Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

so sánh mức độ tự do hóa thương mại hàng hóa trong khuôn khổ WTO và ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.31 KB, 12 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN
MÔN: PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP

Đề tài số 3:

SO SÁNH MỨC ĐỘ TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA
TRONG KHUÔN KHỔ WTO VÀ ASEAN
GVHD: PGS.TS Phan Huy Hồng
Chuyên ngành: Luật Kinh Tế
Lớp:
Nhóm học viên:

TP. Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2016


LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, tự do hóa thương mại vẫn đang gây ra
nhiều tranh cãi ở cả những nước phát triển và những nước đang phát triển. Vậy, để
nắm bắt được vấn đề, chúng ta cần hiểu như thế nào về khái niệm và bản chất của tự
do hóa thương mại?
Tự do hóa thương mại là sự nới lỏng can thiệp của nhà nước hay chính phủ của
một quốc gia vào lĩnh vực trao đổi, buôn bán quốc tế của quốc gia đó với các quốc gia
khác, mà cụ thể là quá trình dở bỏ dần các phân biệt đối xử, các rào cản đối với
thương mại, mà chủ yếu là về thuế quan và phi thuế quan; bên cạnh đó là việc kết hợp
thực hiện các hoạt động thuận lợi hóa thương mại, trước hết nhằm đạt được sự đối xử
công bằng giữa hàng hóa, dịch vụ sản xuất trong nước với hàng hóa, dịch vụ nhập
khẩu từ nước ngoài và sau đó là đạt được chế độ thương mại tự do. Do đó, tự do hóa
thương mại đòi hỏi nhà nước phải áp dụng một số biện pháp cần thiết để từng bước


giảm thiểu các trở ngại trong quan hệ mậu dịch quốc tế, tạo điều kiện cho các hoạt
động thương mại được lưu chuyển tự do giữa các quốc gia và giữa các khu vực với
nhau.
Thương mại hàng hóa (cùng với thương mại dịch vụ) là hoạt động chiếm tỷ
trọng chủ yếu trong thương mại quốc tế. Bản chất của tự do hóa thương mại hàng hóa
là thông qua các biện pháp nhất định, hàng hóa nước ngoài có điều kiện thuận lợi để
xâm nhập vào thị trường nội địa, đồng thời hoạt động xuất khẩu hàng hóa ra nước
ngoài cũng được tiến hành dễ dàng hơn trên cơ sở đảm bảo cân đối cán cân xuất khẩu,
nhập khẩu của quốc gia đó.
Và để hiểu vấn đề rõ hơn, nội dung bài tiểu luận này sẽ đưa ra sự “so sánh
mức độ tự do hóa thương mại hàng hóa trong khuôn khổ WTO và ASEAN”
thông qua Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT), Cam kết của Việt
Nam về thương mại hàng hóa và Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (Hiệp định
ATIGA).


I. Khung pháp lý về thương mại hàng hóa của WTO và ASEAN - Mối quan hệ
giữa GATT và ATIGA
1. Khung pháp lý thương mại hàng hóa của WTO
Theo Hiệp định WTO, thương mại hàng hóa được điều chỉnh bởi hệ thống
các hiệp định có cấu trúc như sau:
- Thứ nhất, hệ thống này bắt đầu bằng việc quy định các nguyên tắc chung
như nguyên tắc tối huệ quốc (MFN), nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) trong
GATT;
- Tiếp đó là các hiệp định bổ sung và các phụ lục để điều chỉnh những yêu
cầu đặc thù của từng lĩnh vực thương mại hoặc các vấn đề cụ thể.
- Cuối cùng là các biểu cam kết dài và chi tiết hoặc danh sách những cam kết
cụ thể của từng thành viên cho phép các loại sản phẩm cụ thể của nước
ngoài tiếp cận thị trường của mình.
Trong hệ thống trên, GATT là văn bản nền tảng, giữ vai trò trọng yếu, được

cấu thành bởi:
- Các quy định trong GATT 1947;
- Các quy định của những văn bản pháp lý có hiệu lực theo GATT 1947 trước
ngày Hiệp định về thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) có hiệu
lực, như các văn kiện và chứng nhận liên quan đến cam kết thuế quan; văn
kiện gia nhập v.v…
- Các thỏa thuận liên quan đến việc giải thích một số điều của GATT 1994
điều chỉnh các vấn đề pháp lý như các biểu cam kết về nhượng bộ thuế
quan, doanh nghiệp nhà nước, cán cân thanh toán, các liên minh hải quan và
khu vực thương mại tự do, các miễn trừ, sửa đổi các biểu cam kết trong
GATT, và trường hợp không áp dụng của GATT.
- Nghị định thư Marakesh về GATT 1994.


2. Khung pháp lý thương mại hàng hóa của ASEAN
ATIGA là hiệp định toàn diện đầu tiên của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) điều chỉnh toàn bộ thương mại hàng hóa trong nội khối và được xây dựng
trên cơ sở tổng hợp các cam kết đã được thống nhất trong Hiệp định về Thuế quan Ưu
đãi có hiệu lực chung trong Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (CEPT/AFTA) cùng
các hiệp định, nghị định thư có liên quan. Nguyên tắc xây dựng cam kết trong ATIGA
là các nước ASEAN phải dành cho nhau mức ưu đãi tương đương hoặc thuận lợi hơn
mức ưu đãi dành cho các nước đối tác trong các Thỏa thuận thương mại tự do (FTA)
mà ASEAN là một bên của thỏa thuận.
Ngoài mục tiêu xóa bỏ hàng rào thuế quan, ATIGA hướng nỗ lực chung của
ASEAN để xử lý tối đa các hàng rào phi thuế quan, hợp tác hải quan và vệ sinh, kiểm
dịch... đồng thời xác lập mục tiêu hài hòa chính sách giữa các thành viên ASEAN
trong bối cảnh xây dựng AEC.
Ngày 26/2/2009, Hiệp định ATIGA được ký tại Hội nghị Cấp cao ASEAN 14
tại Thái Lan và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại công văn số 1012/TTgQHQT ngày 22/6/2009.



3. Mối quan hệ giữa GATT và ATIGA
GATT và ATIGA đều là những hiệp định khung, chứa những quy định cụ thể về
quyền, nghĩa vụ của các quốc gia thành viên trong việc cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ
hàng rào phi thuế quan trong thương mại hàng hóa cũng như lộ trình để thực hiện.
ATIGA được xây dựng dựa trên những nguyên tắc được ghi nhận trong GATT
và các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà ASEAN đã tham gia. Nhiều nguyên tắc,
quy định trong GATT được thừa nhận và trở thành một phần của Hiệp định ATIGA.
Chẳng hạn, Điều 6 về nguyên tắc đối xử quốc gia đối với thuế nội địa trong ATIGA
quy định: “Mỗi Quốc gia Thành viên sẽ dành đối xử quốc gia cho hàng hoá của các
Quốc gia Thành viên khác phù hợp với Điều III của Hiệp định GATT 1994. Với mục
đích này, Điều III của GATT 1994, với sự điều chỉnh phù hợp, sẽ trở thành một phần
của Hiệp định này”. Chính vì thế, dẫn đến một hệ quả, nếu GATT hoặc bất kỳ điều
khoản nào của nó (liên quan hoặc liên kết chặt chẽ tới ATIGA) cần được sửa đổi thì có
thể sẽ dẫn đến việc sửa đổi ATIGA. Việc sửa đổi này sẽ được quyết định thông qua sự
hội ý của các quốc gia thành viên ASEAN1.
Mặt khác, tuy được xây dựng dựa trên GATT nhưng mức độ tự do hóa thương
mại hàng hóa thể hiện qua ATIGA sâu rộng và cao hơn nhiều so với GATT. Bởi với
ATIGA, các nước thành viên ASEAN đặt ra một lộ trình nhằm xây dựng và thực thi
“Chương trình làm việc về Thuận lợi hóa thương mại ASEAN” 2. Theo đó, khi thực
hiện ATIGA, các nước thành viên ASEAN đều phải áp dụng cơ chế hải quan một cửa
ASEAN, công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa. Điều này hướng đến
một môi trường thương mại nội khối nhất quán, minh bạch, tăng cường cơ hội cho các
doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đối với các nước thành viên
ASEAN đồng thời là thành viên WTO, chương trình này không cản trở việc thực hiện
cam kết của họ với WTO hay vi phạm nguyên tắc tối huệ quốc vì nó ứng với trường
hợp miễn trừ cho các thành viên đang tham gia liên minh thuế quan khu vực.
Như vậy, giữa GATT và ATIGA có mối quan hệ tương hỗ, gắn bó mật thiết với
nhau.


1

Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 92 - Sửa đổi hoặc kế thừa các Hiệp định Quốc tế - Hiệp định ATIGA

2

Quy định cụ thể tại Chương 5, Hiệp định ATIGA


II. So sánh mức độ tự do hóa thương mại hàng hóa về thuế quan trong khuôn
khổ WTO và ASEAN
Tự do hóa thương mại hàng hóa là mục tiêu chung của cả ASEAN và WTO, để
thực hiện tự do hóa thương mại thì cần phải thực hiện nhiều biện pháp, trong đó việc
hạn chế và xóa bỏ hàng rào thuế quan là một biện pháp quan trọng. Có thể hiểu xóa bỏ
hàng rào thuế quan là việc cắt giảm thuế quan, hướng đến xóa bỏ thuế quan, nhằm tự
do thương mại hàng hóa, để hàng hóa của một quốc gia được giảm và xóa bỏ thuế
quan khi xuất nhập khẩu đến quốc gia khác trong tổ chức. Cả ASEAN và WTO cùng
có xu hướng giảm dần những rào cản thuế quan, tuy nhiên có thể khẳng định mức độ
tự do hóa thuế quan của ASEAN sâu và rộng hơn WTO thể hiện thông qua hai hiệp
định ATIGA, GATT và cam kết về thuế quan của Việt Nam khi tham gia hai tổ chức
này.
Việc cắt giảm và xóa bỏ thuế quan trong ASEAN thực hiện theo Hiệp định
ATIGA, theo đó các quốc gia thành viên sẽ xóa bỏ thuế quan đối với tất cả các sản
phẩm vào năm 2010 với các nước Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines,
Singapore, Thái Lan và linh hoạt tới năm 2018 với các nước Campuchia, Lào,
Mianma và Việt Nam. Mức thuế suất của các sản phẩm hướng đến bằng hoặc thấp hơn
5%, Thuế nhập khẩu của một số sản phẩm của Campuchia, Lào, Mianma và Việt Nam
không vượt quá 7% số dòng thuế sẽ xóa bỏ vào năm 2018.3 Còn đối với WTO thì quốc
gia ký kết sẽ dành cho thương mại các quốc gia thành viên sự đối xử không kém thuận
lợi hơn, hay nói cách khác các quốc gia thành viên sẽ dành những ưu đãi về thuế quan

dựa trên phụ lục của hiệp định. 4 Ta thấy, mức độ cắt giảm thuế trong WTO không sâu
và rộng bằng ASEAN.
Thứ nhất, trong WTO chủ yếu là cắt giảm thuế, còn đối với ASEAN thì các
mức thuế không chỉ cắt giảm mà hướng tới xóa bỏ thuế quan (mức thuế 0%). Trong
ASEAN khi ký kết ATIGA mức thuế suất của các sản phẩm hướng đến bằng hoặc thấp
hơn 5% và sẽ tiến tới mức thuế 0% hay xóa bỏ thuế quan theo lộ trình đến năm 2018.
Còn trong biểu cam kết với WTO thì thuế suất bình quân khi gia nhập là 17.2% và
thuế suất bình quân cắt giảm đến thời điểm cuối cùng là 13.4% cao gấp nhiều lần so
với mức thuế bình quân trong ASEAN. Rõ ràng ASEAN có mức độ cắt giảm thuế sâu
hơn WTO, ASEAN không dừng lại ở mức độ giảm bớt thuế để hàng hóa các quốc gia
thành viên có thể lưu thông, xuât nhập khẩu thuận lợi hơn, mà còn tiến đến giảm dần
xuống 0% để giữa các quốc gia thành viên không còn bất kỳ rào cản thuế quan nào
trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa. Thực tế, thực hiện cam kết Khu vực thương
3

Điều 19, Hiệp định ATIGA

4

Điều II, Hiệp định GATT


mại tự do ASEAN, thì thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm của Việt Nam sẽ bằng và
thấp hơn 5%, hiện nay Việt Nam đã áp dụng mức thuế 0% với 90% số dòng thuế,
hướng đến năm 2018 cũng sẽ áp dụng mức thuế 0% với những mặt hàng còn lại. 5 Để
thấy rõ hơn mức độ cắt giảm sâu các dòng thuế trong ASEAN so với WTO có thể so
sánh mức thuế của một số nhóm hàng theo cam kết của Việt Nam với WTO và
ASEAN: Thị lợn ướp lạnh (WTO: 25%, ASEAN: 0%) ; Sữa thành phẩm (WTO: 25%,
ASEAN: 0%); Trứng tươi: (WTO: 80%, ASEAN: 0-5%); Bia (WTO: 35%, ASEAN:
5%); Cà phê rang (WTO: 40%, ASEAN: 0%); Lúa gạo (WTO: 40%, ASEAN: 0-5%);

Dầu nhiên liệu (WTO: 40%, ASEAN: 5%); muối ăn (WTO: 60%, ASEAN: 5%); giầy
dép (WTO: 30%, ASEAN: 0%); xi măng (WTO: 32%, ASEAN: 5%). Mặc dù thuế
suất trong WTO đã được cắt giảm, nhưng mức thuế quan trong WTO vẫn cao hơn
nhiều so với ASEAN. Sự chênh lệch thuế suất của hai biểu thuế càng khẳng định
ASEAN cắt giảm thuế quan sâu hơn WTO.
Thứ hai, trong WTO chỉ cắt giảm thuế quan theo phụ lục thuộc biểu nhân
nhượng của hiệp định GATT, có nghĩa là chỉ những hàng hóa thuộc biểu nhân nhượng
theo phụ lục của hiệp định thì mới được cắt giảm thuế, còn những hàng hóa không
thuộc biểu nhân nhượng sẽ không cần phải cắt giảm thuế. Còn ASEAN thì cam kết sẽ
cắt giảm và xóa bỏ tất cả thuế xuất nhập khẩu đối với tất cả các loại hàng hóa. Như
vậy, ASEAN rõ ràng cắt giảm thuế quan rộng hơn so với WTO, ASEAN không còn ở
mức cam kết và liệt kê những mặt hàng được cắt giảm thuế như WTO mà tiến tới cắt
giảm và xóa bỏ hàng rào thuế quan với tất cả hàng hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho lưu
thông thương mại nội khối. Thực tế theo Biểu cam kết khi Việt Nam gia nhập WTO
thì Việt Nam cắt giảm thuế với khoảng 3.800 dòng thuế (chiếm 35,5% số dòng của
biểu thuế), giữ mức thuế hiện hành với khoảng 3.700 dòng (chiếm 34,5% số dòng của
biểu thuế).6 Còn theo cam kết ATIGA với ASEAN, hiện nay Việt Nam đã cắt giảm
được 8574 dòng thuế xuống thuế suất 0%, tương đương khoảng 90% số dòng thuế của
Biểu thuế ATIGA có mức thuế suất 0% (theo danh mục biểu thuế quan hài hòa 2012).

5

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, ASEAN hội nhập: Hàng nghìn dòng thuế Việt Nam về 0%, http
://chongbanphagia.vn/diemtin/20150106/asean-hoi-nhap-hang-nghin-dong-thue-cua-viet-nam-ve-0, [truy cập:
8/3/2015]
6
Thông tấn xã Việt Nam, Chính thức cắt giảm một số dòng thuế theo cam kết WTO, /
01/chinh-thuc-cat-giam-mot-so-dong-thue-theo-cam-ket-wto-37-35581.htm, [Truy cập: 8/3/2015]



Còn lại 669 dòng thuế (chiếm 7% Biểu thuế) tập trung vào các nhóm hàng như sắt
thép, giấy, vải may mặc, ô tô, linh kiện phụ tùng ô tô, máy móc thiết bị, nguyên vật
liệu xây dựng, đồ nội thất, sẽ tiếp tục được cắt giảm xuống 0% theo lộ trình đến năm
2018.7
Tóm lại, WTO và ASEAN đều tiến hành cắt giảm và xóa bỏ những rào cản
thuế quan để thực hiện tự do hóa thương mại hàng hóa. Tuy nhiên, theo cam kết
ATIGA thì ASEAN có mức độ tự do hóa thương mại hàng cao hơn WTO thông qua
việc cắt giảm và xóa bỏ những rào cản thuế quan sâu và rộng hơn.

7

Bộ Tài chính, Lộ trình ATIGA đến 2018, thách thức đối với các Doanh nghiệp Việt Nam, .
gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/1539781?pers_id=2177014&item_id=122608676&p_details=1, [truy cập:
8/3/2015]


III. So sánh mức độ tự do hóa thương mại hàng hóa về hàng rào phi thuế quan
trong khuôn khổ WTO và ASEAN
Bên cạnh biện pháp bảo hộ bằng thuế quan, các quốc gia còn sử dụng hàng rào phi
thuế quan như một công cụ đắc lực trong việc bảo hộ nền sản xuất trong nước thông
qua việc cấm hoặc hạn chế xuất, nhập khẩu hàng hóa. Hiện nay, trên thế giới tồn tại
nhiều quan niệm về hàng rào phi thuế quan. WTO định nghĩa hàng rào phi thuế quan
là những biện pháp phi thuế quan mang tính cản trở đối với thương mại mà không
dựa trên cơ sở pháp lý, khoa học hoặc bình đẳng, trong khi ATIGA xác định cụ thể
hơn phạm vi khái niệm hàng rào phi thuế quan, nhận định hàng rào phi thuế quan là
các biện pháp ngoài biện pháp thuế quan cấm hoặc hạn chế xuất nhập khẩu hàng hóa
trong một quốc gia thành viên8. Biện pháp phi thuế quan không đồng nghĩa với hàng
rào phi thuế quan, ngoài mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước, biện pháp phi thuế quan
còn được dùng để bảo vệ các lợi ích quan trọng của quốc gia. Do đó, hàng rào phi
thuế quan chỉ là một số các biện pháp phi thuế quan do quốc gia thành viên xây dựng,

có tính cản trở tự do thương mại hàng hóa đối với các quốc gia khác. Hàng rào phi
thuế quan có thể chia thành 2 nhóm chính: rào cản hành chính và rào cản kỹ thuật.
Thứ nhất, rào cản hành chính là các quy định mang tính mệnh lệnh hành chính nhà
nước thể hiện dưới các hình thức phổ biến như: cấm nhập, cấm xuất, giấy phép nhập
khẩu, hạn ngạch, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc, biện pháp
bảo vệ cán cân thanh toán và kiểm dịch động thực vật.
Thứ hai, rào cản kỹ thuật là những tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật mà một quốc gia
áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu và/hoặc quy trình đánh giá sự phù hợp của hàng
hóa nhập khẩu đối với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đó. Về nguyên tắc, đây là những
quy định hợp lý cần thiết nhằm bảo vệ các lợi ích quan trọng của quốc gia. Tuy nhiên,
trong nhiều trường hợp các biện pháp kỹ thuật này có thể được sử dụng như một cách
thức cản trở hàng hóa nhập khẩu vào thị trường nội địa, bảo hộ mục tiêu sản xuất
trong nước khi quốc gia xây dựng biện pháp kỹ thuật quá khác biệt và khó đáp ứng
trên thực tế.

8

Điểm k Khoản 1 Điều 2 ATIGA


Ngoài ra, các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời bao gồm: biện pháp tự vệ,
biện pháp chống bán phá giá, biện pháp đối kháng và trợ cấp nông nghiệp cũng là
những rào cản phi thuế quan cản trở sự tự do hóa thương mại hàng hóa giữa các quốc
gia.
Do các tác động, ảnh hưởng tiêu cực đến tự do thương mại hàng hóa trong khu vực
và quốc tế từ hàng rào phi thuế quan nên các hiệp định của WTO và ASEAN, đặc biệt
là GATT 1994 và ATIGA, đều quy định hạn chế tối đa hàng rào phi thuế quan, thậm
chí hướng đến mục tiêu xóa bỏ hoàn toàn hàng rào phi thuế quan. Đối với các rào cản
hạn chế định lượng, cả ASEAN và WTO đều nghiêm cấm các quốc gia thành viên áp
dụng dưới bất kỳ hình thức nào, trừ một số trường hợp ngoại lệ 9. Theo đó, quốc gia

thành viên được quyền cấm hay hạn chế xuất nhập khẩu khi thuộc những trường hợp
quy định tại Khoản 2 Điều XI, Điều XX, Điều XXI của GATT 1994. Một số hàng rào
phi thuế quan khác vẫn được WTO và ASEAN cho phép áp dụng trong giới hạn nhất
định với điều kiện tuân thủ những quy định cụ thể, khách quan như hàng rào kỹ thuật,
biện pháp kiểm dịch động thực vật, các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời.
Tuy nhiên, xét về mức độ tự do hóa thương mại hàng hóa, các quy định về việc
cắt giảm hàng rào phi thuế quan trong ASEAN thể hiện mức độ tự do hóa sâu rộng
hơn nhiều so với WTO. ASEAN đã đạt được những tiến bộ nhất định trong việc dỡ bỏ
hàng rào phi thuế quan tồn tại ở các quốc gia thành viên, thành công này phần lớn nhờ
vào việc xây dựng ATIGA. Trong ATIGA điều kiện cho phép quốc gia thành viên
được áp dụng các hàng rào phi thuế quan được quy định cụ thể, chi tiết và rõ ràng hơn
so với GATT 1994. Mặc dù ATIGA được ASEAN xây dựng và phát triển dựa trên nội
dung GATT 1994, tuy nhiên với ưu điểm số lượng thành viên ít nên ASEAN dễ dàng
đạt được sự đồng thuận để thông qua các quy định nhằm đảm bảo mức độ tự do hóa
thương mại khu vực, nâng cao tính minh bạch và thúc đẩy, tăng cường mối quan hệ
hợp tác thương mại nội khối.

9

Điều XI GATT 1994, Điều 41 ATIGA


Cụ thể, ASEAN quy định các quốc gia thành viên có nghĩa vụ xây dựng và lưu trữ
cơ sở dữ liệu về các biện pháp phi thuế quan hiện hành và thực hiện thủ tục thông báo
tại Điều 11 ATIGA khi ban hành các biện pháp mới hoặc điều chỉnh các biện pháp phi
thuế quan đang áp dụng10. Các quốc gia thành viên phải thường xuyên rà soát những
biện pháp phi thuế quan trong cơ sở dữ liệu để xác định các hàng rào phi thuế quan
cần xóa bỏ, đồng thời sẽ tiến hành xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan không phù hợp
với ATIGA theo quy định tại Điều 42 ATIGA. Bên cạnh đó, ATIGA quy định cụ thể về
thủ tục cấp phép nhập khẩu, đảm bảo các quốc gia thành viên khi xây dựng, thực hiện

các thủ tục cấp phép nhập khẩu tự động và không tự động phải minh bạch, dễ dự
đoán11.
Tóm lại, việc quy định các quốc gia thành viên phải loại bỏ dần những hạn chế
thương mại bao gồm cả hàng rào thuế quan và hàng rào phi thuế quan là một điều kiện
tiên quyết cho sự thành công của tiến trình tự do hóa thương mại hàng hóa, không chỉ
trong khu vực ASEAN mà còn mở rộng trong khuôn khổ WTO.

10

Khoản 3, 4 Điều 40 ATIGA

11

Điều 44 ATIGA


KẾT LUẬN
Tóm lại, đối với WTO các loại hàng hóa đã được cắt giảm thuế chủ yếu vẫn nằm ở
nhóm hàng công nghiệp, còn đối với nhóm hàng nông nghiệp thì vẫn tiếp tục là nhóm
hàng cần được cắt giảm thuế dần dần. Riêng ASEAN, mặc dù là các nền kinh tế
“cộng” chứ không phải là một thực thể kinh tế đơn nhất, phương thức hợp tác thương
mại của ASEAN vẫn là phương thức liên chính phủ và ra quyết định theo nguyên tắc
đồng thuận, nhưng quan hệ kinh tế giữa các thành viên vẫn còn rất hạn chế nhưng việc
cắt giảm thuế ở các nước ASEAN được thực hiện ở hầu hết các loại hàng hóa – kể cả
công nghiệp lẫn nông nghiệp. Ngoài ra, trong ASEAN mức thuế mà các quốc gia
thành viên hướng tới cho các mặt hàng là giảm xuống còn từ 0% - 5%.
Như vậy, đánh giá một cách chung nhất về mức độ tự do hóa thương mại hàng
hóa giữa ASEAN và WTO có thể thấy rằng giữa các nước trong ASEAN mức độ tự do
hóa là sâu và rộng hơn khá nhiều so với WTO. Điều này có thể giải thích là, do tính
chất quy mô của hai tổ chức này khác nhau. Đối với một tổ chức lớn như WTO thì

một lộ trình chung của nó có thể tác động đến rất nhiều quốc gia trên thế giới, đồng
thời để đạt được sự đồng thuận trong các vòng đàm phán là rất khó khăn.



×