Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

van hoc trung dai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.06 KB, 6 trang )

3.Ch ặ ng 3: (đầu TK XVIII - hết nửa đầu TK XIX)
Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng. Các tập đoàn phong kiến tranh giành
quyền lực, đấu đá, tiêu diệt lẫn nhau. Cuộc sống của người dân vô cùng khổ cực. Các cuộc khởi
nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi mà đỉnh cao là khởi nghia Tây Sơn diệt Trịnh Nguyễn, đánh đuổi
quân Xiêm, quân Thanh, thống nhất đất nước. Vua Quang Trung lên ngôi. Nguyễn Ánh không
thể chống lại vua Quang Trung với hạm đội manh nhất Thái Bình Dương bèn cầu cứu thực dân
Pháp. Cuối cùng Nguyễn Ánh có được sự trợ giúp của thực dân Pháp, đổi lại sau khi lên ngôi,
Nguyễn Ánh phải để chúng buôn bán tự do tại của biển Sơn Trà, Đà Nẵng. Không lâu sau khi
thành lập, triều đại Tây Sơn bị lật đổ, Nguyễn Ánh khôi phục lại vương triều phong kiến chuyên
chế (1802-1945).
Đây được xem là giai đoạn phát triển tột bậc, rực rỡ nhất của văn học phong kiến Việt Nam. Cảm
hứng xuyên suốt thời kì này là cảm hứng nhân đạo. Bởi lúc này số phận và quyền sống của con
người bị đe dọa. Văn học giai đoạn này là tiếng nói đòi quyền sống, quyền hạnh phúc, đấu tranh
đòi giải phóng con người cá nhân. Các tác phẩm tiêu biểu: Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn;
Đoàn Thị Điểm dịch), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô
gia văn phái), Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ), Thường kinh kí sự (Lê Hữu Trác), thơ Hồ Xuân
Hương, Bà Huyện Thanh Quan,Truyện Kiều (Nguyễn Du). Thời kì này có sự phát triển mạnh mẽ
của những sáng tác văn học viết bằng chữ Nôm, và sự xuất hiện của nhiều thể loại văn học như
tùy bút, tiểu thuyết chương hồi, kí.
4.Ch ặ ng 4: (cuối TK XIX)
Sau một thời gian nắm quyền, nhà Nguyễn dừng việc cho quân Pháp tự do buôn bán tại của biển
Sơn Trà và chém đầu tất cả những người truyền đạo thiên chúa giáo ở Việt Nam. Và đến năm
1858 thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn chống cự yếu ớt rồi nhanh chóng
đầu hàng. Đất nước rơi vào tay thực dân Pháp. Từ chế độ phong kiến, Việt Nam chuyển sang chế
độ thực dân nửa phong kiến và văn hóa phương Tây bắt đầu ảnh hưởng đến xã hội Việt Nam.
Cảm hứng xuyên suốt của văn học cuối TK XIX là cảm hứng yêu nước chống giặc ngoại xâm và
mang một âm hưởng bi tráng bởi nó ghi lại một thời khổ nhục nhưng vĩ đại, thất bại nhưng vẫn
hiên ngang của dân tộc Việt Nam. Các tác ph ẩ m tiêu bi ể u: V ă n t ế ngh ĩ a s ĩ C ầ n Giu ộ c , Ch ạ y gi ặ c... c ủ a
Nguy ễ n Đ ình Chi ể u, Nguy ễ n Khuy ế n, Tú X ươ ng, Nguy ễ n Quang Bích, Phan V ă n Tr ị , Nguy ễ n Xuân Ôn,
Nguy ễ n Th ượ ng Hi ề n... Đặ c bi ệ t trong th ờ i kì này có s ự xu ấ t hi ệ n c ủ a m ộ t s ố tác ph ẩ m v ă n xuôi vi ế t b ằ ng
ch ữ Qu ố c ng ữ c ủ a Tr ươ ng V ĩ nh Kí, Hu ỳ nh T ị nh C ủ a đ em đế n nh ữ ng đổ i m ớ i b ướ c đầ u theo h ướ ng hi ệ n đạ i


hóa. V ă n th ơ ch ữ Hán và ch ữ Nôm c ủ a các tác gi ả Nguy ễ n Đ ình Chi ể u, Nguy ễ n Khuy ế n, Tú X ươ ng đề u có
nh ữ ng b ướ c phát tri ể n m ạ nh m ẽ .
II_Đặc điểm của văn học trung đại Việt Nam:
1.Nội dung:
Văn học trung đại còn được gọi bằng những cái tên khác nhau như văn học thành văn, văn học
phong kiến, văn học cổ điển. Bởi từ TK X đến TK XIX, văn học trung đại phát triển trong một môi
trường xã hội phong kiến với ý thức hệ nho giáo, lực lượng sáng tác chủ yếu là tầng lớp trí thức,
những người có trình độ cao, được đào tạo từ ''cửa Khổng sân Trình'' và những sánh tác chỉ lưu
truyền trong tầng lớp công chúng ấy, bên cạnh đó văn học thời kì này còn chịu ảnh hưởng bởi thi
pháp văn chương cổ điển. Văn học trung đại tồn tại và phát triển trong suốt mười thế kỉ nhưng
không bao giờ tách rời khỏi cảm hứng yêu nước; cảm hứng nhân đạo, thế sự.
Khi vận mệnh đất nước gặp nguy nan thì cảm hứng chủ đạo của văn học là cảm hứng yêu nước
và văn học trung đại luôn bám sát lịch sử dân tộc, phản ánh những sự kiện trọng đại liên quan
đến vận mệnh đất nước. Cảm hưng yêu nước luôn gắn liền với tư tưởng trung quân như là một
tất yếu trong lịch sử xã hội phong kiến, bởi xã hội phong kiến quan niệm nước là vua, vua là
nước. Do đó văn học có một quan niệm: yêu nước là phải trung với vua và trung với vua là phải
yêu nước (trung quân ái quốc). Cảm hứng yêu nước được thể hiện phong phú, đa dạng qua mội
thời kì lịch sử, khi đất nước có giặc ngoại xâm (căm thù giặc ngoại xâm, xót xa trước cảnh người
bị đàn áp, ý chí tiêu diệt kẻ thù, sẵn sàng xả thân vì nước), khi đất nước hòa bình (khát khao xây
dựng Tổ quốc, yêu thiên nhiên, con người, tự hào với truyền thống dân tộc), âm hưởng hào hùng,
khi thì bi tráng, khi thì trầm lắng, thiết tha.
Khi vận mệnh cá nhân con người, quyền sống, quyền hạnh phúc của con người bị đe dọa thì cảm
hứng nhân đạo lại thăng hoa rực rỡ. Văn học trung đại Việt Nam luôn gắn bó với số phận con
người. Cảm hứng nhân đạo có hàm chứa cảm hứng yêu nước bởi có những bài ca yêu nước thể
hiện nỗi băn khoăn, day dứt trước số phận con người. Tư tưởng nhân đạo trong văn học trung đại
Việt Nam là sự kế thừa của truyền thống tư tưởng lớn của con người Việt Nam: thương người
như thể thương thân, lá lành đùm lá rách; tư tưởng của phật giáo: từ bi bác ái, yêu thương con
người rộng rãi; và tư tưởng của nho giáo: cái nhân cái nghĩa. ĐIều này được thể hiện một cách đa
dạng qua việc ca ngợi vẻ đẹp con người, đồng cảm với bi kịch con người, đồng tình với ước mơ,
khát vọng của con người, lên án các thế lực bạo tàn. Tư tưởng nhân đạo được thể hiện một cách

đầy đủ nhất trong nội dung của tác phẩm Truyện Kiều, đỉnh cao của tư tưởng nhân văn chủ
nghĩa.
Các tác phẩm trong giai đoạn văn học này cũng thể hiện một quan niệm thẩm mĩ truyền thống
của người Việt Nam. Người Việt Nam rất yêu thiên nhiên, yêu đời sống vui vẻ, lạc quan, có nghị
lực và sức mạnh vượt qua thử thách:
"Đừng than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây"
Người Việt Nam còn có ý thức không vượt ngưỡng. Họ yêu say đắm, mãnh liệt nhưng không đến
mức phải chết cho ái tình, yêu đến chết chỉ là sự ảnh hưởng của tư tưởng phương Tây. Và đặc biệt
họ thích cái đẹp tinh tế, xinh xắn nhỏ nhắn mà biểu hiện là người Việt không hề có những tác
phẩm hoành tráng như Ramayana của Ấn Độ, Chiến tranh và hòa bình của Nga...
2.Đặ c đ i ể m ngh ệ thu ậ t:
a,Tính quy phạm, công thức:
Tính quy phạm là những quy định chặt chẽ theo khuôn mẫu mà người sáng tác văn học phải tuân
theo. Biểu hiện ở nhiều đặc điểm. ''Văn dĩ tải đạo, thơ dĩ ngôn trí'', văn thơ sáng tác là để giáo
huấn đạo đức, văn dùng để tải đạo, thơ dùng để bộc lộ ý trí, bày tỏ lòng mình. Tư duy nghệ thuật
thì luôn cho rằng cái đẹp thuộc vào những khuôn mẫu định sẵn (xuân hạ thu đông, tùng trúc cúc
mai, long li quy phượng, ngư tiều canh mục). Và thể loại chủ yếu là những thể loại văn học có kết
cấu cố định, chặt chẽ về số câu, số chữ, niêm luật, đối (ví dụ thơ Đường luật, cáo, phú, văn tế).
Còn hình ảnh trong thơ văn (văn liệu, thi liệu) là lấy trong văn học Trung Hoa (chẳng hạn mùa
thu về thể hiện qua hình ảnh sen tàn, lá ngô đồng rụng, cúc nở hoa). Suốt 10 TK văn học trung đại
cũng đã phá bỏ dần tính quy phạm, ước lệ để phát huy cá tính, sáng tạo nội dung và hình thức
thể hiện.
b,Tính tranh nhã:
Văn học trung đại có đề tài hướng tới cái cao cả, trang trọng, hình tượng nghệ thuật hướng tới vẻ
tao nhã, mĩ lệ với ngôn ngữ cao quý, diễn đạt trau chuốt, hoa mĩ. Dần dần, văn học Việt Nam
cũng đã có những nỗ lực không nhỏ để tiếp cận với xu hướng bình dân, gần gũi với đời sống của
con người Việt Nam.
c,Yếu tố Hán, văn hóa Hán:
Hơn 1000 năm phong kiến Bắc thuộc, chuyện văn chương Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa

Hán là không thể tránh khỏi. Trong rất nhiếu năm, văn tự của nước ta là chữ Hán và đến tận khi
chữ Nôm ra đời, văn tự Hán vẫn được coi là loại chữ chính thống trong một thời gian dài. Thể
loại chủ yếu là các thể loại của văn học Trung Quốc, trong các tác phẩm có nhiều thi pháp cổ điển
và hình ảnh trong văn học Trung Quốc. Tuy nhiên văn học Việt Nam cũng có ý thức để phá bỏ sự
ảnh hưởng này bằng cách viết bằng chữ Nôm, sử dụng nhiều thể thơ dân tộc (như truyện thơ
ngâm khúc hát nói, lục bát, song thất lục bát) và đưa vào trong thơ văn các hình ảnh đậm chất
Việt
III_Hình ảnh con người trong văn học:
1.Mối quan hệ với thiên nhiên:
Thiên nhiên là nguồn cảm hứng bất tận của văn chương. Mây sớm, trăng khuya, núi non, cỏ cây
hoa lá đều in đậm dấu ấn của mình trong văn chương. Con người và thiên nhiên luôn có mối
quan hệ biện chứng, qua lại tác động lẫn nhau. Văn học phản ánh quá trình nhận thức, cải tạo,
chinh phục thiên nhiên của con người, bắt thiên nhiên quy phục con người cho mưa thuận gió
hòa, mùa màng bội thu. Với các tao nhân mặc khách, thiên nhiên là người bạn tri âm. Không ít
người đã lánh đời phàm tục, hòa mình vào thiên nhiên, sống thanh đạm để chiêm nghiệm về vũ
trụ, triết lí nhân sinh. Thiên nhiên đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống con
người. Thiên nhiên là biểu hiện cho quê hương, đất nước. Hình ảnh thiên nhiên đã đi vào trong
thơ văn với những nét riêng của từng vùng miền làm nên một bức tranh đa dạng về con người
Việt Nam. Thiên nhiên còn là chuẩn mực của cái đẹp, là thước đo mọi giá trị của tạo vật. Nên văn
học cổ điển tả người cũng phải so sánh với cái chuẩn mực là vũ trụ, thiên nhiên, đồng thời thiên
nhiên thường gắn với lí tưởng, đạo đức thẩm mỹ. Chẳng hạn nhân cách của người quân tử xưa
được ví như tùng, bách, vẻ đẹp của người giai nhân được ví với liễu mai.
Các tác phẩm từ buổi bình minh của lịch sử đã kể lại quá trình cha ông ta nhận thức, cải tạo, chinh
phục thế giới tự nhiên để xây dựng đất nước và tích lũy nhiều hiểu biết về tự nhiên. Với con
người Việt Nam, thiên nhiên là người bạn thân thiết, tình yêu thiên nhiên là nội dung quan trọng
của văn học. Trong văn học trung đại, hình tượng thiên nhiên gắn với đạo đức, lí tưởng, thẩm mĩ
của con người.
2.Mối quan hệ với quốc gia dân tộc:
Cha mẹ cho ta cuộc sống nhưng đất nước mới làm cho cuộc sống trở nên có ý nghĩa. Mỗi người
đều được thừa hưởng tinh hoa về vật chất cũng như tinh thần mà cha ông ta để lại, nên mỗi cá

nhân đều có mối quan hệ với quốc gia, dân tộc. Văn học trung đại, chủ nghĩa yêu nước thể hiện
chủ yếu qua ý thức sâu sắc về quốc gia dân tộc, truyền thống văn hiến lâu đời.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×