BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
NGUYỄN THỊ HOÀI HƯƠNG
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG FDI TẠI BÌNH DƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Đồng Nai, 2013
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài :
Trong quá trình phát triển của đất nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) vào nước ta đă tăng lên khá nhiều và đóng góp một phần rất quan trọng
đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.Nguồn vốn đầu tư FDI tạo ra
khu vực phát triển năng động nhất trong nền kinh tế quốc dân với tốc độ tăng
GDP luôn cao hơn tốc độ tăng của cả nước. Năm 1995, GDP của khu vực FDI
tăng 14,98% trong khi GDP cả nước tăng 9,54%; năm 2000, tốc độ này tương
ứng là 11,44% và 6,79%; năm 2005 là 13,22% và 8,44%; 2010 là 8,12% và
6,78%. Tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI vào GDP tăng dần từ 2% năm 1992
lên tới 12,7% năm 2000; 16,98% năm 2006 và 18,97% vào năm 2011.
Tác động của khu vực FDI đối với tăng trưởng kinh tế còn thể hiện rõ
hơn thông qua bổ sung vốn cho tổng vốn đầu tư xã hội. Theo đó, giai đoạn
1991-2000, khu vực FDI đã bổ sung 29,67 tỷ USD, chiếm 24,32% tổng vốn
cho đầu tư xã hội và giai đoạn 2001-2011 khu vực FDI bổ sung 69,47 tỷ
USD, chiếm 22,75% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tỷ trọng khu vực FDI trong
cơ cấu kinh tế giai đoạn 2000-2011 tăng 5,4%.
FDI cũng góp phần quan trọng vào xuất khẩu. Trước năm 2001, xuất
khẩu của khu vực FDI chỉ đạt 45,2% tổng kim ngạch, kể cả dầu thô, từ năm
2003, xuất khẩu của khu vực này bắt đầu vượt khu vực trong nước và dần trở
thành nhân tố chính thúc đẩy xuất khẩu, chiếm 64% tổng kim ngạch xuất
khẩu vào năm 2012. FDI cũng đóng góp vào ngân sách ngày càng tăng. Giai
đoạn 1994-2000, khu vực FDI đóng góp vào ngân sách 1,8 tỷ USD và tăng
lên 14,2 tỷ USD vào giai đoạn 2001-2010. Riêng năm 2012, khu vực FDI nộp
ngân sách 3,7 tỷ USD (không kể dầu thô), chiếm 11,9% tổng thu ngân sách.
2
Khu vực FDI cũng góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa : 58,4% tổng vốn FDI vào Việt Nam
tập trung vào lĩnh vực công nghiệp - xây dựng, với trình độ công nghệ cao
hơn mặt bằng chung cả nước. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp - xây dựng của
khu vực FDI đạt bình quân 18%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng toàn ngành.
Đến nay, khu vực FDI đã tạo ra gần 45% giá trị sản xuất công nghiệp, góp
phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viễn
thông, khai thác, chế biến dầu khí, điện tử, công nghệ thông tin, thép, xi
măng,…
Ngoài những đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, khu vực FDI còn góp
phần nhất định vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua việc áp dụng khoa
học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp; tạo công ăn việc làm cho 2 triệu lao
động trực tiếp và 3-4 triệu lao động gián tiếp. Khu vực FDI cũng được đánh
giá là kênh chuyển giao công nghệ quan trọng, góp phần nâng cao trình độ
công nghệ của nền kinh tế. Theo thống kê, từ năm 1993 đến nay, Việt nam đã
có 951 hợp đồng chuyển giao công nghệ được phê duyệt/ đăng ký, trong đó
605 hợp đồng là của khu vực doanh nghiệp (DN) FDI, chiếm 63,6% tổng số
hợp đồng chuyển giao công nghệ được phê duyệt, đăng ký,… đó là những
tiền đề làm cho tác động lan tỏa của khu vực FDI đối với nền kinh tế là rất
lớn, nó được thực hiện thông qua mối liên kết sản xuất giữa DN FDI với DN
trong nước, qua đó tạo điều kiện thuận lợi để DN trong nước tiếp cận với
chuyển giao công nghệ. Nhiều sản phẩm của khu vực DN FDI mang thương
hiệu Việt Nam còn có chỗ đứng nhất định trên thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật
Bản,…[]
Bình Dương là một tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, đã
có những thành công nhất định trong hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài.
Nếu như năm 1997, tại Bình Dương chỉ có 63 doanh nghiệp nước ngoài, thì
3
đến năm 2011, đã có 2.096 doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư với tổng vốn
FDI là 17,14 tỷ đô la Mỹ. Từ nguồn vốn của các doanh nghiệp nước ngoài đã
làm cho kinh tế Bình dương khởi sắc hơn so với thời kỳ trước năm 1986 và
đến liên tục phát triển nay. Tăng trưởng GDP của tỉnh trong giai đoạn 2001 –
2005 là 15,3 % /năm và giai đoạn 2006 – 2011 là 14 % /năm. Mức GDP đầu
người hàng năm liên tục tăng: năm 2010, bình quân là 30 triệu đồng/năm, thì
năm 2012 đã là 41,6 triệu đồng. Đóng góp vào ngân sách tỉnh Bình Dương
của của khu vực FDI cũng tăng theo thời gian. Năm 1997, đóng góp của FDI
đạt cho ngân sách chỉ 817 tỷ đồng, nhưng đến năm 2011, khu vực này đã
đóng góp vào ngân sách Nhà nước gần 4.000 tỷ đồng và số thu nộp ngân sách
năm 2012 là hơn 7.500 tỷ đồng. Từ những đóng góp ban đầu, nguồn vốn FDI
sau 20 năm đã góp phần làm thay đổi diện mạo kinh tế của tỉnh Bình Dương.
Từ một tỉnh sản xuất nông nghiệp, Bình Dương trở thành một tỉnh có cơ cấu
kinh tế chuyển dần theo hướng từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Đến năm 2011 cơ cấu kinh tế của Bình Dương là : Công nghiệp –dịch vụ nông nghiệp với tỷ lệ tương ứng là: 62,2 % -33,7 % - 4,3%.
Mặc dù FDI tại Bình Dương có những kết quả đạt được đáng ghi nhận
nêu trên thì khu vực kinh tế này vẫn còn những vấn đề tồn tại khiến cho hoạt
động đầu tư FDI kém hiệu quả. Theo báo cáo tại “Hội nghị đánh giá kết quả
25 năm thu hút đầu tư nước ngoài vào tỉnh Bình Dương” của UBND tỉnh
Bình Dương mới đây, thì tuy dẫn đầu cả nước về thu hút vốn FDI năm 2012,
nhưng thực trạng ở Bình Dương vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế như :
nhiều DN FDI chậm triển khai dự án đầu tư, kê khai thuế chưa đúng quy định,
sử dụng lao động không đúng như báo cáo với cơ quan chính quyền sở tại,
xúc phạm nhân phẩm người lao động, khai thác cạn kiệt sức lao động của
người làm thuê; làm tăng khoảng cách giầu nghèo giữa các các nhân, giữa các
vùng. Bên cạnh đó, việc thu hút các dự án đầu tư công nghệ cao còn hạn chế,
4
chuyển giao công nghệ còn chậm. Còn nhiều DN FDI sử dụng công nghệ lạc
hậu, gây ô nhiễm môi trường. Việc sử dụng tài nguyên đất đai, khoáng sản
chưa thật sự hiệu quả. Mối liên kết ngang, dọc giữa các DN trong và ngoài
nước chưa cao, dẫn đến việc phát huy năng lực của nhau còn hạn chế. Chất
lượng của dự án FDI vào Bình Dương không cao, vốn đầu tư của mỗi dự án
thấp. Số lượng dự án đăng ký vốn đầu tư cao thì lại thuộc lĩnh vực bất động
sản như khu đô thị Tokyu Bình Dương (hơn 1,2 tỷ USD), khu đô thị sinh thái
EcoLakes Mỹ Phước (hơn 620 triệu USD), khu đô thị mới EcoXuân (177
triệu USD)… nhưng theo nhận định của một số chuyên gia thuộc Hiệp hội bất
động sản TP.HCM thì trong tình hình bất động sản ảm đạm như hiện nay, khả
năng triển khai các dự án này trong thực tế là rất thấp...
Những tồn tại trên đây là rất quan trọng, liên quan vai trò quản lí nhà
nước đối với FDI, quyết định đến hiệu quả của FDI tại Bình dương. Với suy
nghĩ như vậy, tôi đề xuất đề tài nghiên cứu : “ Một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động FDI tại Bình Dương ”
5
2. Mục tiêu của đề tài
2.1. Mục tiêu chung
Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả FDI tại tỉnh Bình Dương
nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của doanh nghiệp FDI trên địa bàn
tỉnh
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp FDI
tại Bình Dương
- Hiệu quả kinh tế xã hội của doanh nghiệp FDI (các đóng góp của
Doanh nghiệp FDI đối với phát triển kinh tế xã hội)
- Phân tích, đánh giá những mặt hạn chế trong hoạt động của DN FDI
tại Bình Dương
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng chính đến hiệu quả kinh tế xã hội
của các DN FDI Bình Dương
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả FDI đối với phát triển
kinh tế xã hội của Bình Dương
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng : Hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN FDI tại
Bình Dương.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung : Hiệu quả kinh tế xã hội trên quan điểm toàn xã hội của
các doanh nghiệp FDI
+ Về không gian : Các doanh nghiệp FDI trên địa bàn Bình dương
+ Về thời gian : 5 năm (2007 – 2012 và 2013)
4. Nội dung nghiên cứu :
4.1. Những đặc điểm kinh tế, xã hội có ảnh hưởng đến FDI
6
4.2. Thực trạng về hoạt động của các doanh nghiệp FDI và các đóng
góp của chúng đối với phát triển kinh tế xã hội của tỉnh
4.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế - xã hội của các doanh
nghiệp FDI tại Bình dương
4.4. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động FDI tại Bình
dương
7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Lý luận chung về FDI
1.1.1. Khái niệm, vai trò của FDI
Tất cả mọi quốc gia trên thế giới đều tiến hành những hoạt động sản
xuất hàng hóa. Nhưng các nước phát triển có điều kiện nghiên cứu và triển
khai ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật làm cho năng suất lao động tăng
nhanh, khối lượng sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều, chất lượng cao đáp
ứng và vượt nhu cầu trong nước. Vì thế, các nước phát triển đã đẩy mạnh xuất
khẩu hàng hoá sang các nước kém phát triển, nhưng có nhu cầu và khả năng
tiêu thụ cao. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các tổ chức độc
quyền hình thành và nắm giữ quyền lực trong nền kinh tế, kiểm soát một
lượng vốn khổng lồ với tham vọng kinh doanh không biên giới. Dẫn đến xuất
hiện hình thức xuất khẩu mới : xuất khẩu tư bản. Bằng việc xuất khẩu tư bản,
các nhà tư bản tiến hành sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài thay vì
sản xuất trong nước rồi xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu tư bản ra nước ngoài
để tìm kiếm lợi nhuận đó được gọi là hình thức Đầu tư Quốc tế (International
Investment). Có thể hiểu Đầu tư quốc tế là một quá trình, trong đó có sự di
chuyển vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác để thực hiện các dự án đầu tư
nhằm đưa lại lợi ích cho các bên tham gia.
Đầu tư quốc tế gồm 2 hình thức chủ yếu: đầu tư gián tiếp nước
ngoài (FPI : Foreign Portfolio Investment) và đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI : Foreign Direct Investment). Khái niệm FDI không phải ở đâu và lúc
nào cũng được hiểu giống nhau. Ví dụ ở Hàn Quốc, một nước công nghiệp
phát triển, thu hút đầu tư nhiều nhưng không hề có một khái niệm, một định
nghĩa nào về FDI. Trong khi đó, khái niệm “đầu tư trực tiếp nước ngoài” hiểu
8
theo IMF (International Monetary Fund) là “một tổ chức kinh tế (nhà đầu tư
trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế
khác”. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong
việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế đó. Còn UNCTAD (United
Nations Conference on Trade and Development -Diễn đàn Thương mại và
Phát triển Liên Hiệp quốc ) thì định nghĩa : “Đầu tư trực tiếp nước ngoài” là
một hình thức đầu tư liên quan đến mối quan hệ dài hạn và phản ánh sự kiểm
soát những lợi ích lâu bền bởi một thực thể cư ngụ tại một nền kinh tế (nhà
đầu tư nước ngoài hoặc công ty mẹ) vào một doanh nghiệp thuộc một nền
kinh tế khác”. Và APEC, (Asia-Pacific Economic Cooperation - Diễn đàn
Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương) cho rằng “FDI là hình thức đầ u
tư ngoài biên giới quố c gia”, trong đó nhà đầ u tư sẽ nắ m quyề n kiể m soát
doanh nghiêp̣ (sở hữu nhiề u hơn hoă ̣c bằ ng 10% cổ phầ n của công ty). FDI
đươ ̣c đánh giá là đô ̣ng lực để phát triể n kinh tế do FDI thường đươ ̣c đầ u tư dài
ha ̣n vào cơ sở ha ̣ tầ ng, cấ u trúc, tổ chức và thường đi liề n với chuyể n giao
công nghê ̣, kinh nghiê ̣m quản lý tiên tiế n.
Ở Việt nam, tại điều 11, Luật Đầu tư nước ngoài (2005) quy định :
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hiǹ h thức đầu tư do nhà đầu tư tự bỏ vốn đầu
tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư”; và “Đầu tư nước ngoài là việc nhà
đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp
khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam”. Nói cách khác : “đầu tư
trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân người nước ngoài, đưa vốn vào
Việt Nam bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp
thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp
liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài”
Như vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài bao giờ cũng là một dạng quan hệ
kinh tế có nhân tố nước ngoài : chủ đầu tư, vốn đầu tư, địa điểm đầu tư từ các
9
quốc gia khác nhau. Nhân tố nước ngoài ở đây không chỉ thể hiện ở sự khác
biệt về quốc tịch hoặc lãnh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham gia vào
quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài mà còn thể hiện ở việc di chuyển tư bản
trong đầu tư trực tiếp vượt ra khỏi biên giới một quốc gia. Qua đó ta có thể
thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay dù hiểu theo cách nào cũng có hai
đặc điểm nổi bật là :
1- Có sự di chuyển vốn quốc tế dưới hình thức vốn sản xuất, thông qua
việc nhà đầu tư ở một nước đưa vốn vào một nước khác để đầu tư, thiết lập cơ
sở sản xuất, kinh doanh.
2- Trực tiếp tham gia quản lý, điều hành, tổ chức sản xuất, tận dụng ưu
thế về vốn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý,…nhằm mục đích thu lợi
nhuận. Như vậy, trong đầu tư trực tiếp quyền sở hữu vốn thống nhất với
quyền sử dụng vốn hay người sở hữu vốn đồng thời cũng là người sử dụng
vốn. Việc người sở hữu vốn tham gia trực tiếp vào quá trình quản lý điều
hành hoạt động sử dụng vốn sẽ mang lại những lợi ích sau:
- Thứ nhất: vì lợi ích kinh tế họ sẵn sàng cung cấp chuyển giao công
nghệ tốt nhất cho quá trình sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp mà họ đã bỏ vốn
ra. Nhờ đó vốn đầu tư phát huy hiệu quả.
- Thứ hai: vì cùng chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh nên các quyết định chủ đầu tư đưa ra được cân nhắc một cách kỹ
lưỡng, do đó thường rất hiệu quả.
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn
pháp định tuỳ theo luật đầu tư của từng nước. Ví dụ ở Việt Nam tỷ lệ góp vốn
của bên nước ngoài ít nhất là 30% ; Ở Mỹ quy định tỷ lệ góp vốn của chủ đầu
10
tư nước ngoài không được thấp hơn 10% ; còn một số nước khác tỷ lệ này ít
nhất là 20%.
- Các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý điều hành dự án hoặc xí
nghiệp mà họ đã bỏ vốn đầu tư. Vì thế, quyền quản lý doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn. Nếu góp vốn 100% thì xí
nghiệp đó hoàn toàn thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài và cũng do họ
quản lý toàn bộ.
- Lợi nhuận thu được của các chủ đầu tư phụ thuộc vào kết quả hoạt
động kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn sau khi đã nộp thuế cho
nước sở tại và trả lợi tức cổ phần (nếu có).
- Đầu tư trực tiếp được thực hiện dưới các hình thức
+ Xây dựng xí nghiệp hoàn toàn mới
+ Mua lại từng phần hoặc toàn bộ xí nghiệp đang hoạt động.
+ Mua cổ phiếu để thôn tính hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau.
- Việc tiếp nhận đầu tư không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận đầu tư.
Thay vì phải chịu lãi suất, nước đầu tư nhận được lợi nhuận thích đáng khi
công trình đầu tư hoạt động có hiệu quả
- FDI không chỉ đưa vốn vào nước nhận đầu tư mà thường đi kèm theo
với vốn là kỹ thuật, công nghệ, bí quyết kinh doanh, công nghệ quản lý… Do
FDI mang theo kỹ thuật công nghệ nên nó thúc đẩy sự ra đời của các ngành
nghề mới, đặc biệt là những ngành nghề sử dụng công nghệ cao hay nhiều
vốn. Vì thế, nó có tác dụng to lớn đối với quá trình CNH, HĐH chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế ở nước đầu tư. Tuy vậy, cũng cần nhận
thức rằng FDI chứa đựng khả năng các doanh nghiệp nước ngoài (100% vốn
nước ngoài) có thể trở thành lực lượng áp đảo trong ngành kinh tế của nước
nhận đầu tư. Trường hợp này xảy ra khi nhà quản lý và điều tiết của nước chủ
nhà bị lơi lỏng hoặc kém hiệu lực. Một vấn đề khác gây nên sự dè dặt của các
11
nước đang phát triển tiếp nhận đầu tư FDI là : FDI chủ yếu là của các công ty
đa quốc gia (TNC) và cách thức đầu tư cả gói của nó để chiếm lĩnh thị trường
và thu nhiều lợi nhuận.
1.1.3. Các hình thức của doanh nghiệp FDI
Trong thực tiễn, FDI thường được thực hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau tuỳ theo tính chất pháp lý và vai trò của các bên tham gia hợp tác đầu tư.
Cụ thể, theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam năm 1987, được sửa đổi bổ
sung vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000, các nhà đầu tư nước ngoài được
đầu tư vào Việt Nam dưới các hình thức sau:
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh: Là loại hợp đồng được ký kết giữa 2
hoặc nhiều bên để cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh
trên cơ sở quy định trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ và phân chia kết quả
kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập xí nghiệp Liên doanh hoặc bất
kỳ một pháp nhân nào khác (hình thức này thường sử dụng trong lĩnh vực
khai thác tài nguyên thiên nhiên).
- Doanh nghiệp Liên Doanh ( Xí nghiệp, Công ty Liên doanh).
Là doanh nghiệp do 2 hay nhiều bên Việt Nam và nước ngoài hợp tác
thành lập tại Việt Nam trên cơ sở Hợp đồng Liên doanh hoặc Hiệp định ký
kết giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước ngoài nhằm hoạt động kinh
doanh trong các lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam. Vốn do các bên tham gia
Liên doanh đóng góp (Bên nước ngoài đóng góp ít nhất 30% vốn pháp định
khi thành lập Doanh nghiệp).
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Là doanh nghiệp hoàn toàn
thuộc sở hữu của người nước ngoài (cá nhân, tổ chức); họ tự thành lập, tự
quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh.
+ Về hình thức: nó được quy định thuộc loại hình công ty trách nhiệm
hữu hạn.
12
+ Về quản lý: nếu người chủ không có điều kiện thường trú ở Việt Nam
thì có thể chỉ định người có thẩm quyền thường trú ở Việt Nam để thay thế
mình.
Ngoài ra, theo nhu cầu đa dạng hoá hình thức đầu tư, từ năm 1996 Luật
đầu tư nước ngoài của Việt Nam cho phép áp dụng một số hình thức sau trong
lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng (biến tướng của FDI).
- Hợp đồng BOT (xây dựng - kinh doanh - chuyển giao): Cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài ký hợp đồng
BOT để xây dựng công trình. Sau khi hoàn thành, nhà đầu tư nước ngoài sẽ
trực tiếp kinh doanh công trình một thời gian nhất định (để thu hồi vốn và có
lợi nhuận hợp lý). Hết thời hạn, nhà đầu tư bàn giao toàn bộ công trình đó cho
phía Việt Nam mà không đòi hỏi bất cứ khoản tiền nào.
- Hợp đồng BTO (xây dựng - chuyển giao - kinh doanh): tương tự như
BOT, nhưng chỉ khác ở chỗ: công trình xây dựng xong được bàn giao ngay
cho Việt Nam, sau đó Chính phủ Việt Nam dành cho nhà đầu tư quyền kinh
doanh công trình một thời gian để thu hồi vốn ban đầu và có khoản lợi nhuận
hợp lý.
- Hợp đồng BT (xây dựng - chuyển giao): Công trình hoàn thành xong
được bàn giao ngay cho Việt Nam kinh doanh. Chính phủ Việt Nam sẽ tạo
điều kiện để nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn của công trình
trước và có lợi nhuận hợp lý.
1.1.4. Vai trò của FDI
1.1. 4.1.FDI đối với vốn đầu tư xã hội và tăng trưởng kinh tế
Hầu hết ở các nước đang phát triển đều có hai cản trở chính đối với sự
tăng trưởng của một quốc gia là: (1) Tiết kiệm không đủ đáp ứng cho nhu cầu
đầu tư, gọi là: “lỗ hổng tiết kiệm”. (2) Thu nhập của hoạt động xuất khẩu
13
không đủ đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu, được gọi là: “lỗ
hổng thương mại”. Vì vậy FDI là một nguồn quan trọng không chỉ để bổ sung
nguồn vốn nói chung mà còn cả sự thiếu hụt về ngoại tệ nói riêng. Bởi vì, FDI
góp phần nhằm tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng khả năng xuất khẩu của
nước nhận đầu tư, thu một phần lợi nhuận từ các công ty nước ngoài, thu
ngoại tệ từ các hoạt động dịch vụ phục vụ cho FDI.
Những nước dẫn đầu trong chạy đua tăng trưởng phải đầu tư ít nhất
20% thu nhập quốc dân vào việc tích lũy vốn. Trái lại, những nước nông
nghiệp lạc hậu thường chỉ có thể tiết kiệm được 5% thu nhập quốc
dân. Nhưng phần lớn trong khoản tiết kiệm nhỏ bé này lại phải dùng để cung
cấp nhà cửa và những công cụ giản đơn cho số dân đang tăng lên. Khả năng
tiết kiệm ít, tích lũy vốn thấp là do mức độ thu nhập thực tế thấp. Mức thu
nhập thực tế phản ánh năng suất lao động thấp. Năng suất lao động thấp vì
không được trang bị máy thiết bị và công nghệ hiện đại, không có môi trường
lao động tốt, điều này do tình trạng thiếu tư bản gây ra. Nhưng thiếu tư bản lại
là kết quả của khả năng tiết kiệm ít ỏi đem lại. Có thể thấy đó là cái vòng luẩn
quẩn của sự nghèo đói, nguyên nhân cơ bản là thiếu vốn. Từ thế kỷ trước, nhà
kinh tế học Paul Samuelson đã chỉ ra rằng đa số các nước đang phát triển đều
thiếu vốn, do khả năng tích luỹ vốn hạn chế. Vì thế, để phát triển kinh tế phải
có “cú huých” từ bên ngoài nhằm phá vỡ cái vòng luẩn quẩn đó. Do vậy, mở
cửa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem là giải pháp thực tế nhất đối
với các nước đang phát triển. Lý thuyết kinh tế cũng chỉ ra rằng, một nước
giàu sau khi đã hút hết những dự án đầu tư có lợi nhuận cao cho mình, cũng
có thể làm lợi cho chính nó và nước nhận đầu tư bằng cách đầu tư vào những
dự án lợi nhuận cao ra nước ngoài. FDI không chỉ bổ sung nguồn vốn đầu tư
phát triển mà còn là một luồng vốn ổn định hơn so với các luồng vốn đầu tư
quốc tế khác, bởi FDI dựa trên quan điểm dài hạn về thị trường, về triển vọng
14
tăng trưởng và không tạo ra nợ cho chính phủ nước tiếp nhận đầu tư, do vậy,
ít có khuynh huống thay đổi khi có tình huống bất lợi.
Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm của nền kinh
tế rất thấp. Do vậy, xét về nhu cầu vốn, FDI được coi là một nguồn vốn bổ
sung quan trọng cho vốn đầu tư trong nước, nhằm đáp nhu cầu đầu tư cho
phát triển. Thực tế cho thấy FDI trong đầu tư xã hội biến động lớn. Điều đó,
một mặt phản ánh diễn biến thất thường của nguồn vốn này, mặt khác thể
hiện những thay đổi về đầu tư của các thành phần kinh tế trong nước. Khi có
vốn tình hình sản xuất khác hẳn. Nhìn vào khu vực có vốn FDI có thể thấy tốc
độ tăng giá trị gia tăng luôn dẫn đầu so với các khu vực kinh tế khác và là khu
vực phát triển năng động nhất. Tốc độ tăng GDP ở khu vực FDI luôn cao hơn
tốc độ tăng của cả nước.
Tác động của FDI đối với tăng trưởng kinh tế còn là hệ quả tất yếu của
sự di chuyể n công nghệ và kinh nghiệm quản lý vào nước nhận đầu tư. Những
nhân tố này không chỉ bổ sung nguồn lực cần thiết cho tăng trưởng mà còn làm
tăng hiệu quả của sự tăng trưởng kinh tế. Khi có hoạt động FDI tại một nước
thì tất yếu có nhu cầu về đất đai, nhân công và tạo ra sản phẩm. Do đó, nước
chủ nhà sẽ thu được những khoản tiền từ hoạt động này như tiền thuê đất, tiền
thuế... mà các doanh nghiệp FDI phải nộp cho Nhà nước, những khoản này
đóng góp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
1.1. 4.2. FDI với việc nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp và xuất khẩu
Xuất khẩu là yếu tố quan trọng của tăng trưởng. Nhờ đẩy mạnh xuất
khẩu, những lợi thế so sánh của yếu tố sản xuất ở nước chủ nhà được khai
thác có hiệu quả hơn trong phân công lao động quốc tế. Các nước đang phát
triển tuy có khả năng sản xuất với mức chi phí có thể cạnh tranh được nhưng
15
vẫn rất khó khăn trong việc thâm nhập thị trường quốc tế. Vì vậy, khuyến
khích đầu tư nước ngoài hướng vào xuất khẩu luôn là ưu đãi đặc biệt trong
chính sách thu hút FDI của các nước này. Thông qua FDI các nước tiếp nhận
đầu tư có thể tiếp cận với thị trường thế giới, nhờ đó mở rộng thị trường và
thúc đẩy xuất khẩu.
FDI vào Việt Nam chủ yếu tập trung ở lãnh vực công nghiệp. Nhờ đó
góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, trong khoảng một phần tư thế kỷ qua. Đến nay, khu vực FDI đã
tạo ra gần 45% giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành một số
ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viễn thông, khai thác, chế
biến dầu khí, điện tử, công nghệ thông tin, thép, xi măng, xây dựng hạ tầng
v.v.…Đồng thời FDI cũng góp phần quan trọng vào xuất khẩu. Trước năm
2001, xuất khẩu của khu vực FDI chỉ đạt 45,2% tổng kim ngạch, kể cả dầu
thô, nhưng đến năm 2012, kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp FDI (không
kể dầu thô) đạt 64,05 tỷ USD, tăng 33,8% so với cùng kỳ, chiếm 55,9% kim
ngạch xuất khẩu của cả nước. Còn năm 2013, theo Bộ kế hoạch Đầu tư, trong
7 tháng đầu, kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 72,7 tỉ đô la Mỹ, tăng 14,3% so
với cùng kỳ năm trước.
1.1.4.3. FDI đối với việc làm và cải thiện nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm là nhân tố quan trọng thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu của nhà đầu tư nước ngoài là thu được lợi
nhuận tối đa, củng cố chỗ đứng và duy trì thế cạnh tranh trên thị trường thế
giới. Do đó, họ đặc biệt quan tâm đến việc tận dụng nguồn lao động rẻ ở các
nước tiếp nhận đầu tư. Số lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp
FDI ngày càng tăng nhanh ở các nước đang phát triển. Ngoài ra, các hoạt
động cung ứng dịch vụ và gia công cho các dự án FDI cũng tạo ra thêm nhiều
16
cơ hội việc làm. Trên thực tế, ở các nước đang phát triển, các dự án FDI sử
dụng nhiều lao động đã tạo nhiều việc làm cho phụ nữ trẻ. Điều này không
chỉ mang lại cho họ lợi ích về thu nhập cao mà còn góp phần quan trọng vào
sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở các nước này. FDI cũng có tác động tích cực
trong phát triển nguồn nhân lực của nước chủ nhà thông qua các dự án đầu tư
vào lĩnh vực giáo dục đào tạo. Các cá nhân làm việc cho các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài có cơ hội học hỏi, nâng cao trình độ bản thân khi tiếp
cận với công nghệ hiện đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương
thức lao động và kỹ năng quản lý tiên tiến. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt
Nam làm việc tại các doanh nghiệp FDI đã có thể thay thế dần các chuyên gia
nước ngoài trong việc đảm nhiệm những chức vụ quản lý doanh nghiệp và
điều khiển các qui trình công nghệ hiện đại. Những cải thiện về nguồn nhân
lực ở các nước tiếp nhận đầu tư còn có thể đạt hiệu quả lớn hơn khi những
người làm việc trong các doanh nghiệp FDI chuyển sang làm việc cho các
doanh nghiệp trong nước hoặc tự mình thành lập doanh nghiệp mới.
Tính đến cuối năm 2011, khu vực FDI tạo ra hơn 2,3 triệu việc làm trực
tiếp và 3 – 4 triệu việc làm gián tiếp, trong đó có hàng vạn kỹ sư, nhà quản lý
trình độ cao, đội ngũ công nhân lành nghề, với thu nhập ngày càng tăng, du
nhập phương thức lao động, kinh doanh và quản lý tiên tiến. Bên cạnh số việc
làm trực tiếp do FDI tạo ra nói trên, khu vực FDI còn gián tiếp tạo thêm việc
làm trong lãnh vực dịch vụ và có thể tạo thêm lao động trong các ngành công
nghiệp phụ trợ trong nước với điều kiện tồn tại mối quan hệ mua bán nguyên
vật liệu hoặc hàng hóa trung gian giữa các doanh nghiệp này. Tuy nhiên, cho
đến nay chưa có số liệu thống kê chính thức về số lao động gián tiếp được tạo
ra bởi khu vực FDI tại Việt Nam. [Nguồn từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư – cổng
thông tin điện tử]
17
1.1.4.4. FDI với nguồn thu ngân sách Nhà nước và các cân đối vĩ mô
Cùng với sự phát triển, khu vực có vốn FDI đóng góp ngày càng tăng
vào nguồn thu ngân sách của Nhà nước. Theo tính toán của Tổng cục Thuế,
năm 2002, khu vực FDI đóng góp khoảng 480 triệu USD vào ngân sách Nhà
nước, tăng 4,2 lần so với năm 1994. Tính riêng giai đọan 1996-2002, khu vực
này đóng góp (trực tiếp) vào ngân sách trung bình ở mức khoảng 6%. [Không
kể thu từ dầu thô, bao gồm các loại thuế trực thu từ doanh nghiệp có vốn
FDI.] Tỷ trọng đóng góp nhỏ là do các doanh nghiệp FDI được hưởng chính
sách khuyến khích của Chính phủ thông qua giảm thuế thu nhập trong những
năm đầu hoạt động. Tuy nhiên, nếu tính cả thu từ dầu thô thì tỷ trọng này
khoảng 20%. Bên cạnh đó, FDI đã góp phần quan trọng vào việc tăng thặng
dư của tài khoản vốn, góp phần cải thiện cán cân thanh toán nói chung. Động
thái của cán cân vốn trong thời kỳ 1994-2002 cho thấy có mối quan hệ khá rõ
giữa số dư tài khoản vốn và dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam hàng năm. FDI
cũng đóng góp vào ngân sách ngày càng tăng. Giai đoạn 1994-2000, khu vực
FDI đóng góp vào ngân sách 1,8 tỷ USD và tăng lên 14,2 tỷ USD vào giai
đoạn 2001-2010. Riêng năm 2012, khu vực FDI nộp ngân sách 3,7 tỷ USD
(không kể dầu thô), chiếm 11,9% tổng thu ngân sách.
1.1.4.5. FDI với Phát triển khoa học, công nghê ̣
Đầu tư nước ngoài (đặc biệt là FDI) được coi là nguồn quan trọng để
phát triển khả năng công nghệ của nước chủ nhà. Vai trò này được thể hiện
qua hai khía cạnh chính là chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài vào và
sự phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của
nước nhận đầu tư. Đây là những mục tiêu quan trọng được nước chủ nhà
mong đợi từ các nhà đầu tư nước ngoài. Thông thường, các công nghệ được
chuyển giao là những công nghệ cũ, đã qua sử dụng nhưng nó vẫn là những
18
công nghệ tiên tiến, chưa từng có ở nước chủ nhà hoặc ít nhất đó cũng là
những công nghệ đang được sử dụng phổ biến tại đây, góp phần tăng năng
suất lao động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực sẵn có trong nước. Hoạt
động chuyển giao công nghệ thông qua FDI sẽ góp phần giảm những khoản
chi phí rất lớn nếu mua một công nghệ hoàn toàn mới. Việc này, trực tiếp
hoặc gián tiếp đã tác động tích cực đối với sự phát triển của khoa học công
nghệ của nước chủ nhà.
Bên cạnh việc chuyển giao những công nghệ sẵn có, thông qua FDI còn
góp phần tích cực vào tăng cường khả năng nghiên cứu và ứng dụng của nước
chủ nhà. Đây chính là yếu tố tích cực góp phần vào việc cải tiến công nghệ và
biến chúng thành công nghệ của mình. Các hoạt động cải tiến này cũng tạo ra
những mối quan hệ liên kết cung cấp dịch vụ công nghệ từ các cơ sở nghiên
cứu, ứng dụng công nghệ trong nước, từ đó thúc đẩy sự phát triển của các cơ
sở này. Các tác nhân này sẽ tạo ra một sức mạnh tổng hợp đẩy nhanh sự phát
triển của khoa học công nghệ nước chủ nhà.Theo thống kê, từ năm 1993 đến
nay, Việt nam đã có 951 hợp đồng chuyển giao công nghệ được phê duyệt/
đăng ký, trong đó 605 hợp đồng là của khu vực doanh nghiệp (DN) FDI,
chiếm 63,6% tổng số hợp đồng chuyển giao công nghệ được phê duyệt, đăng
ký,… đó là những tiền đề làm cho tác động lan tỏa của khu vực FDI đối với
nền kinh tế là rất lớn, nó được thực hiện thông qua mối liên kết sản xuất giữa
DN FDI với DN trong nước, qua đó tạo điều kiện thuận lợi để DN trong nước
tiếp cận với chuyển giao công nghệ. Nhiều sản phẩm của khu vực DN FDI
mang thương hiệu Việt Nam còn có chỗ đứng nhất định trên thị trường Hoa
Kỳ, EU, Nhật Bản,…
1.1.4.6. FDI với việc cung cấp những kinh nghiệm quản lý
Kinh nghiệm quản lý của nước ngoài được cung cấp thông qua FDI
cũng tạo ra những lợi ích quan trọng đối với nước nhận đầu tư. Những lợi ích
19
gián tiếp này xuất hiện khi những nhân viên địa phương, những người được
đào tạo để đảm nhiệm các vị trí quản lý, tài chính và kỹ thuật trong một chi
nhánh của công ty đa quốc gia rời khỏi công ty và tham gia thành lập các
công ty khác. Tương tự như vậy, lợi ích có thể xuất hiện khi những kỹ năng
quản lý cấp cao của các công ty đa quốc gia thúc đẩy những nhà cung ứng,
tiêu thụ và các đối thủ cạnh tranh ở địa phương cải tiến phương thức quản lý
của chính họ.
[Báo cáo Kinh tế Việt Nam năm 2003, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế TW,
tr.26]
1.1.4.7. Các tác động khác của FDI
Bên cạnh tác động đến các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế, FDI
còn tác động đến các khía cạnh quan trọng khác của đời sống văn hoá, xã hội
và chính trị của nước chủ nhà.
Văn hóa xã hội
Văn hoá- xã hội là lĩnh vực rất nhạy cảm và mang đậm bản sắc của mỗi
quốc gia. Khi tiếp nhận FDI, có nghĩa là nước chủ nhà đã mở của giao lưu với
nền văn hoá các dân tộc trên thế giới. ĐTNN tác động mạnh vào mối quan hệ
giữa giữ gìn bản sắc của dân tộc và tiếp nhận nền văn hoá bên ngoài ở các mặt
quan trọng như: đổi mới tư duy; thái độ và đạo đức nghề nghiệp; lối sống, tập
quán; giao tiếp ứng xử; bình đẳng giới và các vấn đề xã hội.
Chất lượng của tư duy là yếu tố quyết định sự phát triển của xã hội. Đổi
mới tư duy tức là đổi mới cách nghĩ, cách làm. FDI tác động rất tích cực vào
quá trình này thông qua trực tiếp đào tạo các nhà quản lý bản địa có kiến thức
kinh doanh hiện đại, những lao động làm việc trong các công ty nước ngoài,
20
tiếp xúc với công nghệ hiện đại và gián tiếp tạo ra trong xã hội, nhất là thế hệ
trẻ, một lối nghĩ mới có hiệu quả của nền kinh tế thị trường.
Về lý thuyết : thái độ và đạo đức nghề nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến
hành vi và chất lượng lao động của mỗi cá nhân. Do hoạt động trong môi
trường cạnh tranh gay gắt, những người làm việc trong các dự án ĐTNN phải
có thái độ nghiêm túc với công việc và đảm bảo uy tín cao đối với khách
hàng. Nhờ đó, góp phần quan trọng hình thành nên phong cách kinh doanh có
văn hoá. Đầu tư nước ngoài cũng làm thay đổi đáng kể lối sống, tập quán của
các tầng lớp dân cư theo kiểu hiện đại, tiêu dùng công nghiệp. Tác phong
công nghiệp đã buộc người lao động phải tiết kiệm thời gian cho gia đình và
sinh hoạt cá nhân. Đầu tư nước ngoài tác động tích cực đến văn hoá giao tiếp,
ứng xử ở nước chủ nhà. Những người làm việc trong khu vực ĐTNN hoặc có
quan hệ với các công ty nước ngòai thường có phong cách giao tiếp lịch sự và
thái độ ứng xử hoà nhã, tôn trọng đồng nghiệp và khách hàng. Phong cách
này dần dần lan toả ra các cá nhân trong toàn xã hội. Đó là mặt tích cực mà về
mặt lý luận có thể đúng. Nhưng thực tế không hoàn toàn tốt đẹp như vậy.
Thái độ trịch thượng, hành vi ứng xử vô văn hóa, miệt thị người lao động, coi
thường luật pháp nước chủ nhà…của một số chủ đầu tư DN FDI và ngay của
người làm thuê cho họ (quốc tích nước ngoài) gây ra sự phản ứng bất hợp tác
của người lao động.
Chủ quyền an ninh quốc gia
ĐTNN chủ yếu được thực hiện bởi các công ty đa quốc gia có tiềm lực
mạnh về tài chính, khoa học công nghệ và mạng lưới phân phối trên phạm vi
toàn cầu. Do đó, khi tiếp nhận ĐTNN các nước đang phát triển rất lo ngại
trước sức mạnh của các công ty này có thể can thiệp vào chủ quyền lãnh thổ,
đe doạ đến an ninh chính trị và làm lũng đoạn nền kinh tế của mình.
21
Về mặt lý thuyết, ĐTNN có thể đe doạ đến an ninh kinh tế của nước
chủ nhà thông qua thao túng một số ngành sản xuất quan trọng, những hàng
hoá thiết yếu hoặc đẩy mạnh đầu cơ, buôn lậu, rút chuyển vốn đi nơi khác…
Vì mục tiêu theo đuổi lợi nhuận cao, nên không loại trừ một số công ty đa
quốc gia có thể can thiệp một cách gián tiếp vào các vấn đề chính trị của nước
chủ nhà. Do đó, đảm bảo tôn trọng chủ quyền lãnh thổ là nguyên tắc quan
trọng hàng đầu trong các chính sách, luật pháp thu hút ĐTNN của nước chủ
nhà. Hơn nữa, mặc dù có tiềm lực mạnh nhưng các công ty đa quốc gia là
những nhà kinh doanh và tài sản lại bị phân tán ở nhiều nước, trong khi đó
nước chủ nhà có quân đội và các sức mạnh cần thiết để đảm bảo chủ quyền
quốc gia.
Tuy có những đóng góp tích cực không thể phủ nhận đối với những
nước đang phát triển như đã kể trên nhưng ĐTNN vẫn có thể có những hạn
chế: chuyển giao công nghệ cũ, công nghệ không phù hợp với điều kiện của
các nước đang phát triển, giá cả đắt hơn thực tế; sản xuất và quảng cáo sản
phẩm ảnh hưởng tiêu cực đối với sức khỏe con người như (rượu, bia, nước
giải khát có ga, thuốc lá, thực phẩm sử dụng nhiều hoá chất…); xúc phạm
nhân phẩm người lao động, khai thác cạn kiệt sức lao động của người làm
thuê; làm tăng khoảng cách giầu nghèo giữa các cá nhân, giữa các vùng.
1.2. Lý luận chung về hiệu quả kinh tế -xã hội của doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm, vai trò, chức năng của doanh nghiệp
Theo Luật Doanh nghiệp : “ "Doanh nghiệp" là tổ chức kinh tế có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.”
Doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng của nền kinh tế, là bộ phận
chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Những năm gần đây, hoạt
22
động của doanh nghiệp đã có bước phát triển đột biến, góp phần giải phóng
và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế
xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim
ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các
vấn đề xã hội như: Tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo...
Nếu như năm 1995 khu vực doanh nghiệp mới chỉ tạo ra được 103,7
nghìn tỷ đồng, chiếm 45,3% tổng GDP (khu vực còn lại gồm khối hành chính,
sự nghiệp, hộ SXKD cá thể chiếm 54,7%), thì đến năm 2001 khu vực này đã
tạo ra 255,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 53,2% tổng GDP, gấp 2,5 lần năm 1995.
Trong đó doanh nghiệp nhà nước chiếm 30,6% tổng GDP, doanh nghiệp
ngoài quốc doanh chiếm 8,8%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm
13,8%.
Sự phát triển của các doanh nghiệp là yếu tố quan trọng, quyết định đến
chuyển dịch các cơ cấu lớn của nền kinh tế quốc dân như : cơ cấu nhiều thành
phần kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các vùng, địa phương.
Doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là DN ngành công nghiệp tăng nhanh là
nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững ổn định và tạo thế
mạnh hơn về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập.
Vai trò của DN không chỉ quyết định sự phát triển bền vững về mặt
kinh tế mà còn quyết định đến sự ổn định và lành mạnh hoá các vấn đề xã hội.
1.2.2 Hiệu quả kinh tế - xã hội của doanh nghiệp
Ngày nay, khi đề cập đến vấn đề hiệu quả thì người ta vẫn chưa có
được một khái niệm thống nhất. Bởi vì ở mỗi một lĩnh vực khác nhau, xem
xét trên các góc độ khác nhau thì người ta có những cách nhìn nhận khác nhau
về vấn đề hiệu quả. Như vậy, ở mỗi lĩnh vực khác nhau thì người ta có những
23
khái niệm khác nhau về hiệu quả, và thông thường khi nói đến hiệu quả của
một lĩnh vực nào đó thì người ta gắn ngay tên của lĩnh vực đó liền ngay sau
hiệu quả. Vấn đề hiệu quả có thể xem xét trên các lĩnh vực kinh tế và xã hội.
Hiệu qủa kinh tế và hiệu quả xã hội là hai mặt của một vấn đề có tác
động biện chứng, qua lại lẫn nhau. Hiệu quả kinh tế quyết định hiệu quả xã
hội nhưng hiệu quả xã hội cũng có tác động trở lại đối với hiệu quả kinh tế,
góp phần làm tăng hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên thực tế hiện nay nhiều doanh
nghiệp có xu hướng quan tâm hơn tới hiệu quả kinh tế, đó là doanh thu, lợi
nhuận, … mà không chú trọng quan tâm hơn hiệu quả xã hội, đó là trốn thuế,
không quan tâm tới môi trường … những quan niệm như vậy hết sức sai lầm,
chỉ có nâng cao hiệu quả kinh tế đi đôi với hiệu quả xã hội thì doanh nghiệp
mới có thể phát triển bền vững được.
1.2.2.1 Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế được mọi người
quan tâm tới. Có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả sản xuất kinh doanh,
nhưng quan điểm nêu dưới đây được nhiều người nhất trí : Hiệu quả sản xuất
kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung sự phát triển kinh tế
theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác nguồn lực và trình độ chi phí các
nguồn lực trong quá trình tái sản xuất kinh doanh là một yếu tố quan trọng để
đánh giá sự tăng trưởng và thực hiện các mục tiêu về kinh tế doanh nghiệp
trong từng thời.
Hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được
các mục tiêu kinh tế của một thời kỳ nào đó. Hiểu theo mục đích cuối cùng thì
hiệu quả kinh tế là hệ số giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt được hiệu
quả đó. Trong đó kết quả thu về chỉ là kết quả phản ảnh những kết quả kinh tế
tổng hợp như là: doanh thu, lợi nhuận, giá trị sản lượng công nghiệp... nếu ta
24
xét theo từng yếu tố riêng lẻ thì hiệu quả kinh tế là thể hiện trình độ và sử
dụng các yếu tố đó trong quá trình sản xuất kinh doanh, nó phản ảnh kết quả
kinh tế thu được từ việc sử dụng các yếu tố tham gia vào quá trình kinh
doanh. Sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là nhờ đạt hiệu quả cao hay
thấp. Nói một cách khác, chỉ tiêu hiệu quả kinh tế phản ánh về mặt định lượng
và định tính trong sự phát triển kinh tế.
1.2.2.2. Hiệu quả chính trị và xã hội
Hiệu quả xã hội là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực
sản xuất xã hội nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định. Nếu đứng trên
phạm vi toàn xã hội và nền kinh tế quốc dân thì hiệu qủa xã hội và hiệu quả
chính trị là chỉ tiêu phản ánh ảnh hưởng của hoạt động kinh doanh đối với
việc giải quyết những yêu cầu và mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế xã
hội. Bởi vậy hai loại hiệu quả này đều có vị trí quan trọng trong việc phát
triển đất nước một cách toàn diện và bền vững. Đây là chỉ tiêu đánh giá trình
độ phát triển của nền kinh tế xã hội ở các mặt: trình độ tổ chức sản xuất, trình
độ quản lý, mức sống bình quân, công bằng xã hội ...
Trong nền kinh tế thị trường, cơ chế vận hành của nó chưa thể đảm bảo
công bằng trong việc phân phối của cải vật chất xã hội. Thực tế ở nhiều nước
có nền kinh tế thị trường phát triển, thường thấy hiện tượng của cải tập trung
vào tay một số ít người và số còn lại trở nên nghèo hơn. Từ đó sự cách biệt
giàu nghèo ngày càng lớn. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã có những
đường lối, chính sách cụ thể để đồng thời tăng hiệu quả kinh tế kèm với tăng
hiệu quả chính trị xã hội. Tuy nhiên, chúng ta không thể chú trọng một cách
thái quá đến hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội một bài học rất lớn từ thời
kỳ chế độ bao cấp để lại đã cho chúng ta thấy rõ được điều đó.