Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư với quy mô vốn đầu tư. Vận dụng để giải thích tình hình đầu tư ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (546.1 KB, 73 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Phát triển kinh tế bền vững là đích hướng tới của mọi quốc gia trên thế
giới hiện nay, dù các quốc gia đó theo những thể chế xã hội khác nhau.
Nhưng để phát triển bền vững được, các quốc gia cần phải xây dựng cho
mình một hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, một nền tảng kinh tế vững chắc.
Điều này chỉ có thể thực hiện thơng qua đầu tư phát triển vì đầu tư phát triển
là phương thức trực tiếp làm gia tăng tài sản của nền kinh tế, tăng tiềm lực
cho mỗi quốc gia.
Việt Nam từ khi giành độc lập đến nay, luôn kiên định mục tiêu phát
triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phấn đấu từ nay
đến năm 2020, Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước cơng nghiệp, nhanh
chóng giảm bớt khoảng cách so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam vừa gia nhập WTO sẽ có nhiều cơ hội mà
nếu nắm bắt được sẽ đưa đất nước “cất cánh” rất nhanh. Muốn vậy cần phải
có một tiềm lực kinh tế vững mạnh. Nhận thức được tầm quan trọng của đầu
tư đến phát triển kinh tế, Chính phủ luôn ưu tiên cho các hoạt động đầu tư
phát triển. Nhưng để thực hiện được một dự án đầu tư thì khơng thể khơng
kể đến yếu tố nguồn vốn và các yếu tố khác trực tiếp tác động tới quy mô
vốn bởi vốn là yếu tố cần thiết đầu tiên khi thực thi dự án. Nếu kiểm soát
vốn tốt thì những trở ngại khác sẽ dần được khắc phục.
Để làm rõ hơn về vấn đề này, nhóm kinh tế đầu tư chúng tôi đã quyết
định chọn và nghiên cứu đề tài: “Mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỉ suất
lợi nhuận vốn đầu tư với quy mô vốn đầu tư. Vận dụng để giải thích tình
hình đầu tư ở Việt Nam”. Do thời gian nghiên cứu và kiến thức của các
thành viên trong nhóm là có hạn nên bài nghiên cứu của chúng tơi cịn có


những thiếu sót, chúng tơi rất mong nhận được sự góp ý của các bạn đọc và
các thầy cơ giáo hướng dẫn để bài viết được hồn thiện hơn.
Chúng tơi xin chân thành cảm ơn!



Chương I

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
I.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT,
TSLN VÀ QUY MÔ VỐN ĐẦU TƯ

A. LÃI SUẤT
1. Khái nệm chung về lãi suất
Có nhiều quan điểm khác nhau về lãi suất vốn vay, dưới đây là một số quan
điểm hay sử dụng:
Theo K.Marx: Lãi suất là một phần giá trị thặng dư mà nhà tư bản sản
xuất phải trả cho nhà tư bản tiền tệ vì đã sử dụng vốn trong một thời gian
nhất định.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học lượng cầu về tài sản: Các nhà
kinh tế học về lượng cầu về tài sản chia thế giới tài sản thành hai phần.Phần
thứ nhất là tiền mặt, phần thứ hai là những tài sản không phải tiền măt như
trái phiếu, cổ phiếu và các hình thức đầu tư tài sản khác…Theo quan điểm
này lãi suất là chi phí cơ hội cho việc nắm giữ tài sản tài chính tiền mặt,
phiếu, hệ vay mượn hoặc cho thuê các dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ
cổ phiếu hay các hình thức tài sản khác.
Theo quan điểm của ngân hàng thế giới (WB): lãi suất là tỷ lệ phần
trăm của tỷ lệ tiền lãi so với tiền vốn.
Vậy theo nghĩa chung nhất lãi suất là giá cả của tín dụng – giá cả của quan
hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ
hoặc các dạng thức tài sản khác nhau. Khi đến hạn, người ta sẽ phải trả cho



người cho vay một khoản tiền dơi ra ngồi số tiền vốn gọi là tiền lãi. Tỷ lệ
phần trăm của số tiền lãi trên số tiền vốn gọi là lãi suất
2. Vai trị của lãi suất
Dưới góc độ kinh tế vĩ mô, lãi suất lại là một công cụ điều tiết cho
vay kinh tế rất nhạy bén và hiệu quả. Thông qua việc thay đổi mức và cơ cấu
lãi suất trong từng thời kỳ nhất định, chính phủ có thể tác động đến quy mô
và tỷ trọng các loại vốn đầu tư, do vậy mà có thể tác động đến quá trình điều
chỉnh cơ cấu; đến tốc độ tăng trưởng, sản lượng, tỷ lệ thất nghiệp và tình
trạng lạm phát trong nước. Hơn thế nữa, trong những điều kiện nhất định của
nền kinh tế mở, chính sách lãi suất cịn được sử dụng như là một cơng cụ
góp phần điều tiết đối với các luồng vốn đi vào hay đi ra đối với một nước,
tác động đến tỷ giá và điều tiết sự ổn định tỷ giá. Điều này không những tác
động đến đầu tư phát triển kinh tế mà cịn tác động trực tiếp đến cán cân
thanh tốn và các quan hệ thương mại quốc tế của nước đó đối với nước
ngồi.
Dưới góc độ kinh tế vi mơ: lãi suất là cơ sở để cho các cá nhân cũng
như các doanh nghiệp đưa ra các quyết định kinh tế của mình như: chi tiêu
hay để dành gửi tiết kiệm; đầu tư số vốn tích luỹ được vào danh mục đầu tư
này hay danh mục đầu tư khác…
Vậy với mức lãi suất cho vay hợp lý, sẽ kích thích các nhà đầu tư vay
vốn mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh cho xã hội, tăng thu nhập
quốc dân, hạn chế thất nghiệp tăng mức sống của người đó tạo điều kiện cho
nền kinh tế phát triển.Và khi nền kinh tế phát triển, thu nhập quốc dân tăng,
sẽ tác động trở lại kích thích đầu tư phát triển.
Chính vì những điều như vậy mà ở các nước kinh tế thị trương phát
triển và theo đuổi chính sách tự do hóa tài chính (financial liberalization), lãi


suất được hình thành trên cơ sở thị trường, tức là giữa cung và cầu về vốn
trên thị trương quyết định.

3. Các lãi suất cơ bản
Mặc dù lãi suất là giá cả của tín dụng nói chung, song chúng ta lại biết rằng
tín dụng có thể được thực hiện bằng các hình thức và phương pháp khác
nhau, vì vậy mà lãi suất cũng được phân biệt thành các loại khác nhau. Dưới
đây là một số loại lãi suất cơ bản.
3.1 Lãi suất đơn
Lãi suất đơn là lãi suất được tính đối với những khoản tín dụng thực
hiện dưới hình thức vay đơn. Loại tín dụng kiểu này người vay tiền sẽ trả
một lần cho người cho vay vào ngày đến hạn trả nợ cả vốn và một khoản
tiền phụ thêm chính là tiền lãi.
Việc tính lãi suất loại này chỉ đơn giản là lấy số tiền lãi chia cho tổng
số vốn vay theo thời gian của khoản tín dụng đó.
3.2 Lãi suất tích họp
Lãi suất tích họp là lãi suất có tính đến yếu tố “ lãi mẹ đẻ lãi con”. Lãi
suất tích họp được coi là cơng bằng và chính xác hơn trong việc đo lường lãi
suất đối với các món vay dài hạn.
Trên thực tế lãi suất tích họp vẫn được tính tốn dựa trên cơ sở lãi suất
đơn, nhưng do từ năm thứ 2 của thời hạn tín dụng do vốn tín dụng thực tế đã
được tích luỹ thêm và lãi suất đơn tính cho các năm sau sẽ lớn hơn năm đầu
và “tích họp” lại chúng ta sẽ có một mức lãi suất cho suốt thời kỳ khác với
mức lãi suất đơn ban đầu.
3.3 Lãi suất hồn vốn
Đối với các khoản tín dụng mà việc trả vốn và lãi theo định kỳ hoặc
trả một khoản cố định theo định kỳ, chẳng hạn trả cố định hoặc trái phiếu


coupon thì người ta áp dụng một loại lãi suất gọi là lãi suất hoàn vốn. Đây là
lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh toán nhận được từ một
khoản tín dụng với giá trị hơm nay của tín dụng đó. Một trái phiếu cũng là
một khoản tín dụng, vì vậy lãi suất hồn vốn của nó là một tỷ lệ nào đó làm

cho giá trị hiện tại của trái phiếu trên thị trường.
Như vậy, đo lường lãi suất hồn vốn là một phép tính ngược từ việc
chúng ta cân bằng giá trị hiện tại của số vốn đã đầu tư (cho vay) với giá trị
hôm nay của số vốn đó.
4. Phân biệt lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa
Trên thực tế, những khoản thu nhập bằng tiền hay thu nhập danh
nghĩa thường không phản ánh đúng giá trị thực của chính khoản thu nhập
đó. Tỷ lệ lạm phát hay tỷ lệ trượt giá của đồng tiền trong một thời gian nhất
định luôn làm cho giá trị thực trở nên nhỏ hơn giá trị danh nghĩa.Vì vậy lãi
suất thực ln nhỏ hơn lãi suất danh nghĩa bởi tỷ lệ lạm phát nói trên.
Thơng thường trong những điều kiện tỷ lệ lạm phát (ii) không lớn hơn
10% thì lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có liên hệ với nhau qua cơng
thức đơn giản
ir=in - ii
Trong đó, ir, in, ii lần lượt là lãi suất thực, lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ
lạm phát.
Tuy nhiên nếu tỷ lệ lạm phát ii cao hơn 10% ví dụ là 27%; lãi suất
danh nghĩa, ví dụ là 132% thì lãi suất thực khơng thể tính như trên mà phải
tính theo cơng thức:
In – ii
Ir=

hay ir = (132-27)/(27+100)
Ii + 1


Trong ví dụ này lãi suất thực xấp xỉ bằng 82,7 % và điều này cũng
phản ánh đúng một xu hướng thực tế: tỷ lệ lạm phát càng cao lãi suất thực
càng thấp.
Nhân tố ảnh hưởng tới chi tiêu của cá nhân và quyết định đầu tư của

các nhà đầu tư là lãi suất thực tế
5. Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất.
Trong các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nhà nước đóng vai trị
trung tâm trong hầu hết các hoạt động kinh tế xã hội. Trong các nước này
thường khơng có thị trường tài chính và tài chính kiềm chế là mơ hình tài
chính phổ biến. Vì lẽ đó lãi suất trong các nước đó đều đo nhà nứơc quy tiền
gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng .Sự biến động của lãi suất trong
các điều kiện như vậy chủ yếu phụ thuộc vào ý chí của chính phủ mà khơng
thể dự đốn hay xác lập bất cứ quy luật vận động nào.
Trái lại trong nền kinh tế thị trường, nhà nước chỉ đóng vai trị là người
điều tiết vĩ mơ, thị trường tài chính, các ngân hàng cũng như các tổ chức
trung gian rất phát triển. Hơn nữa đa số các nước này lại theo đuổi chính sách
tư do hóa và cơ chế hình thành lãi suất là cơ chế thị trường. Lãi suất vì vậy ln
biến động phụ thuộc vào rất nhiều các nhân tố kinh tế vĩ mô cũng như nhiều
nhân tố khác. Sau đây là một số nhân tố cơ bản và quan trọng nhất.
5.1. Thay đổi về cung cầu.
Lãi suất là giá cả của cho vay vì vậy bất kỳ sự thay đổi nào của cung
hoặc cả cung và cầu quỹ cho vay không cùng một tỷ lệ đều sẽ là thay đổi
mức lãi suất trên thị trường. Mọi sự thay đổi của yếu tố cung cầu về vốn đầu
tư đều tác động tới sự thay đổi của lãi suất. Khi cầu về vốn đầu tư tăng, khi
cung chưa kịp tăng hoặc tăng khơng đủ khi đó lãi suất sẽ tăng. Ngược lại khi
cung vốn đầu tư tăng mà cầu khơng tăng hoặc tăng chưa đủ khi đó lãi suất sẽ
giảm. Tuy mức độ biến động của lãi suất cũng ít nhiều phụ thuộc vào các


quy định của chính phủ và ngân hàng trung ương song đa số các nước có
nền kinh tế thị trường đều dựa vào nguyên lý này để xác định lãi suất. Chúng ta
có thể tác động vào cung cầu trên thị trường vốn để thay đổi lãi suất trong nền
kinh tế cho phù hợp với mục tiêu chiến lược trong từng thời kỳ: chẳng hạn như
thay đổi cơ cấu vốn đầu tư, tập trung vốn đầu tư cho các dự án trọng điểm.

Mặt khác muốn duy trì sự ổn định lãi suất thì sự ổn định của thị
trường vốn phải được đảm bảo vững chắc.
5.2. Bội chi ngân sách nhà nước
Bội chi ngân sách trung ương và địa phương trực tiếp làm cho cầu của
quỹ cho vay tăng làm tăng lãi suất. Sau nữa, bội chi ngân sách sẽ tác động
đến tâm lý công chúng về gia tăng mức lạm phát và do vậy sẽ gây áp lực
tăng lãi suất.
Ở một góc độ khác, thơng thường gia tăng việc phát hành trái phiếu.
Lượng cung trái phiếu trên thị trường tăng lên làm cho giá trái phiếu có xu
hướng giảm, lãi suất trên thị trường vì vậy mà tăng lên. Hơn nữa tài sản của
các ngân hàng thương mại cũng gia tăng ở khoản mục trái phiếu chính phủ,
lãi suất ngân hàng cũng sẽ tăng.
5.3. Mức độ rủi ro của dự án.
Với những dự án có mức độ rủi ro cao,khả năng thu hồi vốn thấp khi
đómức lãi suất cho vay của ngân hàng đối với các dự án này sẽ ở mức cao
hơn mức lãi suất cho vay thông thường của các ngân hàng.Ngược lại với
những dự án đầu tư có mức độ rủi ro thấp, khả năng thành cơng của dự án
lớn, khả tnăng thu hồi vốn của các ngân hàng lớn khi đó lãi suất cho vay của
ngân hàng với các dự án này sẽ thấp.
5.4. Thời hạn sử dụng vốn


Với các dự án sử dụng vốn vay càng dài khi đó mức độ rủi ro của các
dự án này càng cao.Do vậy các ngân hàng coi thời hạn sử dụng vốn đầu tư là
một yếu tố cơ bản để xác định mức lãi suất cho các dự án đầu tư.
Ta có biểu đồ:
i

i


0

I

0

t

Trong đó:
i: lãi suất vốn vay
I: đầu tư
t: thời gian sử dụng vốn vay
5.5. Sự ảnh hưởng của thị trường tài chính quốc tế.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa, nền kinh tế các nước mở cửa với kinh tế
thế giới, nền kinh tế mỗi nước chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của thị trường thế
giới. Do vậy những yếu tố nước ngoài ảnh hưởng tới thị trường trong nước
là một yếu tố tất yếu. Thị trường tài chính mỗi nước chịu ảnh hưởng lớn bởi
thị trường tài chính quốc tế, lãi suất trong nước cung sẽ chịu ảnh hưởng bởi
những biến động của thị trường tài chính cũng như nền kinh tế thế giới.
5.6. Sự thay đổi trong chính sách của chính phủ
Chính phủ các nước có thể thông qua mức lãi suất để điều chỉnh cơ cấu
kinh tế của một vùng, miền, hay địa phương nào đó. Để phát triển một


ngành kinh tế của một vùng miền nào đó chính phủ có thể dùng chính sách
lãi suất ưu đãi, để hộ trợ địa phương hay vùng miền đó phát triển ngành
nghề kinh tế mà chính phủ mong muốn. Chính phủ có thể áp dụng mức lãi
suất thấp hơn mức lãi suất trên thị trường rất nhiều đối với những ngành
nghề, những vùng miền mà chính phủ mong muốn phát triển.
Nhưng thay đổi trong chính sách thuế của chính phủ cũng ảnh hưởng

tới mức lãi suất. Thuế thu nhập cá nhân và thuế lợi tức công ty luôn tác động
đến lãi suất giống như khi thuế tác động đến giá cả hàng hóa. Nếu các hình
thức thuế này tăng lên cũng có nghĩa là điều tiết đi một phần thu nhập của
những cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay những người tham
gia kinh doanh chứng khốn. Thông thường ai cũng sẽ quan tâm đến thu
nhập thực tế, lợi nhuận sau thuế hơn là thu nhập danh nghĩa. Do đó, để duy
trì một mức lãi suất thực tế nhất định họ phải cộng thêm vào lãi suất cho vay
những thay đổi về thuế.
5.7. Lạm phát kỳ vọng.
Khi mức lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó,
lãi suất sẽ có xu hướng tăng. Thứ nhất, xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi
suất thực tế và lãi suất danh nghĩa cho thấy, để duy trì lãi suất thực khơng
đổi, tỷ lệ lạm phát đòi hỏi lãi suất danh nghĩa phải tăng lên tương ứng. Thứ
hai, cơng chúng dự đốn lạm phát tăng sẽ dành phần tiết kiệm của mình cho
việc dự trữ hang hoá hoặc những dạng thức tài sản phi tài chính khác như
vàng, ngoại tệ mạnh hoặc đầu tư vốn ra nước ngoài. Tất cả các điều này làm
giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất của các nhà băng cũng
như trên thị trường.
58. Những thay đổi trong đời sống kinh tế xã hội.


Ngồi những yếu tố được trình bày ở trên, sự thay đổi của lãi suất còn
phụ thuộc vào các yếu tố thuộc đời sống kinh tế xã hội khác. Đó có thể là sự
phát triển của thị trường tài chính với các cơng cụ tài chính đa dạng phong
phú, hay mức độ phát triển của các thể chế tài chính trung gian và gắn liền
theo đó là sự cạnh tranh trong hoạt động cung cấp dịch vụ của các tổ chức
tín dụng này. Hiệu suất sử dụng vốn hay tỉ suất đầu tư cận biên trong nền
kinh tế trong các thời kỳ khác nhau do những thay đổi trong công nghệ hay
sự phát triển mang tính chu kỳ của nền kinh tế cũng tác động đến sự thay đổi
lãi suất. Hơn nữa tình hình kinh tế chính trị cũng như nhưng biến động tài

chính quốc tế như những cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế, các luồng vốn
đầu tư ra vào đối với các nước ….đều ít nhiều tác động tới sự thay đổi của
lãi suất các nước khác .
Tất cả những vấn đề này gợi ý cho các nha nghiên cứu, soạn thảo và
điều hành chính sách lãi suất phải có sự nhìn nhận và đánh giá một cách
tổng thể trước khi đưa ra bất kỳ một kết luận hoặc quyết định nào liên quan
đến lãi suất.
B. TỶ SUẤT LI NHUN
1. Khỏi nim
Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu t là chỉ tiêu phản ánh mức lợi nhuận thuần thu
Công thức tính:
Nếu tính cho từng năm hoạt động, thì:

RRi =

Wipv
I vo

Trong đó:
-> Wipv là lợi nhuận thuần thu đợc năm i tính theo mặt bằng hiện tại
( thời điểm dự án bắt đầu đi vào hoạt động )
-> Ivo : là vốn đầu t tại thời điểm dự án bắt đầu đi vào hoạt động.


-> RRi : là tỷ suất lợi nhuận vốn đầu t của năm i
Nếu tính bình quân năm của đời dự án, thì:
RR

=


W pv
I vo

Trong đó : + W là lợi nhuận thuần bình quân năm của đời dự án theo
mặt bằng hiện tại
+ RR là tỷ suất lợi nhuận bình quân năm và nó có tác dụng để
so sánh giữa các dự án
+ RR phải cao hơn lÃi suất cho vay của các ngân hàng thì mới
khuyến khích đợc các nhà đầu t thực hiện đầu t.
pv

2. Vai trò của tỷ suất lợi nhuận đối với hoạt động đầu t.
Xét trên góc độ vi mô: Lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của các chủ
doanh nghiệp. Do vậy, ở đâu có tiềm năng mang lại nhiều lợi nhuận thì họ sẽ
dốc vốn của mình để đầu t vào đó. Lúc này, tỷ suất lợi nhuận vốn đầu t chính
là nhân tố quyết định tới việc có nên đầu t hay không. Mặt khác, tỷ suất lợi
nhuận vốn đầu t phản ánh khả năng hoàn vốn của một dự án, qua đó đánh giá
hiệu quả của dự án đầu t.
Xét trên góc độ vĩ mô: Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu t càng tăng, càng có
nhiều cơ hội đầu t, các doanh nghiệp càng có nhiều ý định vay vốn để tăng
đầu t.
Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu t trong một ngành, một lĩnh vực, một địa phơng
gia tăng sẽ kéo theo hoạt động đầu t ở các nơi đó gia tăng dẫn đến tổng số
hàng hoá dịch vụ đợc sản xuất ra trong nền kinh tế đó tăng lên, làm cho thu
nhập quốc dân cũng tăng lên.
C. QUY Mễ VỐN ĐẦU TƯ
1. Khái niệm vốn đầu tư và quy mô vốn đầu tư.
Vốn là một yếu tố không thể thiếu trong hoạt động đầu tư, hay nói cách
khác, vốn là yếu tố quyết định một dự án có được thực thi hay không. Về
bản chất, vốn đầu tư là phần tích lũy được thể hiện dưới dạng giá trị được

chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Đây là


thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát
triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của Nhà nước và của xã hội. Vốn đầu tư
bao gồm:
+ Tiền mặt các loại.
+ Hiện vật hữu hình: nhà xưởng, máy móc thiết bị, tài ngun thiên
nhiên…
+ Hàng hóa vơ hình, cơng nghệ, bí quyết cơng nghệ, nhãn hiệu, biểu
tượng, uy tín của hàng hóa, bằng phát minh sáng chế…
+ Các dạng tài sản đặc biệt: vàng, bạc, đá quý…
Để đo lường lượng vốn đầu tư vào một dự án nào đó, người ta dùng
thuật ngữ quy mô vốn. Quy mô vốn là lượng vốn được phân bổ cho một dự
án đầu tư được quy đổi giá trị bằng tiền. Quy mơ vốn có thể cho ta thấy
được dự án đầu tư đó là lớn hay nhỏ, có ảnh hưởng rộng hay hẹp… đến nền
kinh tế. Quy mô vốn cũng thể hiện phần nào tầm quan trọng của một dự án
đầu tư.
2.

Phân loại vốn đầu tư.

Căn cứ vào các nguồn huy động vốn đầu tư, người ta chia vốn đầu tư
thành vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài.
2.1. Vốn đầu tư trong nước.
Vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế, bao gồm
tiết kiệm của khu vực dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và tiết
kiệm của chính phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất của xã hội.
Vốn đầu tư trong nước được chia thành:
2.1.1. Nguồn vốn Nhà nước.

Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà
nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu
tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.


+ Nguồn vốn ngân sách nhà nước: là nguồn chi của ngân sách nhà nước
cho đầu tư. Đây là nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển
kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho
các dự án đầu tư công như xây dựng cơ sở hạ tầng, quốc phòng an ninh, các
dự án trọng điểm quốc gia…
+ Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: nguồn vốn này
hiện nay đang ngày càng khẳng định vai trò của nó đối với nền kinh tế, được
xem như một cơng cụ quản lý và điều tiết nền kinh tế. Thông qua vốn tín
dụng, nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế xã hội theo
ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Vốn tín dụng
nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm bao cấp vốn của nhà nước.
+ Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước: Nguồn vốn này chủ yếu
từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước.
Nguồn vốn này chiếm khoảng 14 – 15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chủ
yếu là đầu tư theo chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ.
2.1.2.Nguồn vốn của dân cư và tư nhân.
Vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích
lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Phần tiết kiệm này
chiếm khoảng 15% GDP và có xu hướng gia tăng cả về quy mô và tỷ trọng.
Nguồn vốn từ khu vực này có vai trị quan trọng đặc biệt trong việc
phát triển nông nghiệp, nông thôn, mở mang ngành nghề, phát triển cơng
nghiệp, thương mại, dịch vụ… Phần tích lũy này có đóng góp đáng kể vào
tổng quy mơ vốn tồn xã hội.
Nguồn vốn trong dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ
gia đình, vào trình độ phát triển của đất nước, tập quán tiêu dùng của dân cư,

chính sách của nhà nước…
2.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài.


Vốn đầu tư nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích lũy của các cá nhân,
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngồi có thể huy động
vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại. Đầu tư nước ngồi có vai trị
rất quan trọng, cả với nước đi đầu tư và nước nhận đầu tư nhằm thỏa mãn
mục đích của chính mình.Việt Nam, với vị thế là nước đi vay luôn xác định
mục tiêu là thu hút được càng nhiều càng tốt và càng nhanh càng tốt những
nguồn lực mà nền kinh tế đang cần để phát triển, kết hợp với các nguồn lực
bên ngồi nhằm khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước, tăng tích
lũy tạo tiền đề cho cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa. Ta có thể chia nguồn
vốn đầu tư nước ngoài theo sơ đồ sau: .

Trong các nguồn vốn trên thì vốn ODA và FDI là hai nguồn vốn phổ
biến và có vai trị rất quan trọng với các nước nhận đầu tư.
+ ODA: là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ
nước ngồi cung cấp nhằm trợ giúp cho các nước đang phát triển. Đây là
hình thức mang tính ưu đãi cao( về lãi suất, thời hạn cho vay dài, lượng vốn
lớn), ngồi ra cịn yếu tố khơng hồn lại, thường đạt ít nhất 25% tổng nguồn
vốn. Tuy vậy, để đạt được những lợi ích đó, các quốc gia nhận viện trợ phải


đáp ứng những yêu cầu của các tổ chức tài trợ vốn, mà thường những yêu
cầu này mang sức ép chính trị rất lớn.
+ FDI: đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, có tác dụng
thúc đẩy phát triển ngành nghề, đổi mới công nghệ trong nước. Nguồn vốn
này không làm phát sinh nợ cho nước tiếp nhận vốn. Thay vì nhận lãi suất
trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự

án đầu tư có hiệu quả. Chủ đầu tư chủ yếu vào hình thức này là các doanh
nghiệp, cơng ty nước ngồi và thường đầu tư vào các nước đang phát triển
để tận dụng những lợi thế của nước đó như lao động giá rẻ, tài nguyên dồi
dào,thị trường tiêu thụ sản phẩm…
3. Vai trị của quy mơ vốn đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển
kinh tế
Quy mơ vốn đầu tư phù hợp có vai trị quan trọng đến việc quyết định
hoạt động và hiệu quả của các hoạt động đầu tư phát triển.
3.1. Tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế


Tác động đến tổng cầu
Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của nền kinh tế.

Theo số liệu ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm từ 24 - 28% trong cơ
cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Xét trong ngắn hạn, khi tổng
cầu chưa kịp thay đổi, việc tăng quy mô vốn đầu tư - tăng cầu đầu tư sẽ làm
cho tổng cầu AD tăng (trong điều kiện các yếu tố khác không đổi).
Công thức xác định tổng cầu AD:
AD=C + I + G + NX.
Trong đó C:

Tiêu dùng.

I:

Đầu tư.

G:


Chi tiêu chính phủ.


NX: Xuất khẩu rịng.
Xét theo hình 1: đường cầu AD dịch phải (AD→AD’), kéo theo sản lượng
cân bằng tăng theo (Q0→Q1), giá cả các yếu tố đầu vào của đầu tư tăng lên
(P0→P1). Điểm cân bằng dịch chuyển từ E0 đến E1.


Tác động đến tổng cung:
Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính là cung trong nước và

cung nước ngoài. Bộ phận chủ yếu, cung trong nước là một hàm của các yếu tố
sản xuất: vốn, lao động, tài ngun, cơng nghệ….,thể hiện qua phương trình:
Q = F (K, L, T, R….).
Trong đó

K:

Vốn đầu tư.

L:

Lao động.

T:

Cơng nghệ.

R:


Nguồn tài nguyên.

Như vậy, tăng quy mô vốn đầu tư là nguyên nhân trực tiếp làm tăng tổng
cung của nền kinh tế (trong điều kiện các yếu tố khác không đổi).
Khi thành quả đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động
làm cho tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng. Theo đồ thị ,tổng
cung AS dịch chuyển sang phải ( AS→AS’), sản lượng tiềm năng tăng từ
Q1→Q2, do đó giá cả sản lượng giảm xuống từ P1→P2. Sản lượng tăng, giá
cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng lại là nhân tố kéo, tiếp tục
kích thích sản xuất phát triển, tăng quy mô đầu tư. Sản xuất phát triển là
nguồn gốc tăng tích lũy, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người
lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Hình 1:


S

P
E1
P1

S'

E0

P0
P2

D'

D
Q

0

Q1

Q

2

Q

Tác động của quy mô vốn đầu tư đến tổng cung, tổng cầu.
(Đồ thị 1).
3.2. Tác động đến tăng trưởng kinh tế:
Tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố rất
quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất nhân tố tổng
hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH,
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế….do đó nâng cao chất lượng tăng
trưởng kinh tế.
Biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa quy mô vốn đầu tư tăng thêm với
mức gia tăng sản lượng thể hiện ở công thức tính hệ số ICOR.
ICOR = Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP/tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Theo công thức trên, nếu ICOR khơng đổi, mức tăng GDP hồn tồn phụ
thuộc vào mức tăng quy mô vốn đầu tư.
3.3. Tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ
phận cấu thành nền kinh tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế xảy ra khi có sự
phát triển không đồng đều về quy mô, tốc độ giữa các ngành, các vùng.



Quy mơ vốn có tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Ví dụ, đối với cơ cấu ngành, quy mô vốn đầu tư từng ngành nhiều hay ít
đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất
của từng ngành, tạo tiền đề vật chất để phát triển những ngành mới….do đó,
làm dịch chuyển cư cấu ngành kinh tế.
4. Những yếu tố tác đông đến quy mô vốn đầu tư.
4.1. Lãi suất (lãi suất thực tế).
Lãi suất không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động thu hút vốn đầu tư - quyết
định quy mô vốn đầu tư thông qua việc ổn định kinh tế vĩ mơ - mà cịn tác
động đến dịng chảy các nguồn vốn đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại
một thị trường xác định.
Đối với lãi suất, về mặt lý thuyết lãi suất càng cao thì xu hướng tiết kiệm
càng lớn và từ đó tiềm năng quy mơ, số lượng các nguồn vốn càng cao. Bên
cạnh đó, nếu mức lãi suất thị trường nội địa mà cao hơn tương đối so với
mức lãi suất quốc tế thì cịn đồng nghĩa với tiềm năng quy mơ vốn nước
ngồi tăng và là cơng cụ hữu hình để chính phủ bảo vệ được nguồn vốn
nước mình, ngăn chặn được nạn đào thốt vốn ra nước ngồi.
Tuy nhiên, bản thân yếu tố lãi suất cũng có hai mặt, đó là khi tăng lãi suất
cũng có nghĩa là chi phí sử dụng vốn trong đầu tư sẽ cao hơn. Điều này sẽ
làm giảm phần lợi nhuận thực của nhà đầu tư. Dẫn đến quy mơ vốn có xu
hướng giảm xuống.
Vì vậy, khi sử dụng công cụ lãi suất phải hết sức cẩn trọng để xác định mức
lãi suất phù hợp, góp phần quan trọng trong việc tạo quy mô vốn phù hợp,
quyết định hiệu quả huy động vốn.
4.2.Tỷ suất lợi nhuận.


Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư là chỉ tiêu phản ánh mức lợi nhuận thuần

thu được từ một đơn vị vốn đầu tư được thực hiện.
Đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng giúp nhà đầu tư quyết định
quy mô vốn đầu tư phù hợp với từng dự án đầu tư. Nhưng khi vốn đầu tư
tăng dần, tỷ suất lợi nhuận biên sẽ giảm dần. Nhà đầu tư chỉ quyết định tiếp
tục đầu tư (tăng quy mô vốn) khi tỷ suất lợi nhuận > lãi suất tiền vay.
4.3.Sản lượng nền kinh tế.
Khi sản lượng nền kinh tế gia tăng sẽ là một nhân tố rất quan trọng ảnh
hưởng đến quy mô vốn đầu tư. Tuy nhiên tốc độ tăng của sản lượng và tốc
độ tăng của vốn đầu tư không giống nhau.
Thật vậy, qua thuyết số nhân đầu tư của keynes thế hiện rõ mối quan hệ
này:
Công thức tính:
Trong đó:

k

Y
I

Y: mức gia tăng sản lượng.
 I:

mức gia tăng đầu tư.

k: số nhân đầu tư.
Khi sản lượng ở mức thấp (thu nhập ở mức thấp), MPC lớn nên k lớn. Để
sản lượng tăng lên ở một mức độ thấp thì quy mơ vốn đầu tư phải tăng lên ở
một mức độ lớn hơn nhiều lần.
Khi sản lượng đã ở mức cao, MPC giảm làm k nhỏ. Để sản lượng khơng
tăng hoặc giảm thì quy mơ vốn cũng phải giảm nhưng tốc độ lớn hơn nhiều.

Vậy mỗi sự thay đổi sản lượng nền kinh tế đều dẫn tới sự thay đổi của
quy mô vốn đầu tư cùng chiều. Nhưng sự biến động của vốn lớn hơn nhiều
lần sự biến động của sản lượng.
4.4. Chu kỳ kinh doanh.



×