Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Sự nghiệp nghiên cứu văn học của đặng thai mai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
––––––––––––––

LÊ THỊ PHƯƠNG

SỰ NGHIỆP NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỦA ĐẶNG
THAI MAI

CHUYÊN NGÀNH LÝ LUẬN VĂN HỌC
MÃ SỐ: 60 22 32

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS TRẦN KHÁNH THÀNH

Hà Nội - 2010

1


2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo sư Đặng Thai Mai là một trong những người mà tên tuổi đã trở
nên quen thuộc với độc giả và uy tín đã được khẳng định vững chắc trên
văn đàn văn học Việt Nam từ những năm 1940. Ông là một nhà trí thức yêu
nước, nhà văn hoá và là học giả có những cống hiến to lớn cho nền giáo dục
và nền văn hoá nước nhà.


Đặng Thai Mai sinh ngày 25-12-1902 tại làng Lương Điền (nay là xã
Thanh Xuân), huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, mất ngày 25-9-1984 tại
Hà Nội. Ông xuất thân trong một gia đình Nho học có truyền thống yêu
nước và hiếu học “đi qua tuổi thơ trong sự thiếu vắng cha mẹ và những
nơm nớp lo âu, vì bị chính quyền thực dân Pháp liệt vào hàng “Cừu gia tử
đệ”, luôn bị “để { theo dõi” *27, tr. 66+. Đặng Thai Mai hoạt động trên nhiều
lĩnh vực, từng là Bộ trưởng Bộ Giáo dục, là Chủ tịch Uỷ ban Hành chính tỉnh
Thanh Hoá và đã từng giữ nhiều trọng trách khác trong chính quyền Cách
mạng nhưng dấu ấn sâu đậm nhất mà Đặng Thai Mai để lại là nhà sư phạm
mẫu mực suốt đời say mê “truyền giáo” và là một nhà nghiên cứu văn học
tài hoa uyên bác. Trong sự nghiệp giáo dục, Giáo sư Đặng Thai Mai là tấm
gương sáng về một người thầy được nhiều thế hệ tôn vinh là “bậc sư biểu
quốc gia”. Với 50 năm tận tâm dạy dỗ, Giáo sư Đặng Thai Mai đã đào tạo
được hàng chục thế hệ học trò góp phần làm nên diện mạo văn hoá nước
3


nhà. Còn trong lĩnh vực nghiên cứu văn học, ông cũng được tôn vinh “bậc
thầy”, là người mở đường, đắp móng cho nhiều chuyên ngành nghiên cứu
văn học như l{ luận văn học, nghiên cứu văn học Trung Quốc hiện đại, lịch
sử văn học Việt Nam cận hiện đại. Tình cảm yêu nước mãnh liệt, phẩm chất
nhân văn giàu có, niềm say mê văn học và tài năng thiên phú đã giúp ông
trở thành nhà l{ luận, phê bình, nghiên cứu văn học có uy tín lớn của thế kỷ
XX ở Việt Nam. Cả cuộc đời Đặng Thai Mai dành trọn cho một mục đích duy
nhất: phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân.
Say mê văn chương từ nhỏ nhưng Đặng Thai Mai bước vào con
đường sáng tác và nghiên cứu văn chương hơi muộn. Ngoài 30 tuổi ông
mới viết và cho đăng tải những bài đầu tiên bằng tiếng Pháp với nhiều bút
danh khác nhau như Thanh Tuyền, Thanh Bình… trên các tờ báo của Đảng
Cộng sản Đông Dương như Lao động (Le Travail), Tiến lên (En avant), Tập

hợp (Rassemblement), Tiếng nói của chúng ta (Notre voix). Những tác
phẩm của ông có { nghĩa thời sự và giàu tính chiến đấu, thực sự là vũ khí
đấu tranh cách mạng. Ngòi bút của ông giàu lòng nhân ái và tinh thần ngợi
ca khi viết về những tấm gương hy sinh oanh liệt của những người chiến sỹ
cách mạng và những người dân yêu nước, đồng thời rất sắc sảo và thâm
thu{ khi viết những tác phẩm đả kích, châm biếm bè lũ tay sai bán nước và
thực dân phong kiến.
Với tâm niệm, mục đích tối thượng của văn chương là phục vụ cách
mạng, phục vụ nhân dân, bằng tác phong khoa học, bằng nghị lực phi
thường, tinh thần học hỏi và tài năng sẵn có, Đặng Thai Mai đến với công
tác nghiên cứu văn học và thu được rất nhiều thành công.

4


Về l{ luận văn học, Văn học khái luận (1944) - cuốn sách theo quan
điểm mác xít đầu tiên ở Việt Nam - đưa Đặng Thai Mai trở thành một trong
những người đặt nền móng đầu tiên cho nền l{ luận mác xít ở nước ta. Bên
cạnh đó, Đặng Thai Mai còn viết nhiều tiểu luận sắc sảo như: Nhân vật và
lịch sử (1944), Vấn đề dân tộc hoá (1946), Chân l{ nghệ thuật (1946), Vấn
đề lập trường trong văn nghệ (1946), Kháng chiến và văn hoá (1947), Một
vài vấn đề về l{ luận văn nghệ kháng chiến (1948)…
Không chỉ khẳng định vị trí trong lĩnh vực l{ luận văn học, Đặng Thai
Mai còn tập trung nghiên cứu văn học nước ngoài và văn học Việt Nam.
Ông khám phá văn học hiện đại Trung Quốc, đặc biệt quan tâm đến Lỗ Tấn,
một nhà văn vĩ đại xuất hiện trong phong trào Ngũ tứ. Những thành quả
của ông về Lỗ Tấn được công bố tiếp nối trên báo Thanh nghị. Sau này
những bài viết và tác phẩm dịch được tập hợp lại trong cuốn Lỗ Tấn, thân
thế, văn nghệ (1945). Đặng Thai Mai còn nghiên cứu văn học phương Tây,
đặc biệt là thời kz Phục hưng. Ông đã cho ra đời những bài viết mang giá trị

khoa học cao, thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về văn hoá Phục hưng như Chủ
nghĩa nhân văn dưới thời kz văn hoá Phục hưng (1949). Ngoài ra, ông còn
có những trang viết về các sáng tác của Xécvăngtét, Sếchxpia như bài viết
về Kỷ niệm 350 năm Tập truyện nhà Kỵ sĩ Đông Kisốt (1955-1960), bài viết
trong lễ kỷ niệm 400 năm ngày sinh của Sếchxpia (1964)…
Thông kim bác cổ, am hiểu Đông Tây, nhưng mục đích cuối cùng
Đặng Thai Mai hướng tới là nghiên cứu văn học Việt Nam. Những trang viết
của Đặng Thai Mai thể hiện vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng trầm tích văn
hoá quê hương đất nước, đặc biệt là văn hoá - văn học dân gian xứ Nghệ.
Mặc dù không viết một bộ lịch sử văn học Việt Nam thời trung đại nhưng
Đặng Thai Mai có những bài viết quan trọng, có tính chất gợi mở cho các
5


nhà nghiên cứu về sau. Nổi bật và có giá trị nhất trong các công trình nghiên
cứu văn học trung đại Việt Nam của Đặng Thai Mai phải kể đến Giảng văn
“Chinh phụ ngâm” - cuốn sách “có một giá trị đặc biệt về kiến thức và
phương pháp” *27, tr. 307], Văn thơ Phan Bội Châu (1958) - công trình “vừa
là khoa học vừa là văn chương” *27, tr. 327] và Văn thơ cách mạng Việt
Nam đầu thế kỷ XX 1900-1925 (1961) - “bức tranh toàn cảnh văn học cách
mạng từ phong trào Cần vương, Duy tân đến Đông Kinh nghĩa thục” *27, tr.
36].
Ngòi bút tinh tế và sắc sảo của Đặng Thai Mai còn hướng đến văn học
hiện đại Việt Nam. Ông nghiên cứu thơ Hồ Chí Minh, đăc biệt là khám phá
Tình cảm thiên nhiên trong “Ngục trung nhật k{” (1970), Đọc lại “Ngục
trung nhật k{” (1970), Suy nghĩ về yếu tố tinh thần trong “Ngục trung nhật
k{” (1975)… Ông còn tìm hiểu thơ Tố Hữu - lá cờ đầu của thơ ca cách mạng
Việt Nam với những bài viết đầy nhiệt huyết và say mê: Lời giới thiệu tập
thơ “Từ ấy” (1959), Khi nhà nghệ sỹ “tham gia” vào cuộc đấu tranh với tất
cả tâm hồn mình (1963)… Đóng góp của Đặng Thai Mai đối với công tác

nghiên cứu văn học nước nhà còn biểu hiện ở việc ông là một trong những
người đầu tiên quan tâm khám phá mảnh đất văn học miền Nam thời kz
tạm chiếm. Những nhận định của ông trong các bài viết Văn học miền Nam
dưới chế độ Mỹ - Diệm (1962), Lối thoát của văn học công khai vùng Mỹ
kiểm soát ở miền Nam (1964), Chào mừng đoàn đại biểu Mặt trận giải
phóng miền Nam (1969) đã góp phần mở đường cho các nhà nghiên cứu
sau này.
Ngoài những công trình nghiên cứu văn học có giá trị to lớn nói trên,
dấu ấn Đặng Thai Mai để lại trong lòng bạn bè, đồng nghiệp, học trò và độc
giả còn thể hiện qua những trang Hồi k{ tuy dang dở nhưng tình cảm chân
6


thành, giản dị vô cùng. Những trang viết về O tôi (1976), Thương tiếc thầy
Lê Thước (1975), Về một tình bạn từ thời học sinh (1983), Về việc tiếp nhận
“Đề cương văn hoá 1943” (1983), Quá trình rèn luyện nghề viết văn của tôi
(1978)… càng khẳng định nhân cách sáng ngời, lòng yêu nghề, yêu cuộc
sống và những nỗ lực không ngừng trên đường học tập và nghiên cứu đầy
khó khăn nhưng vô cùng vinh quang của ông.
Nhìn lại sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai, với hơn
năm mươi năm lao động và sáng tạo, ông đã sống hết mình cho công việc
và nghề nghiệp. Sự nghiệp nghiên cứu văn học phong phú, đa dạng, có giá
trị to lớn của ông là thành quả rực rỡ của sức lao động bền bỉ và giàu sáng
tạo. Có những nền văn học Đặng Thai Mai dành nhiều thời gian nghiên cứu
và cũng có những nền văn học ông chỉ đủ thời gian để điểm qua song
những nhận định của ông ít nhiều đều mới mẻ và mang tính gợi mở. Những
danh hiệu cao qu{ mà Đảng và Nhà nước dành tặng cho ông là sự bù đắp
xứng đáng cho những gì ông đã cống hiến: Huân chương Lao động hạng Nhì
(1958), Huân chương Hồ Chí Minh (1982), Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn
học và nghệ thuật, đợt I (1996).

Có thể nói, Đặng Thai Mai là một hình ảnh rất đẹp của những người
trí thức đi trên con đường lớn cách mạng, bay lên trong gió lớn cách mạng.
Bên cạnh những cây bút nghiên cứu văn học uy tín sắc sảo như Hoài Thanh,
Hải Triều, Vũ Ngọc Phan… Đặng Thai Mai đã tạo được dấu ấn riêng, vững
vàng về quan điểm, tư tưởng, có chiều sâu học thuật, bút pháp diễn tả độc
đáo và có sức “nặng” ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn học Việt Nam.
Những công trình nghiên cứu của ông không chỉ có giá trị thời đại mà còn
có giá trị lịch sử to lớn. Tìm hiểu sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng
Thai Mai một lần nữa chúng tôi muốn ghi nhận và khẳng định hơn nữa vai
7


trò, vị trí của ông đối với nền văn học nước nhà nói chung và lĩnh vực
nghiên cứu văn học nói riêng, đồng thời khẳng định một phong cách nghiên
cứu độc đáo.
2. Lịch sử vấn đề
Các bài viết về Đặng Thai Mai chủ yếu tập trung vào một số tuyển tập
như: Đặng Thai Mai và văn học, Nhà xuất bản Nghệ An, 1994; Nhớ Đặng
Thai Mai, Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội, 2004, và gần đây nhất là Đặng
Thai Mai về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2007 do
Trần Khánh Thành tuyển chọn và giới thiệu. Trên cơ sở đó, chúng tôi tóm
tắt lại những luận điểm nhận xét về học giả Đặng Thai Mai như sau:
Đánh giá đóng góp của Đặng Thai Mai đối với sự nghiệp giáo dục:
Những bài viết khẳng định đóng góp của Đặng Thai Mai đối với sự nghiệp
giáo dục đều xuất hiện sau khi ông mất với nhiều Hồi ức và kỷ niệm của
những đồng nghiệp, những học trò và người thân của ông.
Giáo sư Đặng Thai Mai là thầy dạy của rất nhiều học trò, trong đó có
những trí thức tài năng và tâm huyết như Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Xiển,
Nguyễn Xuân Yên, Phan Anh, Phan Mỹ, Phan Trinh Cán, Nguyễn Cao Luyện,
Hoàng Minh Tiệp, Trịnh Hồ Thi, Bùi Kỷ… Những người đã được học với thầy

Đặng Thai Mai đều vô cùng trân trọng, khâm phục tài năng, tâm huyết và
đức độ của thầy. Dù mới ngoài ba mươi tuổi nhưng các nữ sinh Thăng Long
thời đó đã trìu mến gọi thầy là “severe papa” (người cha nghiêm nghị).
Trong bài viết Thầy Đặng Thai Mai ở trường tư thục Thăng Long, ông Đào
Thiện Thi, nguyên Bộ trưởng Bộ Lao động, học trò cũ của Trường tư thục
Thăng Long kể lại rằng, thầy Mai “sống giản dị, chan hoà với học sinh nhưng
cũng rất nghiêm khắc trong kỷ luật học tập, và nếu cần thầy vẫn có những
8


nhận xét nghiêm túc và công khai ngay tại lớp học, đối với cả học sinh nam
và nữ” [27, tr. 486].
Thầy Đặng Thai Mai chuyên dạy về Pháp văn và văn học Pháp. Tình
yêu văn chương đến say đắm, tình yêu con người sâu nặng và lòng yêu
nghề thiết tha của Đặng Thai Mai đã làm cho những giờ dạy của thầy rất
hấp dẫn, sinh động. Nhà văn Vũ Tú Nam - nguyên Tổng thư k{ Hội nhà văn,
trong bài viết Thầy Đặng Thai Mai của chúng tôi đã khẳng định: “Từ văn
chương trong sách, thầy đã giúp các trò đồng cảm với thiên nhiên, con
người và cuộc sống” *27, tr. 445]. Rồi ông Hồ Trúc - nguyên Thứ trưởng Bộ
Giáo dục trong bài viết Thầy Đặng Thai Mai đã ghi lại dấu ấn không phai mờ
về “người anh tinh thần” của cả thế hệ: “Nói đến thầy Mai là nói đến một
nhà giáo uyên bác, nói đến một con người tuyệt vời về phẩm chất đạo đức,
nói đến tình thầy trò, sự giản dị và khiêm tốn của một trí thức gương mẫu,
hết lòng vì Tổ quốc, vì con người” *27, tr. 457].
Tiếp đến hàng chục bài viết của các tác giả như Đặng Thai Mai người thầy của thế hệ chúng tôi của Phong Lê, Những dòng tưởng niệm của
Bùi Duy Tân, Một vài kỷ niệm về Giáo sư Đặng Thai Mai của Nguyễn Xuân
Dương, Mấy kỷ niệm về Giáo sư Đặng Thai Mai của Vũ Đức Phúc, Nhớ về
thầy, một nhà sư phạm, một học giả chân chính của Phan Trọng Luận,
Tưởng nhớ thầy Mai của Nhan Bảo, Thầy Đặng Thai Mai, thầy tôi của Vũ
Thuần Nho, Kỷ niệm về thầy Đặng Thai Mai của Phạm Thuỷ Ba, Mấy kỷ niệm

về thầy Đặng Thai Mai của Minh Hiệu, Nhớ thầy, ơn thầy của Nguyễn Kim
Đính, Người thầy ấy của Vũ Cao, Người thầy nghiêm khắc của tôi của Phạm
Tú Châu, Nhớ về một người thầy yêu kính của Lê Bá Hán… tất cả đều thể
hiện tấm lòng biết ơn sâu sắc, lòng cảm phục, kính trọng tài năng đức độ
của thầy.
9


Sự kính trọng hết mực đối với nhân cách thầy Đặng Thai Mai còn bao
hàm cả lòng biết ơn sâu sắc đối với tấm lòng nhân ái của Giáo sư, một
người thầy hết lòng thương yêu học trò, đã giúp đỡ về mặt tài chính khi học
trò có khó khăn dù hoàn cảnh gia đình thầy cũng không khá giả gì. Xúc động
biết bao khi đọc những bài viết Tấm lòng của Giáo sư Đặng Thai Mai đối với
học trò của Nguyễn Tài Cẩn, Thầy Đặng Thai Mai - một tấm lòng nhân ái của
Nguyễn Xuân Ngọc.
Những học trò của thầy Mai, dù người trong nước hay người nước
ngoài đều có chung tình cảm trân trọng kính yêu như thế. Giáo sư, Tiến sĩ
N.I. Niculin, Viện sĩ Viện Văn học thế giới Cộng hoà Liên bang Nga trong bài
viết Đặng Thai Mai: con người, nhà khoa học, người thầy, Giáo sư Sáclơ
Phuốcniô với Tưởng nhớ Giáo sư Đặng Thai Mai, Giáo sư Nhan Bảo, Trường
Đại học Bắc Kinh với Tưởng nhớ thầy Mai, Giáo sư L{ Tu Chương, cán bộ
Viện Nghiên cứu Văn học nước ngoài ở Trung Quốc với Tấm gương một
người thầy đều có chung một cái nhìn đầy thiện cảm, niềm kính trọng Giáo
sư Đặng Thai Mai như đối với một học giả đại diện cho học thuật Việt Nam.
Qua những dòng hồi ức và tưởng niệm của học trò và đồng nghiệp,
Giáo sư Đặng Thai Mai được tôn vinh là một nhà sư phạm mẫu mực, tài
năng đức độ, suốt đời say mê cống hiến cho sự nghiệp trồng người của dân
tộc.
Đánh giá đóng góp của Đặng Thai Mai đối với sự nghiệp nghiên cứu
văn học: Vị trí danh dự mà Đặng Thai Mai có được không chỉ trong sự

nghiệp giáo dục. Trong lĩnh vực nghiên cứu văn học, ông cũng được tôn
vinh bậc thầy, là nhà học giả uyên bác, có uy tín lớn ở Việt Nam thế kỷ XX.

10


Đặng Thai Mai nghiên cứu ba nền văn học chính: văn học hiện đại
Trung Quốc, văn học phương Tây, nhất là thời kz Phục hưng và đặc biệt là
văn học Việt Nam. Đối với mỗi nền văn học, Đặng Thai Mai đều đưa ra
những nhận xét chính xác, tinh tế, có giá trị khoa học cao.
Đóng góp của Đặng Thai Mai đối với văn học Trung Quốc được
Trương Chính đánh giá trong bài viết Đặng Thai Mai và văn học Trung Quốc
là một việc làm có “tính chất mở đường” và những tác phẩm dịch của Đặng
Thai Mai đã tạo được những “tiếng vang mạnh mẽ hơn nhiều” so với những
tác phẩm dịch thuật của Nhượng Tống, Tản Đà, Ngô Tất Tố. Gần đây nhân
dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Đặng Thai Mai (1902-2002), Lê Huy Tiêu đưa
ra những nhận định về vai trò của Đặng Thai Mai đối với việc nghiên cứu,
tìm hiểu, dịch thuật và đưa những sáng tác của Lỗ Tấn vào Việt Nam. Lê Huy
Tiêu cho rằng: “Bài giới thiệu AQ chính truyện tuy còn sơ sài, chưa phong
phú nhưng đã nói được một số { sâu sắc”, “về cơ bản, Đặng Thai Mai đã tạo
dựng được diện mạo văn hào Lỗ Tấn cùng sáng tác của ông” *27, tr. 235].
Đánh giá đóng góp của Đặng Thai Mai đối với văn học phương Tây, có
bài Đặng Thai Mai với văn học phương Tây của Nguyễn Kim Đính, Đặng
Thai Mai và văn học Pháp của Trần Hinh, Đặng Thai Mai với nền văn học
Đức của Trần Đương. Trong các bài viết, các tác giả đều cho rằng, tuy Đặng
Thai Mai không dành nhiều thời gian nghiên cứu văn học phương Tây,
nhưng ông có một vốn hiểu biết tương đối phong phú và toàn diện về nền
văn học này. Từ những hiểu biết đó, Đặng Thai Mai đưa ra những định
hướng rất cần thiết nhằm giúp đỡ những người nghiên cứu văn học
phương Tây phát triển ngành khoa học này.


11


Văn học Việt Nam là đối tượng chính trong nghiên cứu của Đặng Thai
Mai. Chính vì thế, những thành tựu nghiên cứu của Đặng Thai Mai đạt được
trong lĩnh vực này là nổi bật và có giá trị nhất. Nhận xét về vốn hiểu biết của
Đặng Thai Mai về văn học dân gian Việt Nam, Đỗ Bình Trị cho rằng Đặng
Thai Mai là người “đồng sáng tạo” với tác giả dân gian trong những tác
phẩm mà ông sử dụng, đồng thời cũng khẳng định vốn hiểu biết về văn học
dân gian của Đặng Thai Mai là toàn diện, phong phú. Đặc biệt về văn học
trung đại và cận đại, Đặng Thai Mai có những đóng góp quan trọng và đã
được nhiều nhà nghiên cứu khẳng định. Bùi Duy Tân trong bài Đặng Thai
Mai với nền văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Đình Chú trong bài Thế bút
Đặng Thai Mai đối với văn học trung đại Việt Nam, Chương Thâu trong bài
Đặng Thai Mai với việc nghiên cứu Phan Bội Châu đều nhất trí khẳng định
những đóng góp của Đặng Thai Mai.
Giảng văn “Chinh phụ ngâm” của Đặng Thai Mai là một công trình
được đánh giá cao và được nhiều nhà nghiên cứu, nhà giáo chọn làm mẫu
mực. Các bài viết Nghĩ về Giảng văn “Chinh phụ ngâm” của Đỗ Hữu Châu,
Một số vấn đề l{ thuyết giảng văn và thi pháp văn học cổ trong “Giảng văn
Chinh phụ ngâm” của Trần Đình Sử, Đọc lại Giảng văn “Chinh phụ ngâm”
của Hoàng Tuệ đã ghi nhận điều này.
Ngoài ra, Đặng Thai Mai còn có những công trình nghiên cứu văn học
hiện đại Việt Nam. Tác giả Trương Chính với bài viết Đặng Thai Mai và đổi
mới văn học đã ghi nhận đóng góp của ông với nền văn học hiện đại.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu văn học, các công trình về l{
luận văn học của Đặng Thai Mai cũng được nhiều nhà khoa học đánh giá
cao. Hà Minh Đức đã đưa ra nhận xét sau về Văn học khái luận của Đặng
12



Thai Mai: “cuốn sách đi vào những vấn đề bản chất nhất, bức thiết nhất của
cơ sở l{ luận văn học” *27, tr. 348]. Trần Đình Sử cũng khẳng định Văn học
khái luận là “công trình l{ luận văn học đầu tiên” của Việt Nam [27, tr. 343].
Cùng sự đánh giá tương tự có các bài viết của Phan Cự Đệ: Đặng Thai Mai
nhà nghiên cứu văn học uyên bác, Hà Minh Đức: Phong cách và bút pháp
văn chương Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Khánh: Đôi điều về phong cách một
nhà văn, Đặng Tiến: Phong cách Đặng Thai Mai… Các tác giả đều ghi nhận
tài năng và đóng góp của Đặng Thai Mai đối với nền văn học nước nhà và sự
nghiệp nghiên cứu văn học ở Việt Nam, nhất là hai lĩnh vực l{ luận và
nghiên cứu văn học. Đặc biệt những bài viết này không chỉ ghi nhận những
thành tựu mà còn chỉ ra phong cách, phương pháp khoa học của học giả
Đặng Thai Mai.
Gần đây, công trình Đặng Thai Mai về tác gia và tác phẩm của Trần
Khánh Thành tập hợp những bài nghiên cứu, phê bình, hồi k{ của các nhà
văn, các nhà nghiên cứu, của thân nhân, thân hữu đã được công bố trên các
sách báo hoặc đã được trình bày ở các hội thảo khoa học về Đặng Thai Mai.
Công trình đã góp phần giúp học sinh, sinh viên và đông đảo bạn đọc hiểu
hơn về cuộc đời và sự nghiệp văn học của Đặng Thai Mai.
Trên cơ sở các công trình tìm hiểu và ghi nhận những đóng góp to lớn
của nhà nghiên cứu văn học Đặng Thai Mai, với luận văn này chúng tôi xác
định đây là công trình đầu tiên tập trung nghiên cứu sự nghiệp nghiên cứu
văn học của Đặng Thai Mai theo hướng toàn diện, chuyên sâu và có hệ
thống. Qua đó, nhằm mục đích ghi nhận, tôn vinh những đóng góp lớn lao
của ông - nhà trí thức yêu nước, nhà văn hoá và nhà học giả có những cống
hiến to lớn cho nền giáo dục và nền văn hoá nước nhà.

13



3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Có thể nói, số lượng các công trình nghiên cứu văn học của Đặng Thai
Mai tương đối nhiều, lại rất đa dạng với nhiều hướng tiếp cận. Trong giới
hạn của một luận văn, chúng tôi không có tham vọng có thể trình bày hết
mọi vấn đề về Đặng Thai Mai từ con người, quá trình phát triển tài năng, tư
tưởng cũng như tất cả các sáng tác và công trình nghiên cứu của ông. Đối
tượng khảo sát của luận văn này là sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng
Thai Mai, bao gồm những đóng góp về l{ luận văn học, về nghiên cứu văn
học nước ngoài và văn học Việt Nam của ông.
Tìm hiểu sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai, chúng tôi
dựa vào cuốn Đặng Thai Mai toàn tập, gồm hai tập, in tại Nhà xuất bản Văn
học, 2004.
Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai là một đề tài mới
mẻ và mang tính gợi mở. Hơn nữa, tài năng và nhân cách Đặng Thai Mai
được nhiều người khẳng định, trân trọng và cảm phục. Đặng Thai Mai lại
là người luôn luôn muốn được tìm hiểu thế giới, tìm hiểu văn chương ở
khắp các lĩnh vực. Do khuôn khổ đề tài và thời gian có hạn, chúng tôi mới
chỉ bước đầu đưa ra những nhận định riêng, tập trung đi vào những tác
phẩm tiêu biểu, chọn lựa những luận điểm tổng quát để khảo sát và phân
tích. Trong quá trình phát triển luận văn chắc hẳn sẽ còn nhiều thiếu sót,
rất mong nhận được { kiến đóng góp từ phía các thầy cô cũng như sự chia
sẻ của bạn bè để luận văn thực sự hoàn thiện.
4. Phương pháp nghiên cứu

14


Do tính chất của đề tài, trong luận văn này chúng tôi kết hợp sử dụng
các phương pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp tổng hợp và đánh giá

5. Cấu trúc luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, bao gồm 3 chương:
 Chương 1. Đóng góp của Đặng Thai Mai về lý luận văn học
 Chương 2. Đặng Thai Mai với nghiên cứu văn học nước ngoài
 Chương 3. Đặng Thai Mai với nghiên cứu văn học Việt Nam

15


Chương 1: ĐÓNG GÓP CỦA ĐẶNG THAI MAI VỀ LÝ LUẬN VĂN HỌC
Trong sự nghiệp nghiên cứu văn học, Đặng Thai Mai đã có nhiều cống
hiến xuất sắc với vai trò là người khám phá, mở đường cho nhiều chuyên
ngành văn học, trong đó có l{ luận văn học. Những công trình về l{ luận văn
học đã giúp ông trở thành một trong những người đặt nền móng đầu tiên
cho l{ luận văn học mác xít ở nước ta. Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ đánh
giá: “Nếu như Hải Triều là người lính xung kích trẻ tuổi đã dũng cảm cắm
16


ngọn cờ duy vật trên thành luỹ của vị tướng già duy tâm Phan Khôi và giành
ưu thế cho quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh trong cuộc tranh luận với
Hoài Thanh thì Đặng Thai Mai là người tổng kết lại những luận điểm của Hải
Triều bằng cái học thuật uyên bác của mình” *27, tr. 146]. Trong số các tác
phẩm về l{ luận văn học của Đặng Thai Mai, Văn học khái luận được đánh
giá cao nhất, góp phần đặt nền móng cho l{ luận văn học Việt Nam.

1.1. Công trình Văn học khái luận
Văn học khái luận là công trình l{ luận lần đầu tiên xuất hiện trên Tạp
chí Văn mới số 36 và 37 ra tháng 6 năm 1944, sau đó mấy tháng được in
thành sách do Hàn Thuyên xuất bản. Đây là tập sách được đánh giá thành
công nhất về l{ luận văn học của Đặng Thai Mai, là “cuốn sách l{ luận văn
học hiện đại theo quan điểm mác xít đầu tiên ở Việt Nam” *27, tr. 30+, đặt
nền móng cho rất nhiều tác phẩm l{ luận sau này, đồng thời là cơ sở l{
thuyết cho những công trình nghiên cứu văn học.
Nghiên cứu văn học đặt ra cho l{ luận văn học những yêu cầu rất khắt
khe, l{ luận phải có chuẩn mực, đúng đắn với hiện tại và phù hợp với tương
lai, đồng thời có giá trị sáng tạo lâu bền. Văn học khái luận đã đáp ứng
được những tiêu chuẩn ấy, và do đó “đã nửa thế kỷ qua, từ khi các tác
phẩm ra đời, Văn học khái luận vẫn là cuốn sách hàng đầu của tác giả và là
công trình có giá trị tư tưởng và học thuật” *27, tr. 348].
Trước khi cuốn sách xuất hiện, trên diễn đàn văn học công khai đã
nảy sinh cuộc tranh luận nghệ thuật rất sôi nổi giữa hai phái “Nghệ thuật vị
nghệ thuật” và “Nghệ thuật vị nhân sinh” kéo dài từ năm 1935 đến năm
1939. Từ cuộc tranh luận này, nhiều vấn đề l{ luận nghệ thuật được đặt ra
như mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống xã hội, thiên chức cao qu{ và
17


sứ mệnh thiêng liêng của văn chương, phương hướng xây dựng nền văn
học mới… Khi viết Văn học khái luận, cuộc bút chiến khá ồn ào hơn năm
năm về trước đã thành câu chuyện cũ, nhưng Đặng Thai Mai đã rất khéo
léo trình bày những luận điểm đầy sức thuyết phục để tiếp tục bảo vệ và
phát triển quan điểm của phái “Nghệ thuật vị nhân sinh”. Và một điều đáng
trân trọng là tinh thần của Đề cương văn hoá (1943) với phương châm dân
tộc - khoa học - đại chúng được Đặng Thai Mai tiếp nhận và trình bày sâu
sắc trong công trình này.

Văn học khái luận không chuyên sâu vào một vấn đề l{ luận, một trào
lưu, hoặc một thể loại văn học. Cuốn sách gồm 7 chương, với độ dày gần
140 trang sách trình bày 7 vấn đề “bản chất nhất, bức thiết nhất của cơ sở
l{ luận văn học” *27, tr. 348+: Định nghĩa hai chữ văn học, vấn đề nguyên
tắc, vấn đề sáng tác, nội dung và hình thức, điển hình và cá tính, vấn đề tự
do trong văn nghệ, tinh thần quốc gia và văn học. Để triển khai những vấn
đề l{ luận trên, với ngòi bút sắc sảo kết tinh trí tuệ uyên thâm, sâu rộng
trên cơ sở tiếp nhận từ cả hai nguồn văn hoá phương Đông và phương Tây,
Đặng Thai Mai đã đưa ra những lập luận chặt chẽ, vận dụng sáng tạo những
nguyên tắc l{ luận vào thực tiễn văn học góp phần giải quyết nhiều vấn đề
cụ thể. Chuyên luận trình bày khá rành mạch và uyển chuyển các vấn đề l{
luận văn học theo quan điểm mác xít đương thời, đã vận dụng các { kiến
của các tác giả nổi tiếng như Taine, Plêkhanôp, Mao Thuẫn, Chu Dương và
nhiều nhà văn hoá khác. Đặng Thai Mai đã tranh biện với { kiến của
Tônxtôi, Baldensperger, Lưu Trọng Lư, Lan Khai, Hồ Phong, Hồ Hoài Thẩm.
Đến nay, đã hơn sáu mươi năm trôi qua nhưng nhiều vấn đề l{ luận trong
Văn học khái luận vẫn còn nguyên giá trị, vẫn phù hợp với bản chất và quy
luật vận động của văn học. Những đóng góp của Đặng Thai Mai trong Văn
18


học khái luận đã được nhiều người khẳng định, đặc biệt là các { kiến của Hà
Minh Đức và của Trần Đình Sử. Ở đây chúng tôi xin nhấn mạnh lại một số
vấn đề quan trọng mà nhà l{ luận hôm nay vẫn cần phải quan tâm.
Vấn đề thứ nhất là mối quan hệ giữa l{ trí và tình cảm trong sáng tạo
văn học. Trong phần bàn về khái niệm văn học, Đặng Thai Mai “không chỉ
giải thích nguồn gốc khái niệm mà điều quan trọng hơn là chỉ ra bản chất
của loại hình nghệ thuật này” *27, tr. 31+. Tác giả Văn học khái luận cho rằng
văn học là “một khoa học nghiên cứu về các tác phẩm thuộc lĩnh vực “văn”
và cũng có { nghĩa là toàn thể những tác phẩm đó” *1, tr. 53]. Ông đã phê

phán khá triệt để quan điểm của Hồ Hoài Thẩm và Lép Tônxtôi khi họ quá
nhấn mạnh tình cảm trong sáng tạo văn học. Hồ Hoài Thẩm cho rằng: “Thực
chất văn học là tình cảm. Những tình cảm chứa chất lại trong lòng người,
sau lúc đã theo phương pháp mô hình hoá, hay là phương pháp tự nhiên
hoá, mà biểu hiện ra, tức là văn học” *1, tr. 55+; và Lép Tônxtôi khẳng định:
“Nghệ thuật là phương tiện giao tiếp của loài người”, “Nghệ thuật là để
biểu hiện tình cảm” *1, tr. 57+. Đặng Thai Mai thẳng thắn chỉ ra nguyên nhân
dẫn đến những quan điểm trên của các tác giả: “chỉ vì không chọn được
một quan điểm xác thực cho nên các nhà l{ luận văn học về phái quan niệm
luận không thể giải thích văn học cho minh bạch” *1, tr. 58]. Trong lịch sử
sáng tạo nghệ thuật có rất nhiều người coi trọng nội dung tình cảm, thu hẹp
tiếng nói nghệ thuật trong thế giới cảm xúc, cảm giác chủ quan của nghệ sỹ.
Đây là cách nhìn thiên lệch và dễ rơi vào duy tâm: “Hoàn toàn ỷ thị vào trực
cảm, vào bản năng là một thái độ kiêu căng điên rồ và nguy hiểm” *1, tr.
58+. Là người rất hăng hái trong mặt trận văn hoá, Đặng Thai Mai coi trọng
nội dung tư tưởng của văn học. Ông nhấn mạnh thiên chức của nhà văn
chân chính là dùng văn học để tác động, thức tỉnh nhân dân, cải thiện xã
19


hội. Nhưng ông không phiến diện, không coi trọng tư tưởng mà xem nhẹ
tình cảm. Ông đã l{ giải khách quan bản chất của văn học và con đường tác
động của nó đối với con người: “Văn học có lực lượng để kích động tình
cảm của buồng tim, để thoả mãn yêu cầu mở mang của tư tưởng và đồng
thời lại có một hệ thống l{ tính thanh sơ dẫn đạo lương tri và trí tuệ của
giống người nữa” *1, tr. 59+. Văn học là tiếng nói tư tưởng và tình cảm của
con người, là lương tri, lương tâm của con người gửi gắm vào nghệ thuật.
Văn học không phải “chỉ là một thủ đoạn để đạo đạt tình cảm mà thôi, văn
học cũng có mục đích đi tìm chân l{ và truyền bá tư tưởng” *1, tr. 58+. Dù ở
thời đại nào cũng không nên xem nhẹ một trong những mặt đó, sự hài hoà

giữa l{ trí và tình cảm tạo nên vẻ đẹp hài hoà của con người và cuộc sống.
Vấn đề thứ hai mà Đặng Thai Mai đặc biệt quan tâm là vai trò quan
trọng của chủ thể sáng tạo trong hoạt động nghệ thuật. Trong chuyên luận,
Đặng Thai Mai khẳng định mối quan hệ không thể tách rời của văn học và
đời sống hiện thực. Nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng ngay từ thời
kz sơ sinh của nó đã tồn tại và phát triển trong sự gắn bó mật thiết với đời
sống lao động. Đặng Thai Mai đi sâu vào những luận điểm của Plêkhanôp
trong Nghệ thuật và sinh hoạt xã hội, một cuốn sách đặt những luận điểm
cơ sở theo quan điểm của Mác về mối quan hệ giữa văn nghệ và đời sống
xã hội. Ông thấy rằng: “Những thời kz mà xã hội trải qua một cuộc thay đổi
lớn đều là những thời kz văn học nảy nở một cách nhanh chóng và tiến
triển đến một trình độ cao” *1, tr. 74+. Tác giả Văn học khái luận đã đưa ra
những luận điểm và dẫn chứng thích hợp tạo nên sức thuyết phục để chứng
minh rằng: “Mỗi một chủ nghĩa văn học đều có căn bản ở sự sinh hoạt xã
hội” *1, tr. 67]. Muốn văn học phát triển, chúng ta chỉ có thể xây dựng nền
l{ luận văn học quốc gia đó trên cơ sở phát triển của nền kinh tế đất nước vì
20


“trong một xã hội lạc hậu từ kinh tế đến tri thức, thì lẽ cố nhiên vấn đề ấy
(l{ luận văn học - chú thích của người viết) chỉ là một xa xỉ phẩm của tri thức
ít ai quan tâm đến. Như vậy, văn nghệ cũng phải cần đến nguyên tắc và
luôn luôn tiến triển theo lịch sử sinh hoạt của xã hội” *1, tr. 69]. Sự sống của
văn học không thể tách rời đời sống xã hội, văn học là tấm gương phản
chiếu xã hội. Đồng thời, đời sống xã hội là mảnh đất phù sa màu mỡ cung
cấp chất liệu, khơi nguồn cảm hứng để văn học phát triển tươi tốt. Thoát ly
khỏi đời sống xã hội, văn học sẽ thiếu một nền tảng vững chắc và sẽ không
còn là văn học chân chính nữa. Từ đó, Đặng Thai Mai kết luận: “Văn học chỉ
là một lối biểu hiện trong các hình thái của { thức xã hội. Văn học cũng như
pháp luật, chính trị, đều xây dựng ở trên nền tảng sinh hoạt của xã hội và

vấn đề tiến triển, biến hoá luôn luôn, theo khuynh hướng sinh hoạt chung
trên cơ sở thực tại của đời sống phong kiến tư bản và xã hội” *1, tr. 69]. Kết
luận ấy thể hiện một cái nhìn thấu đáo, không máy móc, giáo điều.
Tác giả Đặng Thai Mai khi nói về mối quan hệ giữa văn nghệ và xã hội
đã chú { đến sự biến động của xã hội tạo nên những đổi thay trong nghệ
thuật. Không thể thổi phồng cái gọi là “vấn đề trường cửu”, “chủ đề vĩnh
viễn” như ái tình, thiên nhiên, vấn đề quan niệm về sống và chết. Đặng Thai
Mai đưa ra những so sánh thú vị về sự đổi thay trong quan niệm tình ái qua
Truyện Kiều và một số tác phẩm bằng tiếng quốc ngữ như Tố Tâm, Đoạn
tuyệt. Với Truyện Kiều, dù Thu{ Kiều “có những nỗi đau đớn của sự hy sinh,
vẫn tin rằng chữ hiếu bao giờ cũng phải được trọng hơn chữ tình”, nhưng
hơn một trăm năm sau, thì “đối với quan điểm đặt đâu ngồi đấy, quả tim
một cô Tố Tâm đã bập bồng đánh những nhịp khác rồi”. Và mười năm sau
Tố Tâm, đến cô Loan trong Đoạn tuyệt, đã công nhiên tuyên bố những lời
phản đối kịch liệt tình cảnh hôn nhân cưỡng bức, để tự giải phóng mình,
21


giạn bước ra đi, và “cô sẽ đi tới đâu. Không ai biết… nhưng ta có cái cảm
giác chắc chắn là cô Loan sẽ không bao giờ đi giật lùi, trở về lối cũ” *1, tr.
69].
Đặng Thai Mai nhấn mạnh: nhà văn, người hoạt động tinh thần nhạy
cảm phải “{ thức rõ rệt về tính cách biến thiên của xã hội là một nguyên l{
sáng tác của văn nghệ” *1, tr. 74]. Nếu nhà văn “không cảm thấy những nỗi
đau đớn, thiếu thốn của kiếp người, những điều mong mỏi thiết tha của
thời đại, nếu không lĩnh hội được tính cách luôn luôn biến thiên của thế
giới, của nhân sinh, nếu như đối với hiện tại, với tương lai không có một
yêu cầu, một hy vọng, tin tưởng gì, thì (…) chỉ là một lối văn chơi mà thôi,
chả có { nghĩa gì là văn học” *1, tr. 76+. Để viết được một tác phẩm văn
chương đích thực, có sức lay động lòng người, có { nghĩa đối với đời sống

nhân sinh thì nhà văn phải là người thư k{ trung thành của thời đại, phải
hoà mình vào cuộc sống, phải ngụp lặn với đời sống nhân dân, thấu hiểu và
cảm thông những tâm tư tình cảm của họ. Và một điều hết sức quan trọng
là khi nhận thức được chân l{, nhìn thấy được sự thực ở đời, nhà văn phải
nhận rõ sứ mạng lịch sử của nghệ thuật, nhận rõ thiên chức của hàng ngũ
nhà văn trong xã hội, để có dũng khí bản lĩnh, { chí bền vững, kiên định
công khai bảo vệ chân l{, bênh vực lẽ phải, lên án cái xấu, cái ác, “lấy chân
l{ làm mục đích, không dối mình, không dối người, không ngã lòng với trở
lực, không đem nghệ thuật đi phục dịch một bọn “ông chủ”, phụng sự tư
lợi, quyết tâm góp một phần tâm huyết, trí tuệ vào công cuộc cải tạo xã hội,
ấy là điều kiện tâm l{ của những công cuộc sáng tác” *1, tr. 78]. Thiếu một
lập trường kiên định, một tư tưởng vững vàng, thì dù có tiến sát chân l{ đời
sống, nhà văn ấy cũng không thể thành thực, trung thành khẳng định chân
l{ đời sống ấy. Lập trường và tư tưởng kiên định kết tinh lại thành nhân
22


cách của nhà văn. Đặng Thai Mai đã chỉ ra điều đáng sợ là: “Nhà văn không
có nhân cách xứng đáng với nghề nghiệp của mình”, những nghệ sĩ “bò sát”
chỉ ton hót một hạng thống trị hoặc a dua theo thời thượng” *1, tr. 89].
Những kẻ sẵn sàng hy sinh bản ngã để nhận về mình những danh giá lợi lộc
nhất thì dù ở bất cứ thời nào cũng có và họ không thể viết được những tác
phẩm văn chương có giá trị phụng sự xã hội, phụng sự nhân sinh. Như vậy,
Đặng Thai Mai đã nhìn thấu đáo vấn đề trên hai bình diện khách quan và
chủ thể, đặc biệt là nhấn mạnh tầm quan trọng của chủ thể sáng tạo. Sự am
hiểu sâu sắc đời sống xã hội, mong ước và khát vọng biến cải xã hội trở
thành máu thịt của người cầm bút. Từ đó ông nói đến sứ mệnh dự báo, tiên
đoán của văn học: “Một nhà văn cũng phải là nhà tiên tri, văn sĩ phải là đạo
quân tiền tuyến của thời đại và nếu một lối văn học không nhận lấy cái
trách nhiệm tiên phong thì lối văn học ấy quyết sẽ không có giá trị” *1, tr.

77]. Đó là quan điểm cách mạng trong văn nghệ. Điều này thật có { nghĩa
trong tình hình văn nghệ đang bị khuấy đục bởi nhiều luồng tư tưởng phản
dân tộc, phản khoa học lúc bấy giờ. Văn chương là máu thịt, là tâm huyết
mà nhà văn thai nghén, ấp ủ, là tiếng nói xuất phát từ lương tri, từ trái tim
của nhà văn, do đó nhà văn chân chính đồng thời là nhà nhân văn chủ
nghĩa, là chiến sĩ đấu tranh cho tự do và chân l{. Văn chương chân chính
không thể đồng hành cùng cái xấu, cái ác.
Thêm một vấn đề quan trọng mà các nhà l{ luận văn học hiện nay vẫn
phải quan tâm là quan hệ giữa tính dân tộc và tính quốc tế. Vấn đề này
được Đặng Thai Mai giải quyết khá trọn vẹn trong chương VII - chương cuối
của chuyên luận bàn về Tinh thần quốc gia và văn học. Mấy chữ “Tinh thần
quốc gia” sau này được ông sửa lại là “Tinh thần dân tộc”. Đặng Thai Mai đã
“l{ giải một cách khoa học khách quan quy luật tiếp biến văn học trong quá
23


trình giao lưu văn hoá giữa các dân tộc nhằm tránh quan điểm dân tộc hẹp
hòi, bảo thủ khi tiếp nhận tinh hoa văn hoá nhân loại” *27, tr. 33]. Ông
thẳng thắn trình bày { kiến trên cơ sở thực hiện thao tác cơ bản trong
nghiên cứu khoa học, đó là định danh khái niệm “Tinh thần dân tộc”. Đặng
Thai Mai không đồng { với cách giải thích của Lan Khai trong phần đầu bài
viết Tính cách Việt Nam trong văn chương đã dùng chữ “dân tộc” mà đến
đoạn kết luận lại nói đến “nòi giống” và “chủng tộc”. Đặng Thai Mai cho
rằng, Lan Khai đã không “biện biệt” rõ ràng nội dung { nghĩa của hai từ này
và đã dùng sai nội dung khái niệm - một điều tối kỵ trong nghiên cứu văn
chương. Ông cũng phủ nhận cái mà Lan Khai định nghĩa, giải thích chữ “tinh
thần dân tộc” là “kết quả của sự gom góp tất cả những nét hay mà dân tộc
ấy sẵn có” *1, tr. 124+. Ông đánh giá: “Một { tưởng không có tính cách cụ
tượng, không “positif” như vậy không thể đem ra làm tài liệu nghiên cứu
văn học” *1, tr. 124].

Từ sự nhầm lẫn của Lan Khai, Đặng Thai Mai nhìn tính dân tộc một
cách toàn diện và biện chứng hơn. Ông xác định trong văn chương, điều cần
nghiên cứu không phải là đặc trưng chủng tộc mà là tính dân tộc. Khi xác
định phạm vi tính dân tộc trong văn chương, Đặng Thai Mai phê phán các
nhà nghệ sỹ giấu đi cái xấu và phô bày hết mọi vẻ đẹp. Theo quan niệm của
ông, “tinh thần dân tộc” luôn vận động và bao gồm cái hay cái dở, cái tốt và
cả cái xấu: “Một nền nghệ thuật chỉ biểu hiện cái hay của dân tộc và quên
bẵng cái dở đi, vị tất đã có những hiệu quả tốt” *1, tr. 127+; “Không phải là
vì nhà nghệ sĩ im lỉm đi mà nết xấu, nết dở tự nhiên nó tiêu tan! Tôi lại e
rằng nếu không có thể nhận thấy nết xấu trong dân tộc thì cũng không thể
biểu hiện được cái hay của nó” *1, tr. 127]. Nhà văn phản ánh “tinh thần
dân tộc” trên cơ sở đời sống của dân tộc chứ không phải minh hoạ theo
24


một vài khái quát trừu tượng. “Một dân tộc cần có những người nhắc nhở
cho nó đừng quên cái nết hay của nó… Nhưng lại cần có kẻ luôn luôn tố cáo
cho biết những nết xấu nết dở của nó bởi “sự thực là sự thực” *1, tr. 127].
Văn học nghệ thuật của chúng ta cần giáo dục tinh thần tự phê một cách
nghiêm khắc. Những lời ca tụng giả dối chẳng ích lợi gì cho sự phát triển văn
hoá, văn minh của dân tộc. Trong quá trình gìn giữ bản sắc văn hoá cần phải
hiểu rõ cái hay cái dở của dân tộc mình, kế thừa và phát huy những nét đẹp
văn hoá tiến bộ, đồng thời loại bỏ dần những biểu hiện văn hoá lạc hậu, lỗi
thời để phù hợp với thời đại mới. Đó là một quan điểm đúng đắn, khoa học,
là một bài học mà Đặng Thai Mai rút ra từ rất sớm.
Nói đến tinh thần quốc gia, đến dân tộc tính, Đặng Thai Mai khẳng
định nó luôn nằm trong xu thế tiếp xúc với những nền văn hóa khác, dân
tộc khác. Một nền văn hoá phù hợp với thời đại là nền văn hoá tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở kế thừa và kết tinh những tinh hoa văn
hoá nhân loại, bên cạnh những sáng tạo tự nhiên của dân tộc đó còn có cả

những yếu tố văn hoá ngoại lai. Với suy nghĩ ấy, Đặng Thai Mai đã không
đồng { với { kiến của nhà thơ Lưu Trọng Lư: “Ta đã vay mượn của người
hàng xóm từ một điệu thơ nhỏ nhặt đến một đạo l{ cao xa. Rồi xưa kia
chúng ta là những người Tàu, gần đây chúng ta là người Tây và chưa có lúc
nào chúng ta là người Việt Nam cả” *1, tr. 122+. Trong quá trình giao lưu,
tiếp xúc văn hoá giữa các dân tộc, ông đánh giá cao vai trò của việc học hỏi,
vay mượn các nét đẹp văn hoá giữa các quốc gia, dân tộc để xây dựng nền
văn hoá tiến bộ của nhân loại: “Bắt chước mà có thể sáng tác được những
áng văn hay thì ta cũng không nên quá nghiêm khắc, nhất là trong lúc văn
học nước ta mới bắt đầu gây dựng được một cơ sở mới” *1, tr. 129].

25


×