà Tòa án lại xét
xử chỉ căn cứ vào pháp luật. Như vậy, ở khía cạnh nào đó, nguyên tắc Đảng lãnh đạo

là cơ sở để thực hiện nội dung Tòa án xét xử chỉ tuân theo pháp luật, là cơ sở của


15

nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tức chính trị thể hiện vai
trò xây dựng, định hướng pháp luật của nó.
Mặt khác, việc Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong
những phương thức đảm bảo thực thi ý chí, chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng
đã đề ra, là công cụ để chuyển hoá ý chí của Đảng trở thành quy tắc xét xử chung, có
tính bắt buộc với mọi người. Với đường lối đổi mới, mục tiêu xây dựng nhà nước dân
chủ, của dân, do dân và vì dân; pháp luật Việt Nam là nền tảng để bảo vệ lợi ích toàn
thể nhân dân Việt Nam. Tòa án chỉ xét xử độc lập và tuân theo pháp luật, đảm bảo tính
công bằng cho tất cả nhân dân, không bị chi phối bởi ý chí của bất kỳ chủ thể nào. Các
phán quyết của tòa án được ban hành dựa trên cơ sở pháp lý là các đạo luật của nhà
nước, những đạo luật này được đặt dưới sự định hướng và lãnh đạo của Đảng. Như
vậy, có thể thấy, nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật phần nào
nhằm đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo. Tức pháp luật đến lượt nó trở thành công cụ
của chính trị.



×