Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Phân tích chính sách trong xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.42 KB, 18 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------

BÀI TẬP NHÓM
HỌC PHẦN: NHỮNG VẤN ĐỀ MỚI VỀ
LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Đề tài số 5:
“Phân tích chính sách trong xây dựng pháp
luật ở nước ta hiện nay ”

Hà nội, 2017


3

MỤC LỤC


5

LỜI MỞ ĐẦU
Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật là nhân tố chủ quan cơ bản thúc đẩy sự
phát triển của đất nước. Vì vậy, vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật là
vấn đề cơ bản của mỗi quốc gia, dân tộc. Mục tiêu mà công tác xây dựng và hoàn
thiện pháp luật hướng tới là một hệ thống pháp luật toàn diện, có tính đồng bộ, phù
hợp với trình độ phát triển của xã hội và được xây dựng với trình độ kỹ thuật pháp lý
cao. Cũng như các quốc gia khác, ý thức được tầm quan trọng của công tác xây dựng
pháp luật, Đảng và Nhà nước ta hết sức chú trọng đến hoạt động này để tạo lập một
nền tảng pháp lý vững chắc đưa đất nước tiến bước trên con đường của sự phát triển.


Nhằm tìm hiểu thêm về công tác xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay, nhóm 09
xin được chọn đề tài “Phân tích chính sách trong xây dựng pháp luật ở nước ta hiện
nay” làm đề tài cho bài tập nhóm.


7

I. Tổng quan về chính sách xây dựng pháp luật
1. Định nghĩa chính sách xây dựng pháp luật
Chính sách là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế - xã hội.
Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau: “Chính sách
là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực
hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội
dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm
vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…”
Tuy nhiên, qua tìm hiểu các tài liệu, các nghiên cứu cho thấy khái niệm chính
sách còn được thể hiện bằng nhiều cách khác nhau, ví dụ: "Chính sách là những sách
lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính
trị chung và tình hình thực tế mà đề ra"; hoặc "Chính sách là các chủ trương và các
biện pháp của một đảng phái, một chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội".
Có rất nhiều loại chính sách, trong đó có loại chính sách chung như: Chính
sách đối ngoại của Nhà nước; Chính sách kinh tế; Chính sách xã hội; Chính sách tiền
tệ.
Trong các loại chính sách chung lại có các chính sách đối với từng lĩnh vực, bài viết
này chủ yếu hướng đến chính sách xây dựng pháp luật.
Xây dựng pháp luật ở Việt Nam là một quá trình hoạt động vô cùng quan trọng,
phức hợp, bao gồm rất nhiều các hoạt động kế tiếp nhau, liên hệ chặt chẽ với nhau,
do nhiều tổ chức và cá nhân có vị trí, vai trò, chức năng, quyền hạn khác nhau cùng
tiến hành, nhằm chuyển hóa ý chí của Nhà nước, của nhân dân Việt Nam thành
những quy định pháp luật dựa trên những nguyên tắc nhất định và được thể hiện dưới

những hình thức pháp lý nhất định mà chủ yếu là văn bản quy phạm pháp luật. Nói
cách khác, xây dựng pháp luật là hoạt động tạo lập mới hoặc thay đổi các quy phạm
pháp luật đã có - tế bào của hệ thống pháp luật. Thông qua hoạt động xây dựng pháp


9

luật, hệ thống pháp luật có thể “phình” thêm hoặc “teo” đi. Hoạt động xây dựng pháp
luật cũng là hoạt động quyền lực hóa các chuẩn mực xã hội
Trong thực tiễn ở Việt Nam, xây dựng pháp luật là hoạt động mang tính tổ
chức rất chặt chẽ, được tiến hành theo những trình tự và thủ tục pháp luật quy định.
Cụ thể, hiện tại, việc xây dựng và ban hành các văn bản của chính quyền trung ương
được thực hiện theo các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
năm 2015.
Trên cơ sở đó, chính sách xây dựng pháp luật, theo bài viết, là những cách thức
tác động của Nhà nước vào lĩnh vực của đời sống xã hội để đạt được mục tiêu định
hướng pháp luật. Chính sách xây dựng pháp luật điều chỉnh những quan hệ chung
nhất,mang tính định hướng. Đặc biệt, chính sách xây dựng pháp luật điều chỉnh động
cơ, tạo động lực cho hành vi, hoạt động của các cá nhân và từng nhóm đối tượng cụ
thể.
2. Vai trò của chính sách xây dựng pháp luật
Vai trò của chính sách xây dựng pháp luật chiếm một vị trí quan trọng trong
việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Cụ thể hơn, chính sách xây dựng pháp luật có vai trò định hướng cho các hoạt động
kinh tế – xã hội; khuyến khích các hoạt động kinh tế – xã hội theo định hướng; phát
huy những mặt tốt của nền kinh tế thị trường và hạn chế những tiêu cực của nó; tạo
lập sự cân đối trong phát triển và bảo vệ sự cân bằng của xã hội; kiểm soát và phân
phối nguồn lực cho quá trình phát triển; tạo lập môi trường thích hợp cho các hoạt
động kinh tế – xã hội, giúp cho các thực thể vận động phát triển theo đúng quy luật;
phối hợp hoạt động giữa các cấp độ, các bộ phận để tạo nên tính hệ thống chặt chẽ

trong quá trình vận động của thực thể.


11

II. Nội dung chính sách trong xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay
Ngày 24 tháng 5 năm 2005, Bộ Chính trị đã thông qua Nghị quyết số 48 –
NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020. Tại các Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc của
Đảng khóa X, XI và XII, Đảng ta luôn đề cập đến vấn đề đường lối xây dựng pháp
luật trong các giai đoạn phát triển của đất nước. Các văn bản đó đều thể hiện quan
điểm chỉ đạo của Đảng đối với hoạt động xây dựng pháp luật của Việt Nam giai đoạn
hiện nay.
1. Mục tiêu và quan điểm trong công tác xây dựng pháp luật
Trong công tác xây dựng pháp luật, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra mục tiêu:
- Thứ nhất, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch,
trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân.
- Thứ hai, phải đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật;
- Thứ ba, phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội,
giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công
dân.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước trong công tác xây dựng pháp luật được
thể hiện như sau:
- Thứ nhất, phải thể chế hoá kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng, cụ
thể hoá các quy định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
- Thứ hai, phải bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân;

xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hoá - xã
hội, giữ vững quốc phòng, an ninh.


13

- Thứ ba, phát huy tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện đầy đủ các
cam kết quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và định
hướng xã hội chủ nghĩa.
- Thứ tư, phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc
kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; kết hợp hài hoà bản
sắc văn hoá, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tính hiện đại của hệ thống pháp luật.
- Thứ năm, phải phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong quá trình xây
dựng, hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật.
- Thứ sáu, phải tiến hành đồng bộ với cải cách hành chính, cải cách tư pháp,
với những bước đi vững chắc; coi trọng số lượng và chất lượng, có trọng tâm, trọng
điểm; dự tính đầy đủ các điều kiện bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành của pháp luật.
- Thứ bảy, đảm bảo vấn đề phản biện xã hội trong quá trình xây dựng pháp
luật, vấn đề phát triển bền vững trong nội dung của pháp luật1
2. Định hướng xây dựng pháp luật
Việc xây dựng pháp luật trong giai đoạn hiện nay được Đảng và Nhà nước ta
định hướng như sau:
Thứ nhất, tiến hành xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Liên quan đến nội dung này, Đảng và Nhà nước ta đặt ra yêu cầu:
- Phải đổi mới và không ngừng hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Đồng thời, chúng ta phải xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam

- Phải xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan
nhà nước bao gồm: pháp luật về tổ chức và hoạt động Quốc hội nhằm nâng cao chất
1 />

15

lượng hoạt động lập pháp; pháp luật về tổ chức, cán bộ và hoạt động của các cơ quan
hành chính nhà nước phù hợp với mục tiêu, yêu cầu cải cách hành chính nhà nước;
pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp phù hợp với mục tiêu định hướng của Chiến lược cải cách tư pháp; pháp luật về tổ chức và hoạt động của
cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa trinh sát, điều tra
ban đầu với hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra.
- Phải xây dựng và hoàn thiện các dự án pháp luật quan trọng bao gồm: Pháp
luật về quy trình xây dựng, ban hành và công bố văn bản quy phạm pháp luật thống
nhất cho cả Trung ương và địa phương; pháp luật về khiếu nại, tố cáo; pháp luật về tổ
chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra; Bộ luật thi hành án điều chỉnh tất cả các lĩnh
vực thi hành án, xác định Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước
thống nhất công tác thi hành án, từng bước xã hội hoá hoạt động thi hành án; pháp
luật về tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan hành pháp được hoàn thiện
theo hướng Chính phủ tập trung vào chức năng quản lý, điều hành vĩ mô và thực hiện
đúng vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất; pháp luật về bổ trợ tư pháp
(luật sư, công chứng, giám định, cảnh sát tư pháp...)
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền tự
do, dân chủ của công dân. Đối với nội dung này, Đảng và Nhà nước định hướng:
- Phải củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong
việc xây dựng, ban hành kịp thời, đồng bộ và tổ chức thực thi các pháp luật, các điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về quyền con người, quyền công dân trong
các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội.
- Phải hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, nhất là toà án trong
việc bảo vệ các quyền đó; khẩn trương ban hành Luật về bồi thường nhà nước. Xây

dựng các đạo luật về lập hội, biểu tình nhằm xác định rõ quyền, trách nhiệm của công
dân trong việc thực thi quyền dân chủ và trách nhiệm của Nhà nước trong việc duy
trì, bảo đảm kỷ cương, trật tự công cộng.


17

- Phải hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát của các cơ quan dân cử, quyền
trực tiếp giám sát, kiểm tra của công dân đối với các hoạt động của cơ quan, cán bộ,
công chức; mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia vào công
việc của Nhà nước; ban hành Luật về trưng cầu ý dân.
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế, trọng tâm là hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với nội dung này,
Đảng và Nhà nước định hướng như sau:
- Phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, tập trung vào một số lĩnh vực pháp luật kinh tế trọng điểm, đáp ứng
kịp thời yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế.
- Cần xây dựng và hoàn thiện các cơ chế, cơ sở pháp lý, chính sách pháp luật
quan trọng nhằm hoàn thiện thế kế kinh tế của nước ta. Cụ thể: Xây dựng và hoàn
thiện cơ chế pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh, bảo vệ quyền tự do kinh
doanh; pháp luật về hợp đồng theo hướng tôn trọng thoả thuận của các bên giao kết
hợp đồng, không trái với đạo đức xã hội, không xâm phạm trật tự công cộng, phù hợp
với tập quán, thông lệ thương mại quốc tế; đổi mới cơ bản pháp luật về phá sản; tạo
lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với nguyên tắc
của WTO và các cam kết quốc tế khác; tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát
triển thị trường bất động sản; hoàn thiện môi trường pháp lý cho sự hình thành, phát
triển lành mạnh thị trường lao động; hoàn thiện pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,
hình thành và phát triển thị trường khoa học - công nghệ theo hướng mở rộng phạm
vi các đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với yêu cầu của WTO và
các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp

lý, áp dụng các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ tín dụng, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động tín dụng trên nguyên
tắc an toàn hệ thống; hoàn thiện pháp luật về thị trường chứng khoán, pháp luật về tài
chính công; tiếp tục cải cách pháp luật về thuế; hình thành đồng bộ pháp luật về các
chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật; hoàn thiện pháp luật về tài nguyên và môi trường


19

theo nguyên tắc quản lý chặt chẽ, phát triển bền vững, bảo đảm kết hợp hài hoà giữa
việc sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ, y tế, văn hoá - thông tin, thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân số, gia đình, trẻ
em và chính sách xã hội. Đối với nội dung này, Đảng và Nhà nước định hướng như
sau:
- Cần thể chế hoá: Chủ trương xã hội hoá trong các lĩnh vực văn hoá - xã hội
bảo đảm sự quản lý, điều tiết và đầu tư thích đáng của Nhà nước phù hợp với mục
tiêu trong từng lĩnh vực; thể chế hoá quan điểm coi giáo dục - đào tạo là quốc sách
hàng đầu, thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá giáo dục”, xây dựng xã hội
học tập, nâng cao chất lượng giáo dục; thế chế hoác các chính sách về công bằng xã
hội để bảo đảm mọi công dân được tiếp cận và hưởng thụ các loại dịch vụ công, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, xoá đói, giảm nghèo.
- Phải hoàn thiện pháp luật về khoa học và công nghệ theo hướng khuyến khích
sự phát triển các ngành khoa học mới, công nghệ cao; hoàn thiện pháp luật về dân
tộc, tôn giáo theo hướng tăng cường đoàn kết đồng bào các dân tộc, tôn giáo trên cơ
sở đại đoàn kết toàn dân tộc; pháp luật nhằm bảo tồn và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo quan điểm văn hoá, tạo lập đồng bộ cơ sở
pháp lý, bảo đảm tự do, dân chủ cho hoạt động sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn
hoá, văn học nghệ thuật; hoàn thiện pháp luật về báo chí và xuất bản theo hướng bảo
đảm quyền tự do báo chí, xuất bản gắn liền với chế độ trách nhiệm pháp lý, trách
nhiệm xã hội và đạo đức nghề nghiệp của người làm báo, xuất bản; Xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân theo hướng bảo đảm để

công dân có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng, tạo bình
đẳng giữa y tế nhà nước và y tế tư nhân; hoàn thiện pháp luật về hoạt động nghề
nghiệp của những người hành nghề y, dược, về dân số, gia đình, bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em, về người khuyết tật.


21

Thứ năm, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quốc phòng và an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội. Đối với nội dung này, Đảng và Nhà nước định hướng như
sau:
- Trước năm 2010, phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh
nhằm xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân; thể
chế hoá mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố và xây dựng tiềm lực
quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc bảo vệ Tổ quốc;
phải hoàn thiện pháp luật về biên giới quốc gia, vùng biển, vùng trời; về tổ chức, hoạt
động lực lượng vũ trang nhân dân; pháp luật về đấu tranh phòng chống tội phạm theo
hướng xây dựng các cơ quan bảo vệ pháp luật là nòng cốt, phát huy sức mạnh của
toàn xã hội trong việc phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm; Phải hoàn thiện
chính sách hình sự, bảo đảm yêu cầu đề cao hiệu quả phòng ngừa; hạn chế hình phạt
tử hình, giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền; cải tạo không giam giữ
đối với các loại tội ít nghiêm trọng. Hoàn thiện pháp luật về phòng chống tệ nạn xã
hội, như mại dâm, ma tuý, HIV/AIDS...
- Sau năm 2010, xây dựng mới các đạo luật về phòng thủ dân sự, giáo dục quốc
phòng, bảo vệ các mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia, chống khủng bố...
Thứ sáu, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế. Đối với nội
dung này, Đảng và Nhà nước định hướng như sau:
- Tiếp tục ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế,
thương mại, đầu tư, tín dụng quốc tế, sở hữu trí tuệ, thuế quan, bảo vệ môi trường...
Đồng thời, đẩy mạnh việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản

quy phạm pháp luật để phù hợp với thông lệ quốc tế và các điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên.
- Ưu tiên xây dựng các văn bản pháp luật và các thiết chế bảo vệ nền kinh tế
độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; khẩn trương rà soát, hoàn
thiện pháp luật theo yêu cầu gia nhập WTO; thực hiện các cam kết với ASEAN, tham
gia đầy đủ vào AFTA năm 2006, tiến tới cộng đồng kinh tế châu Á vào năm 2020.


23

- Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế (trọng tài, hoà giải) phù
hợp với tập quán thương mại quốc tế. Tham gia các điều ước quốc tế đa phương về
tương trợ tư pháp, nhất là các điều ước liên quan tới việc công nhận và cho thi hành
các bản án, quyết định của toà án, quyết định trọng tài thương mại.
- Ký kết và gia nhập các công ước quốc tế về chống khủng bố quốc tế, chống
tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, chống rửa tiền, chống tham nhũng, các hiệp định
tương trợ tư pháp. Chú trọng việc nội luật hoá những điều ước quốc tế mà Nhà nước
ta là thành viên liên quan đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Sớm ban hành Luật dẫn
độ tội phạm và chuyển giao người bị kết án phạt tù.
III. Thực tiễn thực hiện các chính sách xây dựng pháp luật - thực trạng và giải
pháp nâng cao hiệu quả thực hiện tại Việt Nam
1.Tình hình thực hiện các chính sách xây dựng pháp luật
Tồn tại một số quy định gây bức xúc trong dư luận, cụ thể như quy định tại
Điều 344 của Bộ luật hình sự 2015 ghi rõ quy định sẽ phạt cảnh cáo, phạt tiền và cao
nhất là phạt tù đến 2 năm với những hành vi vi phạm trong ngành xuất bản. Ở điều
344 quy định có 6 hành vi phạm tội như: Không tuân thủ quy định về biên tập và
duyệt bản thảo nhưng vẫn xuất bản xuất bản phẩm; không nộp xuất bản phẩm lưu
chiểu nhưng vẫn phát hành xuất bản phẩm…. Đa số các đơn vị, công ty xuất bản,
phát hành đều cho rằng những quy định này chưa thỏa đáng. Nếu điều luật này đưa
vào áp dụng thì những người làm xuất bản, cán bộ, biên tập, giám đốc nhà xuất bản

sẽ bị rơi vào vòng lao lý một cách rất dễ dàng. Điều này sẽ gây bất an, lo sợ trong
giới làm nghề. Trong bối cảnh đất nước ta đang trong quá trình hội nhập, dân chủ,
nhiều tội hình sự được bỏ bớt, nhiều tội nặng như tử hình đã giảm án xuống. Qua vụ
án quán café Xin chào, quan điểm của lãnh đạo đất nước là không hình sự hóa các
hoạt động kinh tế. Vậy tại sao lại hình sự hóa các hoạt động xuất bản trong khi đó
những hành vi này không đáng để hình sự hóa, không đáng để phải phạt tù. Những
hành vi đó chỉ là sai sót về mặt nghiệp vụ, vốn không hề gây hậu quả làm chết người,
vi phạm điều cấm của Luật xuất bản 2012 hay gây tác hại xã hội, nguy hiểm cho


25

cộng đồng. Thêm nữa, với những hành vi quy định tại Điều 344 Bộ luật hình sự thì
trong trong Luật xuất bản 2012 và nghị định 159/2013/NĐ – CP quy định về xử phạt
vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí xuất bản, cụ thể tại điều 22, chỉ phạt
tiền với những hành vi này.
Thông tư 32/2009/TT-BCT cũng trong hoàn cảnh tương tự khi khiến các doanh
nghiệp đã gặp rất nhiều khó khăn, bức xúc với quy định này, nhiều lần kiến nghị sửa
đổi, nhưng không được chấp nhận. Thực tiễn áp dụng quy định này cho thấy, chỉ có
một tỷ lệ nhỏ không đáng kể lô hàng không đạt hàm lượng quy định. Theo thống kê
của Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất, từ khi thực hiện Thông tư 32/2009/TT-BCT đến
năm 2015, mỗi năm có khoảng 8000 lô hàng sản phẩm dệt may làm thủ tục nhập
khẩu tại đơn vị này phải kiểm tra hàm lượng formaldehyte, nhưng chỉ có 6 trường
hợp (0,0125%) không đáp ứng hàm lượng quy định. Hơn nữa, cũng chưa phát hiện
bất cứ trường hợp nào bị ảnh hưởng về sức khoẻ do hàm lượng formaldehyte cao quá
mức quy định. Trong khi đó, 7 năm qua, doanh nghiệp phải trả chi phí hàng trăm tỉ
đồng cho việc kiểm tra, và thời gian thông quan hàng hoá kéo dài. Mỗi lô hàng mất từ
3 – 7 ngày, mỗi năm có nhiều nghìn lô hàng, gây lãng phí nhiều nghìn ngày công.
Ngoài ra, nghiên cứu, rà soát các quy định của pháp luật cũng cho thấy việc ban hành
Thông tư 37/2015/TT-BCT về kiểm tra hàm lượng formaldehyt và amin thơm (văn

bản thay thế thông tư 32/2009/TT-BCT là thiếu cơ sở pháp lý, không tuân thủ quy
định của Luật chất lượng sản phẩm hàng hoá (Khoản 2 Điều 70).
Bên cạnh đó, về thủ tục kiểm tra hiệu suất năng lượng và dán nhãn năng lượng
trên các phương tiện, thiết bị nhập khẩu cũng gây vướng mắc và bức xúc nhất hiện
nay cho doanh nghiệp và cả cơ quan hải quan. Cụ thể là doanh nghiệp nhập khẩu
phương tiện, thiết bị phải thực hiện thủ tục 2 giai đoạn do 2 đơn vị khác nhau thực
hiện: vừa phải thủ tục thử nghiệm tại các tổ chức đánh giá sự phù hợp do Bộ Công
Thương chỉ định, kéo dài hàng tháng, chi phí lớn, nhiều sản phẩm phải kiểm tra phá
hủy (bao gồm cả những mặt hàng giá trị cao của các thương hiệu nổi tiếng thế giới);


27

vừa phải xin cấp Giấy chứng nhận dán nhãn năng lượng (một loại giấy phép) ở Bộ
Công thương (Tổng cục năng lượng) với vô vàn khó khăn, phức tạp, tốn kém chi phí.
Quy định 2 giai đoạn là không cần thiết, làm tăng thủ tục, thời gian, chi phí cho
doanh nghiệp. Trên thực tế, việc cấp GCN dán nhãn hoàn toàn dựa trên hồ sơ và kết
quả thử nghiệm, có thể giao cho tổ chức thử nghiệm đảm nhiệm, theo đó, có thể bỏ
giai đoạn cấp GCN dán nhãn tại Tổng cục Năng lượng. Dù ngày 26/4/2016, Tổng cục
Năng lượng, Bộ Công thương đã ban hành công văn số 1053 quy định kết quả thử
nghiệm, GCN có giá trị nhập khẩu mặt hàng/model cùng loại trong vòng 6 tháng
nhưng quy định này chỉ là giải pháp đối phó, không có cơ sở, không giải quyết cơ bản
vướng mắc.
2. Hạn chế của các chính sách xây dựng pháp luật.
Thứ nhất, thiếu tính hệ thống, chưa bảo đảm tính đồng bộ, cân đối của các
chính sách xây dựng pháp luật, chưa có sự thống nhất rõ ràng giữa những văn bản có
tính chất nguyên tắc, định hướng với các văn bản thể chế hóa, từ đó dẫn đến việc
cùng một vấn đề nhưng các ngành liên quan lại có cách hiểu, cách hướng dẫn khác
nhau, làm giảm tính minh bạch, khiến cho chính sách pháp luật trở nên phức tạp, khó
hiểu, khó áp dụng, chậm đi vào cuộc sống.

Thứ hai, hệ thống pháp luật hiện còn đa dạng về hình thức, phạm vi điều chỉnh
rộng. Các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta thường được xây dựng theo hướng
có phạm vi, đối tượng điều chỉnh rộng. Điều này có ảnh hưởng không tốt tới tính cụ
thể, tính khả thi của pháp luật do phải ban hành nhiều văn bản dưới luật và khó sửa
đổi, bổ sung để theo kịp sự thay đổi của đời sống xã hội.
Thứ ba, tính ổn định của hệ thống pháp luật chưa cao. Nguyên nhân chủ yếu
xuất phát từ năng lực của đội ngũ xây dựng chính sách, do những e ngại, né tránh với
những cái mới, cái khác biệt, chỉ chấp nhận những vấn đề có sự đồng thuận cao, thiếu
vắng tầm nhìn và quan điểm chiến lược cho sự phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội


29

cụ thể và của cả hệ thống pháp luật (Nhiều văn bản pháp luật thời gian áp dụng rất
ngắn, thậm chí mới ban hành đã phải tạm hoãn thực hiện hoặc phải sửa đổi, bổ sung).
3. Nguyên nhân hạn chế trong thực thi các chính sách xây dựng pháp luật
- Các nguyên nhân chủ quan bao gồm:
+ Công tác phối hợp giữa các chủ thể trong việc xây dựng, thực hiện chính
sách còn thiếu chặt chẽ, thường xuyên dẫn tới việc chính sách pháp luật ban hành
không kịp với thời đại, gây ảnh hưởng tính khả thi, đồng bộ của chính sách.
+ Các cơ quan có chức năng, thẩm quyền chưa có cơ chế để nhân dân, doanh
nghiệp tham gia xây dựng chính sách cũng như kiểm tra, giám sát việc thực hiện
chính sách.
+ Các chủ thể có thẩm quyền tham gia vào quá trình cải cách hành chính nhà
nước tuy có nhiều thay đổi nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn và mong
mỏi của người dân, doanh nghiệp. Hệ thống chính sách pháp luật còn thiếu đồng bộ,
thống nhất, vẫn chồng chéo, nhiều về số lượng, hạn chế về chất lượng, vẫn còn nhiều
thủ tục hành chính bất hợp lý, gây phiền hà cho nhân dân và doanh nghiệp; quá trình
cải cách chủ yếu dừng lại ở những biện pháp tình thế, vướng đâu gỡ đó, thiếu một
giải pháp toàn diện, cơ bản để có thể giải quyết tận gốc vấn đề.

+ Việc phân tích, đánh giá trước khi xây dựng dự thảo luật của các cơ quan có
thẩm quyền còn chưa kỹ lưỡng nên còn chưa xác định được thứ tự ưu tiên ban hành
văn bản
- Nguyên nhân khách quan trong chính sách xây dựng pháp luật là do tình hình
kinh tế xã hội luôn biến đổi, vận động không ngừng, việc xây dựng pháp luật khó đáp
ứng được “đòi hỏi” từ sự thay đổi của các quan hệ xã hội.
4. Những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xây dựng pháp luật
Thứ nhất, trong quá trình xây dựng, ban hành chính sách pháp luật cần phải
được nghiên cứu, chuẩn bị kỹ lưỡng với những luận cứ, chứng cứ đầy đủ, khách quan
cho từng phương án chính sách, tuân thủ quy trình, bảo đảm sự tham gia của các nhà


31

khoa học, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và tầng lớp nhân dân,
bảo đảm tính công khai, khách quan, đồng thời phát huy được trí tuệ của toàn dân.
Thứ hai, cách thức xây dựng văn bản chính sách pháp luật, cần có sự thay đổi
về tư duy trong việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng thu
hẹp phạm vi, đối tượng điều chỉnh. Điều này không chỉ bảo đảm tính cụ thể, chuyên
sâu mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng sự thay
đổi của các quan hệ xã hội.
Thứ ba, quy trình lập pháp, cần tiếp tục đổi mới theo hướng duy trì quy trình
rút gọn và quy trình một luật sửa nhiều luật; nâng cao chất lượng và phát huy vai trò
các ủy ban của Quốc hội trong hoạt động thẩm tra. Tạo cơ chế thuận lợi để các đối
tượng chịu sự tác động, các nhà khoa học và nhân dân tham gia vào quy trình lập
pháp; có quy định rõ việc phải đánh giá, chủ thể đánh giá chính sách pháp luật.
Thứ tư, cần tiến hành cải cách có trọng tâm, trọng điểm theo lộ trình, đặc biệt
hoàn thiện việc xây dựng, ban hành chính sách pháp luật về những lĩnh vực mà người
dân đang bức xúc như đấu thầu, chỉ định thầu; thủ tục về quản lý, sử dụng đất đai,
quyền sở hữu nhà; thuế, hải quan… Tập trung xây dựng, hoàn thiện có chất lượng các

văn bản chính sách pháp luật quy định về chế tài xử lý hành chính. Đẩy mạnh công
tác xã hội hóa cung cấp dịch vụ công, bên cạnh việc tăng cường sự hợp tác với khu
vực doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát.


33

KẾT LUẬN
Sau gần ba mươi năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có những tiến bộ quan trọng.
Quy trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật được đổi mới. Nhiều bộ luật,
luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn
để Nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phòng, đối ngoại... Nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dân chủ, nhân quyền
từng bước được đề cao và phát huy trên thực tế. Tuy nhiên, nhìn chung hệ thống pháp
luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc
sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi
trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lượng
các văn bản pháp luật chưa cao. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật còn hạn chế. Thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu. Những
hạn chế nêu trên phát sinh từ nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng Đảng và Nhà nước
ta đang từng bước thay đổi và hoàn thiện phù hợp với mục tiêu phát triển đất nước.


35

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb.
CAND, Hà Nội.
2. Mai Ngọc Cường (2013), Một số vấn đề cơ bản về chính sách xã hội ở Việt Nam

hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Website
3. />4. />hap_luat_Van_de_va_giai_phap
5. />6. />7. />option=com_content&view=article&id=27%3Achapter-l-the-politicalregime&catid=35%3Aconstitution-of-lao pdr&Itemid=51&lang=en
8. />9. />10. />ail.aspx?ItemID=106
11.

/>
thang-5-nam-2005-ve-chien-luoc-xay-dung-va-hoan-thien-he-thong-phap-luat-vietnam--den-nam-2010-dinh-huong-den-nam-2020-d564.html



×